Thứ ba, cần có văn bản hướng dẫn
khoản 5 Điều 49 Luật TTTM về trách nhiệm
của Hội đồng trọng tài khi áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời khác. Cần giải thích
từ “khác” ở đây là khác so với yêu cầu của
đương sự. Chỉ trong trường hợp Hội đồng
trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời khác với yêu cầu của đương sự gây ra
thiệt hại thì Hội đồng trọng tài mới phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Còn khác
so với luật định nhưng vẫn trên cơ sở yêu
cầu của các đương sự thì Hội đồng trọng
tài không phải bồi thường thiệt hại. Trách
nhiệm bồi thường trong trường hợp này
thuộc về người yêu cầu áp dụng.
Thứ tư, cần loại bỏ quy định hạn chế
quyền lựa chọn luật áp dụng đối với các bên
tranh chấp là công dân Việt Nam vì quy định
đó chỉ trái với nguyên tắc về tự do định đoạt
của các bên mà còn trái với nguyên lý về
sự phụ thuộc của việc xác định luật áp dụng
vào kết quả của sự lựa chọn địa điểm tiến
hành trọng tài
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 310 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luật trọng tài thương mại năm 2010: Những bất cập và kiến nghị hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Hiệu quả hoạt động của các trung tâm trọng tài chưa thực sự đáp
ứng được nhu cầu giải quyết tranh chấp hiện tại của các doanh
nghiệp. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do
những bất cập, hạn chế trong quy định và việc thực thi Luật Trọng
tài thương mại năm 2010. Chính vì vậy, cần có những giải nhằm
hoàn thiện Luật này.
Dương Quỳnh Hoa*
* TS. Viện Nhà nước và Pháp luật
Abstract
The performance of the arbitration centers does not really meet the
needs of the enterprise community’s resolution services for current
disputes. One of the reasons leading to the existing situation is the
inadequacies and limitations in the regulations and enforcement
of the Law on Commercial Arbitration of 2010. Therefore, further
improvements to this law is deem neccessary.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: trọng tài thương mại, giải
quyết tranh chấp, tranh chấp
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 07/08/2018
Biên tập : 24/08/2018
Duyệt bài : 04/09/2018
Article Infomation:
Keywords: commercial arbitration,
dispute resolution, dispute
Article History:
Received : 07 Aug. 2018
Edited : 24 Aug. 2018
Approved : 04 Sep. 2018
LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI NĂM 2010:
NHỮNG BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
Để thúc đẩy hoạt động đầu tư và kinh doanh trong giai đoạn hội nhập hiện nay, Việt Nam đã có nhiều cam kết
và hành động mạnh mẽ để cải cách theo
hướng kiến tạo nhiều hơn nữa, với mục tiêu
xây dựng một môi trường đầu tư kinh doanh
với nhiều điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư,
đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các doanh
nghiệp, đồng thời giúp doanh nghiệp có thể
làm ăn lâu dài, bền vững tại Việt Nam. Cụ
thể là Nhà nước ta đã đặt mục tiêu xây dựng
chính phủ liêm chính, kiến tạo, phát triển,
hành động, phục vụ người dân và doanh
nghiệp; hoàn thiện thể chế pháp luật, tiếp tục
minh bạch hóa hệ thống pháp luật, cải thiện
môi trường đầu tư kinh doanh, đảm bảo tính
sẵn có và hiệu quả của các phương thức giải
quyết tranh chấp để nhà đầu tư có thể an
tâm rằng mình có được các phán quyết công
bằng cho các tranh chấp của họ, đảm bảo
quyền được tự do lựa chọn phương thức giải
quyết tranh chấp, đảm bảo hiệu lực thi hành
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
41Số 20(372) T10/2018
của các bản án và phán quyết trọng tài.
Tuy nhiên, vẫn còn có một số hạn chế
nhất định liên quan đến quy định và thực
tiễn thực hiện quy định của Luật Trọng tài
thương mại (TTTM) năm 2010 làm cho
nhiều nhà đầu tư nước ngoài còn quan ngại
khi lựa chọn phương thức trọng tài để giải
quyết tranh chấp. Thực trạng này dẫn đến tỷ
lệ các doanh nghiệp FDI đã lựa chọn TTTM
để giải quyết tranh chấp thay thế cho tòa án
vẫn còn ở mức khiêm tốn (40%)1, mặc dù đã
tăng hơn so với thời gian trước khi có Luật
có hiệu lực.
1. Những bất cập của Luật Trọng tài
thương mại
Luật TTTM được đánh giá là một
bước tiến tích cực nhằm xây dựng cơ chế
TTTM tiệm cận với các tiêu chuẩn quốc tế.
Luật TTTM đã tiếp thu được những nguyên
tắc cơ bản nhất về việc giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài trên thế giới và trong Luật
Mẫu UNCITRAL như nguyên tắc tôn trọng
thỏa thuận của các bên, tính độc lập của thỏa
thuận trọng tài và quyền được tự xem xét
vấn đề thẩm quyền của Hội đồng trọng tài,
tính chung thẩm của phán quyết trọng tài, và
nguyên tắc bảo mật. Những nguyên tắc cơ
bản này là cơ sở đảm bảo hoạt động trọng
tài tại Việt Nam hoàn toàn phù hợp với thực
tiễn trọng tài thế giới và quan trọng hơn là
đưa trọng tài trở thành một phương thức giải
quyết tranh chấp hiệu quả, công bằng cho
các bên2.
1
an-57306.aspx
2 Nguyễn Mạnh Dũng & Nguyễn Thị Thu Trang, Thực trạng sử dụng TTTM tại Việt Nam - Một số giải pháp nâng cao
sức hấp dẫn của trọng tài,
3 Theo số liệu của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC), từ năm 2010 đến năm 2016, chỉ tính riêng số lượng
vụ việc tranh chấp tại VIAC là 734 việc, tăng 487 việc so với giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2009, số vụ việc năm sau
tăng cao hơn năm trước. Tham khảo thêm
nam-2017-a1141.html.
Việc ngày càng hoàn thiện khung pháp
lý về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đã
thể hiện sự phù hợp đối với Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị
về chiến lược cải cách ngành tư pháp đến
năm 2020, là “hoàn thiện chính sách, pháp
luật trong lĩnh vực tố tụng tư pháp theo chủ
trương khuyến khích giải quyết một số tranh
chấp thông qua thương lượng, hòa giải và
trọng tài”. Đây là một trong các điều kiện
đủ để tạo nên một môi trường đầu tư kinh
doanh ổn định và hấp dẫn.
Ở Việt Nam, từ sau khi có Luật TTTM,
hoạt động TTTM đã từng bước được củng
cố và phát triển. Số lượng vụ, việc được giải
quyết bằng trọng tài đang có xu hướng tăng,
loại tranh chấp được trọng tài giải quyết
cũng đa dạng hơn3, đồng thời, chất lượng
giải quyết tranh chấp ngày càng được nâng
cao, hoạt động trọng tài đang dần đi theo
hướng chuyên nghiệp. Hoạt động trọng tài
trong thời gian qua góp phần giải quyết các
tranh chấp thương mại nhanh chóng, đảm
bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên
tranh chấp, giảm tải cho hoạt động xét xử
của Tòa án, nâng cao năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp trong tiến trình hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt
Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã
đạt được nêu trên, trong bối cảnh đất nước
đang đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội
và các ngành dịch vụ theo cơ chế thị trường
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
42 Số 20(372) T10/2018
định hướng XHCN, hiện nay vẫn còn một
số vấn đề trong việc áp dụng trọng tài để
giải quyết tranh chấp thương mại gây ra lo
lắng cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cụ thể
như sau:
Thứ nhất, liên quan đến địa điểm tiến
hành trọng tài. Trong các vụ việc liên quan
đến trọng tài quốc tế, việc lựa chọn địa điểm
tiến hành trọng tài đồng nghĩa với việc lựa
chọn luật của quốc gia tại nơi tiến hành trọng
tài. Đây là điều mà Luật TTTM chưa xác định
rõ. Hơn nữa, Luật điều chỉnh tố tụng trọng
tài (Lex arbitri) bị quy định bởi các quy tắc
của chính sách công và “trật tự công cộng”
(public order) của quốc gia ban hành ra đạo
luật này4, trong khi ở Việt Nam, khái niệm
này không thông dụng, các văn bản hướng
dẫn cũng như các tài liệu nghiên cứu cũng
chưa đề cập một cách thích đáng. Trước đây,
Pháp lệnh TTTM năm 2003 đã dùng khái
niệm: “các nguyên tắc của hệ thống pháp
luật XHCN” khi quy định: “Trọng tài viên
phải tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu
thỏa thuận đó không vi phạm các nguyên tắc
của hệ thống pháp luật XHCN”. Trong quá
trình áp dụng Pháp lệnh, đã có nhiều ý kiến
cho rằng khái niệm này tạo nhận thức chung
chung, mơ hồ, dễ gây tùy tiện cho các bên và
cho trọng tài viên trong quá trình giải quyết
tranh chấp và đặc biệt gây khó khăn cho các
bên là người nước ngoài. Luật TTTM ngoài
việc tiếp tục sử dụng khái niệm này, khoản
3, Điều 14 về “Luật áp dụng”, Điều 4(1)
quy định “Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa
4 Alan Redfern và Martin Hunter, (1991), Law and Practice of International Commercial Arbitration [Pháp luật và thực
tiễn TTTM quốc tế], tái bản lần thứ 2, Nxb. Sweet & Maxwell, London, tr. 100-101.
5 Xem Khoản 1 Điều 66 Luật TTTM năm 2010.
thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không
vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội”.
Thiết nghĩ rằng, khái niệm “điều cấm” hay
“đạo đức xã hội” vẫn tiếp tục là những khái
niệm không kém phần khó hiểu và mơ hồ,
không có nhiều điểm chung với khái niệm
“trật tự công” mà Luật mẫu và các Công ước
và nhiều Quy tắc trọng tài trên thế giới đã
ghi nhận. Điều đó sẽ là một trong những trở
ngại đối với các bên chủ thể tranh chấp có
yếu tố nước ngoài, yếu tố quốc tế cũng như
đối với các trọng tài viên Việt Nam.
Thứ hai, lý do hủy quyết định trọng
tài thường ở dạng “trừu tượng” nên nguy
cơ một bên yêu cầu tòa án can thiệp để làm
chậm việc thi hành quyết định trọng tài vì
trong khi xem xét hủy phán quyết trọng tài
thì phán quyết này không thể được thi hành5.
Một trong các lý do để các doanh nghiệp lựa
chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp của
mình đó là khả năng thi hành của phán quyết
trọng tài bởi phán quyết của trọng tài Việt
Nam sẽ được thi hành tương tự như bản án
của tòa án tại Việt Nam và hơn thế, có khả
năng thi hành tại 155 quốc gia thành viên
khác của Công ước New York năm 1958
về công nhận và cho thi hành phán quyết
trọng tài nước ngoài. Do đó, việc đảm bảo
khả năng thi hành của phán quyết trọng tài
là một điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp
cân nhắc khi chọn sử dụng trọng tài để giải
quyết tranh chấp. Một trong những mục
đích ban hành Luật TTTM là hạn chế việc
hủy phán quyết trọng tài. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy tỷ lệ thi hành phán quyết trọng tài
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
43Số 20(372) T10/2018
tại Việt Nam là rất đáng lo ngại6. Điều này
làm giảm niềm tin và hiệu quả của phương
thức trọng tài, môi trường pháp lý và kinh
doanh của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng
đáng kể. Một trong số nguyên nhân dẫn
đến tình trạng lạm dụng quyền yêu cầu hủy
phán quyết trọng tài là do quy định của Luật
TTTM không chặt chẽ, thiếu rõ ràng. Điều
68 Luật TTTM về Căn cứ hủy phán quyết
trọng tài quy định, “Phán quyết trọng tài trái
với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam” (điểm đ khoản 2). Phạm trù “nguyên
tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam’ là quá
chung chung, không rõ ràng. Vì vậy, việc
áp dụng tùy tiện điểm đ khoản 2 Điều 68
Luật TTTM là không thể tránh khỏi. Điều
này dẫn đến nguy cơ phán quyết trọng tài bị
huỷ là rất cao.
Thứ ba, về thủ tục hủy quyết định
trọng tài. Theo khoản 10 Điều 71 Luật
TTTM, quyết định hủy phán quyết trọng tài
là quyết định cuối cùng có hiệu lực thi hành.
Điều này có nghĩa, đối với quyết định của
Tòa án về hủy phán quyết trọng tài, các bên
hội đồng trọng tài không có quyền khiếu nại,
các đương sự không có quyền kháng cáo và
Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị.
Quy định này đã thực sự hợp lý hay chưa?
Toà án là cơ chế giám sát bảo đảm tính
thượng tôn pháp luật và các giá trị vĩnh cửu
của hệ thống pháp luật áp dụng nhưng ai sẽ
là người giám sát toà án nếu Tòa án có vi
phạm hoặc ra quyết định chưa thỏa đáng gây
ảnh hưởng lớn tới quyền lợi ích hợp pháp
của các bên tranh chấp, vì hiện nay không có
phúc thẩm và giám đốc thẩm lại các quyết
định huỷ phán quyết của trọng tài do Toà án
đưa ra.
6 Theo số liệu báo cáo tại Hội nghị Tổng kết 20 năm thực hiện Công ước New York 1958 của Tòa án nhân dân tối cao tại
Hà Nội ngày 21/11/2014, từ ngày 01/01/2005 đến ngày 20/06/2014, chỉ có 23 trên tổng số 52 phán quyết trọng tài nước
ngoài được công nhận tại Việt Nam (chiếm 44% số phán quyết được yêu cầu).
Theo Báo cáo số 74/BC-BTP ngày 08/4/2016 của Bộ Tư pháp sơ kết 04 năm thi hành Luật TTTM năm 2010, số phán
quyết trọng tài được thi hành mới đạt 60% trong tổng số đơn yêu cầu cơ quan thi hành án thi hành phán quyết trọng tài.
Thứ tư, Điều 14 Luật TTTM quy định
về luật áp dụng giải quyết tranh chấp như
sau: “1. Đối với tranh chấp không có yếu
tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng
pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp;
2. Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài,
Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các
bên lựa chọn; nếu các bên không có thỏa
thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài
quyết định pháp luật mà Hội đồng trọng tài
cho là phù hợp nhất; 3. Trường hợp pháp
luật Việt Nam, pháp luật do các bên lựa chọn
không có quy định cụ thể liên quan đến nội
dung tranh chấp thì Hội đồng trọng tài được
áp dụng tập quán quốc tế để giải quyết tranh
chấp nếu việc áp dụng không trái với các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
Nếu nhìn nhận quy định này từ góc độ của
nguyên tắc quyền tự do định đoạt của các
bên tranh chấp thì quy định này là một cản
trở pháp lý của quyền tự do. Bởi lẽ, quy
định “đối với tranh chấp không có yếu tố
nước ngoài Hội đồng trọng tài áp dụng pháp
luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp”,
đồng nghĩa với việc hạn chế quyền lựa chọn
luật áp dụng đối với các bên tranh chấp là
công dân Việt Nam.
Luật áp dụng phải bao hàm trong đó
luật thủ tục và luật nội dung. Việc lựa chọn
luật thủ tục không nhất thiết phải trùng hợp
với việc lựa chọn luật nội dung và ngược lại.
Khái niệm về luật điều chỉnh tố tụng trọng
tài (lex arbitri) nhất là trường hợp để cho
tố tụng trọng tài được tiến hành ở quốc gia
này chịu sự điều chỉnh của luật thủ tục của
quốc gia khác đã trở thành chủ đề của nhiều
cuộc tranh luận trên các diễn đàn khoa học
và thực tiễn trọng tài quốc tế. Nguyên tắc
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
44 Số 20(372) T10/2018
bất di bất dịch ở đây là phải cho phép các
bên trong tố tụng trọng tài có thể tiến hành
thủ tục tố tụng trọng tài theo luật thủ tục mà
họ lựa chọn. Nếu luật thủ tục của một quốc
gia nào đó có lợi hay quen thuộc đối với các
bên khiến họ mong muốn áp dụng thì họ sẽ
cố gắng hơn để tiến hành tố tụng trọng tài tại
quốc gia đó.
Thứ năm, về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của trọng tài viên trong việc áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Theo quy
định của Luật TTTM, Hội đồng trọng tài chỉ
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà
đương sự yêu cầu và đúng với mức tài sản
mà đương sự đưa ra. Trong trường hợp, Hội
đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp
khác hoặc vượt quá yêu cầu áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời của bên yêu cầu
mà gây ra thiệt hại cho bên bị áp dụng hoặc
người thứ ba thì người bị thiệt hại có quyền
khởi kiện ra Toà án để yêu cầu giải quyết bồi
thường thiệt hại theo quy định của pháp luật
về tố tụng dân sự7. Từ “khác” ở đây được sử
dụng không rõ ràng. Có nhiều cách hiểu khác
nhau về từ ngữ này: có thể là “khác với yêu
cầu của đương sự”, nhưng cũng có thể hiểu
là “khác so với luật quy định”, tức là đương
sự yêu cầu áp dụng một biện pháp mà không
có quy định trong luật và Hội đồng trọng
tài vẫn chấp nhận áp dụng theo yêu cầu của
đương sự8. Nếu trong trường hợp Hội đồng
trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời khác so với yêu cầu của đương sự mà
gây thiệt hại thì phải bồi thường, điều này
là đương nhiên. Nhưng đối với trường hợp,
Hội đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời không có quy định trong luật
7 Khoản 5 Điều 49 Luật TTTM năm 2010.
8 Xem, Tưởng Duy Lượng (2016), Bình luận Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật TTTM và thực tiễn xét xử, Nxb. Tư pháp, H.,
tr. 250.
9 Theo LS. Nguyễn Mạnh Dũng tại hội thảo về “Trọng tài quốc tế vì thị trường phát triển bền vững và thượng tôn pháp
luật” do Trường Đại học Việt Nhật tổ chức ngày 4/8/2017 tại Hà Nội.
10 Xem Tưởng Duy Lượng, Tlđd, tr. 251
nhưng vẫn trên cơ sở yêu cầu của các bên
đương sự mà gây thiệt hại cho người bị áp
dụng hoặc người thứ ba thì Hội đồng trọng
tài có phải bồi thường không hay đương
sự phải bồi thường? Chính vì sự không rõ
ràng này nên thực tế đã dẫn đến nảy sinh
một vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại đối với
Hội đồng trọng tài xảy ra tại trung tâm trọng
tài quốc tế bên cạnh Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (VIAC)9.
Theo chúng tôi, từ “khác” (trong
khoản 5 Điều 49) cần phải được hiểu là
“khác với yêu cầu của đương sự”. Nếu việc
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của
Hội đồng trọng tài không khác với yêu cầu
của đương sự nhưng lại khác với quy định
của luật thì các đương sự phải bồi thường
thiệt hại. Việc lý giải này xuất phát từ thực
tiễn TTTM quốc tế. Hầu hết ở các nước
có nền kinh tế thị trường phát triển thì họ
đều không có quy định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho Hội đồng trọng tài khi
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không
đúng, trừ trường hợp vì lý do tham nhũng10.
Việc áp dụng bồi thường thiệt hại không
đúng mà gây thiệt hại thì chính người yêu
cầu áp dụng phải bồi thường chứ không phải
Hội đồng trọng tài vì Hội đồng trọng tài là
người được các bên trao cho thẩm quyền xét
xử tranh chấp, mang lại công lý cho các bên,
chỉ áp dụng biện pháp khẩn cấp theo yêu cầu
của các bên. Chính vì thế, luật cũng cần tạo
cho Hội đồng trọng tài có một sự độc lập
nhất định. Nếu việc áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời trong trường hợp này dẫn đến
nguy cơ bị khởi kiện yêu cầu bồi thường
thiệt hại thì trọng tài viên có thể sẽ rất e dè
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
45Số 20(372) T10/2018
trong việc ra quyết định áp dụng. Mặc khác,
việc quy trách nhiệm cho các bên trong
trường hợp này để nhằm mục đích nâng cao
trách nhiệm của người yêu cầu, hạn chế việc
lợi dụng quyền yêu cầu áp dụng để gây thiệt
hại cho phía bên kia.
2. Kiến nghị hoàn thiện Luật Trọng tài
thương mại
Thứ nhất, cần hướng dẫn cụ thể về các
căn cứ hủy phán quyết trọng tài theo hướng
thu hẹp phạm vi của căn cứ này bằng việc
quy định thế nào là nguyên tắc liên quan đến
việc giải quyết tranh chấp trọng tài, những
quy định nào được xem là liên quan đến việc
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, hoặc
giới hạn những nguyên tắc đó thuộc Bộ luật
Dân sự hay luật nào.
Thứ hai, cần xây dựng cơ chế xét lại
quyết định của Toà án đối với quyết định
huỷ phán quyết của TTTM. Khi giải quyết
yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, Tòa án
sẽ ra một quyết định, hoặc hủy, hoặc không
hủy phán quyết trọng tài. Tuy nhiên, điều
đáng nói ở đây là có vụ hủy phán quyết
xong thì được xem xét giám đốc thẩm, có
vụ lại không được với giải thích “không có
quy định về giám đốc thẩm đối với quyết
định này”11. Về vấn đề này có ý kiến cho
rằng, theo quy định của khoản 10 Điều 71
Luật TTTM, quyết định của Tòa án về việc
hủy hoặc không hủy phán quyết trọng tài là
quyết định có hiệu lực thi hành ngay, không
bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm nhưng vẫn có thể bị kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nếu phát
hiện có vi phạm pháp luật hoặc tình tiết mới.
Bởi lẽ, theo quy định của khoản 2 Điều 17
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: “Bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
11 Xem,
12 Dẫn theo Phạm Thị Hồng Đào, Vai trò của Tòa án đối với hoạt động của TTTM theo Luật TTTM năm 2010 và kiến
nghị,
luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc
có tình tiết mới theo quy định của Bộ luật
này thì được xem xét lại theo thủ tục giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm”. Do vậy, không thể
hiểu quy định của khoản 10 Điều 71 Luật
TTTM theo hướng không áp dụng thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm đối với quyết định
của Tòa án. Do đó, quyết định của Tòa án
trong trường hợp này vẫn cần thiết phải được
xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm nếu có vi phạm pháp luật hoặc có tình
tiết mới để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp
của các bên12.
Thứ ba, cần có văn bản hướng dẫn
khoản 5 Điều 49 Luật TTTM về trách nhiệm
của Hội đồng trọng tài khi áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời khác. Cần giải thích
từ “khác” ở đây là khác so với yêu cầu của
đương sự. Chỉ trong trường hợp Hội đồng
trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời khác với yêu cầu của đương sự gây ra
thiệt hại thì Hội đồng trọng tài mới phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Còn khác
so với luật định nhưng vẫn trên cơ sở yêu
cầu của các đương sự thì Hội đồng trọng
tài không phải bồi thường thiệt hại. Trách
nhiệm bồi thường trong trường hợp này
thuộc về người yêu cầu áp dụng.
Thứ tư, cần loại bỏ quy định hạn chế
quyền lựa chọn luật áp dụng đối với các bên
tranh chấp là công dân Việt Nam vì quy định
đó chỉ trái với nguyên tắc về tự do định đoạt
của các bên mà còn trái với nguyên lý về
sự phụ thuộc của việc xác định luật áp dụng
vào kết quả của sự lựa chọn địa điểm tiến
hành trọng tài■
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
46 Số 20(372) T10/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luat_trong_tai_thuong_mai_nam_2010_nhung_bat_cap_va_kien_ngh.pdf