Các bộ luật tục của dân tộc Thái rất ít đề
cập đến việc bảo vệ, khai thác các loài động
thực vật. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày
của họ vẫn có những luật lệ rất cụ thể, mà
gần như ai cũng biết và phải thực hiện như
là điều đương nhiên. Ví dụ: ở người Thái
Mường Tấc (Phù Yên - Sơn La) khi con cháu
lớn lên, các cụ (ông bà, bố mẹ ) thường chỉ
bảo con cháu rất cẩn thận về cách thức bảo
vệ các loại động, thực vật, như khi đi đánh
cá cũng phải có mùa, tránh đánh bắt cá vào
mùa cá đẻ, tránh săn bắn thú rừng vào mùa
sinh nở hoặc một số dòng họ của người Thái
thường được gắn với một loài động thực vật
nào đó như hổ, chim, khỉ Khi đã gắn với
loài đó như vậy thì dòng họ đó không được
giết hại, cũng như ăn thịt loài đó, vì họ cho
rằng đó là tổ tiên của họ. Hoặc các bà lang
khi đi hái thuốc trong rừng không bao giờ họ
chặt cả cây, nhổ cả gốc, nếu cần lấy rễ cây
thì họ chỉ đào lấy những rễ phụ không ảnh
hưởng đến sự sống của cây, hoặc lấy lá thì
cũng không bao giờ vặt trụi cả cây
Chỉ với những phong tục truyền thống,
những quy định đơn giản như vậy, nhưng đã
có một thời kỳ dài các dân tộc thiểu số ở
nước ta rất thành công trong việc bảo vệ các
loài động thực vật quý hiếm cũng như các
loại động thực vật phục vụ đời sống hàng
ngày của họ.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 223 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luật tục bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường của một số tộc người ở Tây Bắc và Tây Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUÊÅT TUÅC BAÃO VÏå TAÂI NGUYÏN THIÏN NHIÏN, MÖI TRÛÚÂNG
CUÃA MÖÅT SÖË TÖÅC NGÛÚÂI ÚÃ TÊY BÙÆC VAÂ TÊY NGUYÏN
hoàNg VăN QuyNh*
1. Khái niệm luật tục
Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu,
luật tục là những phương ngôn, ngạn ngữ
diễn đạt bằng lời nói có vần điệu, chứa đựng
các quy tắc xử sự, thể hiện, phản ánh quy
chuẩn phong tục, tập quán, ý chí, nguyện
vọng của cộng đồng, bảo đảm thực hiện
trong cộng đồng dân tộc thiểu số, được cộng
đồng bảo đảm thực hiện1.
Đối với các nhà nghiên cứu văn hoá dân
gian, các quan niệm của họ lại đi sâu phân
tích làm rõ nội hàm của luật tục. Thuật ngữ
luật tục hay tập quán pháp ở Việt Nam có thể
gọi với nhiều tên gọi khác nhau, như là “Luật
địa phương”, “Luật dân gian”. Đây là một
hiện tượng xã hội phổ quát của nhân loại ở
thời kỳ phát triển tiền công nghiệp và còn tồn
tại đến ngày nay với những mức độ khác
nhau ở nhiều tộc người trên thế giới, nhất là
các tộc người châu Á và châu Phi. Luật tục
về cơ bản là một hình thức của tri thức bản
địa, tri thức địa phương về cách ứng xử và
quản lý cộng đồng còn tồn tại ở hầu khắp các
dân tộc ở nước ta, không kể đó là dân tộc gì,
ít người hay đa số2.
Ngoài ra, còn nhiều ý kiến khác về khái
niệm luật tục, nhưng trên cơ sở các quan
điểm khác nhau, sau một thời gian dài tìm
12
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(308) T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
* ThS. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
1 Lê Hồng Sơn: Vai trò của phong tục tập quán và việc kế thừa phong tục tập quán trong xây dựng pháp luật, Kỷ yếu hội
thảo khoa học “Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 863-875.
2 Viện Dân tộc học, Tư liệu lịch sử và xã hội dân tộc Thái. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tr. 25-54.
Vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường đã được các tộc
người quan tâm chú ý từ rất lâu. Để bảo vệ, khai thác và quản lý vấn đề
này, họ đã tạo ra những thế ứng xử hài hoà giữa con người và thế giới
tự nhiên. Đó là những nguyên tắc, cách ứng xử được áp dụng trong cuộc
sống của các dân tộc thiểu số nhằm bảo vệ môi trường thiên nhiên và
bảo tồn sự hài hòa giữa con người và thế giới tự nhiên. Các tộc người
đều có những biện pháp bảo vệ môi trường riêng của mình, mà một
trong những biện pháp được coi là có hiệu quả nhất chính là các điều
khoản của luật tục dân gian đã tồn tại hàng ngàn đời nay.
hiểu, nghiên cứu, thảo luận, nhiều cuộc hội
thảo quốc tế cũng như trong nước và các
cuộc thảo luận chuyên đề, nhiều nhà khoa
học nước ta tạm thời chấp nhận khái niệm
luật tục như sau: “Luật tục là một hình thức
của tri thức bản địa, được hình thành trong
lịch sử lâu dài qua kinh nghiệm ứng xử với
môi trường và xã hội, được thể hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau và truyền từ đời
này qua đời khác bằng trí nhớ qua thực hành
sản xuất và thực hành xã hội, nó hướng đến
việc hướng dẫn các quan hệ xã hội, quan hệ
con người với thiên nhiên. Những chuẩn
mực ấy của luật tục được cả cộng đồng thừa
nhận và thực hiện, nhờ đó đã tạo ra sự thống
nhất và cân bằng trong mỗi cộng đồng. Luật
tục như hình thức phát triển cao của phong
tục, tục lệ và là hình thức sơ khai của luật
pháp”3.
Từ các quan niệm trên, chúng ta có thể
nhận thấy, đối tượng điều chỉnh của luật tục
là những quan hệ xã hội tồn tại khách quan
của đời sống cộng đồng. Luật tục có phạm vi
điều chỉnh rộng, bao quát toàn bộ các lĩnh
vực của đời sống xã hội như: lĩnh vực tổ
chức và quản lý cộng đồng xã hội, lĩnh vực
ổn định trật tự an ninh và bảo đảm lợi ích
cộng đồng; việc tuân thủ phong tục, tập
quán; các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình;
lĩnh vực giáo dục nếp sống văn hoá tín
ngưỡng; lĩnh vực quản lý sử dụng đất đai,
bảo vệ sản xuất, tài nguyên thiên nhiên và
môi trường.
Như vậy, luật tục là một hệ thống các
quy tắc xử sự mang tính dân gian, quy định
về mối quan hệ ứng xử của con người đối với
môi trường tự nhiên và con người với con
người trong cộng đồng, thể hiện ý chí của
toàn thể cộng đồng, được thực hiện một cách
tự giác, theo thói quen, nhưng vẫn có tính
cưỡng chế và bắt buộc đối với những ai
không tuân theo. Luật tục là những quy định
của quần chúng trong cộng đồng đặt ra để
điều hoà mối quan hệ của tập thể cộng đồng
một cách tự nguyện và dân chủ, không phải
là luật lệ do một tầng lớp người đặt ra và thực
thi để bảo vệ quyền lợi của họ.
2. Các quy định về bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên và môi trường trong luật tục của
một số tộc người ở Tây Bắc và Tây
Nguyên
Theo kết quả nghiên cứu của ngành dân
tộc học, Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó có
53 dân tộc là các dân tộc thiểu số. Các dân
tộc này chủ yếu sống ở miền núi, như miền
núi Tây Bắc, Đông Bắc, dãy Trường Sơn và
Tây Nguyên. Đây là những nơi tập trung
nhiều tài nguyên thiên nhiên quý của đất
nước với hàng chục ngàn loài động thực vật
và đất rừng phù hợp với trồng cây công
nghiệp; các nguồn khoáng sản như than đá,
quặng kim loại.... Trong đó, miền núi và cao
nguyên chiếm 3/4 diện tích cả nước, là nơi
cư trú chủ yếu của đồng bào các dân tộc thiểu
số. Ở đây, có rất nhiều tiềm năng về kinh tế,
có hơn 10 triệu ha rừng và đất rừng với nhiều
loại gỗ quý, trữ lượng cao và nhiều loại động
thực vật có giá trị kinh tế và khoa học lớn4.
Với tiềm năng tự nhiên dồi dào, phong
phú như vậy, trong một thời gian dài, các dân
tộc thiểu số miền núi nước ta chủ yếu dựa
vào tự nhiên mà sống, mọi sinh hoạt cuộc
sống đều dựa vào thiên nhiên và cho đến tận
bây giờ nhiều nơi vẫn như vậy. Môi trường
thiên nhiên có vai trò rất quan trọng đối với
đời sống sinh hoạt của họ, gần như trong tất
cả các lĩnh vực ăn, mặc, ở, sinh hoạt đều dựa
vào thiên nhiên, gắn bó mật thiết với thiên
nhiên và thấy được sự tác động trở lại của
thiên nhiên đến đời sống sinh hoạt của họ.
13
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 04(308) T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3 Hoàng Xuân Tý, Vai trò của luật tục vùng cao trong công tác giao đất, khoán rừng và quản lý tài nguyên thiên nhiên, Kỷ
yếu hội thảo khoa học “Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.
310-323.
4 Bế Viết Đẳng (chủ biên), 50 năm các dân tộc thiểu số Việt Nam (1945 - 1995), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr. 109-
110.
Từ đó, việc hình thành những kinh nghiệm
và cách thức bảo vệ, khai thác môi trường tài
nguyên thiên nhiên từ rất lâu đời ở các dân
tộc thiểu số miền núi nước ta là điều hiển
nhiên. Bởi vì họ quan niệm rằng, cuộc sống
của họ tồn tại được chính là nhờ môi trường
thiên nhiên, nếu môi trường thiên nhiên bị
huỷ hoại thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời
sống của họ.
2.1. Bảo vệ tài nguyên rừng
Các dân tộc thiểu số ở nước ta sống chủ
yếu ở các vùng rừng núi (3/4 diện tích là
rừng núi). Rừng rất cần thiết đối với họ, rừng
gần như quyết định cuộc sống của họ (với
cuộc sống săn bắt, hái lượm trước đây). Do
đó, họ đã có những quy định rất chặt chẽ, cụ
thể về cách thức quản lý, khai thác và bảo vệ
rừng, được thể hiện trong các bộ luật tục của
từng tộc người.
Trong Luật tục Ê Đê đã có những điều
luật về các vụ cháy rừng, quy định về việc
không đốt lửa bừa bãi, vô ý thức khi vào
rừng; khuyên răn mọi người phải hết sức chú
ý khi dùng lửa, nếu ai gây cháy sẽ bị trừng
phạt rất nặng. “Đàn ông thường đốt lửa bừa
bãi, đàn bà thường đốt lửa bậy bạ, có những
người đốt lửa mà làm như kẻ điếc, kẻ đui, có
những người đốt lửa mà làm như kẻ điên,
người dại” “E rằng đi rẫy lo việc nương
rẫy mà không biết đi, cầm theo những đầu
dây còn cháy dở có thể huỷ diệt cả rừng. Lửa
sẽ bén vào rừng thiêu trụi cỏ cây, mọi vật.
Còn e rằng lửa sẽ cháy lan, thiêu trụi cả xóm
làng người ta, thiêu trụi cả chòi, cả kho lúa
người ta đã dựng lên trong rừng, trong rẫy,
mà xung quanh chưa kịp dọn quang”5.
Trong Luật tục M’nông cũng vậy, vấn đề
cháy rừng được cộng đồng rất quan tâm. Để
bảo vệ tốt, trước hết thường có những quy
định mang tính chất phòng ngừa, dạy bảo ý
thức của mọi người về những tác hại của vụ
việc đó gây ra cho cộng đồng, cho chính
cuộc sống hàng ngày của họ. Điều 18 Luật
tục M’nông quy định: “Rừng bị cháy mà
không dập tắt, người đó sẽ không có rừng,
người đó sẽ không có đất”6.
Ngoài ra, ở một số vùng dân tộc Thái,
vấn đề ngăn chặn nạn cháy rừng cũng được
quy định thành lệ rất cụ thể. Trước khi đốt
rẫy, bà con thường phát cây xung quanh rẫy
hai, ba sải tay để có một khoảng cách an toàn
nhất định tránh lửa có thể bén tới chân rừng.
Hoặc đốt nương cũng phải chọn những ngày
không có gió, còn những ngày có gió to, gió
Lào thì tuyệt đối không ai được đốt nương.
Trong Luật tục Thái (Hịt khòng Mường
Bản) cũng có đoạn quy định:
“Không nạn nào hơn nạn lửa, nạn nước
Dùng nước phải biết tránh luồng nước
Dùng lửa hãy giữ gìn nạn cháy”7.
Như vậy, việc quy định về cách bảo vệ,
phòng, chống nạn cháy rừng rất cụ thể, sát
thực tiễn và mọi người rất hưởng ứng tuân
theo và nó ăn sâu vào trong tâm thức của
từng người. Người dân thường rất vui khi
thực hiện những quy định của cộng đồng đề
ra. Đây là một vấn đề mà pháp luật bảo vệ
tài nguyên môi trường cũng như các lĩnh vực
pháp luật khác của Nhà nước ta chưa làm
được.
Ngoài nạn cháy rừng, luật tục quy định
rất cụ thể về quản lý, khai thác, bảo vệ các
cánh rừng, việc vi phạm những điều luật về
bảo vệ rừng bị xử phạt nghiêm khắc. Thông
thường, đồng bào quan niệm rừng, môi
trường thiên nhiên là tài sản chung của tất cả
mọi người, không phải của riêng ai và là
nguồn sống không thể thiếu được của họ. Do
14
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(308) T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5 Hoàng Xuân Tý, tlđd, tr. 310-323.
6 Ngô Đức Thịnh (chủ biên), Luật tục M’nông, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 268.
7 Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng, Luật tục Thái (Tập quán pháp), Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1999. tr. 446.
vậy, mọi người phải có trách nhiệm bảo vệ
rừng, bảo vệ môi trường thiên nhiên.
Luật tục M’nông quy định: “Khu rừng
sâu đâu phải của nai, khu rừng đó là của tổ
tiên, khu rừng đó là của con cháu, khu rừng
đó là của ông bà, khu rừng đó là của chúng
ta”. Do đó, nếu ai phá rừng sẽ bị lên án bằng
cách: “Làm nhà đừng dùng cây nữa; làm
chòi đừng đừng dùng cây nữa; làm rẫy
không phát rừng nữa; khi thiếu đói đừng đào
củ nữa”8.
Luật tục Thái quy định về sự cân bằng
sinh thái giữa con người với rừng núi; nó thể
hiện trong tập quán phân loại rừng thành
từng khu vực nhằm phục vụ các nhu cầu
khác nhau của cuộc sống như: rừng núi
phòng hộ nằm trên khu vực đầu nguồn nước,
tuyệt đối cấm khai thác; rừng núi dành cho
việc khai thác tre, gỗ để dựng nhà và phục
vụ các nhu cầu cuộc sống thì tuyệt đối không
được chặt đốt làm nương; núi rừng phục vụ
cuộc sống tâm linh, được gọi bằng tên chung
là “rừng thiêng”9.
Tóm lại, việc quản lý bảo vệ và sử dụng
tài nguyên rừng được quy định rất chặt chẽ
và cụ thể trong các điều khoản của các bộ
luật tục. Ngoài ra, việc bảo vệ, khai thác và
sử dụng tài nguyên rừng này còn được thể
hiện rộng rãi trong các phong tục, tập quán
sinh hoạt hàng ngày của từng dân tộc khác
nhau mà không được ghi chép thành văn bản.
Nó được truyền miệng từ đời này đến đời
khác và ăn sâu trong tâm thức của từng con
người. Với cách thức bảo vệ rừng như vậy
của các dân tộc thiểu số ở nước ta trước đây,
trong một thời gian dài các dân tộc thiểu số
đã bảo vệ được những cánh rừng luôn xanh
tươi. Vì vậy, trong quá trình phát triển kinh
tế thị trường hiện nay, nếu biết vận dụng tốt
các phong tục, tập quán, luật lệ quản lý và
bảo vệ rừng trên cơ sở của Luật Bảo vệ và
phát triển rừng của Nhà nước để xây dựng
nên một quy chế bảo vệ và phát triển rừng ở
từng cơ sở, thì việc quản lý, bảo vệ và khái
thác tài nguyên rừng sẽ có hiệu quả hơn.
2.2. Bảo vệ tài nguyên nước
Tài nguyên nước cũng là một thành phần
cơ bản của môi trường, có vai trò rất quan
trọng trong đời sống của con người. Ở nước
ta, Luật Tài nguyên nước năm 2012 mới
được ban hành và đang dần dần đi vào cuộc
sống, nhưng ở các dân tộc thiểu số nước ta,
từ lâu đã có những phong tục, tập quán, luật
lệ bảo vệ và giữ gìn nguồn nước rất cụ thể.
Họ đều cho rằng, có nước sẽ có tất cả. Người
Thái có khẩu ngữ quen thuộc là: “có nước
mới có ruộng, có ruộng mới có lúa”, có nơi
còn quy định “ăn cắp nước lã phải phạt 80
lạng bạc, kèm theo rượu, trâu, phải cúng cho
chủ hồn nước 03 đồng bạc và trả lại số nước
đã lấy”10. Để bảo vệ tốt nguồn nước, dân tộc
Thái có những quy định rất chặt chẽ về các
vùng nước, các khúc sông suối, họ thường
quy những vùng nước, khúc sông suối cần
bảo vệ thành những vùng linh thiêng như
“vũng cấm” (văng hảm) hay “vũng mường”
(văng mương). Đây là những chỗ sông, suối
sâu thẳm, xanh biếc và được mở rộng ra hai
bên bờ nơi có khu rừng già, nước chảy lững
lờ nên có cảnh quan bề ngoài như một cái ao
trời phú. Theo tôn giáo tín ngưỡng Thái thì
đây là những chỗ để các siêu linh dưới nước
trú ngụ và là những nơi để tế chủ nước cũng
như tổ chức hội đánh cá.
15
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 04(308) T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Ngô Đức Thịnh (chủ biên), Luật tục M’nông, sđd, tr. 268.
9 Rừng thiêng: i) nơi rừng cấm để làm lễ cúng “thần linh bản” (xên phi bản) hoặc “thần linh mường” (xên phi mường); ii)
chỉ có ở đất Chiềng (xiềng) tức trung tâm của mường mới có ngọn núi được chọn để cúng khí thiêng của đất, mang ý niệm
là “siêu linh cạn” (phi bốc) đối lập với “siêu linh nước” (phi nặm) mang tên là “Núi hồn mường” (pom minh mương). Bề
mặt của núi thường phủ lớp rừng thiêng; iii) gồm những khu rừng già dành để chôn cất người chết.
10 Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng: Luật tục Thái (Tập quán pháp), Sđd, tr. 311.
Để giữ gìn, bảo vệ nguồn nước thường
xuyên cho các con sông, suối và các mạch
nước ngầm, người Thái đã sớm biết tạo ra và
bảo vệ các khu rừng đầu nguồn. Trên mỗi
một nguồn nước là những khu rừng có nhiều
cây cối um tùm. Tín ngưỡng dân gian coi
mỗi khu rừng đó là nhà của các loại ma liên
quan đến sức mạnh tạo ra nguồn nước. Cây
cối càng rậm rạp chúng càng thích trú ngụ.
Bởi vậy, nếu phá rừng đầu nguồn cũng có
nghĩa là phá nhà và những người đụng chạm
đến chúng sẽ bị ma bắt mất hồn mà sinh ra
ốm hay chết. Theo một số nhà nghiên cứu,
tín ngưỡng dân gian quan niệm nguồn nước
nào cũng có “thần chủ” gọi bằng thuật ngữ
tôn giáo tín ngưỡng Thái là “ma đầu nguồn”
(phi hua bó) hay “ma huỷ” (phi khuông)
chuyên gây cho người bệnh đau khớp xương
không thể chữa chạy được và đến khi khuất
núi thì linh hồn không thể biến thành ma về
cõi trời mà phải “trực gác” nơi đầu nguồn để
chuyên hại người khác11.
Luật tục Gia Lai có những quy định rất
cụ thể về bảo vệ nguồn nước, nước sạch,
như: cấm làm nhà nơi nguồn nước, nơi có
mạch ngầm, mạch phun; nếu có người nào
làm dơ bẩn nơi mạch nước ngầm trong sạch
đó thì nó sẽ khiến cho con người bị to bụng,
tả lỵ.
Ngoài ra, luật tục Gia Lai còn quy định:
nước uống dùng một con sông, một dòng
suối, một hồ nước sạch phải dùng một
phía, nhà ở về một phía, đi chôn người chết
không được sang sông, sang suối, vượt nhà,
vượt làng, qua rẫy, qua nương. Ai phạm vào
một trong các điều trên đều bị xử phạt tuỳ
theo mức độ vi phạm mà có mức phạt nặng
nhẹ khác nhau.
Nói chung, cách thức bảo vệ, gìn giữ
nguồn nước của các dân tộc thiểu số chủ yếu
là bảo vệ rừng đầu nguồn, nơi tạo ra nguồn
nước, cấp nước sinh hoạt cũng như trồng
trọt. Hầu như các dân tộc đều có những quy
định về bảo vệ rừng đầu nguồn, bảo vệ mạch
nước ngầm, bảo vệ các khúc sông, suối chạy
qua làng, bản của họ. Điều đặc biệt ở đây là
các dân tộc đều rất chú ý cấm kỵ việc làm dơ
bẩn nguồn nước.
Hiện nay, vấn đề bảo vệ, gìn giữ nguồn
nước đã được Nhà nước luật pháp hoá bằng
việc ban hành Luật Tài nguyên nước. Các
vấn đề như sở hữu, quản lý nước, bảo vệ,
khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng,
chống khắc phục hậu quả lũ lụt và các tác hại
khác do nước gây ra được pháp luật quy
định rất cụ thể, tạo ra một hành lang pháp lý
trong việc quản lý, khai thác và sử dụng tài
nguyên nước. Tuy nhiên, việc ban hành là
như vậy, nhưng việc thực thi có hiệu quả lại
là một vấn đề khác, vấn đề triển khai còn rất
chậm, nội dung chung chung, không cụ thể
và hầu như các vùng dân tộc miền núi không
biết đến Luật này mà các dân tộc thiểu số
nước ta chủ yếu thực hiện bảo vệ nguồn nước
theo phong tục, tập quán, các luật lệ của dân
tộc và thực tế, công tác bảo vệ về tài nguyên
nước có hiệu quả rất cao. Vì vậy, cùng với
sự ra đời của Luật Tài nguyên nước, nếu biết
kết hợp tốt với các phong tục, tập quán, luật
tục của các địa phương, các dân tộc thiểu số
thì hiệu quả bảo vệ, giữ gìn tài nguyên nước
của cả nước sẽ cao hơn.
2.3. Bảo vệ tài nguyên đất đai
Đất đai là một tài nguyên quốc gia vô
cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là
thành phần quan trọng hàng đầu của môi
trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân
cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá - xã
hội, an ninh và quốc phòng. Nhà nước ta đã
ban hành khá nhiều văn bản pháp luật về bảo
16
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(308) T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11 Phan Hữu Dật - Cầm Trọng, Văn hoá Thái Việt Nam. Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1995, tr. 94.
17
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 04(308) T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
vệ rừng, đất rừng, đất đai nói chung nhưng
hiệu quả đạt được lại không được như ý muốn.
Trong khi đó, ở các dân tộc thiểu số miền núi
nước ta có rất nhiều kinh nghiệm, phong tục
tập quán trong việc bảo vệ tài nguyên đất.
Nhiều dân tộc đã hình thành những bộ luật tục
và có những quy định về bảo vệ đất đai rất cụ
thể mà chủ yếu là đất rừng.
Trong Luật tục Ê Đê đã có hẳn một
chương quy định về đất đai và người chủ đất
như: chăm nom đất đai, không để mất người
chủ đất; quyền hạn, quyền lợi và nhiệm vụ
của người chủ đất; việc lấn chiếm đất đai,
xâm phạm đất đai. Ví dụ, đất đai, sông suối,
cây rừng (là) cái nong, cái nia, cái lưng của
ông bà12 (Điều 232 Luật tục Ê Đê). Những
người được gọi là chủ đất có trách nhiệm rất
lớn đối với đất đai thuộc quyền quản lý của
họ, họ phải có nhiệm vụ đi thăm đất13 (Điều
233 Luật tục Ê Đê).
Luật tục M’nông quy định về tội bán đất
rừng: Bán đất bon làng khiếu nại; bán rẫy lúa
mất đất làm khổ con cháu hoặc bán đất, rừng
có tội với con cháu14.
Luật tục Thái cũng có quy định về quản
lý, sử dụng và khai thác đất đai. Ví dụ, họ có
quy định rất cụ thể về việc giải quyết tranh
chấp đất ruộng: “Nếu hai bên tranh chấp
nhau thửa ruộng, luật sẽ giải quyết theo văn
tự của thửa ruộng. Nếu không có văn tự, bên
nào quen “ăn” thửa ruộng đó, đã được một
đời không bỏ, thì cho bên đó được tiếp tục
“ăn” thửa ruộng như cũ”15.
Với những quy định truyền thống như
vậy, đã có một thời kỳ dài các dân tộc thiểu
số miền núi nước ta rất thành công trong việc
quản lý khai thác và sử dụng đất đai (chủ yếu
là đất rừng). Vì vậy, chúng ta nên vận dụng
những quy định do đồng bào các dân tộc
thiểu số đặt ra và được thi hành bao đời nay
để thực hiện những chính sách của Đảng và
Nhà nước đối với việc quản lý, khai thác và
sử dụng đất đai.
2.4. Bảo vệ động thực vật
Cũng như việc quản lý, bảo vệ các
nguồn tài nguyên môi trường khác, động
thực vật cũng được các dân tộc thiểu số miền
núi nước ta quản lý, bảo vệ và khai thác rất
hiệu quả bằng các phong tục tập quán, luật
tục truyền thống từ rất lâu.
Trong Luật tục M’nông có đến hàng
trăm điều luật khác nhau, trong đó có khá
nhiều điều luật liên quan đến các loại động
thực vật, như trong quan hệ sở hữu, tài sản,
các điều luật đã đề cập đến việc bảo vệ, gìn
giữ động thực vật quý hiếm. Loại động vật
được nói đến nhiều nhất là con voi, đã có
những điều luật quy định xử phạt những ai
vi phạm như ăn thịt voi, coi khinh voi, chửi
mắng voi, nhất là tội hành hạ voi đến mức
làm cho chúng bị thương và bị chết. Người
nào sử dụng voi nhưng không chăm sóc chu
đáo hoặc cục cằn, đối xử tàn nhẫn với voi sẽ
bị phạt rất nặng. Nếu người nào săn bắn làm
chết các loài thú hiếm, Luật tục M’nông buộc
người đó phải nộp phạt rất nặng để tạ tội với
thần linh.
Ngoài ra, việc bắt cá bằng cách đánh
thuốc, chập điện như hiện nay cũng bị coi là
một trọng tội, phải nghiêm cấm vì nó huỷ
12 Người Ê Đê coi đất là mẹ, đất trên cao nguyên lại có cấu trúc lượn sóng nên họ quan niệm mặt đất là cái lưng của tổ tiên.
Thành ngữ này thường thấy lặp đi lặp lại trong văn ngôn của tập quán pháp ca. Đất đai, rừng núi cũng được ví như cái
nong, cái nia.
13 Đi thăm là để đất đai mãi mãi tốt tươi, để nước không ngừng chảy, để chuối mía mọc xum xuê. Đất nào phải đâu như con
ngựa không chủ, như con bò không người chăn.
14 Ngô Đức Thịnh (chủ biên), sđd, tr. 524.
15 Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng, sđd, tr. 341.
16 Ngô Đức Thịnh (chủ biên), sđd, tr. 280.
hoại môi trường sống của các sinh vật khác.
Vấn đề này được Luật tục M’nông quy định
trong điều Tội thuốc cá: “Thuốc cá làm suối
nghèo; muốn ăn ếch phải dùng ná bắn; muốn
ăn cá dùng rổ mà vớt” tức là làm gì cũng
phải bảo vệ nòi giống, không được giết hàng
loạt “Làm chết sạch cả tép, cả cua; ai thuốc
cá có tội với làng; tội thuốc cá không ai đền
nổi”16.
Luật tục Êđê cũng có nhiều điều liên
quan đến quản lý, bảo vệ, khai thác động
thực vật. Con voi cũng được Luật tục Ê Đê
đề cập tới nhiều như: “Nếu làm voi đau ở
chân thì anh ta (người vi phạm) phải chăm
sóc voi, băng bó cho voi, khấn lên bài khấn
cầm máu cho voi, đặt cho voi các thứ thuốc
để lành sẹo vết thương, nếu máu vẫn chảy,
vết thương không khô, người ta không còn
đóng bành trên lưng voi được nữa, nếu voi
không ăn cỏ (voi chết) thì anh ta phải đền lại
giá trị hoặc thay thế một con voi khác to
bằng” (Điều 222 Luật tục Ê Đê).
Luật tục Gia Lai cũng có những điều luật
quy định về việc bảo vệ thú rừng:
“Cấm săn bắt quá mức;
Thịt con khỉ, con dộc, con vượn, con khỉ
đột, con chuột, con ếch, con nhái
Không được mang về nhà ăn, xui khiến
cháy khô bắp lúa, ghẻ lở phong độc tới con
người, và không được săn bắn”.
Các bộ luật tục của dân tộc Thái rất ít đề
cập đến việc bảo vệ, khai thác các loài động
thực vật. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày
của họ vẫn có những luật lệ rất cụ thể, mà
gần như ai cũng biết và phải thực hiện như
là điều đương nhiên. Ví dụ: ở người Thái
Mường Tấc (Phù Yên - Sơn La) khi con cháu
lớn lên, các cụ (ông bà, bố mẹ) thường chỉ
bảo con cháu rất cẩn thận về cách thức bảo
vệ các loại động, thực vật, như khi đi đánh
cá cũng phải có mùa, tránh đánh bắt cá vào
mùa cá đẻ, tránh săn bắn thú rừng vào mùa
sinh nở hoặc một số dòng họ của người Thái
thường được gắn với một loài động thực vật
nào đó như hổ, chim, khỉ Khi đã gắn với
loài đó như vậy thì dòng họ đó không được
giết hại, cũng như ăn thịt loài đó, vì họ cho
rằng đó là tổ tiên của họ. Hoặc các bà lang
khi đi hái thuốc trong rừng không bao giờ họ
chặt cả cây, nhổ cả gốc, nếu cần lấy rễ cây
thì họ chỉ đào lấy những rễ phụ không ảnh
hưởng đến sự sống của cây, hoặc lấy lá thì
cũng không bao giờ vặt trụi cả cây
Chỉ với những phong tục truyền thống,
những quy định đơn giản như vậy, nhưng đã
có một thời kỳ dài các dân tộc thiểu số ở
nước ta rất thành công trong việc bảo vệ các
loài động thực vật quý hiếm cũng như các
loại động thực vật phục vụ đời sống hàng
ngày của họ.
Nhìn một cách khái quát, chúng ta thấy
rằng, các quy định của luật tục mặc dù rất
manh mún, phạm vi áp dụng hẹp và còn lạc
hậu, nhưng đi sâu tìm hiểu chúng ta thấy rất
hợp lý, phù hợp với từng địa phương, với đời
sống của từng tộc người cụ thể. Có thể khẳng
định rằng, nó thể hiện tính tự quản rất cao
trong việc quản lý xã hội nói chung và trong
việc bảo vệ tài nguyên môi trường sinh thái
phục vụ cho riêng đồng bào các dân tộc thiểu
số. Tuy nhiên, các quy định của luật tục như
vậy chỉ phù hợp với xã hội trong điều kiện
thuần tuý về mặt nông nghiệp, có thành phần
cư dân thuần nông. Với điều kiện phát triển
nền kinh tế thị trường như hiện nay thì việc
thực hiện những quy định của luật tục cũng
sẽ có những biến đổi. Do đó, cùng với hệ
thống pháp luật bảo vệ tài nguyên và môi
trường của nước ta hiện nay, chúng ta có thể
xây dựng quy chế dân chủ cơ sở (quy ước địa
phương) trên cơ sở kế thừa những yếu tố tốt
đẹp của luật tục truyền thống (tính cộng
đồng, tính nhân bản, hợp lý) để bảo vệ các
thành phần quan trọng của môi trường như
rừng, nguồn nước, đất rừng, động thực vật
quý hiếm có hiệu quả hơn, khuyến khích
được mọi người dân hưởng ứng tham gia n
18
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(308) T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luat_tuc_bao_ve_tai_nguyen_thien_nhien_moi_truong_cua_mot_so.pdf