Thực tế trong những năm qua đã cho chúng ta thấy rõ sự chuyển đổi của nền ngoại thương Việt Nam nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng sang cơ chế thị trường, mở cửa đa phương, đa chiều các quan hệ thị trường, bạn hàng theo thông lệ quốc tế, từng bước xoá bỏ nguyên tắc “Nhà nước độc quyền quản lý ngoại thương” bằng các chính sách, biện pháp khuyến khích phát triển một nền ngoại thương nhiều thành phần và thực hiện tự do hoá thương mại. Chính vì thế xuất khẩu Việt Nam đã có những tiến triển vượt bậc, góp phần tích cực vào sự tăng trưởng và phát triển chung của nền kinh tế. Bên cạnh đó, thời gian qua hoạt động xuất khẩu của Việt Nam cũng đã không tránh khỏi những khó khăn vướng mắc đòi hỏi phải có biện pháp tháo gỡ trong trước mắt và lâu dài. Trong giai đoạn từ nay đến 2010 Việt Nam phải lựa chọn cho mình chiến lược ngoại thương đúng đắn, phát huy có hiệu quả cao nhất các lợi thế so sánh của đất nước trong quá trình mở cửa, hợp tác phân công lao động và phát triển thương mại quốc tế. Trong khoá luận này, tác giả cũng đã đưa ra một số giải pháp cho việc phát triển thị trường xuất khẩu của Việt nam theo đúng định hướng mà Đảng và Nhà nước đã chỉ ra trong Đại hội Đảng lần thứ IX.
100 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 963 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i về nước đầu tư kinh doanh.
Trong phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001 – 2010 mục tiêu và nhiệm vụ của kinh tế đối ngoại là: “Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Củng cố thị trường đã có và mở rộng thêm thị trường mới. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để tăng nhanh xuất khẩu, thu hút vốn, công nghệ từ bên ngoài. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, thực hiện các cam kết song phương và đa phương”. Chỉ tiêu định hướng phát triển trong giai đoạn này đối với kinh tế đối ngoại là: Tổng kim ngạch xuất khẩu gia tăng 16%/năm (tốc độ tăng gấp đôi GDP)
2. Định hướng phát triển thị trường
2.1 Chỉ tiêu về quy mô và tốc độ tăng trưởng.
Chỉ tiêu đề ra cho nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu trong thời kỳ 2001 – 2010 là nhanh gấp đôi nhịp độ tăng trưởng GDP, tức là khoảng 14,4%/năm, trong đó nông sản xuất khẩu đã qua chế biến đạt kim ngạch 6 – 7 tỷ USD vào năm 2010, lương thực bình quân 4 - 5 triệu tấn/năm, khoáng sản đạt kim ngạch trên 3 tỷ USD, sản phẩm công nghiệp chiếm 70 – 80% tổng kim ngạch xuất khẩu.
+ Xuất khẩu hàng hoá:
- Tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 2001 - 2010 là 15%/năm. Trong đó thời kỳ 2001 - 2005 tăng 16%/năm, thời kỳ 2006 - 2010 tăng 14%/năm.
- Giá trị gia tăng từ khoảng 13,5 tỷ USD năm 2000 lên 28,4 tỷ USD năm
2005 và 54,6 tỷ USD vào năm 2010, gấp hơn 4 lần năm 2000.
2.2 Về cơ cấu hàng hoá xuất khẩu
Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu trong thời kỳ tới cần chuyển dịch theo hướng chủ yếu sau: Chủ trương gia tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị gia tăng cao, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và tri thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô; mặt hàng, chất lượng, mẫu mã cần đáp ứng nhu cầu của từng thị trường.
2.3 Cơ cấu thị trường xuất khẩu
* Thị trường ASEAN
Định hướng chiến lược sẽ làm tăng kim ngạch nhưng giảm về tỷ trọng, chủ yếu nhờ giảm buôn bán qua trung gian Singapore. Ngoài ra, cần khai thác tốt thị trường Lào và Cam Pu Chia trong bối cảnh mới bởi phát triển buôn bán với Lào và Cam Pu Chia không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa kinh tế. Các doanh nghiệp Việt Nam cần tích cực, chủ động tận dụng thuận lợi do cơ chế AFTA mang lại để gia tăng xuất khẩu sang thị trường này. Mặt hàng trọng tâm được đẩy mạnh xuất khẩu là gạo, linh kiện vi tính, sản phẩm cơ khí, hoá phẩm tiêu dùng, thực phẩm chế biến, sản phẩm nhựa, hàng bách hoá (đối với Lào, Cam Pu Chia).
* Thị trường Nhật Bản
Nhìn chung, tới năm 2010, 3 trung tâm kinh tế lớn là Nhật Bản, EU và Mỹ sẽ chiếm bình quân mỗi thị trường khoảng trên dưới 20% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Tỷ trọng xuất khẩu vào Nhật Bản phải được đẩy từ 15,8% hiện nay lên 17 – 18%, ngang với mức của năm 1997, với đà phục hồi của kinh tế Nhật Bản, có thể và cần phải tăng xuất khẩu vào Nhật Bản ở mức 21 – 22%/năm để đến năm 2005 tổng kim ngạch vào thị trường này đạt mức 5,1 –5,4 tỷ USD.
Trong những năm tới mặt hàng xuất khẩu chủ lực là hải sản, hàng dệt may, giày dép và sản phẩm da, than đá, cao su, cà phê, rau quả, thực phẩm chế biến, chè, đồ gốm sứ và sản phẩm gỗ.
* Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông
Tỷ trọng của 3 thị trường này trong xuất khẩu của Việt Nam hiện đang ở
mức 15 – 16%, trong đó Trung Quốc là 7,5%, Đài Loan là 6% và Hồng Kông là
2%. Nhìn chung tỷ trọng xuất khẩu sang Hồng Kông đang giảm và giảm khá đều qua các năm (từ gần 11% vào năm 1991 xuống còn 2% vào năm 1999). Tuy đây là 3 thị trường quan trọng nhưng chỉ nên giữ tỷ trọng của cả ba ở mức 15-16%. Trong thời gian 5 năm tới đây, tỷ trọng của Hồng Kông và Đài Loan chắc chắn sẽ giảm đi bởi các doanh nghiệp Việt Nam giảm xuất khẩu qua trung gian, chính sách của Hồng Kông phụ thuộc ngày càng nhiều vào chính sách của Trung Quốc. Trong bối cảnh đó, việc giữ cho tỷ trọng của Trung Quốc, Đài Loan,và Hồng Kông ở mức 15 – 16% như hiện nay là hợp lý. Mặt hàng chủ yếu sang hai thị trường này là hải sản, cao su, rau quả, thực phẩm chế biến và hoá phẩm tiêu dùng.
Như vậy, vào năm 2010, tỷ trọng của Châu Á trong xuất khẩu của ta sẽ
giảm xuống còn khoảng 46 – 50%. Đây là mức hợp lý, khó có thể thấp hơn.
* Thị trường Châu Âu
Tại Tây Âu trọng tâm sẽ là EU mà chủ yếu là các thị trường chính như Đức, Anh, Pháp và Italia. Phấn đấu nâng tỷ trọng xuất khẩu vào EU lên 25% (hiện nay khoảng 20 – 22%). Nhìn chung mặt hàng xuất khẩu vào EU vẫn là hàng dệt may, giày dép, hải sản, rau hoa quả, cao su, sản phẩm nhựa, sản phẩm gỗ và sản phẩm cơ khí. Ngoài ra, cũng cần chú ý khôi phục và phát triển quan hệ thương mại với các nước Đông Âu và SNG, trong đó chủ yếu là với Cộng hoà Liên Bang Nga vì còn nhiều tiềm năng, tuy nhiên thị trường này đang khó khăn về khả năng thanh toán. Phấn đấu nâng tỷ trọng của nhóm các nước này trong xuất khẩu của Việt Nam lên 4 – 5%. Trọng tâm hàng hoá xuất khẩu sang thị trường này là: cao su, chè, thực phẩm chế biến, dệt may, giầy dép và thủ công mỹ nghệ
* Thị trường Bắc Mỹ
Xuất khẩu vào thị trường Bắc Mỹ, mà chủ yếu là thị trường Mỹ, có thể và cần phải tăng mạnh để đạt tỷ trọng khoảng 15 – 20%. Đây là tỷ trọng hợp lý, không nên cao hơn. Thị trường Hoa Kỳ sẽ là khâu đột phá về thị trường xuất khẩu của nước ta trong 10 năm tới đây. Mặt hàng chủ yếu sẽ vào Hoa Kỳ sẽ là: Dệt may, giày dép, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí - điện, sản phẩm gỗ, thủ công mỹ nghệ, hải sản, cà phê, hạt tiêu, nhân điều, chè, gia vị, rau quả và thực phẩm chế
biến.
Ngoài ra, cần kiên trì tìm kiếm, tạo lập và củng cố quan hệ bạn hàng với Australia và New Zeland. Hàng hoá đi vào khu vực thị trường này gồm: dầu thô, dệt may, giày dép, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm nhựa, sản phẩm gỗ và sản phẩm cơ khí - điện. Thị trường Mỹ la tinh, hàng hoá Việt Nam đã xuất hiện tại các thị trường này nhưng chủ yếu vẫn là thông qua nước thứ ba, kim ngạch do ta xuất khẩu còn rất nhỏ bé. Trong thời gian tới cần đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này vì những năm qua ta nhập siêu từ đây rất lớn. Bên cạnh đó, cần tăng cường khảo sát các thị trường lớn nhưng ta chưa tiếp cận được nhiều như I Rắc, các tiểu vương Quốc Ả Rập thống nhất, Nam Phi, Braxin
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
1. Các giải pháp về sản phẩm
1.1. Nhất quán coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và trọng điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại để xác lập chính sách ưu đãi phù hợp:
Hiện nay đang có ý kiến cho rằng ranh giới giữa “hướng về xuất khẩu” và
“thay thế nhập khẩu” đã mờ đi do có sự liên thông giữa thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Vì vậy, không nên đặt ra vấn đề “hướng về xuất khẩu” hay “thay thế nhập khẩu”. Chiến lược duy nhất đúng là lựa chọn sản phẩm có thị trường tiêu thụ (cả trong nước, cả ngoài nước) tập trung đầu tư phát triển và nâng cao sức cạnh tranh trên cơ sở các lợi thế có sẵn như sức lao động, tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý. Hai chiến lược này, trong những điều kiện nhất định, không nhất thiết phải loại trừ nhau mà có thể bổ sung cho nhau để tạo thành động lực tăng trưởng chung. Vấn đề cốt lõi là sức cạnh tranh. Nếu đã có sức cạnh tranh thì một sản phẩm có thể duy trì được chỗ đứng của mình trên cả thị trường trong nước và ngoài nước. Sự phát triển sản phẩm đó sẽ vừa mang ý nghĩa hướng về xuất khẩu, vừa có tác dụng thay thế nhập khẩu. Tuy nhiên, ranh giới giữa “thay
thế nhập khẩu” và “hướng về xuất khẩu” sẽ chỉ mờ đi khi một quốc gia đã tiến hành thành công giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá. Do vậy chiến lược hợp lý nhất, cần được ưu tiên trong thời gian tới đây, sẽ vẫn là “hướng về xuất khẩu” vì vậy cần nhất quán coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và trọng điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại. Cụ thể, các hình thức ưu đãi cao nhất phải được dành cho sản xuất hàng xuất khẩu. Còn đối với các ngành thay thế nhập khẩu mà năng lực sản xuất trong nước đã đáp ứng nhu cầu thì không nên tăng thêm đầu tư, kể cả đầu tư nước ngoài. Trong đầu tư nên tập trung vào các ngành hàng chủ lực và các dự án nâng cao cấp độ chế biến, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Theo hướng đó, đối với các dự án đầu tư chỉ nhằm mở rộng quy mô (có nghĩa là chỉ dẫn đến thay đổi về lượng mà không dẫn đến thay đổi về chất) thì ưu đãi ít; đối với các dự án đổi mới công nghệ, nâng cao được cấp độ chế biến hàng hoá thì tuỳ theo mức độ, được ưu đãi nhiều hơn. Có chính sách ưu đãi, dặc biệt là về thuế, để thúc đẩy doanh nghiệp sử dụng ngày càng nhiều sản phẩm trong nước, nâng cao hàm lượng nội địa của sản phẩm
1.2. Tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia sản xuất và xuất khẩu
* Rà soát lại hệ thống luật để điều chỉnh các quy định không còn phù hợp
hoặc chưa rõ ràng, trước hết là luật thương mại, luật đầu tư nước ngoài, luật khuyến khích đầu tư trong nước. Về luật thương mại cần mở rộng phạm vi điều chỉnh cho phù hợp với các quy định của WTO. Về luật đầu tư nước ngoài, cần đưa ra thêm các quy định bảo đảm nguyên tắc đối xử quốc gia “National Treatment” trong các lĩnh vực như các biện pháp về đầu tư có liên quan đến thương mại (TRIMs), dịch vụ. Về luật khuyến khích đầu tư để khắc phục tình trạng không rõ ràng giữa thay thế nhập khẩu và định hướng xuất khẩu. Có lộ trình thống nhất hai luật đầu tư này thành một bộ luật chung về khuyến khích đầu tư.
* Ban hành các văn bản pháp luật mới để điều chỉnh các quan hệ kinh tế mới phát sinh trên phương diện quốc tế và quốc gia như văn bản pháp luật về tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT), luật cạnh tranh và chống độc quyền, luật chống bán phá giá và chống trợ cấp, luật phòng vệ khẩn cấp, luật chống chuyển giá - một chính sách quan trọng để thu hút vốn đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia. Điều chỉnh hoặc ban hành mới các quy định dưới luật để xử lý linh hoạt các mảng kinh doanh ngày càng quan trọng nhưng chưa có đủ khung pháp lý.
* Xây dựng các hệ thống tiêu chuẩn hàng hoá xuất khẩu sao cho phù hợp với đòi hỏi của thị trường, nâng dần sức cạnh tranh
* Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, kiên trì chính sách nhiều thành phần, trong đó kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo. Hạn chế dần tiến tới xoá bỏ tình trạng độc quyền, mở rộng đầu mối kinh doanh XNK khuyến khích kinh tế ngoài quốc doanh tham gia, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bảo đảm sự bình đẳng trong việc tiếp cận các nhân tố đầu vào cũng như trong việc nhận hỗ trợ đầu tư, kinh doanh từ phía nhà nước.
* Tiếp tục cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại theo hướng xoá bỏ các thủ tục phiền hà, phấn đấu ổn định môi trường pháp lý để tạo tâm lý tin tưởng trong giới kinh doanh, khuyến khích họ chấp nhận bỏ vốn đầu tư lâu dài. Tăng cường tính đồng bộ của cơ chế chính sách, áp dụng thí điểm mô hình liên kết 4 bên trong xây dựng các đề án xuất khẩu: doanh nghiệp liên kết với trường, viện nghiên cứu, các tổ chức tài chính và các cơ quan quản lý nhà nước.
* Tiếp cận các phương thức kinh doanh mới trên thị trường như: buôn bán trên thị trường giao dịch hàng hoá (comodity exchange) trong đó có thị trường hàng hoá giao ngay và thị trường kỳ hạn (Future, Forward, Options) để vừa tham gia điều tiết giá quốc tế, vừa tận dụng được chính sách phòng ngừa rủi ro của các thị trường này. Cần đặc biệt lưu tâm tiếp cận và phát triển thương mại điện tử, trong đó việc tạo khung pháp lý cho hình thức thương mại đặc thù này.
* Điều hành lãi suất tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt để vừa bảo đảm sự ổn định kinh tế xã hội trong nước vừa có lợi cho xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu.
1.3. Chính sách thuế:
* Đảm bảo cho chính sách thuế đặc biệt là thuế XNK theo hướng nhất quán để doanh nghiệp dễ dàng trong việc tính hiệu quả kinh doanh; cần tiếp tục mở rộng những ưu đãi về thuế để các doanh nghiệp giảm giá thành hàng xuất khẩu nhằm tăng khả năng cạnh tranh, tiến tới loại trừ hoàn toàn thuế gián thu đối với hàng xuất khẩu. Chính sách thuế trực thu cũng cần hướng vào mục tiêu tạo tỷ xuất lợi nhuận cao nhất cho các hoạt động xuất khẩu để thu hút đầu tư của toàn xã hội vào lĩnh vực này;
* Để khuyến khích xuất khẩu đặc biệt là xuất khẩu các sản phẩm chế biến, nhà nước phải giảm tối đa các mặt hàng chịu thuế, chỉ áp dụng thuế xuất khẩu đối với nguyên liệu thô, chưa qua chế biến. Nhà nước cần có nghiên cứu kỹ để quy
định thời gian miễn thuế thích hợp cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất và xuất khẩu hàng hoá để vừ khuyến khích mở rộng mặt hàng và khối lượng hàng xuất khẩu, vừa nâng cao chất lượng hàng hoá thông qua hoạt động đổi mới thiết bị và công nghệ.
* Cần miễn thuế GTGT cho các xí nghiệp vệ tinh, nơi cung cấp nguyên liệu đầu vào trực tiếp cho các xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Cải tiến phương thức thu thuế GTGT đầu vào của các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.
* Đề nghị Bộ Tài chính phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan trên cơ sở phát triển chiến lược phát triển của các ngành, kết hợp các cam kết của ta trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nghiên cứu ban hành một biểu thuế ổn định, cần nhanh chóng ban hành các chú giải biểu thuế để tránh tranh chấp trong việc áp mã thuế.
1.4. Chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu
* Kiên quyết xoá bỏ phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế trong tín dụng và ưu đãi xuất khẩu, chỉ phân biệt trên ngành hàng và thị trường xuất khẩu của Nhà nước trong từng thời kỳ. Cần tách tín dụng ưu đãi cho các đối tượng chính sách ra khỏi tín dụng kinh doanh của ngân hàng thương mại bằng việc thành lập một ngân hàng chính sách và uỷ thác cho các tổ chức tín dụng cho vay theo các mục tiêu, chương trình đối với các đối tượng ưu đãi.
* Điều chỉnh chính sách tín dụng cho sản xuất nông nghiệp nói chung và cho sản xuất nông sản trong đó theo hướng: thoả mãn tối đa nhu cầu tín dụng với lãi suất điều chỉnh theo mùa vụ và kiểm soát tín dụng.
* Cần mở rộng bảo lãnh tín dụng đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển cho các doanh nghiệp, các tổ chức, hộ gia đình có sản xuất, chế biến, thu mua hàng xuất khẩu, nhất là những mặt hàng mũi nhọn hiện nay. Cần sớm triển khai hình thức cho thuê tài chính nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt về vốn của các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam hiện nay.
* Hỗ trợ cho việc sản xuất các mặt hàng có tiềm năng nhưng gặp khó khăn do sự biến động của tỷ giá và thị trường xuất khẩu; khuyến khích các doanh nghiệp chuyển hướng thị trường, tìm tới thị trường mới, mặt hàng mới nhằm khắc phục những ảnh hưởng đó.
1.5. Quy hoạch vùng sản xuất
Việt Nam là một nước nông nghiệp và cũng là nước xuất khẩu nông sản với nhiều mặt hàng đã có chỗ đứng trên thị trường thế giới. Tuy nhiên sản xuất còn nhỏ, mang tính tự cung, tự cấp, thiếu các vùng sản xuất được quy hoạch, tập trung, vì vậy việc quy hoạch sản xuất nông sản tập trung sẽ phải giải quyết các vấn đề sau:
* Quy hoạch vùng sản xuất nông sản xuất khẩu phải khai thác được một cách hợp lý so sánh trong nông nghiệp để tạo nguồn hàng xuất khẩu. Tính hợp lý được thể hiện trước hết ở tính hiệu quả trong khai thác các yếu tố đó. Việc khai thác các yếu tố nguồn lực đó phải đảm bảo khả năng tái tạo để có thể khai thác lâu dài.
* Việc quy hoạch vùng sản xuất phải cho phép tạo nguồn hàng xuất khẩu tập trung có quy mô tương đối lớn, cho phép khắc phục tính phân tán, manh mún trong bố trí sản xuất nông nghiệp. Đây là một trong những điều kiện tiền đề để đảm bảo chữ tín với khách hàng nước ngoài về số lượng, chủng loại hàng và thời gian giao hàng.
* Quy hoạch phát triển vùng sản xuất nông sản xuất khẩu nhằm nâng cao hiệu quả khai thác hệ thống hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất và xuất khẩu nông sản, nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến nông sản xuất khẩu. Cần có tầm nhìn đầy đủ để đảm bảo quy hoạch tổng thể và lâu dài. Muốn vậy quy hoạch vùng nông sản chủ yếu cần đảm bảo sự phối hợp đồng bộ các hoạt động theo quy trình 7 khâu liên hoàn: sản xuất – thu hoạch – chế biến - đóng gói
– bảo quản – vận chuyển – cảng khẩu.
1.6. Thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm.
Đa dạng hoá sản phẩm đòi hỏi phải gắn kết với các nghiên cứu chuyển giao công nghệ, bao gồm cả công nghệ sinh học và công nghệ chế biến.
* Nhà nước cần thực thi chính sách thích hợp để làm cho việc đa dạng hoá sản phẩm trở nên hấp dẫn hơn đối với người nông dân về phương diện kinh tế: các chính sách giảm bớt rủi ro thị trường, chính sách trợ giúp ban đầu cần thiết vì người nông dân chưa tin tưởng vào khả năng tiêu thụ của sản phẩm đó. Nhà nước cần thực hiện các biện pháp sau:
* Khuyến khích áp dụng rộng rãi cả về không gian sản xuất và danh mục các sản phẩm bằng việc thực hiện hợp đồng canh tác, ràng buộc giữa nông dân và
các cơ sở tiêu thụ sản phẩm (nhà máy chế biến, doanh nghiệp thương mại và các tổ chức khác).
* Ban hành chính sách hỗ trợ các yếu tố đầu vào như cung cấp giống cây trồng, các loại vật tư nông nghiệp cho người sản xuất.
* Nghiên cứu phát triển thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm, như khuyến khích tiêu dùng rộng rãi, khuyến khích đầu tư phát triển công nghệ chế biến. Nghiên cứu thăm dò thị trường tiêu thụ nước ngoài để xúc tiến xuất khẩu sản
phẩm.
* Tiếp tục triển khai các chính sách trợ giúp đối với sản phẩm nông nghiệp như chính sách trợ giá hàng nông sản.
sản.
1.7. Xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao chất lượng hàng nông
Nâng cao chất lượng hàng nông sản phải bằng hàng loạt các biện pháp
đồng bộ từ khâu chọn giống, chăm sóc, tưới tiêu đến thu hoạch, chế biến sau thu hoạch và bảo quản. Cần xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng phát triển cho từng mặt hàng. Trước mặt cần tập trung cho những sản phẩm có khả năng cạnh tranh như gạo, cà phê, hạt điều bên cạnh đó cần đầu tư nâng cấp trang thiết bị kỹ thuật để cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp làm dịch vụ kiểm tra chất lượng theo ISO 9000, đồng thời sửa đổi, bổ sung các tiêu chuẩn Việt Nam đã ban hành, xây dựng các bộ tiêu chuẩn mới phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế để thúc đẩy người sản xuất quan tâm đến việc sản xuất ra các sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường.
1.8. Các giải pháp về đầu tư và chuyển đổi cơ cấu sản xuất:
* Chính sách đầu tư chung.
Nguồn đầu tư nên được xác định là: Nhà nước tập trung cho những khâu đòi hỏi vốn lớn, có tác dụng cho nhiều doanh nghiệp như nghiên cứu khoa học, xây dựng hạ tầng, kho bãi, bến cảng, thành lập các trung tâm thương mại và kho ngoại quan ở nước ngoài trong các khâu còn lại, Nhà nước chỉ ban hành các chính sách ưu đãi để khuyến khích cá nhân và doanh nghiệp chủ động đầu tư sản xuất, kinh doanh, hạn chế đến mức thấp nhất, nhanh chóng tiến tới xoá bỏ hoàn toàn cơ chế xin – cho, bao cấp trực tiếp hoặc gián tiếp.
Cần dành ưu tiên cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu, còn đối với những ngành thay thế nhập khẩu mà năng lực sản xuất trong nước đã đáp ứng nhu cầu thì không nên tăng thêm đầu tư, kể cả đầu tư nước ngoài. Trong đầu tư nên nhằm vào các ngành hàng chủ lực và các dự án nâng cao cấp độ chế biến, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Theo hướng đó, đối với các dự án đầu tư chỉ nhằm mở rộng quy mô (có nghĩa là chỉ dẫn đến thay đổi về lượng mà không dẫn đến thay đổi về chất) thì ưu đãi ít, đối với các dự án đổi mới công nghệ, nâng cao được cấp độ chế biến hàng hoá thì, tuỳ theo mức độ được ưu đãi nhiều hơn, đặc biệt là về thuế, để thúc đẩy các doanh nghiệp ngày càng sử dụng nhiều sản phẩm trong nước, nâng cao hàm lượng nội địa của sản phẩm.
* Cải thiện môi trường đầu tư:
Theo các quy định hiện hành (Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi, Luật khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan), vẫn tồn tại một số bất bình đẳng giữa hai khối trong nước và khối FDI. Để khắc phục tình trạng này, cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách đầu tư theo hướng tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp. Giảm dần, tiến tới xoá bỏ sự phân biệt về chính sách giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Duy trì môi trường đầu tư ổn định để tạo tâm lý tin tưởng cho các nhà đầu tư. Phát triển hợp lý các khu chế xuất, khuến khích các doanh nghiệp nước ngoài gia tăng xuất khẩu. Mở rộng thị trường để lôi kéo các doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư ở nước ta, xuất sang thị trường có dung lượng lớn. Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa sự hấp dẫn của các khu này, cần nghiêm túc triển khai cơ chế “thủ tục và dịch vụ một cửa” cho một số khu chế xuất và khu công nghiệp như chính phủ đã quy định.
* Thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ:
Trước hết, việc đầu tư, nhất là của các doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ, phải được đặt trong chiến lược kinh doanh tổng thể, đảm bảo cân đối hài hoà giữa đồng vốn, trình độ công nghệ, khả năng kết hợp với các yếu tố đầu vào khác (như sử dụng lao động), khả năng tiêu thụ sản phẩm, thu hồi vốn, không nhất thiết phải nhập khẩu thiết bị tiên tiến và hiện đại nhất cho mọi ngành sản xuất, bất kể hiệu quả, bất kể khả năng quản lý và vận hành của cơ sở. Tuy nhiên, trong một số ngành then chốt như năng lượng, tin học, điện tử, viễn thông, công nghệ sinh học và vật liệu mới thì nhất thiết phải chú trọng nhập khẩu thiết bị tiên tiến nhằm tạo
cơ sở hạ tầng vững chắc và góp phần đẩy nhanh quá trình tạo ra các mặt hàng mới cho xuất khẩu.
Nhà nước cần tạo lập một thị trường công nghệ để các sản phẩm khoa học công nghệ được trả giá đúng mức và lưu thông bình thường như một dạng hàng hoá đặc biệt. Để tạo lập thị trường công nghệ, nên khuyến khích việc ký kết hợp đồng giữa các doanh nghiệp với các cơ sở nghiên cứu khoa học bằng cách thiết lập quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển công nghệ quốc gia. Cụ thể, thay vì cung cấp vốn ngân sách cho các nghiên cứu khoa học theo kiểu bao cấp, nên thành lập một quỹ riêng cho các doanh nghiệp vay trong trường hợp họ có nhu cầu đặt hàng với các viện nghiên cứu. Làm như vậy vừa gắn được nghiên cứu với nhu cầu thực tiễn của sản xuất, vừa tạo điều kiện cho các nhà khoa học giỏi phát huy tài năng, vừa không phí phạm nguồn vốn ít ỏi của ngân sách.
Đối với nông sản, chú trọng đầu tư đổi mới giống cây trồng, công nghệ từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, phù hợp với nhu cầu trên thị trường đi đôi với việc chú trọng đầu tư vào khâu sau thu hoạch mà hiện nay ta còn rất hạn chế.
Nhà nước đặc biệt quan tâm đầu tư trực tiếp cho cho hoạt động xuất khẩu như các cảng, kho tàng, kể cả kho ngoại quan, các trung tâm thương mại ở nước ngoài, các hoạt động xúc tiến thương mại (tham gia triển lãm, hội chợ, cử đoàn đi nước ngoài tìm hiểu thị trường, tìm kiếm đối tác, thu thập và cung cấp thông tin, hướng dẫn các doanh nghiệp về luật lệ, tiêu chuẩn, mẫu mã thị trường đòi hỏi
); đặc biệt cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng về tài chính, nhân lực và thông tin; chú trọng đầu tư nguồn nhân lực, đặc biệt cán bộ quản lý.
* Vai trò của Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu và trợ giúp tài chính khác:
Quỹ hỗ trợ xuất khẩu đã được quy định trong luật khuyến khích đầu tư trong nước (Luật năm 1998). Chính phủ đã cho phép hình thành một quỹ tại Bộ Tài chính có tên là Quỹ hỗ trợ xuất khẩu nhưng phương thức hoạt động của quỹ này lại thiên về trợ cấp theo kiểu “cho không”, hoàn toàn không phù hợp với điều
10 của Luật khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi.
Quỹ hỗ trợ xuất khẩu phải hoạt động theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn như các tổ chức tín dụng khác, cùng chia sẻ thành công với doanh nghiệp và rủi ro với ngân hàng. Trong điều kiện tài chính còn nhiều eo hẹp, không nên thành lập các quỹ thiên về cấp phát như quỹ tại Bộ Tài chính vừa qua. Ngoài quỹ
hỗ trợ xuất khẩu, cần khẩn trương xúc tiến việc thành lập các quỹ bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng như tinh thần nghị quyết số 09/2000/NQ – CP ngày 15 tháng
06/2000 về một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Cụ thể, quỹ bảo hiểm xuất khẩu được nhà nước khuyến khích thành lập đối với một số ngành hàng quan trọng, có khối lượng xuất khẩu tương đối lớn như gạo, cà phê, cao su, thuỷ sản, gỗ, tiêu, điều để bảo hiểm cho ngành hàng đó. Việc quản lý các quỹ này sẽ do các hiệp hội ngành hàng đảm trách theo cơ chế tài chính do Bộ Tài chính trình thủ tướng quyết định.
2. Các giải pháp về thị trường
Để chủ động thâm nhập thị trường quốc tế, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, khai thác thêm các thị trường mới, bảo đảm cơ cấu thị trường hợp lý theo nguyên tắc đa phương hoá, cần đổi mới công tác thị trường ở cả tầm vĩ mô và vi mô theo hướng phân định rõ trách nhiệm và tăng cường sự phối hợp giữa Nhà nước, hiệp hội và các doanh nghiệp.
2.1. Các giải pháp chung cho thị trường xuất khẩu.
2.1.1. Về phía Nhà Nước.
Một trong những chức năng cơ bản của Nhà nước là đàm phán thương mại để tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp. Đàm phán thương mại (song phương và đa phương) bao gồm đàm phán mở cửa thị trường mới, đàm phán để tiến tới thương mại cân bằng với những thị trường mà ta thường xuyên nhập siêu, đàm phán để thống nhất hoá các tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật và đàm phán để nới lỏng các hàng rào phi thuế quan. Song song với đàm phán mở của thị trường mới, một trong những chỉ tiêu cần phấn đấu với từng thị trường là giảm nhập siêu để tiến tới cân bằng cán cân thương mại một cách hợp lý.
Chức năng quan trọng thứ hai của Nhà nước là thông tin thị trường và xúc tiến xuất khẩu. Trong thời gian tới, cần tăng cường mạnh mẽ công tác thu nhập và phổ biến thông tin về thị trường ngoài, từ tình hình chung cho tới các cơ chế chính sách của các nước, dự báo các chiều hướng cung – cầu hàng hoá và dịch vụ để thông tin có thể đến với mọi doanh nghiệp quan tâm theo con đường ngắn nhất, tiết kiệm nhất, Bộ Thương mại cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu và trang chủ (trang web) của bộ, tăng cường phát hành các tài liệu theo chuyên đề.
Khi đã có sản phẩm hàng hoá, tức là đã có tiền đề thì việc tổ chức thị trường và hoạt động xúc tiến cụ thể là rất quan trọng. Thông qua hai khâu này sản phẩm xuất khẩu mới đến đựoc thị trường, với người tiêu dùng. Vì vậy tổ chức thị trường và xúc tiến thương mại phải trở thành một chức năng quan trọng của Bộ Thương mại và tham tán thương mại. Tại thị trường ngoài, các tham tán phải là các tác nhân gắn kết doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp trên thị trường mà tham tán hoạt động. Và để làm được điều đó phải đặt mối quan hệ giữ các cơ quan hữu quan trên một trục dọc và phải tăng tốc độ chuyển động đi đôi với đảm bảo sự chuyển động hướng đích của toàn bộ trục này.
Tham tán nông nghiệp là vấn đề cần được bàn thêm. Là một nước xuất khẩu nông sản, chúng ta nên có các tham tán nông nghiệp ở nước ngoài để kịp thời thông tin về nhà những thay đổi về chính sách và khả năng nhập khẩu nông sản của thị trường sở tại. Với chuyên môn sâu về nông sản và nông học, tham tán nông nghiệp có thể sẽ giúp được các doanh nghiệp nhiều hơn là tham tán thương mại. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi các biện pháp kỹ thuật và môi trường đang được các nước phát triển sử dụng ngày càng nhiều để hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất nông nghiệp trong nước.
Cần nâng cao hiệu quả hoạt động của Cục Xúc tiến thương mại thuộc Bộ Thương mại với nhiệm vụ chính là phổ biến thông tin và tổ chức xúc tiến các hoạt động thương mại. Để thực hiện tốt chức năng của mình, Cục Xúc tiến thương mại cần được trang bị đầy đủ hơn nữa về cơ sở vật chất và đội ngũ.
Nhà nước có thể hỗ trợ việc thâm nhập và mở rộng thị trường thông qua việc khuyến khích thu hút đầu tư cuả các tập đoàn xuyên quốc gia và của các nhà sản xuất “chìa khoá trao tay”. Đây là một giải pháp cần chú trọng bởi lẽ các tập đoàn xuyên quốc gia là những người đi đầu trong lĩnh vực chuyên môn hoá và hợp tác hoá.
Cuối cùng, Nhà nước có thể tác động trực tiếp vào thị trường ngoài thông qua các biện pháp điều tiết nguồn cung và điều tiết tiến độ xuất khẩu. Đối với những mặt hàng mà Việt Nam giữ thị phần lớn trên thị trường quốc tế (như gạo, cà phê, hạt tiêu), cần tăng cường áp dụng các biện pháp như thông tin chiến lược, chiến thuật, kiềm chế tốc độ bán ra, tham gia các kế hoạch quốc tế về điều tiết nguồn cung trong điều kiện có thể để tác động vào thị trường và giá cả theo hướng có lợi. Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy là các biện pháp này sẽ phát huy được tác dụng rõ rệt hơn nếu được thực hiện đúng thời điểm, đúng liều lượng và
đối tượng, đồng bộ với các biện pháp khác (như hỗ trợ giảm sản xuất, hỗ trợ dịch chuyển lao động sang các ngành khác) và nhất là khi được sự phối hợp hành động của các nước xuất khẩu lớn trong khu vực và thế giới.
2.1.2. Về phía các hiệp hội ngành hàng
Thực tiễn cho thấy trong xu thế hội nhập hiện nay, khi Nhà nước hầu như không can thiệp vào hoạt động kinh doanh thì vai trò của hiệp hội là rất quan trọng và cần thiết trong việc định hướng cho các doanh nghiệp.
Thời gian qua, các hiệp hội ngành hàng đã phát triển khá nhanh về số lượng, hoạt động đang dần đi vào chiều sâu. Trong thời gian tới cần tiếp tục nâng cao hơn nữa vai trò của các hiệp hội trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, thống nhất hành động trong các doanh nghiệp hội viên nhằm tổ chức sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm một cách có hiệu quả nhất, bảo đảm lợi ích của toàn ngành. Để làm được điều đó, bên cạnh nỗ lực tự thân của hiệp hội, trước hết Nhà nước cần sớm ban hành hệ thống văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động và quy định rõ chức năng, quyền hạn của các hiệp hội, khắc phục đồng thời cả hai biểu hiện “Quốc doanh hoá” và “Nhà nước hoá” hiệp hội
2.1.3. về phía doanh nghiệp
* Tăng cường tiếp cận phân tích thông tin:
Việc thu thập và xử lý thông tin có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp của ta rơi vào tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu thông tin. Có hai mảng thông tin mà các doanh nghiệp của ta còn lúng túng: thứ nhất là khó nắm bắt kịp những thay đổi trong chính sách của Nhà nước, nhất là các chính sách về thuế; thứ hai là thiếu những thông tin chiều sâu về thị trường ngoài (hàng rào phi thuế, tiêu chuẩn kỹ thuật, kiểm dịch). Ngược lai, một số doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận với nhiều nguồn tin khác nhau, kể cả các mạng tin của nước ngoài thì lại gặp phải vấn đề trong xử lý và nhận định thông tin.
Có nhiều cách để tiếp xúc với thị trường ngoài như tổ chức đi nghiên cứu thị trường, tham gia triển lãm trong và ngoài nước, tham dự các hội thảo, chương trình đào tạo ở nước ngoài, qua đó tìm kiếm các cơ hội hợp tác và đầu tư, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tiếp thị để kịp thời nắm bắt xu thế thị trường, bám sát các thay đổi trong sản xuất và kinh doanh, chủ động đi tìm bạn hàng, thị trường, tự lo tổ chức sản xuất và xuất khẩu theo nhu cầu và thị hiếu của thị trường, tránh tư tưởng ỷ lại vào cơ quan nhà nước hoặc trông chờ trợ cấp. Để những hoạt động
này đem lại hiệu quả cao nhất thì doanh nghiệp phải có sự chuẩn bị hết sức chu
đáo, kỹ lưỡng đối với từng hoạt động, tránh biểu hiện tham gia một cách hời hợt.
* Chủ động xây dựng chiến lược kinh doanh và chiến lược thị trường phù hợp với lộ trình hội nhập:
Doanh nghiệp cần xây dựng một chiến lược kinh doanh, chiến lược thị trường trên thế chủ động trong tầm nhìn dài hạn. Hướng cạnh tranh chủ yếu sẽ là thông qua việc hợp lý hoá quy trình sản xuất, quản lý để giảm chi phí sản xuất bình quân, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, chủ động mở rộng thị trường trong đó chú trọng tới cả thị trường “ngách” về sản phẩm, thời vụ để tăng cường thâm nhập gia tăng thị phần. Cần tránh biểu hiện ỷ lại, trông chờ vào hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước. Trong bối cảnh nền kinh tế tri thức đang hình thành và ngày càng ảnh hưởng sâu rộng tới thương mại quốc tế, các doanh nghiệp cần hết sức chú trọng những thay đổi trong phương thức kinh doanh, phương thức tiếp cận thị trường và khách hàng trên thế giới để có thể vận dụng trong điều kiện cho phép. Những lĩnh vực mới mà doanh nghiệp cần đầu tư tìm hiểu là thương mại điện tử, các nghiệp vụ tự bảo hiểm tại các sở giao dịch kỳ hạn (đối với thương mại nông sản), kinh doanh chứng khoán
Bên cạnh việc phân định trách nhiệm của Nhà nước, Hiệp hội và doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng cơ chế phối hợp giữa các nhóm chủ thể trên để đảm bảo hiệu quả của công tác tiếp cận và mở rộng thị trường. Như đã phân tích, vai trò chủ yếu của Nhà nước sẽ là tạo hành lang pháp lý và môi trường kinh doanh thuận lợi để các doanh nghiệp chủ động tiếp cận và thâm nhập thị trường. Trong mối liên hệ đó, chức năng của Hiệp hội trong việc làm cầu nối giữa nhà nước và doanh nghiệp là hết sức quan trọng. Thông qua Hiệp hội, các kiến nghị, khó khăn của doanh nghiệp sẽ được phản ánh chính xác và nhanh chóng tới các cơ quan quản lý Nhà nước, đồng thời Hiệp hội cũng có thể đề xuất, tham mưu cho Nhà nước trong việc ban hành các chính sách, quy định phù hợp với yêu cầu phát triển của ngành.
2.2. Giải pháp trên một số thị trường trọng điểm:
Phần này sẽ đi vào phân tích một số thị trường trọng điểm theo những mục tiêu và định hướng tổng quát đã đặt ra trong phần thứ hai.
2.2.1. Thị trường Nhật Bản.
Tuy kim ngạch xuất khẩu tăng đều qua các năm nhưng cho tới nay Việt
Nam vẫn là một bạn hàng nhỏ của Nhật Bản. sở dĩ có tình trạng này là do: Các
doanh nghiệp Việt Nam rất thiếu thông tin về thị trường Nhật Bản, Nhật Bản chưa dành cho ta quy chế MFN đầy đủ, hơn nữa, hai nước chưa có hiệp định thương mại nên các hàng hoá của Việt Nam phải chịu mức thuế cao hơn nhiều so với mức thuế mà các nước có hiệp định thương mại với Nhật Bản được hưởng; suy thoái kinh tế đã ảnh hưởng đến chi tiêu và đầu tư của người Nhật Bản. Do đó, ảnh hưởng đến việc đẩy mạnh xuất khẩu của ta sang Nhật;
Trong thời gian tới, để đẩy mạnh xuất khẩu vào Nhật, cần thực hiện các biện pháp sau:
1. Hai nước cần có sự trao đổi, bàn bạc cụ thể (tốt nhất là trong khuôn khổ song phương bởi dự kiến đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam có thể còn kéo dài) để đi đến ký kết thoả thuận về việc Nhật Bản dành cho hàng hoá của Việt Nam quy chế MFN đầy đủ.
2. Bên cạnh việc có chỉ đạo cụ thể cho tham tán thương mại trong việc thu thập thông tin. Bộ Thương mại cần phối hợp với JETRO (Tổ chức xúc tiến Thương mại Nhật Bản) tại Việt Nam để tăng cường hơn nữa công tác thu thập và phổ biến thông tin về thị trường Nhật tới các doanh nghiệp, đặc biệt là các thông tin có liên quan đến phương thức phân phối, thủ tục xin dấu chứng nhận chất lượng JIS, JAS và Ecomark cũng như chế độ xác nhận trước về thực phẩm nhập khẩu. Đây là việc hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định tới việc đẩy mạnh xuất khẩu nông sản và thực phẩm, mặt hàng mà ta có thế mạnh, vào một thị trường có đòi hỏi cao như thị trường Nhật. Thái Lan đã đi trước ta một bước trong lĩnh vực này.
3. Nhà nước cần hết sức quan tâm đến việc thu hút vốn đầu tư từ Nhật Bản bởi lý do “xuất khẩu trở lại” như trên đã trình bày. Các đề xuất của nhà đầu tư Nhật Bản cần được nghiên cứu kỹ và giải quyết thoả đáng. Trong chừng mực nào đó có thể vượt khỏi nguyên tắc không phân biệt đối xử để giải quyết những yêu cầu riệng của nhà đầu tư Nhật Bản. Việt Nam cần cải thiện vị trí của mình thông qua việc đẩy mạnh tiếp thị, nắm bắt nhu cầu của thị trường. Đặc biệt cần chú ý tới ba yếu tố cơ bản là thiết lập cơ sở để phát triển thị trường theo hình thức văn phòng liên lạc, đại diện hợp tác liên doanh, tập hợp thông tin tổng quát về thương mại Nhật Bản; giao hàng nhanh, an toàn, trung thực và hướng dẫn chi tiết vầ cách sử dụng hàng hoá; xác lập kênh và các cơ chế tiêu thụ sản phẩm ổn định đối với từng loại khách hàng.
Bộ Thương mại cần kết hợp với JETRO (Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản tại Việt Nam) cung cấp các thông tin về thị trường Nhật Bản. Các thông tin bao gồm phương thức phân phối (Nhật Bản có cách thức phân phối hàng hoá theo kênh riêng), và đặc điểm của từng kênh tiêu thụ này;
Nhật Bản có quan điểm rất rõ ràng trong việc xúc tiến thương mại, coi thị trường các nước ASEAN trong đó có Việt Nam là các thị trường quan trọng. Do đó, Ban Xúc tiến thương mại thuộc Bộ Thương mại cần kết hợp chặt chẽ với ASEAN – CENTRE (Trung tâm xúc tiến thương mại, đầu tư và du lịch ASEAN – Nhật Bản) và JETRO tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tham quan học hỏi kinh nghiệm Nhật và tham gia các hội chợ triển lãm hàng năm ở Nhật Bản để sản phẩm của Việt Nam không chỉ đến với bạn hàng Nhật Bản mà các bạn hàng khác trên thế giới. Chính phủ Việt Nam cần xúc tiến việc ký kết một hiệp định thương mại song phương với Nhật Bản để có thể hạ thấp một số hàng rào phi thuế quan như các tiêu chuẩn về chất lượng và vệ sinh sản phẩm đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam.
2.2.2. Thị trường Trung Quốc
Tuy có một số thuận lợi trong việc phát triển quan hệ thương mại vùng biên với Trung Quốc nhưng thời gian qua ta cũng đã gặp khá nhiều khó khăn trong việc quản lý và sử lý các vấn đề phát sịnh từ thương mại vùng biên. Trước hết là vấn đề thanh toán, “xù nợ”, sau đó là vấn đề chống buôn lậu, chống chuyển ngân lậu, thậm chí cả những vấn đề có ảnh hưởng đến an ninh biên giới. Ngoài ra việc phát triển phương thức buôn bán biên giới cũng có mặt trái là không thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam quan tâm nâng cao chất lượng, đầu tư vào công nghiệp chế biến, không tạo ra được cơ sở cho việc phát triển thương mại lâu dài và bền vững, nhiều khi làm mất thị trường và bạn hàng ở các khu vực
khác.
Trong thời gian tới đây, chủ trương phát triển quan hệ thương mại với
Trung Quốc cần theo những định hướng lớn như sau:
* Đẩy mạnh quan hệ buôn bán với các công ty lớn theo tập quán quốc tế. Sớm hình thành quy chế thương mại biên giới để tăng cường xuất khẩu. Các vấn đề còn vướng mắc như chủ thể kinh doanh, hàng hoá kinh doanh, cửa khẩu chính thức hay không chính thức cần được xem xét giải quyết dứt điểm để tạo thuận lợi cho xuất khẩu, kể cả tái xuất. Tăng cường hợp tác với các tỉnh biên giới phía Nam Trung Quốc để tận dụng chính sách ưu đãi mà chính phủ Trung Quốc dành
cho khu vực này. Quy chế tạm nhập tái xuất và quy chế chuyển khẩu cần có sự điều chỉnh phù hợp để vừa tăng được kim ngạch tái xuất, vừa đảm bảo được quản lý của nhà nước
* Tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh tạm nhập tái xuất và kinh doanh chuyển khẩu với khách hàng Trung Quốc nhưng có biện pháp để đảm bảo an toàn hàng hoá và an toàn thanh toán cho các hoạt động này.
* Ngân hàng Nhà Nước cần nghiên cứu biện pháp tăng cường vai trò của các ngân hàng thương mại trong hoạt động thanh toán mậu dịch biên giới. Vấn đề hàng đầu hiện nay chưa phải là đồng tiền thanh toán mà là thanh toán qua ngân hàng để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho các lô hàng xuất khẩu
* Hoạch định kế hoạch phát triển các khu kinh tế cửa khẩu, xây dựng các chợ biên giới để định hướng hoạt động cho các mô hình tổ chức thị trường vùng biên giới, đảm bảo lợi ích của ta.
2.2.3. Thị trường Đài Loan
Trong những năm tới dây, hoạt động xuất khẩu với Đài Loan nhiều khả năng sẽ có thêm những thuận lợi sau: Làn sóng di chuyển sản xuất ra ngoài sẽ ngày càng tăng lên trước hết là do giá nhân công trong nước không ngừng tăng, sau đó là do chính sách tăng cường hợp tác với thị trường phía nam của chính quyền Đài Bắc. Đi đầu sẽ là những ngành sử dụng nhiều lao động như thuộc da, chế biến sản phẩm da, may mặc. Chế biến gỗ. Sau đó sẽ tới những ngành như sản xuất đồ nhựa, đồ điện và điện tử gia dụng; để nâng cao ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế, Đài Loan có xu hướng đẩy mạnh hàng hoá hỗ trợ tài chính cho các nước nghèo thông qua các chương trình hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ tín dụng xuất khẩu, thậm chí cho vay cải thiện cán cân thanh toán. Mục tiêu chủ yếu trong thời gian tới đây là đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng như sản phẩm gỗ, hải sản, cao su, dệt may, giầy dép, rau quả và chè.
2.2.4. Thị trường các nước ASEAN
Tỷ trọng của ASEAN tuy cao nhưng nếu chỉ xét riêng yếu tố này thì chưa đủ căn cứ để kết luận rằng ASEAN là thị trường tiêu thụ chính hàng hoá của Việt Nam. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu đi các nước ASEAN có đến 60 – 70% được xuất sang Singapore mà đây là thị trường tái xuất điển hình, giống như Hồng Kông. Vì lý do dó, cần một cách nhìn mang tính thực tiễn hơn khi đánh giá về sự gắn bó thương mại giữa Việt Nam với các nước ASEAN.
Ngân hàng nhà nước nghiên cứu kỹ khả năng sử dụng nội tệ để thanh toán giữa các nước ASEAN, đề án được đưa ra khi khủng hoảng tài chính ở đỉnh cao, tuy không thành công nhưng cũng cho ta thấy một khả năng để tiến tới thương mại cân bằng. Nếu có thể thực hiện được thì ta nên đặt vấn đề “thanh toán bằng bản tệ trong quan hệ thương mại song phương” với Thái Lan và Malaysia là hai nước trước đây khá mặn mà với ý tưỏng này.
Hàng năm ta nhập khẩu một số lượng linh kiện xe máy và phân bón rất lớn từ thị trường ASEAN (gần 80% kim ngạch linh kiện xe máy và hơn 50% kim ngạch phân bón). Đây là hai mặt hàng nhập khẩu có điều kiện nên có thể thay đổi cách điều hành hiện nay. Thay vì cấp không 100% chỉ tiêu cho các doanh nghiệp, nhà nước nên thu về ít nhất là 50% để tổ chức đấu thấu hàng đổi hàng. Indonxia và Philipin sử dụng BULOG và NFA để quyết định mua hay không mua gạo của ta. Mỗi lần muốn bán gạo cho họ đều phải đàm phán rất vất vả với hai tổ chức này. Ta cũng nên tập trung quyền lực một cách tương tự.
Trong bối cảnh nhập siêu trầm trọng từ ASEAN, nếu không sử dụng các biện pháp đặc biệt, táo bạo, thì không thể tiến tới thương mại cân bằng.
2.2.5. Liên minh Châu Âu (EU)
Trong thời gian tới đây, để phát triển xuất khẩu sang EU, cần thực hiện một số giải pháp lớn như sau:
1. Chế độ quản lý nhập khẩu của EU hết sức phức tạp nên việc thu thập thông tin đến các doanh nghiệp là việc có tầm quan trọng hàng đầu. Theo tính toán của UNCTAD, do thiếu thông tin và không hiểu rõ các quy định về thủ tục của EU, các nước đang phát triển chỉ thực sự sử dụng được 48% các ưu đãi của EU trong chế độ GSP. Nếu ta không làm tốt công tác thu thập và phổ biến thông tin thì các doanh nghiệp Việt Nam không thể tận dụng được mọi cơ hội để thâm nhập vào thị trường EU.
2. Chế độ ưu đãi GSP đang mất dần ý nghĩa do EU hàng năm đều tiến hành giảm thuế MFN theo quy định của vòng dàm phán Uruguay. Chế độ hạn ngạch cho hàng dệt may cũng hết hiệu lực vào năm 2005. xuất khẩu dệt may của ta lại gặp thêm khó khăn do Trung Quốc trở thành thành viên của WTO, EU bỏ thuế và hạn ngạch nhập khẩu đối với hầu hết các sản phẩm (trừ vũ khí) cho 48 nước nghèo nhất thế giới (trong đó có Bangladesh – một số đối thủ của Việt Nam về dệt may). Vì lý do đó, trong thời gian tới đây, các doanh nghiệp Việt Nam cần hết sức chú trọng đến việc nâng cao chất lượng hàng hoá, giữ gìn uy tín của mình
trong việc thực hiện hợp đồng, đảm bảo duy trì đươc toàn bọ các mối quan hệ bạn hàng nhằm chuẩn bị cho thời kỳ “hậu GSP” và “hậu hạn ngạch” nói trên.
3. Bộ Thương mại chủ trì, phối hợp với các bộ ngành hữu quan, tiến hành đàm phán và thoả thuận với EU về các vấn đề còn tồn tại trong quan hệ thương mại Việt Nam – EU. Chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau đây:
* Phối hợp với EU trong việc kiểm soát lượng giầy dép mang xuất xứ Việt
Nam xuất khẩu vào EU, tránh nguy cơ EU áp đặt hạn ngạch cho Việt Nam.
* Tìm hiểu rõ các quy định của EU về điều kiện nuôi trồng và chế biến thuỷ sản để trình chính phủ cấp vốn cho các doanh nghiệp nâng cấp thiết bị, cải thiện môi trường, đáp ứng các yêu cầu của EU về vệ sinh thực phảm. Đây là việc cần làm gấp với phương án cụ thể, lượng vốn cụ thể để tăng nhanh số lượng doanh nghiệp được xuất khẩu thuỷ sản vào EU.
* Yêu cầu EU coi Việt Nam là “Nước có nền kinh tế thị trường” để đảm bảo cho hàng hoá Việt Nam được đối xử bình đẳng với hàng hoá của các nước khác khi EU điều tra và thi hành các biện pháp chống bán phá giá.
* Đề nghị EU áp dụng trở lại mức thuế 12% cho mặt hàng bánh đa nem và tăng hạn ngạch thuế quan cuả mặt hàng sắn lên 6 vạn tấn/năm.
* Đề nghị EU sớm cùng ta xem xét lại hiệp định dệt may để nâng mức hạn ngạch lên từ 30% đến 50% cho từng chủng loại và nâng mức chuyển hạn ngạch giữa các nước ASEAN từ 10% - 20%.
4. Khuyến kích các hoạt động của CLB doanh nhân EU tại Việt Nam để qua đó nắm bắt thêm thông tin về thị trường EU và tăng cường khả năng lobby của ta với các cơ quan có thẩm quyền của EU.
2.2.6. Thị trường Liên Bang Nga.
Trong thời gian tới đây, cần chú ý thâm nhập và mở rộng thị trường Nga với trọng tâm về hàng hoá là cao su, chè, thực phẩm chế biến, rau quả, hoá phẩm tiêu dùng, dệt may, giày dép và thủ công mỹ nghệ. Để hỗ trợ, có thể xem xét các giải pháp sau đây:
1. Ta và Liên Bang Nga có thể thoả thuận tiếp tục nhập vật tư thiết bị năng lượng theo phương thưc chính sách thanh toán một phần bằng tiền, một phần bằng hàng xuất khẩu của Việt Nam để tạo đầu ra cho một số mặt hàng xuất khẩu như gạo, thịt, cao su, chè, hàng nông sản thực phẩm và hàng tiêu dùng khác. Cần chú ý đây chỉ là sự trợ giúp ban đầu của nhà nước đối với các doanh nghiệp, tạo cơ hội cho hàng hoá của họ xuất hiện trên thị trường Nga. Các doanh nghiệp
cần nắm bắt cơ hội này để tìm hiểu nhu cầu đích thực của thị trường về chủng loại, mẫu mã, kiểu dáng, giá thành từ đó có chiến lược thâm nhập cụ thể. Không nên coi xuất khẩu trả nợ là cơ hội đẩy đi những mặt hàng thấp cấp và kém chất lượng.
2. Bộ Thương mại cũng đề nghị đẩy nhanh sự ra đời của Quỹ Tín dụng hỗ
trợ xuất khẩu để có thể tiến hành bảo lãnh tín dụng xuất khẩu cho người xuất khẩu vào Nga và SNG.
3. Để buôn bán với Nga, nhất định phải có luồng tàu biển hợp lý, với cước phí vận tải ở mức chấp nhận được. Đây là công việc cực kỳ khó khăn bởi vướng phải một mâu thuẩn nan giải: hàng không nhiều thì không có luồng tàu hợp lý nhưng nếu không có luồng tàu hợp lý thì kim ngạch buôn bán sẽ không thể nhiều. Đề nghị chính phủ giao Bộ Giao thông vận tải trình phương án tăng cường phương thức chuyển đi Odessa và Vladivostok với mức giá cạnh tranh hoặc nhà nước phải hỗ trợ một phần giá cước. Thời gian đầu (có thể là 1,2 năm), chính phủ sẽ trợ một phần cước phí cho các doanh nghiệp. Những tàu chạy tuyến Nga sẽ được miễn mọi khoản thu của Nhà nước như phí cập cầu, phí hoa tiêu, thuế vốn, thậm chí hoàn thuế nhiên liệu (nếu có) để giảm chi phí.
5. Sớm hoàn thành một Hiệp định về thương mại tự do với CHLB Nga. Nếu xét thấy không thể đàm phán một Hiệp định tổng thể thì có thể tách phần thuế nhập khẩu ra để đàm phán trước. Một trong những hướng có thể xem xét là cho hàng hoá của CHLB Nga được hưởng mức thuế nhập khẩu theo AFTA. Đổi lại, CHLB Nga phải có chế độ thuế nhập khẩu đặc biệt cho hàng hoá của ta. Ngoài ra, cần hết sức chú trọng hình thức hợp tác cấp tỉnh, thành phố để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động tìm kiếm các hợp đồng đổi hàng, điều rất khó làm ở cấo Chính phủ.
2.2.7. thị trường Đông Âu và SNG
Do các nước Đông Âu và SNG đều gặp khó khăn về tài chính nên một trong những hướng cần nghiên cứu là tăng cường thương mại hàng đổi hàng với từng nước. Nếu có thể được, nên bàn bạc, trao đổi ở cấp nhà nước, tiến tới ký kết những thoả thuận khung và giao cho các doanh nghiệp thực hiện.
Cộng đồng người Việt tại các nước Đông Âu và một số nước SNG, đặc biệt là Sec và Ba Lan, đã tạo dựng đựoc cơ sở kinh doanh của riêng mình, một số có tầm cỡ khá. Đây là một lợi thế trong việc thâm nhập thị trường. Vì lý do đó, cơ quan thường vụ tại các nước này cần giữ mối liên hệ chặt chẽ với họ, thu thập ý
kiến, phản ánh của họ về tình hình hàng hoá giao theo đường phi mậu dịch và giới thiệu một số về nhà để cùng bàn bạc phương hướng thâm nhập thị trường.
Xét về lâu dài thì việc đẩy mạnh thâm nhập thị trường như Hungari và Ba Lan có tầm quan trọng đặc biệt (có những việc phải làm từ bây giờ để chuẩn bị cho giai đoạn một số nước Đông Âu được kết nạp vào EU).
2.2.8. Thị trường Hoa Kỳ.
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vào Hoa Kỳ sẽ là dệt may, giầy dép, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí - điện, sản phẩm gỗ, thủ công mỹ nghệ, hải sản, cà phê, hạt tiêu, nhân điều, chè, gia vị, rau quả và thực phẩm chế biến.
Mỹ là nước điển hình trong hệ thống luật bất thành văn nên hệ thống pháp luật thương mại Mỹ rất phức tạp. Muốn thâm nhập vào thị trường Mỹ một cách có hiệu quả cần có những kiến thức cơ bản về các đạo luật quan trọng như: Luật thuế và hải quan; Luật bồi thường thương mại; Luật điều tiết nhập khẩu. Bên cạnh đó, còn có các phong tục tập quán kinh doanh của người Mỹ tuy không mang tính bắt buộc nhưng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của mỗi thương vụ.
Các nhà xuất khẩu Việt Nam phải đặc biệt chú trọng tới chất lượng sản phẩm. Về lâu dài, các doanh nghiệp phải có chính sách ngành hàng thích hợp dựa trên thông tin thị trường chính xác, đảm bảo uy tín với người tiêu dùng Mỹ. Để có được thông tin cần thiết và độ tin cậy cao, các doanh nghiệp Việt Nam có thể sử dụng các dịch vụ môi giới, tư vấn thương mại và pháp luật của các công ty tư vấn có uy tín.
KẾT LUẬN
Như vậy với những nghiên cứu trên đây cho phép chúng ta kết luận rằng con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá dựa trên tăng trưởng xuất khẩu là con đường đúng đắn đưa nền kinh tế Việt Nam “cất cánh” và thực hiện được lời dạy
của Chủ tịch Hồ Chí MInh là một Việt Nam phát triển cùng sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Nhưng trên thực tế con đường chúng ta đi không phải là một con đường dễ dàng. Cùng với những thành tích mà chúng ta đã đạt được, với kinh nghiệm thực tiễn của đất nước và các nước trên thế giới sẽ giúp cho Việt Nam vững bước đi lên. Thực tế trong những năm qua đã cho chúng ta thấy rõ sự chuyển đổi của nền ngoại thương Việt Nam nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng sang cơ chế thị trường, mở cửa đa phương, đa chiều các quan hệ thị trường, bạn hàng theo thông lệ quốc tế, từng bước xoá bỏ nguyên tắc “Nhà nước độc quyền quản lý ngoại thương” bằng các chính sách, biện pháp khuyến khích phát triển một nền ngoại thương nhiều thành phần và thực hiện tự do hoá thương mại. Chính vì thế xuất khẩu Việt Nam đã có những tiến triển vượt bậc, góp phần tích cực vào sự tăng trưởng và phát triển chung của nền kinh tế. Bên cạnh đó, thời gian qua hoạt động xuất khẩu của Việt Nam cũng đã không tránh khỏi những khó khăn vướng mắc đòi hỏi phải có biện pháp tháo gỡ trong trước mắt và lâu dài. Trong giai đoạn từ nay đến 2010 Việt Nam phải lựa chọn cho mình chiến lược ngoại thương đúng đắn, phát huy có hiệu quả cao nhất các lợi thế so sánh của đất nước trong quá trình mở cửa, hợp tác phân công lao động và phát triển thương mại quốc tế. Trong khoá luận này, tác giả cũng đã đưa ra một số giải pháp cho việc phát triển thị trường xuất khẩu của Việt nam theo đúng định hướng mà Đảng và Nhà nước đã chỉ ra trong Đại hội Đảng lần thứ IX.
Với những đóng góp trên, hy vọng rằng trong thời gian tới xuất khẩu của Việt nam sẽ đạt được những thành tựu to lớn tăng trưởng cao, vững chắc và ngày càng nâng cao vị thế của Việt nam trên trường quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8169.doc