Thứ nhất, chỉ có Hội đồng thẩm phán
TAND tối cao là chủ thể duy nhất được phép
lựa chọn các bản án để “tổng kết”, “công
bố” án lệ. Chưa hết, quy định “phát triển
thành án lệ” tại điều khoản này cũng là một
vấn đề cần bình luận. Bởi lẽ, nếu hiểu việc
“phát triển thành án lệ” là việc Hội đồng
thẩm phán TAND tối cao, thì cần làm rõ việc
“phát triển” là như thế nào? Đây là sự “phát
triển” về mặt nội dung (có thể hiểu là có sự
tác động vào quyết định giám đốc thẩm vốn
có trước kia) hay là sự “phát triển” về mặt
hình thức (đơn giản là theo một số quy trình,
thủ tục hành chính để nâng cao vị trí của
quyết định giám đốc thẩm thành án lệ). Việc
ban hành Nghị quyết số 03/2015 NQ-HĐTP
ngày 28/10/2015 nhằm chi tiết hóa nội dung
tại Điều 22 Luật Tổ chức TAND năm 2014
với nội dung điều chỉnh về quy trình lựa
chọn, công bố và áp dụng án lệ của Hội
đồng thẩm phán TAND tối cao, đã phần nào
làm rõ việc “phát triển thành án lệ” có lẽ
thiên về các thủ tục hành chính nhiều hơn.
Thứ hai, Điều 2 Nghị quyết số
03/2015 NQ-HĐTP có đưa ra những tiêu chí
để lựa chọn án lệ như:
“1. Phải chứa đựng lập luận để làm rõ
quy định của pháp luật còn có cách hiểu
khác nhau; phân tích, giải thích các vấn đề,
sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường
lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng
trong một vụ việc cụ thể;
2. Có tính chuẩn mực;
3. Có giá trị hướng dẫn áp dụng thống
nhất pháp luật trong xét xử, bảo đảm những
vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau
thì phải được giải quyết như nhau”.
Quy định này đưa đến một số vấn đề
về mặt pháp lý cần phải làm rõ: 1) Liệu có
thể hiểu rằng bằng quy định này thì pháp
luật đã chính thức thừa nhận sự giải thích
pháp luật của tòa án, khi bản án của tòa án
“làm rõ quy định của pháp luật còn có cách
hiểu khác nhau”? Liệu có mâu thuẫn không
khi trong quy định của Hiến pháp cũng như
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
không trao thẩm quyền giải thích pháp luật
cho Tòa án? 2) Trong nội dung của Nghị
quyết nêu trên, không có bất kỳ một điều
khoản nào mô tả rằng: một bản án như thế
nào là một bản án có chuẩn mực, hay nói
cách khác thì bản án có chuẩn mực cần đáp
ứng những tiêu chí gì, trong khi đó, đây lại
là một tiêu chí để lựa chọn một bản án để
xem xét trở thành án lệ phải là “có tính
chuẩn mực”.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 252 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lý luận về án lệ trong hệ thống pháp luật các nước Common Law, Civil Law và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
56
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
Trong đặc trưng của hai hệ thống phápluật common law (hệ thống Thôngluật) và civil law (Hệ thống Luật
thành văn) thì “án lệ” vốn được xem như là
một “đặc sản” của dòng họ pháp luật
common law. Tuy nhiên, trong xu hướng
“toàn cầu hóa” hiện nay, hai dòng họ pháp
luật này đang tiệm cận với nhau và tìm cách
dung hòa những khác biệt vốn được sử dụng
làm đặc trưng để nhận diện. Do đó, trong
pháp luật hiện đại, nhắc đến án lệ, người ta
không chỉ thấy án lệ được sử dụng trong hệ
thống luật của các nước trong dòng họ pháp
luật common law mà ở các nước vốn là điển
hình của dòng họ civil law như Pháp và
Đức, việc sử dụng án lệ cũng đã, đang và
ngày càng mở rộng.
Việt Nam là một trong những quốc gia
chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật
Pháp, được xếp vào nhóm nước coi trọng hệ
thống pháp luật thành văn. Trên thực tế, hệ
thống pháp luật Việt Nam hiện nay vẫn còn
chưa đầy đủ, lạc hậu; nhiều nội dung quy
định có cách hiểu mâu thuẫn nhau, gây khó
khăn lớn khi áp dụng pháp luật, đặc biệt là
đối với các cơ quan Tòa án. Trước thực trạng
LYÁ LUÊÅN VÏÌ AÁN LÏå TRONG HÏå THÖËNG PHAÁP LUÊÅT CAÁC NÛÚÁC
COMMON LAW, CIVIL LAW VAÂ NHÛÄNG VÊËN ÀÏÌ ÀÙÅT RA CHO VIÏåT NAM
Mai Thị Mai*
* Giảng viên Khoa Pháp luật Hành chính - Nhà nước, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Thông tin bài viết:
Từ khoá:
án lệ, nguồn luật, thẩm phán.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 06/01/2017
Biên tập: 15/02/2017
Duyệt bài: 20/02/2017
Article Infomation:
Keywords:
Precedents, Sources of Law,
The Judges.
Article History:
Received: 06 Jan. 2017
Edited: 15 Feb. 2017
Approved: 20 Feb. 2017
Tóm tắt:
Với việc thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (TAND), hệ thống pháp
luật nước ta đã đưa án lệ trở thành một trong những căn cứ để các “Tòa án
nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”. Tuy nhiên, án lệ ở Việt Nam được hình
thành như thế nào, được áp dụng như thế nào, có giống và khác gì so với án
lệ khi được áp dụng ở các nước? Bài viết sẽ góp phần tìm câu trả lời cho
những câu hỏi trên.
Abstract:
With the adoption of the Law on Organization of People’s Courts, Vietnam’s
legal system finally give out the precedent/case law as one of the bases for
the “the court shall review, apply in the trial”. However, how the Vietnam’s
precedents were formed, how it is applied and what it is similar or different
from the precedents applied in other countries. This article shall help to find
answers for the questions posed above.
57
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(333) T3/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số
49/NQ-TƯ về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020, ngày 02/06/2005, trong đó
nếu rõ: “TAND tối cao có nhiệm vụ tổng kết
kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật, phát triển án lệ từng
bước thực hiện công khai hóa bản án”. Và
nội dung này đã được thể chế hóa, đưa vào
quy định tại điểm c khoản 2 Điều 22 Luật
Tổ chức TAND năm 2014. Án lệ trở thành
một trong những căn cứ để các “Tòa án
nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”.
1. Án lệ - góc nhìn của các nước trong hệ
thống common law
Theo Từ điển Black’s law, án lệ
(precedent) được định nghĩa: “1. Là việc
làm luật của tòa án khi công nhận và áp
dụng các quy tắc mới trong quá trình xét xử;
2. Vụ việc đã được giải quyết làm cơ sở để
đưa ra phán quyết cho những trường hợp có
tình tiết hoặc vấn đề tương tự sau này”1.
Chúng ta cũng biết rằng, Black’s law là cuốn
từ điển được đưa ra bởi Henry Campbell
Black (1860-1927), là người đã tạo dấu ấn
sâu sắc trong bối cảnh lập pháp của Mỹ2, do
đó, có thể hiểu thuật ngữ án lệ (precedent)
đưa ra ở Black’s law là cách hiểu và quan
điểm về án lệ của các quốc gia theo dòng họ
pháp luật common law, mà cụ thể nhất là ở
Mỹ. Cách thức áp dụng precedent cũng
được dẫn chiếu đến một thuật ngữ gốc Latin
là “stare decisis”, được giải nghĩa là: “Học
thuyết về án lệ là sự cần thiết để tòa án áp
dụng các quyết định tư pháp trước đó nếu
như trong vụ kiện tụng xuất hiện lại những
tình tiết tương tự”3.
Cần làm rõ về nguyên tắc áp dụng
pháp luật tương tự này, bởi lẽ cách thức áp
dụng án lệ với với cách hiểu chung chung
rằng, áp dụng quyết định của tòa án trước
cho vụ việc sau, khi vụ việc đó có các tình
tiết tương tự sẽ gây hiểu lầm rằng sẽ khó có
hai hay nhiều vụ việc giống nhau để áp
dụng, và biết áp dụng giống nhau theo mức
độ như thế nào đối với một bản án đã có
trước? Nguyên tắc “stare decisis” xuất phát
từ tư tưởng công bằng của nhà triết học
Aristotle là “Các trường hợp giống nhau
phải được xử lý như nhau” (Like cases
should be treated alike)4. Và vì vậy, kỹ thuật
để tạo ra án lệ và với nguyên tắc áp dụng đó
là dựa trên cách thức suy luận tương tự. Khi
tòa án giải quyết vụ việc đầu tiên chỉ tạo ra
hình mẫu hay phác thảo nên một quy tắc.
Một quy tắc hay nguyên tắc án lệ được hình
thành phải trải qua hàng loạt các vụ việc
tương tự về sau. Các thẩm phán sau này khi
giải quyết một vụ việc cần phải xác định và
đánh giá lý lẽ tương tự, nếu vụ việc này
tương tự thì sẽ áp dụng lý lẽ trong bản án
trước để giải quyết vụ việc hiện tại, nếu
không tương tự thì không áp dụng5.
Trong khi đó, ở Anh, án lệ được sử
dụng với một danh từ chung là “case law”.
Trong nhiều thế kỷ trước, case law là một
nguồn chính trong hệ thống pháp luật Anh
và đến ngày nay vẫn rất quan trọng. Trong
hệ thống của Anh, “case law” cũng được
hiểu là những quyết định được đưa ra bởi
thẩm phán trong các vụ án trước đó. Trong
quyết định của từng vụ việc thì thường có
hai mục đích chính: thứ nhất, đó là tìm ra
1 Nguyên văn: “the making of law by a court in recognizing and applying new rules while a administering justice. 2.
A decided case that furnishes a basis for determining later cases involving similar fact or issues”.
2
3 Nguyên văn: stare decisis (stahr-ee di-sI-sis orstair-ee), n.[Latin “to stand by things decided”] The doctrine of prece-
dent, under which it is necessary for a court to follow earlier judicial decisions when the same points arise again in
litigation.
4 Xem truy cập ngày 14/12/2016.
5 Xem “Án lệ: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Đỗ Thanh Trung, Giảng viên khoa Luật Hành chính, Trường ĐH
Luật TP. Hồ Chí Minh.
58
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
xem sự thật là gì? Và mục tiêu thứ hai là làm
thế nào để áp dụng pháp luật vào trong
trường hợp thực tiễn đó. Trong mục tiêu thứ
hai này, có thể tạo ra án lệ (case law) với ý
tưởng rằng, một trong những quyết định đã
được tạo ra bằng cách đưa ra cách áp dụng
pháp luật cho một tập hợp các tình tiết trên
thực tế, và đối với những vụ việc sau đó thì
cũng xử lý theo cùng một cách thức, theo
nguyên tắc stare decisis được mô tả ở trên6.
Với việc áp dụng nguyên tắc này, hệ thống
pháp luật Anh loại trừ quan điểm cho rằng
sẽ đưa đến sự tùy tiện của thẩm phán khi
ông ta áp dụng pháp luật.
Tuy nhiên, trong hệ thống pháp luật
Anh - Mỹ, án lệ ràng buộc chính thức đối
với các vụ việc trong tương lai, song ở đó
cũng này sinh vấn đề: Đâu là ranh giới giữa
án lệ bắt buộc và án lệ không bắt buộc, giữa
phần bắt buộc và phần không bắt buộc của
một bản án? Việc những tòa án nào có thể
tạo ra các án lệ có tính chất bắt buộc phải
tuân thủ với các tòa khác thì nó phụ thuộc
mật thiết tới cấu trúc của hệ thống tòa án.
Trong khi đó, việc đánh giá xem phần nào
là phần bắt buộc và phần nào là phần không
bắt buộc trong một bản án thì ranh giới cơ
bản là phụ thuộc vào sự phân biệt giữa ratio
decidendi và obiter dictum. Ở đó, ratio de-
cidendi 7 được hiểu là lý do để quyết định,
đây là nhân tố bắt buộc trong quá trình suy
luận dẫn tới quyết định của tòa án. Đây là
phần có tính chất bắt buộc vì nó là quy định
của pháp luật mà tòa án dựa vào đó để đưa
ra phán quyết cho vụ việc, nói cách khác,
đây là quy định cần thiết để đưa ra phán
quyết cho vụ việc. Trong khi đó obiter dic-
tum 8 được hiểu là lời nhận xét và bình luận
của ông thẩm phán, vì thế nó không có giá
trị bắt buộc. Tất nhiên, ngay cả các quyết
định tư pháp thông thường không có tính
chất bắt buộc nhưng vẫn có tính thuyết phục
cao, phụ thuộc vào vị trí và uy tín của người
thẩm phán. Đôi khi việc phân định giữa
ratio decidendi và obiter dictum thật dễ
dàng, nhất là khi vị thẩm phán đưa ra bản ản
có ý thức rõ ràng rằng mình là người làm ra
luật, chỉ ra một cách rõ ràng tuyên bố nào
của ông ta là “obiter” với những cách nói
như: “Tôi muốn bổ sung rằng” nhưng có
những trường hợp, các thẩm phán bằng câu
tuyên bố kèm theo quyết định đã không ý
thức được rằng ông ta đã vượt ra ngoài ranh
giới phân biệt giữa “ratio decidendi” và”
obiter dictum”. Với những vụ việc như vậy,
thì việc chỉ ra ranh giới giữa “ratio deci-
dendi” và “obiter dictum” phụ thuộc vào các
thẩm phán trong các vụ việc sau đó, các luật
sư thực hành, các nhà nghiên cứu luật, sinh
viên và các đối tượng khác vì nhiều nguyên
nhân đã đi tìm hiểu và phân biệt chúng9, đặc
biệt khi muốn sử dụng chúng với tư cách là
một án lệ.
Có thể hiểu cách thức làm việc và ra
bản án của các ông thẩm phán như sau: “Các
ông thẩm phán ngồi lắng nghe chứng cứ và
6 Nguyên văn: “Case law comes from the decisions made by judges in the cases before them (the decisions of juries do
not make case law). In deciding a case, there are two basic tasks: first, establishing what the facts are, meaning what
actually happened; and secondly, how the law applies to those facts. It is the second task that can make case law, and
the idea is that once a decision has been made on how the law applies to a particular set of facts, similar facts in later
cases should be treated in the same way, following the principle of stare decisis described above.”, English legal.
7 Xem Black’s law, nguyên văn: “ratio decidendi (ray-shee-oh des->-den-dI), n.[Latin “the reason for de-
ciding”]1. The principle or rule of law on which a court’s decision is founded <many poorly written judicial opinions
do not contain a clearly ascertainable ratio decidendi>.2. The rule of law on which a later
court thinks that a previous court founded its decision; a general rule without which a case must have been decided
otherwise”.
8 Xem Black’s law, nguyên văn: “judicial comment made while delivering a judicial opinion, but one that is unnec-
essary to the decision in the case and therefore not precedential (although it may be considered persuasive).
9 Xem thêm “Comparative law”, của Micheal Bordan, p. 90.
59
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(333) T3/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
các tranh cãi pháp lý, để rồi chuẩn bị cho
một quyết định viết tay - được hiểu là một
phán quyết cho bên thắng cuộc, và nền tảng
của phán quyết này là những gì mà họ tin đó
là sự thật và làm thế nào để áp dụng pháp
luật vào vụ việc đó. Quyết định này được
xem như là phán quyết, thông thường thì nó
khá dài và thường bao hàm nhiều ý kiến
hoàn toàn không liên quan đến vụ việc,
ngoài ra cũng bao gồm các giải thích về
nguyên tắc pháp lý mà thẩm phán đã sử
dụng để đưa ra quyết định. Những giải thích
này được gọi là “ratio decidendi”10. Như
vậy, bản án của các nước trong hệ thống
pháp luật common law, dù có thể trở thành
án lệ hay không thành án lệ thì nó sẽ là một
văn bản chứa đựng rất nhiều những lập luận
của thẩm phán, trên quy định của pháp luật
mà ông ta cho rằng có liên quan đến để áp
dụng trong trường hợp đang xét xử, có thể
bao gồm việc viện dẫn các nguyên tắc trong
các án lệ trước hoặc không. Chính những
phần lý luận này (bao gồm các nguyên tắc
được tuân thủ - ratio decidendi; và có thể có
các bình luận, suy nghĩ và cách hiểu của
thẩm phán về vụ việc - obiter dictum) sẽ tạo
cơ sở cho các thẩm phán, luật sư nghiên cứu,
xem xét, áp dụng đối với những trường hợp
sau này có tình tiết tương tự theo nguyên tắc
“stare decisis”.
Cũng cần nói thêm về vai trò của thẩm
phán trong các quốc gia theo hệ thống pháp
luật common law, thẩm phán hay có thể nói
là tòa án được xem là một chủ thể “làm”
luật, hiểu theo hai nghĩa: 1) Thẩm phán khi
là chủ thể áp dụng pháp luật thì thông qua
hoạt động giải thích pháp luật, thẩm phán
đưa ra những cách hiểu cho các quy phạm
pháp luật để áp dụng pháp luật (đối với
những trường hợp luật thành văn quy định
chưa rõ ràng, chưa cụ thể), tạo ra những
nguyên tắc mới hoặc cách hiểu mới cho
những quy định của pháp luật vốn đã có; 2)
Thông qua hoạt động xét xử của mình, thẩm
phán có thể đưa ra những nguyên tắc áp
dụng pháp luật mới để điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh (mà luật thành văn chưa
quy định).
Tuy nhiên, ở Anh, có một thực tế
được công khai chấp nhận đó là dù các tòa
án Anh tạo ra luật và thay đổi luật bằng các
bản án, nhưng các thẩm phán có xu hướng
ra sức biện luận trong các bản án rằng họ chỉ
tìm ra các quy định của pháp luật đã có hoặc
các nội dung vốn có trong các án lệ trước
đó, hiếm khi có thể thấy các tòa án công khai
việc tạo ra luật mới11. Trong khi đó, các thẩm
phán của tòa án Mỹ có xu hướng giải thích
các quy định, các nguyên tắc vốn đã có sẵn
trong quy định của hệ thống pháp luật, hơn
là tạo ra luật mới theo đúng nghĩa đen của từ
này (có thể tham khảo qua các án lệ nổi tiếng
của tòa án Mỹ như: Án lệ Miranda, Án lệ
Mabury kiện Madison). Có lẽ, dù cùng
chịu ảnh hưởng của dòng họ pháp luật
common law, nhưng ở Anh và Mỹ vẫn có sự
khác biệt, vì Mỹ vẫn có một hiến pháp thành
văn, trong khi ở Anh thì không có, do đó các
thẩm phán của tòa án của Mỹ vẫn có một văn
bản mang tính chất “tối cao” để dựa vào, để
viện dẫn, để giải thích cho những phán quyết
của mình, trong khi đó thì các thẩm phán của
Anh không có được điều này.
Thêm vào đó, khi nhìn nhận về án lệ,
10 Nguyên văn: “The judges listen to the evidence and the legal argument and then prepare a written decision as to which
party wins, based on what they believe the facts were, and how the law applies to them. This decision is known as the
judgment, and is usually long, containing quite a lot of comment which is not strictly relevant to the case, as well as an
explanation of the legal principles on which the judge has made a decision. The explanation of the legal principles on
which the decision is made is called the ratio decidendi – Latin for the ‘reason for deciding’. It is this part of the judgment,
known as binding precedent, which forms case law. All the parts of the judgment which do not form part of the ratio de-
cidendi of the case are called obiter dicta – which is Latin for ‘things said by the way’”, English legal, p. 13.
11 Xem Comperative của Micheal Bordan.
60
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
12 Xem thuật ngữ “Doctrine Precedent” trong Black’s law.
13 Xem Black’s law: “ Collections of Precedents have existed from very early times. In this connection precedents
must not be confused with judicial precedents or case law. We refer here simply to common-form instruments compiled
for use in practice, whereby the lawyer can be more or less certain that he is using the correct phraseology for the
particular case before him. They were usedboth in conveyancing and litigation...”
14 Stare Decisis In Civil-law Countries: The Last Bastion, in The Themes In Comparative Law In Honour Of Bernard
Rudden.
15 Cho tới trước Cách mạng Pháp (1789), nước Pháp vẫn không có một hệ thống pháp luật thống nhất, đất nước này
bao gồm hai vùng chủ yếu, được ngăn cách bởi sông Loire chảy trong khoảng giữa Geneva và Bờ biển Atlantic.
Vùng nhỏ hơn ở phía nam (Pays de droit écrit) có các văn bản luật được pháp điển hóa, dựa trên truyền thống luật La
Mã, còn vùng phía bắc chiếm 3/5 lãnh thổ đất nước (Pays de coutumes) lại áp dụng tập quán pháp có nguồn gốc chủ
yếu từ Đức và được ghi lại bởi các cá nhân. Như Voltaire đã nhận xét, một người đi khắp nước Pháp sẽ buộc phải
chịu sự thay đổi pháp luật thường xuyên như thay đổi ngựa. Do đó, năm đầu tiên sau Cách mạng là năm rối loạn về
chính trị, xã hội nói chung hết sức hỗn loạn, chính vì vậy, trọng điểm xây dựng luật được đặt vào các cuộc cải cách,
đặc biệt là trong các quan hệ dân sự và thương mại. Khi tình hình ổn định dưới sự kiểm soát của Napoleon Bonaparte,
với nỗ lực to lớn của ông, năm 1800 - khi Napoleon Bonaparte trở thành Quan Tổng tài đệ nhất của nước Cộng hòa,
ông đã chỉ định một Ủy ban pháp điển hóa và thành quả đem lại là BLDS Pháp (hay còn gọi là Bộ luật Napoleon -
1804) - Xem Micheal Bordan, sđd.
16 Xem BLDS Pháp 1804.
ở các nước trong hệ thống pháp luật chung
Anh - Mỹ, nguồn để có thể trở thành án lệ
là “vô kể”, tất cả các bản án đều có cơ hội
trở thành án lệ khi trong quá trình thực hiện
hoạt động xét xử của mình, nếu tòa án viện
dẫn và áp dụng nó để làm căn cứ quyết định
một bản án thì nó sẽ trở thành án lệ cho các
vụ việc kiện tụng sau nếu các tình tiết tương
tự lại xuất hiện. Cùng với đó, ở các quốc gia
trong hệ thống pháp luật này thì việc xuất
bản án lệ cũng không phải là một “trách
nhiệm pháp lý” của bất kỳ một cơ quan nhà
nước nào, mà chỉ là: “một tập hợp dưới dạng
sách và được sử dụng bởi các luật sư để
hướng dẫn cho sự chuẩn bị với những bằng
chứng tương tự”12. Sự xuất bản này chỉ đơn
giản để phổ biến và phục vụ cho việc sử
dụng trong thực tế, theo đó các luật sự có
thuận tiện hơn khi áp dụng cho các ngữ
cảnh, các trường hợp cụ thể”13.
2. Án lệ trong cách nhìn của các nước
theo hệ thống civil law
Mặc dù án lệ có vai trò quan trọng
trong hệ thống common law, nhưng nhìn
vào lịch sử thì có thể thấy, ngay cả hệ thống
civil law, án lệ cũng được nhận thức là đóng
một vai trò quan trọng. Bằng chứng là việc
Hoàng đế Severus (cai trị La Mã từ năm 193
đến 211) đã cho phép thẩm phán bổ sung
những lỗ hổng của luật thành văn bằng tập
quán và thực tiễn xét xử các vụ án tương tự
(một hình thức của án lệ). Nhưng đến năm
529, Hoàng đế Justinian đã cấm các thẩm
phán La Mã quyết định các vụ việc mà
không dựa vào luật thành văn. Bốn năm sau,
Justinian đã khôi phục lại chính sách của
Severus bằng việc cho phép các thẩm phán
bổ sung những kẽ hở của pháp luật thành
văn khi áp dụng nó. Vì vậy, trong lịch sử
pháp luật La Mã, các văn bản tập hợp các
bản án và lời phân tích nó (digest) được coi
là có giá trị pháp lý như là luật khi thẩm
phán sử dụng nó14.
Xét ngay đối với hệ thống pháp luật
của Cộng hòa Pháp, dưới ảnh hưởng của
Cách mạng tư sản Pháp và các quan điểm
tiên tiến của chủ nghĩa triết học Khai sáng,
nước Pháp đã mở đầu cho xu hướng pháp
điển hoá pháp luật ở châu Âu15. Bộ luật Dân
sự (BLDS) Pháp được xem là một sản phẩm
nổi tiếng và điển hình cho tiến trình pháp
điển hóa pháp luật ở Pháp. Tuy nhiên, Điều
5 BLDS Pháp 1804 đã đề cao quá mức hoạt
động pháp điển hóa khi quy định “Nghiêm
cấm thẩm phán giải quyết những vụ việc
được giao xét xử bằng cách đặt ra những
quy định chung và có tính chất quy phạm”16.
Điều luật này đã gián tiếp đưa đến việc
không sử dụng án lệ trong hoạt động xét xử
của các thẩm phán ở Pháp. Ban đầu, người
61
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(333) T3/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
ta cho rằng, Bộ luật này hoàn hảo và rõ ràng
tới mức bất cứ một sự giải thích nào của các
học giả trong ngành luật đều không những
không cần thiết mà còn làm hỏng bộ luật.
Quan điểm này cho rằng BLDS năm 1804
là tuyệt đối hoàn hảo và rằng, nó hàm chứa
lời giải cho mọi vấn đề có thể xảy ra, đã ngự
trị nước Pháp trong cả thế kỷ XIX17. Tất
nhiên, hầu hết các luật gia đều hiểu rõ việc
coi Bộ luật là tuyệt đối hoàn thiện chỉ là điều
viễn tưởng và công tác hoàn thiện các kẽ hở
của Bộ luật (điều mà người ta không sẵn sàng
công khai) đơn giản là chỉ có thể giao cho tòa
án. Và đây cũng là một phần lý do giải thích
cho sự xuất hiện Tòa Phá án trong hệ thống
tòa án của Pháp (the court of cassasion)18.
Một trong những nguyên tắc hoạt động của
Tòa Phá án là thông qua hoạt động giám đốc
thẩm của mình, góp phần giải thích pháp
luật trong những trường hợp pháp luật chưa
quy định cụ thể, từ đó đưa đến việc hiểu và
áp dụng pháp luật một cách thống nhất. Các
thẩm phán Pháp không áp dụng BLDS năm
1804 một cách cứng nhắc mà đã “sửa chữa
những thiếu sót, bổ sung những điểm còn
thiếu, giải thích lời văn phù hợp với hoàn
cảnh mới của xã hội”19 và tất nhiên, cũng
giống như người Anh, họ không muốn công
khai thừa nhận điều đó.
Không giống với nước Pháp, cho đến
năm 1871, nước Đức vẫn chưa có một hệ
thống pháp luật thống nhất12. Trong khi
BLDS 1804 của Pháp đã có những thành
quả và tạo ra sự ảnh hưởng đến các nước
châu Âu thì quá trình pháp điển hoá pháp
luật ở nước Đức vẫn chưa phát triển. Phải
đến năm 1900, BLDS Đức mới chính thức
ra đời. Không ai có thể phủ nhận vai trò
quan trọng của các bộ luật và luật thành văn
ở Đức, nhưng trong rất nhiều trường hợp, để
có thể hiểu nội dung thực sự của các văn bản
pháp luật cần áp dụng thì không thể không
tìm hiểu về các án lệ liên quan đến việc giải
thích pháp luật.
Ví dụ, từ “vũ khí” (weapon) trong Bộ
luật Hình sự Đức năm 1871, đã không chi
tiết hoá tất cả những loại vũ khí mà người
phạm tội sử dụng khi phạm tội được quy
định trong Bộ luật này. Trường hợp một
người dùng hydrochloric acid để tấn công
người khác thì có phải là sử dụng vũ khí hay
không? Toà án tối cao Cộng hòa Liên bang
(CHLB) Đức đã giải thích về thuật ngữ này
trong án lệ năm 1971 như sau: “Theo Bộ
luật Hình sự Đức được ban hành năm 1871,
vũ khí chỉ bao gồm các công cụ máy móc
được sử dụng làm công cụ tấn công. Sau
thời điểm này, khái niệm về vũ khí được
hiểu như trên đã thay đổi. Ngày nay, các
chất hoá học dùng làm phương tiện để tấn
công cũng được coi là vũ khí. Vì vậy, hy-
drochloric acid được xếp là một loại vũ
khí”20. Án lệ của Tòa án tối cao CHLB Đức
(về dân sự và hình sự) luôn được các toà án
cấp dưới tuân theo khi áp dụng trong thực
tiễn áp dụng pháp luật. Nếu toà án cấp dưới
không tuân theo cách giải thích và áp dụng
pháp luật của các bản án mà Tòa án tối cao
CHLB Đức đã tuyên, thì các toà án cấp dưới
có nghĩa vụ giải thích rõ vì sao nó không
tuân theo21. Thậm chí các luật sư cũng phải
thực sự quan tâm đến án lệ, bởi nếu không
chú ý đến các án lệ của các toà án cấp cao,
thì luật sư có thể sẽ phải bồi thường thiệt hại
cho khách hàng vì tư vấn không đúng. Trong
17 Xem Comparative law, Micheal Bordan.
18 Nguyên văn: “They originate in the events of the French Revolution. A law of 27 November 1790 instituted a “Tribunal
of Cassation”, which by virtue of the senatus – consultum of 28 Floreal Year XII, become the Court of Cassatio. Yet
the history of the Court goes back much further, being rooted in the way justice was practiced under the Ancien Régime”.
19 Xem Micheal Bordan, p. 135.
20 Robert Alexy and Ralph Dreier, Statutory Interpretation in The Federal Republic of Germany, in ‘D. Neil MacCormick and
Robert S. Summers, Interpreting Statutes A Comparative Study, Dartmouth Publishing Company Limited, 1991, p. 84.’
21 Xem R Alexy, A Theory of Legal Argumentation, Oxford Claredon Press, 1989.
62
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
lĩnh vực luật hiến pháp, các án lệ của Toà án
Hiến pháp CHLB Đức có hiệu lực như luật,
nó bắt buộc các toà án cấp dưới phải tuân
theo. Điều 31.1 của Luật Toà án Hiến pháp
Đức quy định “Các quyết định của Toà án
Hiến pháp CHLB Đức có hiệu lực bắt buộc
với các cơ quan của chính quyền liên bang
và các tiểu bang cũng như tất cả những toà
án và các cơ quan nhà nước khác”. Toà án
Hiến pháp CHLB Đức có vị trí đặc biệt
trong hệ thống toà án của nước Đức. Các
quyết định của nó có hiệu lực cao hơn luật
liên bang, trừ Hiến pháp. Đây là một đặc
trưng cơ bản khi đề cập tới vai trò của án lệ
trong hệ thống pháp luật nước Đức hiện nay.
Hơn nữa, trong một không gian pháp
luật của Liên minh châu Âu rộng lớn hơn
phạm vi pháp luật quốc gia, cách thức sử
dụng và áp dụng án lệ của Toà án Công lý
châu Âu đã tác động không nhỏ đến tư duy
pháp luật của các thẩm phán ở Pháp và Đức.
Bởi vì, khi giải quyết các vấn đề có liên
quan đến pháp luật của Liên minh châu Âu,
thẩm phán của cả hai hệ thống pháp luật
Pháp và Đức không thể tránh khỏi việc sử
dụng các án lệ của Toà án Công lý châu Âu.
Điều này đã tác động đến văn hoá pháp lý
trong xét xử của các thẩm phán các nước
thành viên. Việc vận dụng án lệ với vai trò
là nguồn luật bổ trợ để tăng tính thuyết phục
cho các bản án đã và đang trở thành một xu
hướng nổi bật trong nội dung các bản án của
Toà án các nước thuộc hệ thống pháp luật
dân luật ở châu Âu22.
Như vậy, từ những ví dụ đưa ra ở Pháp
và Đức, có thể nhận thấy tiến trình khẳng
định vai trò của án lệ trong hệ thống pháp
luật Pháp và Đức không chỉ mới gần đây, mà
đã từ rất lâu trong lịch sử, mặc dù không có
truyền thống pháp luật phát triển dựa trên cơ
sở các án lệ là nguồn luật cơ bản như hệ
thống pháp luật các nước trong hệ thống
pháp luật Anh - Mỹ, nhưng án lệ đã trở
thành xu hướng phát triển của hai hệ thống
pháp luật Pháp và Đức, là một bộ phận
không thể thiếu trong pháp luật của những
nước này. Hệ thống các án lệ trở thành một
nguồn bổ trợ cho các thẩm phán khi xét xử
trong trường hợp luật thành văn chưa đầy
đủ, chưa có những quy định bao quát hết tất
cả các trường hợp thực tiễn phát sinh. Tuy
nhiên, với truyền thống coi trọng pháp luật
thành văn thì án lệ trong hệ thống pháp luật
Pháp - Đức, thường được hiểu là sự giải
thích các nguyên tắc, các quy phạm pháp
luật được quy định chưa rõ ràng trong việc
áp dụng trong từng trường hợp cụ thể.
3. Án lệ ở Việt Nam - những vấn đề cần
xem xét
Việt Nam là một quốc gia coi trọng
luật thành văn, thể hiện bằng việc trước đây
chúng ta chính thức chỉ thừa nhận hệ thống
văn bản pháp luật là nguồn cho hoạt động
điều chỉnh các quan hệ xã hội của các cơ
quan áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, có thể
thấy rõ ràng ở các nước coi trọng luật thành
văn - civil law, hệ thống luật dù đồ sộ đến
đâu, dù hoàn thiện đến cỡ nào cũng không
bao quát hết được tất cả những tình huống
phát sinh trong cuộc sống. Vì vậy, áp dụng
án lệ trong hoạt động xét xử của tòa án là
một yêu cầu tất yếu. Từ năm 2004 trở đi,
TAND tối cao đã thường xuyên chọn lọc và
công bố các quyết định giám đốc thẩm của
Hội đồng thẩm phán TAND tối cao23. Đây
là tiền đề cho việc từng bước thừa nhận và
áp dụng án lệ ở Việt Nam. Quốc hội Việt
Nam đã thông qua Luật Tổ chức TAND,
trong đó, điểm c khoản 2 Điều 22 của Luật
này đã lần đầu tiên quy định về án lệ như
22 Xem “Án lệ trong hệ thống pháp luật dân sự các nước Pháp, Đức và việc sử dụng án lệ ở Việt Nam”, ThS. Nguyễn
Văn Nam, Học viện An ninh nhân dân,
luat-dan-su-cac-nuoc-phap-111uc-va-viec-su-dung-an-le-o-viet-nam.
23 TAND tối cao, “Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao” (Đặc san của Tạp chí TAND -
Quyển I, II), Hà Nội, 2004. Trong các năm 2005, 2006, 2009, TAND tối cao tiếp tục công bố các quyết định giám
đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán về Dân sự, Kinh doanh, Thương mai, Lao động và Hình sự.
63
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(333) T3/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
sau: Hội đồng thẩm phán TAND tối cao có
nhiệm vụ, quyền hạn “ Lựa chọn quyết
định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm
phán TAND tối cao, bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của
các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ
và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu,
áp dụng trong xét xử”.
Như vậy, dưới góc nhìn của Việt Nam
về án lệ, có thể thấy:
Thứ nhất, chỉ có Hội đồng thẩm phán
TAND tối cao là chủ thể duy nhất được phép
lựa chọn các bản án để “tổng kết”, “công
bố” án lệ. Chưa hết, quy định “phát triển
thành án lệ” tại điều khoản này cũng là một
vấn đề cần bình luận. Bởi lẽ, nếu hiểu việc
“phát triển thành án lệ” là việc Hội đồng
thẩm phán TAND tối cao, thì cần làm rõ việc
“phát triển” là như thế nào? Đây là sự “phát
triển” về mặt nội dung (có thể hiểu là có sự
tác động vào quyết định giám đốc thẩm vốn
có trước kia) hay là sự “phát triển” về mặt
hình thức (đơn giản là theo một số quy trình,
thủ tục hành chính để nâng cao vị trí của
quyết định giám đốc thẩm thành án lệ). Việc
ban hành Nghị quyết số 03/2015 NQ-HĐTP
ngày 28/10/2015 nhằm chi tiết hóa nội dung
tại Điều 22 Luật Tổ chức TAND năm 2014
với nội dung điều chỉnh về quy trình lựa
chọn, công bố và áp dụng án lệ của Hội
đồng thẩm phán TAND tối cao, đã phần nào
làm rõ việc “phát triển thành án lệ” có lẽ
thiên về các thủ tục hành chính nhiều hơn.
Thứ hai, Điều 2 Nghị quyết số
03/2015 NQ-HĐTP có đưa ra những tiêu chí
để lựa chọn án lệ như:
“1. Phải chứa đựng lập luận để làm rõ
quy định của pháp luật còn có cách hiểu
khác nhau; phân tích, giải thích các vấn đề,
sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường
lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng
trong một vụ việc cụ thể;
2. Có tính chuẩn mực;
3. Có giá trị hướng dẫn áp dụng thống
nhất pháp luật trong xét xử, bảo đảm những
vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau
thì phải được giải quyết như nhau”.
Quy định này đưa đến một số vấn đề
về mặt pháp lý cần phải làm rõ: 1) Liệu có
thể hiểu rằng bằng quy định này thì pháp
luật đã chính thức thừa nhận sự giải thích
pháp luật của tòa án, khi bản án của tòa án
“làm rõ quy định của pháp luật còn có cách
hiểu khác nhau”? Liệu có mâu thuẫn không
khi trong quy định của Hiến pháp cũng như
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
không trao thẩm quyền giải thích pháp luật
cho Tòa án? 2) Trong nội dung của Nghị
quyết nêu trên, không có bất kỳ một điều
khoản nào mô tả rằng: một bản án như thế
nào là một bản án có chuẩn mực, hay nói
cách khác thì bản án có chuẩn mực cần đáp
ứng những tiêu chí gì, trong khi đó, đây lại
là một tiêu chí để lựa chọn một bản án để
xem xét trở thành án lệ phải là “có tính
chuẩn mực”. Ngày 6/4/2016, Chánh án
TAND tối cao đã ra Quyết định số 220/QĐ-
CA, công bố 6 án lệ đầu tiên như một hình
thức nguồn pháp luật bổ sung. Tuy nhiên,
khi đọc vào các bản án được “lựa chọn”,
được “ tổng kết”, được “phát triển” thành
các án lệ trong quyết định trên thì có lẽ, cơ
sở lớn nhất để giúp án lệ có thể được áp
dụng và xem xét cho các vụ việc có “tình tiết
tương tự” đó là các lập luận, các lý lẽ của
Hội đồng xét xử để giải thích cho một
nguyên tắc, một quy định của pháp luật chưa
rõ ràng, hay chỉ là những lập luận làm rõ các
tình tiết khách quan của vụ việc của Hội
đồng xét xử đã không được chú trọng đúng
mực. Các án lệ vẫn rất “đậm nét” việc tổng
kết án, tổng kết các tình tiết vụ việc, rồi đưa
ra kết luận mà không có những lý lẽ thuyết
phục vì sao mà Hội đồng thẩm phán lại nhìn
nhận vụ việc theo hướng như vậy, hay vì sao
lại có các kết luận đó. Điều này sẽ đưa đến
một khó khăn rất lớn khi áp dụng các án lệ
cho các vụ việc sau này có tình tiết tương tự.
Nếu như trong án lệ của Anh - Mỹ thì nội
dung bản án được viết ra với những lập luận,
lý lẽ của thẩm phán, nếu như ông ta muốn
giải thích, chứng minh cho một nhận định,
một cách hiểu thì cần viện dẫn đến rất nhiều
những cách hiểu tương tự, những nguyên tắc
24 Xem thêm ở Quyết định số 220/QĐ-CA của Chánh án về công bố án lệ, ngày 6/ 4/2016.
25 Xem thêm: Đậu Công Hiệp, Hà Thị Phương Trà, “Quy định về án lệ trong luật tổ chức TAND năm 2014 - nhìn từ góc
độ bản chất của án lệ”, Tạp chí Nhà nước - Pháp luật, số 04/2016.
26 Xem thêm tại :
27 Xem thêm: Đậu Công Hiệp, Hà Thị Phương Trà, “Quy định về án lệ trong luật tổ chức TAND năm 2014 - nhìn từ góc
độ bản chất của án lệ”, tlđd.
64
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
(ratio decidendi) được rút ra từ những án lệ
trước đó. Với những lý luận chuyên sâu, sắc
bén và dày dặn như vậy thì mới mong đưa
đến một bản án có tính thuyết phục. Và chỉ
khi Hội đồng xét xử của những vụ việc sau
hiểu một cách rõ ràng về tư duy và cách lập
luận của Hội đồng thẩm phán trong án lệ
được đưa ra thì họ mới có thể đối chiếu xem
nên xét xử cho vụ việc tương tự như thế nào.
Thực tế mà nói, 6 án lệ đầu tiên của Hội
đồng thẩm phán TAND tối cao đưa ra trong
Quyết định số 220/QĐ-CA về công bố án lệ,
có một kết cấu rất chi tiết, nhưng nội dung
án lệ (được hiểu là nội dung cốt lõi được rút
ra trong bản án đó) vẫn rất giống với việc
hướng dẫn xét xử như trong các bản án giám
đốc thẩm trước đây24.
Thứ ba, chỉ có những án lệ được lựa
chọn và công bố mới có thể trở thành nguồn
được áp dụng pháp luật. Còn ngoài các danh
sách án lệ được công bố đó thì thẩm phán,
luật sư không có quyền lựa chọn một
“nguồn” vô tận các bản án đã được công
khai. Cách thức hiểu và quy định như vậy
có lẽ đi ngược lại hoàn toàn với cách hiểu
và áp dụng án lệ, nó không chỉ mâu thuẫn
với quy định tại khoản 3 Điều 2 Nghị quyết
số 03/2015/NQ-HĐTP: “bảo đảm những
vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau
thì phải được giải quyết như nhau”, vì có thể
xảy ra trường hợp là: bản án có tình tiết, tính
chất, hoàn cảnh tương tự vụ việc đang xét
xử nhưng lại không có mặt trong tập hợp
bản án đã được Hội đồng thẩm phán thông
qua, điều này đã ảnh hưởng đến việc đảm
bảo “thực hành công lý”25 mà nó còn làm
mất đi lợi thế mà án lệ có được so với luật
thành văn, đó là án lệ như một nguồn bổ
sung cho các thẩm phán khi xét xử khi chưa
có pháp luật thành văn điều chỉnh. Bởi lẽ,
nếu án lệ cần được Hội đồng thẩm phán
TAND tối cao “tập hợp”, lựa chọn”, “công
bố” như quy định này, sẽ đưa đến việc mất
thêm thời gian cho một quy trình thủ tục
hành chính để công bố, hay không khác gì
việc biến Hội đồng thẩm phán TAND tối cao
thành một chủ thể ban hành một “loại văn
bản quy phạm pháp luật” khác. Trên thực tế,
ở Mỹ cũng có những những “tập hợp” án lệ
được công bố với tên gọi là “federal
reporters”26, nhưng việc “xuất bản” những
tập hợp này nhằm hướng đến sự thuận lợi
cho các bên tra cứu và áp dụng, cũng như để
trích dẫn cho những vụ việc có tình tiết
tương tự sau này, và tập hợp này được xuất
bản sau khi có các án lệ được sử dụng. Trong
khi đó, quy trình của TAND tối cao của Việt
Nam lại hoàn toàn ngược lại, khi chúng ta
lựa chọn những bản án trở thành án lệ trước,
sau đó mới “công bố”, “xuất bản” và được
sử dụng như một loại nguồn thay thế.
Kết luận
Việt Nam đã coi án lệ như một nguồn
bổ sung cho hoạt động áp dụng pháp luật.
Tuy nhiên, từ những góc nhìn khác nhau của
các dòng họ pháp luật trên thế giới về án lệ
và thực tế bước đầu việc triển khai áp dụng
án lệ của Hội đồng thẩm phán TAND tối
cao, có thể thấy vấn đề tiếp cận về án lệ của
chúng ta chưa thực sự đúng và đủ. Chúng
tôi chỉ mới đưa ra những vấn đề còn vướng
mắc để cùng xem xét, cân nhắc kỹ càng, bởi
lẽ “nếu làm không đúng bản chất thì tuy
khởi đầu có thể đạt được những mục đích
trước mắt nhưng về lâu về dài sẽ gây ra hậu
quả nghiêm trọng”27 n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ly_luan_ve_an_le_trong_he_thong_phap_luat_cac_nuoc_common_la.pdf