THẢO LUẬN, PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ ĐẠT
ĐƯỢC
Việt Nam là một trong những quốc gia đi sau về muộn
trong việc xây dựng và hoàn thiện chính sách và pháp
luật cạnh tranh. Phiên bản Luật cạnh tranh đầu tiên,
là văn kiện trụ cột cho tiếp cận cận về chính sách ở
nước ta, được Quốc hội thông qua vào năm 2004. Có
thể nói, Việt Nam không thể tránh khỏi những tiếp
cận sơ khai, thậm chí còn lệ thuộc không ít vào hình
thái cạnh tranh tĩnh, điển hình nhất là đặt nặng yếu
tố giá và đồng thời sử dụng thông số thị phần và trao
quyền quyết định cho thị phần rất lớn trong hầu hết
các vụ việc chống hạn chế cạnh tranh, và đương nhiên
đó là điều cần tránh.
Luật Cạnh tranh sửa đổi đã được Quốc hội thông qua
năm 2018 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2019) có thể được
xem là minh chứng cho hướng tiếp cận mới, và vì vậy
đã có nhiều sửa đổi và hoàn thiện trong kiểm soát độc
quyền và cạnh tranh ở Việt nam. Tiêu biểu nhất là tiếp
cận của Luật cạnh tranh sửa đổi đã tháo bỏ sự lệ thuộc
vào yếu tố thị phần và đặc biệt là cơ quan cạnh tranh
trong thời gian tới phải sử dụng cơ chế đánh giá tác
động dựa vào nhiều yếu tố có liên quan để khẳng định
về sự tồn tại của khả năng gây hạn chế cạnh tranh cũng
như mức độ của đó trong các vụ việc được rà soát.
Nhưng điều đó không có nghĩa, tất cả các khuyến nghị
và cơ chế tiếp cận động theo hình thái cạnh tranh
năng động đã được phản ánh đầy đủ trong sắc luật
ở thời điểm hiện tại. Một vài quy định có thể mang
lại hiệu quả cho quá trình điều chỉnh pháp luật. Đặc
biệt hơn, quá trình xây dựng các quy định hướng dẫn
chi tiết hiện nay cần phải mô tả và “ kỹ thuật hóa ” rất
nhiều các tiêu chí đánh giá và kiểm soát. Một lần nữa,
tư duy và phân tích về cạnh tranh năng động cần phải
được xem xét trong trong quá trình thực thi, đặc biệt
là trong hoạt động đánh giá tác động cạnh tranh của
vụ việc cạnh tranh được nhấn mạnh trong Luật Cạnh
tranh 2018.
Hướng đến mục tiêu đó, bài viết bắt đầu từ cơ sở
lý thuyết về cạnh tranh huỷ diệt sáng tạo (Phần:
Khái quát về lý thuyết cạnh tranh năng động). Bằng
phương pháp nghiên cứu tổng hợp, nội dung bài viết
đã tóm lược các quan điểm và tiếp cận chính của
Schumpeterian cũng như những mở rộng của Paul
Krugman lẫn phân tích thực tế của Gray Becker và
các nhà kinh tế học Austrian sau này. Đặc biệt, từ
tình huống cụ thể về cuộc chiến của Mircrosoft, Apple và Google, nội dung bài viêt đã tiếp tục trao đổi,
biện luận trên cở những phân tích của Becker. Kết
quả quan trọng của phần nội dung này cho thấy giá
trị của phát kiến về sáng tạo huỷ diệt cũng như những
phát triển và ý nghĩa của lý thuyết cạnh tranh năng
động.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 248 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lý thuyết cạnh tranh năng động và các khuyến nghị để định hình lại chính sách kiểm soát độc quyền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Phát t riển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(3):190- 198
Open Access Full Text Article Bài nghiên cứu
Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG
HCM
Liên hệ
Trương Trọng Hiểu, Trường Đại học Kinh tế
- Luật, ĐHQG HCM
Email: hieutt@uel.edu.vn
Lịch sử
Ngày nhận: 28/1/2019
Ngày chấp nhận: 10/3/2019
Ngày đăng: 26/9/2019
DOI : 10.32508/stdjelm.v3i3.559
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Lý thuyết cạnh tranh năng động và các khuyến nghị để định hình
lại chính sách kiểm soát độc quyền
Trương Trọng Hiểu*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Thương mại quốc tế phát triển phản ánh sự thịnh hành của cơ sở lý thuyết về lợi thế so sánh.
Nhưng thương mại nội ngành xuất hiện và phát triển đã tạo ra không ít thách thức cho việc vận
dụng lý thuyết lợi thế so sánh. Theo đó, lợi thế cạnh tranh và cạnh tranh năng động trở thànhmục
tiêu, cả về phát triển kinh doanh, thương mại, kinh tế lẫn quá trình hoạch địch chính sách. Từ kết
quả nghiên cứu tổng hợp về các khái niệm và lý thuyết nền tảng về hủy diệt sáng tạo, cạnh tranh
năng động và các phân tích về tình huống thực tiễn có liên quan, bài viết chỉ ra điểm khác biệt
trong tiếp cận cạnh tranh năng động so với trường phái cổ điển trước đó. Nội dung phân tích đặt
biệt nhấn mạnh về sự khác biệt và những phát triển trong quan điểm của trường phái kinh tế học
Áo so với nền tảng lý thuyết cạnh tranh hủy diệt trước đó. Trên cơ sở các tình huống nghiên cứu
và nội dung biện luận, bài viết đã chỉ ra những giá trị ưu trội đồng thời với những điểm tiếp cận
hạn chế của trường phái cạnh tranh năng động, cụ thể là tiếp cận của nhà kinh tế học Gray Becker
(Nobel kinh tế năm 1992). Từ những phân tích đó, bài viết giới thiệu một vài gợi ý bước đầu vềmặt
chính sách đối với quá trình hoàn thiện chính sách kiểm soát độc quyền ở Việt Nam sau khi chỉ ra
một vài điểm yếu trong lựa chọn thả lỏng chính sách kiểm soát của một số kinh tế gia.
Từ khoá: Cạnh tranh, cạnh tranh năng động, hủy diệt sáng tạo, kiểm soát độc quyền.
GIỚI THIỆU
Thương mại quốc tế phát triển phản ánh sự thịnh
hành của cơ sở lý thuyết về lợi thế so sánh khi màmột
quốc gia sẽ được lợi nếu chuyên môn hóa sản xuất và
xuất khẩu những hàng hóa mình có thể sản xuất với
chi phí thấp hoặc tương đối thấp hơn quốc gia khác.
Nhưng chính sự hiện diện của thương mại nội ngành
mang lại cho nó không ít thách thức. Rõ ràng, nhiều
nước vẫn có thể cùng sản xuất và cùng tồn tại trong
cùng một thị trường sản phẩm, dù lợi thế so sánh
thiên thuộc về một nền kinh tế nào đó. Sự lựa chọn
của Việt Nam trong lựa chọn và phát triển chính sách
khoa học công nghệ, cũng như tạo lực để nghiên cứu,
sản xuất và thương mại sản phẩm công nghệ cao có
thể là một minh chứng cho sự trượt bỏ lợi thế so sánh
để tiệm cận với thị trường cạnh tranhnăng động trong
thị trường sản phẩm chung: sản phẩm công nghệ.
Bức tranh sinh động của thị trường cạnh tranh – độc
quyền khiến Paul Krugman (Nobel Kinh tế năm2008)
day dứt và dấn thân. Một trong những đóng góp quan
trọng của ông cho lý thuyết thương mại mới chính là
những phân tích về lợi thế cạnh tranh. Sức ép cạnh
tranh là có thực, nên cạnh tranh hoàn toànmang tính
lý tưởng và độc quyền hoàn toàn khó có thể tồn tại
mãi mãi. Để cạnh tranh, các hãng, cùng ngành, cần
nghiên cứu, sáng tạo và tạo ra tính khác biệt cho sản
phẩm. Sự khác biệt hóa giúp sản phẩm thống lĩnh
thị trường, thậm chí trở thành độc quyền, và tồn tại.
Đương nhiên, sức mạnh đó đến lượt mình có thể bị
bào mòn bởi quá trình khác biệt hóa của một sản
phẩm cạnh tranh khác.
Nhưng điều quan trọng là, từ một tiếp cận về lợi thế
so sánh mới, thương mại biết đến một lợi thế so sánh
mới. Đó là lợi thế cạnh cạnh, là lợi thế cạnh tranh tự
tạo. Sáng tạo vì vậy ngày càng trở nên quan trọng, và
cạnh tranh ngày càng phát triển thêm nhiều biến thế,
đặc biệt là từ hình thái cạnh tranh tĩnh (static com-
petition) sang hình thái cạnh tranh mới – cạnh tranh
năng động (dynamic competition)a. Chính sự xuất
hiện và thịnh hành của hình thái cạnh tranh này đã
mang lại nhiều hàm ý mới về mặt định hình chính
sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền.
Hướng đến mục đích trên, bài viết tổng hợp ý kiến
và phân tích của nhà kinh tế học Gray Becker (No-
bel kinh tế năm 1992) về thực tiễn cuộc chiến cạnh
tranh năng động giữa các công ty công nghệ hàng đầu.
Tiếp cận của Becker về cạnh tranh năng động cập nhật
nhiều điểmmới, trên cơ sở sự phong phú về mặt thực
tiễn. Nhưng khuyến nghị về mặt chính sách của phân
tích để lại điểm mờ nguy hiểm, và có thể tạo ra sự
a Các nghiên cứu ở Việt Nam thường gọi là “ động ”, ví dụ như “
năng lực động ” (dynamic capabilities).
Trích dẫn bài báo này: Trọng Hiểu T. Lý thuyết cạnh tranh năng động và các khuyến nghị để định
hình lại chính sách kiểm soát độc quyền. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. Law Manag.; 3(3):190-198.
190
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(3):190- 198
không chắc chắn của hoạt động kiểm soát khi đề xuất
gần như thả lỏng cạnh tranh và phủ nhận sự không
cần thiết của hoạt động kiểm soát độc quyền. Nội
dung này sẽ được bài viết phân tích và làm rõ.
Sau nội dung đặt vấn đề ở phần này, bài viết này sẽ
bắt đầu bằng nội dung khái quát về lý thuyết cạnh
tranh năng động. Trong đó, tác giả sẽ tóm lược về tiếp
cận hủy diệt sáng tạo, cạnh tranh năng động cũng giới
thiệu thêm các đánh giá điển hình về thực tiễn cạnh
tranh và đặc biệt nhấn mạnh đến ý kiến của Becker.
Trên cơ sở đó, phần cuối của bài viết bàn về định
hướng hoàn thiện khung chính sách kiểm soát độc
quyền trong bối cảnh mới ở Việt Nam trước khi đưa
ra các nhận định kết luận và hướng nghiên cứu tương
lai.
KHÁI QUÁT VỀ LÝ THUYẾT CẠNH
TRANHNĂNGĐỘNG
Sự xuất hiện, hưng thịnh rồi lụi tàn lập tức của nhiều
ông lớn công nghệ phần nào phản ánh mức độ khắc
nghiệt của nền khoa học kĩ thuật ngày càng tiến bộ và
đổi mới. Với Gary Becker, chính sự định hình của các
tên tuổi mới là minh chứng cho một phần của cạnh
tranh năng động - lý thuyết được định hình từ những
năm 1980s trên cơ sở những ý tưởng ban đầu về hủy
diệt sáng tạo mà Joseph A. Schumpeter đã sớm vạch
ra.
Hủy diệt sáng tạo và những phát kiến của
Schumpeterian
Hủy diệt sáng tạo (creative destruction) là khái niệm
tiền đề được J.A. Schumpeter đưa ra từ những năm
1950s. Trên cơ sở nền tảng lý thuyết của chủ nghĩa
Mác về sự tích lũy và thay thế của cải dưới dạng tư
bản, Schumpeter đã phát triển và mô tả “cơn lốc hủy
diệt sáng tạo” như “một quá trình liên tục biến đổi về
công nghiệp để cải cách cấu trúc nền kinh tế từ bên
trong; liên tục hủy diệt cái cũ cũng như liên tục sáng
tạo cái mới”1. Đó là:
“Cạnh tranh bởi hàng hóamới, công nghệmới, nguồn
cung ứng mới, mô thức tổ chức mới (chẳng hạn như
đơn vị có quy mô lớn nhất) – cạnh tranh dựa vào lợi
thế về chất lượng hay chi phí tiên quyết và nó không
chỉ phá hủy những biên độ doanh thu hoặc lợi nhuận
mà cả nền tảng và vòng đời của chúng” 2.
Theo cách diễn giải của Ricardo J. Caballero (giải
thưởng Risch Medal cùng với Eduardo Engel năm
2002), hủy diệt sáng tạo là cơ chế đổi mới sáng tạo
không ngừng các sản phẩm và quy trình mà theo đó
một sản phẩm mới sẽ thay thế cho một sản phẩm đã
lỗi thời. Điều quan trọng là tiến trình sản xuất đó
không chỉ lan tỏa rộng khắp, có tầm vĩ mô; đối với
cả quá trình phát triển trong dài hạn và những biến
đổi kinh tế nhất thời lẫn các thay đổi về mặt cấu trúc
và chức năng của thị trường. Thậm chí, xét về dài hạn,
tiến trình hủy diệt sáng tạo có thể chiếm hơn 50%
mức tăng hiệu suất. Ở cấp độ chu kỳ kinh doanh, quá
trình tái cấu trúc thường thuyên giảm trong giai đoạn
suy thoái kinh tế và điều này sẽ làm tăng chi phí đáng
kể cho các quá trình đào thải (downturns)3. Đương
nhiên, những trở ngại cho tiến trình hủy diệt sáng tạo
sẽ mang lại những hệ lụy cho nền kinh tế vĩ mô, cả
trong ngắn hạn lẫn dài hạn4.
Thực tế, lý thuyết này sau đó một lần nữa được minh
chứng bởi những thay đổi ở Mỹ, Nhật Bản và tây Âu
vào những năm 1980s hay tại Trung Quốc và Ấn Độ
những năm 1990s. Trên nền tảng công nghệ mới, các
công ty, cấu trúc và lực lượng lao động có chuyên
môn cũ đã bị xóa sổ, thay vào đó là sự xuất hiện của
các tổ chức công nghiệp và các mối quan hệ lao động
mới. Đáng chú ý, việc ứng dụng công nghệ thông tin
và internet với sự giảm thiểu đáng kể về chi phí giao
dịch chính là sự thay đổi nổi trội về mặt số lượng lẫn
chất lượng cả khu vực kinh tế công và tư. Thú vị là,
mộtmặt phát triển ngoại tác (external growth) của các
công ty lớn thông qua việc thâu tóm các công ty khác
tạo nét đặc trưng cho chủ nghĩa tư bản hiện đại, một
mặt lại có sự xuất hiện mỗi ngày của các công ty nhỏ -
chủ yếu được thành lập bởi chính các nhân viên điều
hành của các công ty cũ vẫn đang hoạt động1.
Nghiên cứu tổng hợp của Jerry Ellig cho thấy, theo lý
thuyết cạnh tranh sáng tạo, các công ty khác nhau sẽ
có khả năng khác nhau, có những phát kiến nhất định
và sự đổi mới sáng tạo xuất hiện khi các công ty đã
thử nghiệm nhiều hơn, và thậm chí có những hạn chế
nhất định về lượng thông tin mà người đưa ra quyết
định có thể tiếp cận và tiệm cận5. Cuộc cạnh tranh vì
vậy càng trở nên thú vị, khốc liệt và liên tục. Hủy diệt
sáng tạo thật sự là tiến trình tạo ra giá trị. Và điều này
mở ra một kênh mới cho quá trình cạnh tranh, trong
lựa chọn sinh tồn hay diệt vong. Hay nói cách khác,
đó là cuộc cạnh tranh bằng “cái mới”; và sáng tạo khi
đó là để hủy diệt, nhưng hủy diệt để sinh tồn. Nhưng
tồn tại khó bất biến, vì sáng tạo không ngừng.
Đó là thực tế cuộc sống và thị trường: cạnh tranh gay
gắt và khốc liệt. Cho nên, những nghiên cứu của Paul
Krugman được đánh giá là sự dấn thân và thử thách
khi phân tích lý thuyết trên mô hình thị trường cạnh
tranh mang tính độc quyền (monopolistic competi-
tion). Nhưng đó là lựa chọn mang lại giá trị lớn, thay
vì tiêu tốn thời gian vào các phân tích thuần túy lý
thuyết của mô hình thị trường cạnh tranh hoàn hảo,
hay độc quyền hoàn toàn.
Thực ra, hoạt động thương mại có thiên hướng
chuyển sang mô hình cạnh tranh mang tính độc
191
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(3):190- 198
quyền và dựa vào quy mô từ khá sớm, như các phân
tích của Robinson, Chamberlin từ những năm 1930s
và các nghiên cứu của Lancaster, Spence, Dixit và
Stieglitx những năm 1970s. Nhưng có thể nói, các bài
viết của Krugman (và Helpman) kể từ năm 1985 và
sau đó đã có những mô tả rõ nét hơn, và đặc biệt phát
triển trên bình diện rộng hơn là thươngmại quốc tế6.
Trên thị trường thực tế, cạnh tranh để độc quyền.
Nhưng độc quyền khó có thể tồn tạimãimãi. Với Paul
Krugman và cộng sự của ông ta, Helpman lhanan6, và
các nhà nghiên cứu kinh tế cùng thời, điển hình như
Micheal Porter7, thì “ sản phẩm được làm khác biệt ”
(diferentiiated products) hay chính là đa dạng hóa và
khác biệt (dị biệt) hóa sản phẩm để cạnh tranh, để tạo
nên lợi thế cạnh tranh, tiến tới độc quyền vì vậy trở
thành nhu cầu cốt tử trong chiến lược kinh doanh và
quản trị của doanh nghiệp. Hay nói cách khác, cách
tiếp cận đa dạng và tăng cường đa dạng hóa sản phẩm
để mang lại độ thỏa dụng theo mức thay thế của sản
phẩm có vai trò quan trọng8, và ngược lại chiến lược
cạnh tranh về giá không còn được khuyến khích và
trở nên thoái trào9. Chính điều đó quyết định đến
sự hiện diện và phát triển của thương mại nội ngành,
nơi các nhà sản xuất vẫn có thể sống tốt với các sản
phẩm tương tự mà không cần đến lợi thế so sánh hay
sản phẩm khác nhau hoàn toàn theo trường phái Ri-
cardian hay mô hình Heckscher – Ohlin.
Điểm khác biệt giữa cạnh tranh năng động, chẳng hạn
như trong thương mại nội ngành, so với cạnh tranh
hủy diệt là sản phẩm cũ có thể sẽ không hoàn toàn bị
“hủy diệt” mà vẫn có thể cùng tồn tại, ít nhất trong
thời gian ngắn, cạnh tranh với sản phẩm mới, và tiếp
tục cải tiến để đối đầu và giành lại vị thế hay thậm
chí là vươn lên so với sản phẩm vừa thay thế. Và
khá thú vị hơn nữa chính là sự xuất hiện của các sản
phẩm “cạnh tranh cho thị trường” (compete for mar-
ket) thay vì “cạnh tranh trong thị trường” (compete
in market). Đó chính là một hình thái cạnh tranh
mà doanh nghiệp không đơn thuần cung cấp một sản
phẩm thay thế, mà đó phải là một sản phẩm thay thế
mới, và tạo ra một thị trường mới10. Rõ ràng, từ các
sản phảm nhằm để cạnh tranh với Microsoft, Apple
đã phát kiến và tạo ra một dòng sản phẩm mới, một
thị trường mới. Giống như nhận định của Becker, đó
là lựa chọn khôn ngoan của Apple mà bài viết đề cập
ở phần sau. Thậm chí, Apple và các hãng công nghệ
sau này đều rời xa hình thái cạnh tranh tĩnh, là không
xem xét đến chu kỳ sống của sản phẩm và dịch vụ, để
không ngừng mở ra các dòng sản phẩm mới, làm rút
ngắn và ngắn dần các dòng hay thế hệ sản phẩm công
nghệ trước đó.
Nghiên cứu tình huống: Thế trận Microsoft,
Apple và Google và phân tích của Gary
Becker
Cuộc chiến cạnh tranh không mỏi mệt giữa Mi-
crosoft, Apple, Google và các hãng công nghệmới gần
đây là minh chứng sống động cho tiếp cận này. Đó là
lý đo để Gary Becker lựa chọn “ cuộc chiến ” giữaMi-
crosoft và Apple để phân tích11.
Từ khoảng hơn năm năm trước, đặc biệt là khi Steve
Ballmer chính thức nói lời chia tay, Microsoft cùng
hệ điều hànhWindows bắt đầu trượt ngã khỏi ngôi vị
thống trị thị trường máy tính cá nhân. “ Mạng lưới
kinh tế ” (economic network) đã không còn là lợi thế
để Microsoft nắm lấy từ 90% đến 95% số lượng máy
tính cài đặt Windows trên toàn thế giới. Không thể
phủ nhận rằng, kể từ khi máy tính liên kết, không gì
thuận lợi bằng nếu người tiêu dùng mua chiếc máy
tính có cài Windows, vì hầu hết các máy tính khác
cũng sử dụng Windows. Nhưng sự phát triển của In-
ternet ngay sau đó đã thay đổi thế giới. Apple xuất
hiện ngay lập tức đã giúp người tiêu dùng thoát khỏi
sự lệ thuộc vào máy tính, và quan trọng hơn là đã trở
thành nhà cải cách quan trọng trong lĩnh vực công
nghệ thông tin.
Micorosf vì vậy chẳng thể tiếp tục hão huyền về sức
mạnh của mình, họ đã khá muộn màng để bắt đầu
một cuộc cạnh tranhmới. Và đương nhiên, Microsoft
dần dà đánhmất ngôi vị thống trị và ngay cảMicrosoft
Explorer cũng chẳng bảo toàn được vị thế của mình.
Theo Gary Becker, chính sự miễn cưỡng để “chiếm
lĩnh” thị trường phần mềm máy tính đã khiến Mi-
crosoft chậm chạp trong việc tạo lập các sản phẩm
mới cho phép truy cập trực tiếp vào Internet. Và quan
trọng hơn,Microsoft đã đánh giá thấp tầm quan trọng
của điện thoại thông minh và các thiết bị truy cập In-
ternet cho đến khi buộc phải giật mình tỉnh ngộ và
tiếp tục chiến đấu không mệt mỏi để có thể có được
những cải thiện vượt trội như thời gian gần đây.
Nhưng rồi, Google xuất hiện. Chẳng lâu sau, chàng
tân binh đã có thể thế chỗ Apple để trở thành cái tên
dẫn đầu mới trong lĩnh vực công nghệ, và đặc biệt đã
thống lĩnh thị trường tìm kiếm thông tin qua internet.
Và rồi, hệ điều hành Android, chiếc xe không người
lái, kính Google hay hàng loạt các sản phẩm cải tiến
khác gần đây chính là những công cụ sáng tạo tạo nên
sức mạnh của “ông trùm” Google.
Lý thuyết cạnh tranh năng động và phân tích
của Austrian
Cùng với “hủy diệt sáng tạo” của J.A. Schumpeter,
trường phái kinh tế học Áo (Austrian) là những đại
diện tiếp theo tạo nền nền tảng lý thuyết mới với tên
192
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(3):190- 198
gọi là cạnh tranh năng động. Đó là lý thuyết phân
tích thị trường năng động (dynamicmarket), và lý giải
cáchmàmỗi doanh nghiệp trongmột thị trường năng
động như thế đã hành động, phản ứng, tiến và lùi như
thế nào. Các nhà kinh tế học Áo, tiêu biểu là John
Maurice Clark, đã cho rằng cạnh tranh của thị trường
như là một quy trình năng động (dynamic process)
(thay vì trạng thái tĩnh) trong tìm kiếm lợi nhuận sẽ
phá vỡ trạng thái ổn định của thị trường, và vì vậy thị
trường sẽ không giờ đạt trạng thái cân bằng, trừ khi
không có cạnh tranh. Đây là điều minh chứng cho
sự chống lại của các nhà kinh tế học Áo với những
phân tích về sự cân bằng của trường phái kinh tế tân
cổ điển. Thậm chí, với tiếp cận nhấn mạnh một tiến
trình kinh tế liên tục, các nhà kinh tế học Áo còn phủ
nhận các tư tưởng cạnh tranh hoàn toàn12.
Thậm chí, để làm rõ điều này, trường phái kinh tế
học Áo còn đưa ra khái niệm “sự khai phá trong kinh
doanh” (entrepreneurial discovery). Khi cơ hội thị
trường xuất hiện, doanh nghiệp có thể sẽ thành công
trong việc định hướng việc phân chia nguồn lực để
từ đó có những quyết định đáp ứng nhu cầu người
tiêu dùng. Từ đó, tiếp cận về sự năng động sẽ tiếp tục
nhấn mạnh đến hành vi cạnh tranh từ đổi mới sáng
tạo, như là phản ứng năng động trước nhất hay là căn
bản13.
Điều khá thú vị là những phân tíchmớimẻ cũng được
phản ánh trong tư tưởng và lý thuyết kinh tế củaMarx,
và điều đó theo Willi Semmler cho thấy tính năng
động trong cạnh trang của trường phái mac-xit. Cụ
thể, chính Marx cũng đã từng khẳng định rằng, “các
công ty độc quyền cần được xem như những trường
hợp ngoại lệ vì đó chỉ là ‘độc quyền tạm thời’ (tem-
porary monopolies) khi cầu vượt xa cung trong ‘một
khoảng thời gian nhất định’ hoặc do sự độc quyền tự
nhiên dựa trên việc sở hữu đất đai hoặc tài nguyên
thiên nhiên”. Theo Marx, trong” sản xuất, tái cơ cấu
công ty và thay đổi về mặt kỹ thuật (technical change)
chính là “vũ khí” (weapon) chính yếu của quá trình
cạnh tranh14. Rõ ràng, đây là các tiếp cận quan trọng
đặt nền móng cho sự phát triển của J.A. Schumpeter
và nhiều nhà kinh tế học Áo khác sau này.
Nhìn vào thực tế nêu trên giữa các đại gia công nghệ,
Becker cũng xem quá trình tiệm tiến đó là một phần
của cạnh tranh năng động. Ở đó, chính lợi nhuận lớn
của các công ty có sứcmạnh đã thúc đẩy việc tham gia
của các đối thủ cạnh tranhmới. Chừng nào lợi nhuận
của những công ty đang nắm giữ sự độc quyền còn
hấp dẫn thì chừng đó còn có sự tham gia của các công
ty mới. Cạnh tranh trở thành một tiến trình “đóng-
mở” (open-ended process) sáng tạo, kiểm nghiệm và
phản hồi nhằm tiệm cậnmục đích cuối cùng là tìm ra
dịch vụ, chi phí hay mức giá hợp lý nhất11.
Quan trọng là, những đối thủ mới sẽ không có khả
năng cạnh tranh hiệu quả bằng cách cung cấp các sản
phẩm và dịch vụ giống sản phẩm và dịch vụ của các
công ty lớn, vì họ không có sẵn mạng lưới lẫn lợi thế
kinh tế về quy mô. Cho nên, lựa chọn khôn ngoan là
sáng tạo ra các sản phẩm tương tự khác để có thể dành
lấy đi một phần thị trường cũng như doanh thu của
các công ty thống lĩnh. Bằng chứng, không giống như
Microsoft, Apple đã không quan tâm cũng như không
có hào hứng để ôm trọn thị trường của Microsoft mà
đã tung ra Mac rồi Iphone, Ipod, Ipad và đặc biệt là
hệ điều hành IOS để len lỏi và dần dần thay thế sự lựa
chọn của người tiêu dùng về phía mình.
Rõ ràng, những công ty còn sống sót và phát triển sau
đó chính là những công ty tiên phong trong việc tìm ra
nhu cầu thật sự của người tiêu dùng cùng cách thức tốt
nhất để làm ra sản phẩm đó. Thậm chí, các hãng cũng
cần phải đủ tỉnh táo để từ bỏ hay thêm thắt các dịch
vụ, nâng cấp sản phẩm theo công nghệ mới hay thậm
chí phải thay đổi giá cả khi điều kiện thị trường thay
đổi. Thay đổi chiến lược kinh doanhmau chóng cũng
được nhắc đến như một mưu lược sáng tạo mang lại
nhiều ý nghĩa cho môi trường hủy diệt để sinh tồn.
Mấu chốt của cạnh tranh năng động vì vậy chính là
sự khác biệt, ý tưởng mới lạ và khả năng sáng tạo khi
đã đủ trải nghiệm. Theo nghiên cứu của Fabrizio và
Terziovski (dẫn theoNguyễn PhúcNguyên (2016) 15),
điều đó phụ thuộc rất lớn vào khả năng phát triển kiến
thức, sáng tạo quá trình và khai thác khối kiến thức
đó một cách hiệu quả. Hay nói cách khác, giống như
Schumpeter đã tổng kết, cạnh tranh từ sản phẩmmới,
công nghệ mới, nguồn cung ứng mới và mô hình tổ
chức mới có ý nghĩa rất quan trọng.
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VỀ ĐỊNH
HÌNH CHÍNH SÁCH KIỂM SOÁT ĐỘC
QUYỀN TRÊN CƠ SỞ LÝ THUYẾT
CẠNH TRANHNĂNGĐỘNG
Nghiên cứu tình huống: Thị trường Việt Nam
với cuộc giằng co giữa taxi truyền thống và
công nghệ
Cuộc giằng co giữa các hãng sản xuất, dịch vụ và
thương hiệu lớn trên thị trường Việt Nam có vẻ cũng
không khác biệt gì so với cuộc chiến khốc liệt giữa
các công ty và tập đoàn quốc tế. Tranh cãi ồn ào giữa
Vinasun và Grab hay taxi công nghệ gần đây là minh
chứng điển hình. Không khó để nhận ra những lợi
thế của Grab (và cả Uber trước đó) về vốn, chiến lược
marketing, quản trị lẫn mức độ công nghệ hóa sản
phẩm.
Nhưng không thể không kể đến nhân tố quan trọng
trong chiếm lĩnh thị trường thành công của taxi công
193
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(3):190- 198
nghệ là độ nhạy và khả năng dự liệu trước nhu cầu
của người tiêu dùng có cuộc sống thường ngày gắn
chặt với smartphone và các sản phẩm công nghệ khác.
Quan trọng hơn, mô hình kinh doanh nền tảng lưỡng
diện (two side platform) thâm dụng công nghệ đã
mang lại quá nhiều lợi thế cho taxi công nghệ. Đến
mức, Grab chằng có vẻ gì suy yếu dù có quá nhiều tay
chơi taxi công nghệ “nội địa” mới xung trận sau đó
nhờ Grab có được lợi thế ngoại tác mạng lưới từ mô
hình được gầy dựng từ trước.
Chắc hẳn, nhiều nhà kinh doanh mưu lược của Việt
Nam không quá xa lạ với định hướng của chủ thuyết
cạnh tranh năng động. Nhưng có vẻ, không phải bất
kỳ tay chơi nào cũng nắm bắt, hay ít ra khai thác được
nó, thậm chí là còn chút ít ù lì và khinh địch như Mi-
crosoft đã từng. Hệ quả là những cuộc đối đầu về mặt
pháp lý tiếp tục bị trượt dài mà khó có thể tìm được
đường ra.
Phân tích liên quan của Gary Becker về duy
trì độc quyền “tạm thời”
Tương tự Apple hay Google, Microsoft từ thời hoàng
kim cũng đã đối diện với rất nhiều vụ kiện, cả về cạnh
tranh lành mạnh lẫn độc quyền. Các tranh cãi tốn
kém và bầm dập trong lựa chọn chính sách cũng kéo
dài dai dẳng.
Becker cho rằng, phán quyết của các cơ quan tư pháp
cho các cáo buộc nêu trên không những không thay
đổi được tình hình, đặc biệt là đối với vị thế thị trường
của bị đơn, mà thậm chí còn có tác dụng ngược khi
chính các phán quyết này có thể là nguyên nhân đẩy
hãng này rời xa mục tiêu đổi mới sáng tạo ban đầu.
Quả thật, thị trường và nền kinh tế thiếu vắng sự sáng
tạo và động lực sáng tạo là một viễn cảnh không hề
sáng sủa và được trông đợi. Chính sách cạnh tranh vì
vậy cần được định vị trong bối cảnh cạnh tranh năng
động, thay vì tiếp tục được thiết kế trong không gian
hạn hữu của cạnh tranh tĩnh.
Đế chế taxi truyền thống cần phải từ bỏ sự thống trị
hay tiếp tục liên minh tạo sức ép thị trường như đã
từng hoặc là taxi công nghệ cần phát huy vai trò hay
quay về với một sản phẩm taxi cũ từng có trên thị
trường là những lựa chọn nghiệt ngã và đều phải
trả giá. Các bài toán về hiệu quả và phúc lợi vì vậy
luôn luôn được chú ý. Rõ ràng, nếu từ taxi truyền
thống tiếp tục được bảo vệ và cố thủ, sự kỳ vọng về
một thị trường năng động và hiệu quả về mặt thúc
đẩy cạnh tranh sáng tạo sẽ không còn. Cụ thể nhất, cơ
hội tiếp cận sản phẩm taxi công nghệ của người tiêu
dùng không còn, mà cánh cửa sử dụng tài sản nhàn
rỗi trong nền kinh tế chia sẻ cũng đóng lại. Nhưng
nếu bước tiếp với taxi công nghệ, hiệu quả sẽ không
luôn dương nếu cân bằng với hàng loạt vấn đề phát
sinh, như giao thông công cộng, môi trường đô thị
hay chính sách an sinh đối với người lao động.
Liệu chính quyền có thể để thị trường tự rượt đuổi
và thanh lọc theo những hấp lực về doanh thu và lợi
nhuận độc quyền là một câu hỏi chính sách quá khó.
Becker lẽ dĩ nhiên cho rằng, không cần thiết phải tốn
quá nhiều thời gian và chi phí để chống lại các công
ty độc quyền với giả thuyết về khả năng các công ty
đối thủ mới sẽ xuất hiện để “bào mòn” lợi nhuận độc
quyền của các công ty lớn. Becker thậm chí còn tuyên
bố, có thể để các công ty lớn “ tạm thời” chi phối quyền
lực kinh tế như Marx đã từng tuyên bố.
Đương nhiên, sự lý giải của Becker đã mở rộng ra với
xu thế phát triển chung của thị trường ở thời điểm
mới. Đặc biệt, tiếp cận của ông cũng tương đồng với
các ý kiến xem cạnh tranh là một tiến trình và đặc
biệt là cần phải nhìn vào kết cục tự có của tiến trình
cạnh tranh đó chứ không phải dựa theo các kết quả
kinh tế được mong muốn16. Điều này cũng có nghĩa,
để có thể đạt được các mục tiêu trong kiểm soát cạnh
tranh, cần thiết phải thu hẹp phạm vi kiểm soát của
nhà nước và mở rộng tối đa khu vực tự cân chỉnh của
thị trường. Đến đây, mục tiêu của chính sách cạnh
tranh được lập luận là cần phải được hoạch định rộng
lớn so với sự hạn hẹp trong việc giới hạn sứcmạnh thị
trường của các doanh nghiệp lớn 17.
Thực ra, đó là tiếp cận chung của trường phái kinh
tế Chicago trong xu hướng cổ vũ một mô hình cạnh
tranh thoát khỏi trạng thái tĩnh để có thể năng động
hơn18. Không nằmngoài xu hướng đó, nhưng Becker
cũng có phần khá thận trọng khi kêu gọi chính sách
cạnh tranh “thả lỏng” bằng cách đưa ra lý giải về sự
“tạm thời” của trạng thái độc quyền. Đây chính là
điểm “mờ” trong tiếp cận của Becker, bởi những nghi
vấn vềmức độ chắc chắc của thị trường cũngnhưmức
độ chắc chắn của chính sách.
Cụ thể, “ tạm thời ” sẽ là bao lâu, và liệu có phải tình
trạng độc quyền đó không làm hao tổn lợi ích của
người tiêu dùng khi khả năng xuất hiện các công ty
đối thủmới chỉ tồn tại ở dạng giả thuyết hay chỉ là các
bằng chứng kinh nghiệm vừa thấy. Chính nỗi lo lắng
này đã lý giải về sự tồn tại tiếp tục của chính sách kiểm
soát độc quyền cùng với sự gia tăng theo thời gian số
lượng các phán quyết.
Các khuyến nghị để định vị lại chính sách
kiểm soát độc quyền
Theo Alan Hughes, cạnh tranh cần được phân tích
trên cơ sở sự tiếp cận tiến trình năng động gắn kết
với những thay đổi về mặt cấu trúc dựa từ các hành
vi của thị trường chủ phải dựa trên trạng thái của vấn
194
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(3):190- 198
đề. Những ước muốn thị trường hoàn thiện với hiệu
quả Pareto khá mông lung. Quy tắc giá cả phù hợp
thực ra chỉ đúng với từng trường hợp cụ thể và thậm
chí trong một chừng mực nào đó còn bị làm chệch đi
so với chi phí biên. Lý thuyết về cái tốt thứ nhì (the
second best)b [Xem thêm:19 ] vì vậy cần được xem xét
trong định hình chính sách cạnh tranh 20.
Từ đặc trưng và thực tiễn của cạng năng động nêu
trên, lý thuyết cạnh tranh năng động là một lựa chọn
hữu ích trong hoạch định chính sách cạnh tranh, đặc
biệt là khung pháp lý về kiểm soát độc quyền. Trên cơ
sở tiếp cận này, qua kinh nghiệm và đề xuất được đề
cập trong các nghiên cứu quốc tế5,21,22, bài viết xin
giới thiệu một vài gợi ý về hoàn thiện pháp luật và
chính sách kiểm soát độc quyền ở nước ta như sau:
Thứ nhất, kiểm soát độc quyền không nên quá nhấn
mạnh về mức độ tập trung của thị trường. Hay nói
cách khác, cần nhấn mạnh có chừng mực kích cỡ của
thị trường cũng như quymô của doanh nghiệp. Thậm
chí, pháp luật cạnh tranh cũng cần phân tích thận
trong trong các trường hợp kiểm soát sức mạnh thị
trường. Với đặc trưng của thị trường cạnh tranh năng
động,một haymột vài doanhnghiệp thành công, nắm
giữ một phần quyền kiểm soát là trường hợp không
quá bất thường. Đặc biệt, việc kiểm soát mức độ tập
trung sức mạnh thị trường cần được hạn chế trong
trường hợp doanh nghiệp có nâng sức cạnh tranh và
thống lĩnh bởi chính những kết quả có được từ đầu tư
nghiên cứu, sáng tạo và các công cụ, giải pháp hay sản
phẩm công nghệ. Phân tích của J. Gregory Sidak and
David J. Teece là nghiên cứu điển hình chứng minh
sự nghèo nàn của tiêu chí thị phần trong đảm bảo
tính hợp lý của chính sách và pháp luật kiểm soát độc
quyền21.
Thứhai, kiểm soát cạnh tranhmà cụ thể là chính sách
kiểm soát độc quyền không nên lệ thuộc và can thiệp
vào mức doanh thu của doanh nghiệp. Với khả năng
sáng tạo không ngừng, doanh nghiệp có khả năng cải
thiện mức tăng doanh thu và doanh thu, thậm chí
luôn mong muốn và có thể tiệm cận đến mức doanh
thu hoàn mỹ (perfect) hay mức lợi nhuận siêu hạng
(supranormal). Hay nói cách khác, đó là khoản doanh
thu không thể có được nếu không có sự sáng tạo và “
tiến trình năng động ” trong cạnh tranh. Nhà làm luật
và chính sách đến hướng đến điều đó để khuyến khích
doanh nghiệp mang lại nhiều hơn giá trị tăng thêm,
của cải và nguồn phân phối lợi ích (nộp thuế doanh
thu nhiều hơn là một ví dụ). Việc hạn chế mức doanh
thu và khống chế quá trình tăng cao thu nhập có thể sẽ
làm thui chột động lực sáng tạo, đồng nghĩa với việc
b Khuyến nghị phương án lựa chọn là phương án tốt hơn các
phương án còn lại khi không có phương án nào là tốt nhất.
mất tính cạnh tranh năng động của doanh nghiệp, thị
trường và nền kinh tế.
Thứ ba, phân tích tác động cạnh tranh cần dựa vào
một tiến trình của doanh nghiệp và của thị trường,
và nếu cần can thiệp của nhà nước (thông qua chính
sách và pháp luật) thì đó phải là sự can thiệp vào “ tiến
trình ” (process) vận động của thị trường chứ không
đơn thuần là biểu hiện hay hành vi cạnh tranh đơn
lẻ. Nói một cách tổng quát, cách tiếp cận dựa vào đặc
trưng của cạnh tranh tĩnh cần được hạn chế và loại
bỏ khi xây dựng chính sách. Mở rộng ra, pháp luật về
kiểm soát hoạt động quảng cáo, hình thành và phát
triển thương hiệu cần được hoàn thiện theo hướng
tạo tiền đề kích ứng để doanh nghiệp có cơ hội biến
khả năng thành lợi thế.
Thứ tư, kiểm soát về rào cản gia nhập thị trường cần
cẩn trọng, và đặc biệt là phải được phân tích trong
dài hạn. Bởi lẽ, những giới hạn nhất định của thị
trường không phải bao giờ cũng đối nghịch và làm
tổn hại đến phúc lợi tiêu dùng22. Hay nói cách khác,
việc kiểm soát mức độ gia nhập thị trường của doanh
nghiệp có thể chỉ ra điểm rơi “ độc quyền ” của thị
trường độc quyền mang tính cạnh tranh và về mặt
đặc tính của thị trường hấp lực đó sẽ chịu sức ép cạnh
tranh và có thể bị bào mòn, thay thế. Và như đã nói,
điều quan trọng là chính sách kinh tế của chính phủ
cần có các biện pháp và giảm pháp để kéo ngắn chu
kỳ “ tạm thời ” bằng những khuyến khích và ưu đãi
tham gia thị trường của các chủ thể mới.
Đặc biệt, nhà hoạch định chính sách cần thận trọng
với những yêu cầu đòi hỏi các nền tảng cởi mở hơn
để tháo bỏ mức độ độc quyền, ví dụ yêu cầu bẻ khóa
(lock-out) của những sản phẩm, ứng dụng đã bị khóa
(lock-in), vì nó có thể dẫn đến quá trình độc quyền
hóa cho chính công ty đó do các tay chơi mới không
còn hứng thú để sáng tạo và gia nhập thị trường. Theo
đó, sự kiểm soát, phân biệt đối xử và thậm chí nỗ lực
cài “ khóa ” sản phẩm, dịch vụ cần phải được đánh
giá kỹ lưỡng theo tinh thần cân bằng hợp lý (rule of
reason) để tránh sai lầm hay thủ tiêu động lực cạnh
tranh.
Thứ năm, tư duy giá, lợi nhuận, tiền thuê hay lương
được quyết định qua cạnh tranh và tiến hành kiểm
soát cạnh tranh qua các yếu tố theo nguyên lý về mối
quan hệ giữa sản xuất và phân phối mà thiếu nhìn
nhận về các cơ chế phối hợp về mặt kinh tế và xã hội
một cách trực tiếp và rõ ràng là cách tiếp cận cũ 23. Rõ
ràng, việc xem xét yếu tố giá một cách tách bạch cần
được thay thế bởi cách đánh giá mức độ tác động của
chất lượng và tính năng của sản phẩm hay hiệu quả
thị trường. Phê bình khung giá của Grab, taxi công
nghệ hay các sản phẩm từ dịch vụ nền tảng khác mà
195
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(3):190- 198
quên đi đặc trưng cơ chế giá không trung lập (non-
neutral price strategy) của mô hình kinh doanh sẽ
không mang lại ý nghĩa, thậm chí phiến diện bởi “sản
phẩm mới, quy trình mới và mô hình kinh doanh
mới” chính là đặc trưng và thế mạnh của cạnh tranh
năng động21. Đặc biệt, khi hiệu quả Pareto là thứ
khó có thể tìm kiếm thì hiệu quả Kaldor-Hick có thể
đương xem làmột giải pháp thay thế hữu hiệu để phân
tích và tìm ra điểm hợp lý trong bảo toàn lợi ích của
người tiêu dùng. Khi đó, sự mất cân xứng về lợi ích
nhất thời có thể chấp nhận nếu như tổng phúc lợi là
dương so với trước, vì vềmặt nguyên lý nó có thể được
tái phân phối trở lại cho bên bị tổn thất.
Cuối cùng, quá trình pháp điển hóa pháp luật cạnh
tranh nói chung, kiểm soát độc quyền nói riêng, cần
rà soát lại cách tiếp cận và quy định về xác định
thị trường, đối thủ cạnh tranh tiềm năng cũng như
những khả năng tiếp cận vị trí của đối thủ cạnh tranh
trên thị trường. Mặt khác, các yếu tố có liên quan
trên thị trường cần được huy động cho quá trình phân
tích và đánh giá tác động của một vụ việc cạnh tranh,
như quỹ đầu tư mạo hiểm, hỗ trợ của nhà nước, nhu
cầu thị trường và cả hệ sinh thái khởi nghiệp sáng
tạo. Đơn cử, nếu sau một vụ sáp nhập mà doanh
nghiệp sáp nhập là doanh nghiệp duy nhất thì quy
trình rà soát và kiểm soát cần giữ bình tĩnh để tiếp tục
đánh giá liệu rằng thị trường có đang nỗ lực để phát
triển sản phẩm mới, quy trình mới hay không. Và
đương nhiên, điều này còn cần phải thận trọng hơn
đối với các mô hình kinh doanh mới, như mô hình
kinh doanh lưỡng diện (two side business) kiểu Grab
và Uber, vì các nhóm khách hàng, nhu cầu và độ co
giãn của cầu có sự khác biệt giữa các bên (side). Khả
năng gây hại của vụ việc có thể chỉ xảy ra nếu các giả
thuyết đều mang về kết quả không mà thôi.
THẢO LUẬN, PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢĐẠT
ĐƯỢC
Việt Nam làmột trong những quốc gia đi sau vềmuộn
trong việc xây dựng và hoàn thiện chính sách và pháp
luật cạnh tranh. Phiên bản Luật cạnh tranh đầu tiên,
là văn kiện trụ cột cho tiếp cận cận về chính sách ở
nước ta, được Quốc hội thông qua vào năm 2004. Có
thể nói, Việt Nam không thể tránh khỏi những tiếp
cận sơ khai, thậm chí còn lệ thuộc không ít vào hình
thái cạnh tranh tĩnh, điển hình nhất là đặt nặng yếu
tố giá và đồng thời sử dụng thông số thị phần và trao
quyền quyết định cho thị phần rất lớn trong hầu hết
các vụ việc chống hạn chế cạnh tranh, và đương nhiên
đó là điều cần tránh.
Luật Cạnh tranh sửa đổi đã được Quốc hội thông qua
năm 2018 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2019) có thể được
xem là minh chứng cho hướng tiếp cận mới, và vì vậy
đã có nhiều sửa đổi và hoàn thiện trong kiểm soát độc
quyền và cạnh tranh ởViệt nam. Tiêu biểu nhất là tiếp
cận của Luật cạnh tranh sửa đổi đã tháo bỏ sự lệ thuộc
vào yếu tố thị phần và đặc biệt là cơ quan cạnh tranh
trong thời gian tới phải sử dụng cơ chế đánh giá tác
động dựa vào nhiều yếu tố có liên quan để khẳng định
về sự tồn tại của khảnăng gây hạn chế cạnh tranh cũng
như mức độ của đó trong các vụ việc được rà soát.
Nhưng điều đó không có nghĩa, tất cả các khuyến nghị
và cơ chế tiếp cận động theo hình thái cạnh tranh
năng động đã được phản ánh đầy đủ trong sắc luật
ở thời điểm hiện tại. Một vài quy định có thể mang
lại hiệu quả cho quá trình điều chỉnh pháp luật. Đặc
biệt hơn, quá trình xây dựng các quy định hướng dẫn
chi tiết hiện nay cần phải mô tả và “ kỹ thuật hóa ” rất
nhiều các tiêu chí đánh giá và kiểm soát. Một lần nữa,
tư duy và phân tích về cạnh tranh năng động cần phải
được xem xét trong trong quá trình thực thi, đặc biệt
là trong hoạt động đánh giá tác động cạnh tranh của
vụ việc cạnh tranh được nhấn mạnh trong Luật Cạnh
tranh 2018.
Hướng đến mục tiêu đó, bài viết bắt đầu từ cơ sở
lý thuyết về cạnh tranh huỷ diệt sáng tạo (Phần:
Khái quát về lý thuyết cạnh tranh năng động). Bằng
phương pháp nghiên cứu tổng hợp, nội dung bài viết
đã tóm lược các quan điểm và tiếp cận chính của
Schumpeterian cũng như những mở rộng của Paul
Krugman lẫn phân tích thực tế của Gray Becker và
các nhà kinh tế học Austrian sau này. Đặc biệt, từ
tình huống cụ thể về cuộc chiến của Mircrosoft, Ap-
ple và Google, nội dung bài viêt đã tiếp tục trao đổi,
biện luận trên cở những phân tích của Becker. Kết
quả quan trọng của phần nội dung này cho thấy giá
trị của phát kiến về sáng tạo huỷ diệt cũng như những
phát triển và ý nghĩa của lý thuyết cạnh tranh năng
động.
Phần tiếp theo của bài viết (Phần: Một số khuyến nghị
về định hình chính sách kiểm soát độc quyền trên cơ
sở lý thuyết cạnh tranh năng động) được tiến hành
trên cơ sở phương pháp tổng hợp, phân tích và nghiên
cứu tình huống. Trên cở hai tình huống về thực trạng
cạnh tranh trên thị trường taxi ở Việt Nam, nội dung
phân tích gắn kết với tình huống phân tíchmàGrey đã
đề cậpmà bài viết đã giới thiệu ở phần nội dung trước.
Kết quả phân tích và biện luận đã cho thấy những
điểm “mờ” trong tiếp cận của Gray Becker cũng như
nhiều nhà kinh tế học khác về cạnh tranh năng động.
Liên hệ với nội dung khẳng định giá trị của cạnh tranh
năng động ở phần trước, những điểm hạn chế được
chỉ ra ở phần nội dung này phản ánh góc nhìn hoàn
chỉnh cũng như phương thức tiếp cận hợp lý đối với
lý thuyết cạnh tranhmới này. Đó chính là cơ sở để bài
196
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(3):190- 198
viết đưa ra sáu nội dung kiến nghị quan trọng, cũng
là kết quả nghiên cứu quan trọng của bài viết, ở cuối
phần này.
KẾT LUẬN
Những khuyến nghị bước đầu của bài viết sẽ gợi mở
nhiều điểm mới cho quá trình pháp điển hóa chính
sách kiểm soát độc quyền cũng như pháp luật cạnh
tranh nói chung trong thời gian tới. Đặc biệt, các
khuyến nghị này cần tiếp tục được nghiên cứu ở mức
độ rộng hơn, và sâu hơn trong thời gian tới khi có
đủ nguồn lực, và đặc biệt có thể công bố trong một
bài viết khác trong sự hạn hữu không gian của tạp
chí. Nghiên cứu tương lai khi đó cần triển khai theo
hướng: Một, mở rộng nghiên cứu tổng hợp lich sử về
tiếp cận và đặc trưng của cạnh tranh tĩnh. Hai, phân
tích và dẫn chứng chi tiết các quy định cụ thể của Việt
Nam cần được điều chỉnh. Và thứ ba, trên cơ sở đó,
đưa ra những kiến nghị và giải pháp cụ thể cho từng
điểm hạn chế.
TUYÊN BỐ VỀ XUNGĐỘT LỢI ÍCH
Nhóm tác giả xin cam đoan rằng không có bất kì xung
đột lợi ích nào trong công bố bài báo.
TUYÊN BỐĐÓNGGÓP CỦA CÁC TÁC
GIẢ
Tác giả chịu trách nhiệm đối với nội dung toàn bài
báo.
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. Heertje A. Creative Destruction (Schumpeterian Conception).
In: The New Palgrave Dictionary of Economics London: Pal-
grave Macmillan UK. 2017;p. 1–2.
2. Schumpeter JA. Capitalism, Socialism, and Democracy: Third
Edition (1950). New York: Harper Perennial Modern Classics.
2008;466.
3. Caballero RJ. Creative Destruction. In: The New Palgrave Dic-
tionary of Economics (Editted by Durlauf, Steven N; Blume,
Lawrence E). London: Palgrave Macmillan UK. 2017;p. 1–5.
4. Caballero RJ, Hammour ML. Creative Destruction and Devel-
opment: Institutions, Crises, and Restructuring. National Bu-
reau of Economic Research. 2000;Report No.: 784.
5. Ellig J. Dynamic Competition, Online Platforms, and Regula-
tory Policy. In the House of Lords Select Committee on the Eu-
ropean Union,. EU Internal Market Sub-Committee: Georger
Mason University. 2015;.
6. Helpman E, Krugman PR. Market Structure and Foreign Trade:
Increasing Returns, Imperfect Competition, and the Interna-
tional Economy. MIT Press. 1985;294.
7. Porter ME. Competitive advantage: Creating and sustaining
superior performance. New York : London: Free Press. Collier
Macmillan. 1985;p. 557.
8. Birkeland TH. Trade theory and intraindustry trade: Data from
European trade 1970 – 2010 [Master Thesis]. University of
Oslo. 2012;.
9. Lancaster KJ. Non-price Competition. In: The New Palgrave
Dictionary of Economics. London. Palgrave Macmillan UK.
2016;p. 1–4.
10. Vuong Hung Cuong. Hướng tới chiến lược cạnh tranh động.
VnEconomy [Internet]. 2010;[cited 2019 Feb 15]. Available
from:
11. Becker. Dynamic Competition and Anti Trust Policy [Inter-
net]. The Becker-Posner Blog. 2013;[cited 2019 Feb 15].
Available from: https://www.becker-posner-blog.com/2013/
09/dynamic-competition-and-anti-trust-policy-becker.html.
12. McNulty PJ. Competition, Austrian. In: The New Palgrave
Dictionary of Economics. London. Palgrave Macmillan UK.
2017;p. 1–3.
13. Zhang J, Gao D. Review on the Research of Dynamic Compe-
tition Theory. J Hum Resour Sustain Stud. 2014;02:246.
14. Semmler W. Competition: Marxian Conceptions. In: The New
Palgrave Dictionary of Economics. London. Palgrave Macmil-
lan UK. 2016;p. 1–5.
15. Nguyen NP. Nâng cao năng lực cạnh tranh động của các
doanh nghiệp: Nghiên cứu trong lĩnh vực du lịch. Tạp Chí
Kinh Tế Phát Triển ĐH Kinh Tế TPHCM. 2016;225:99–107.
16. William JB, Ronald R, C. Solving Competition Problems in
Merger Control: The Requirements for an Effective Divesti-
ture Remedy. In: Merger Remedies in American and European
Union Competition Law. Edward Elgar Publishing Limited.
2003;.
17. Kaysen C, Turner DF. Antitrust Policy: An Economic and Legal
Analysis (Be Written in 1959). 1st ed. New York: Oxford Uni-
versity Press; 1991.
18. Sullivan ET, editor. The Political Economy of the Sherman Act:
The First One Hundred Years. 1st ed. New York: Oxford Uni-
versity Press; 1991. 1st ed.
19. Lipsey RG. The General Theory of Second Best. Lancaster K,
et al., editors. Oxford University Press; 1956.
20. Hughes A. Competition Policy. London, UK: Palgrave Macmil-
lan; 2016.
21. Sidak JG, Teece DJ. Dynamic competitiion in Antitrust law. J
Compet Law Econ Oxf Acad. 2009;5(4):581–631.
22. Ellig J, Lin D. A Taxonomy of Dynamic Competition Theories.
J E, editor. Cambridge: Cambridge University Press; 2001.
23. Eatwell J. Competition, Classical. London, UK: Palgrave
Macmillan; 2008.
197
Science & Technology Development Journal – Economics - Law andManagement, 3(3):190- 198
Open Access Full Text Article Research Article
University of Economics and Law,
VNUHCM, Viet Nam
Correspondence
Truong Trong Hieu, University of
Economics and Law, VNUHCM, Viet
Nam
Email: hieutt@uel.edu.vn
History
Received: 28/1/2019
Accepted: 10/3/2019
Published: 26/9/2019
DOI : 10.32508/stdjelm.v3i3.559
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Suggestions for a repositioning of antimonopoly regulation under
perspectives of dynamic competition regime
Truong Trong Hieu*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
ABSTRACT
The progress of international trade can provide an illustration for the contribution of comparative
advantage theory. However, it has had challenges in front of existence and development of intra-
trade. Accordingly, comparative advantage as well as dynamic competition theories has become
the basic for not only business performance, trade activies and economy but also policy making
process. This writing bases on the review of notions and primary regimes of creative destruction,
dynamic competition as well as empirical analysis of selected cases for the differences of dynamic
competition perspective from the classical attitudes in past. The analysis especially focusses on
what the Austrian changed and developed in comparison with the underlying theory of creative
destruction. Under case anlysis as well as relevant discussion, the paper points out the dynamic
competition advocators' productive and ambiguous arguments, particularly the economist Gray
Becker's proposal (Nobel Prize in Economics in 1992). Altogher, the research provides some policy
implications and initial suggestion for antitrust regulation in Vietnam aftermaking commendations
on congesting suggestions for relaxation of antimonopoly regulation.
Key words: Antitrust, competition, creative destruction, dynamic competition
Cite this article : Hieu T T. Suggestions for a repositioning of antimonopoly regulation under per-
spectives of dynamic competition regime . Sci. Tech. Dev. J. - Eco. LawManag.; 3(3):190-198.
198
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ly_thuyet_canh_tranh_nang_dong_va_cac_khuyen_nghi_de_dinh_hi.pdf