Marketting xuất nhập khẩu

CHƯƠNG I: MARKETING & MARKETING QUỐC TẾ I. BẢN CHẤT CỦA MARKETING QUỐC TẾ 1. Marketing là gì 2. Marketing quốc tế II. TAI SAO PHẢI THAM GIA VÀO THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ III. QUÁ TRÌNH TIẾN HÀNH MARKETING XUẤT KHẨU IV. 9 ĐIỂM CẦN GHI NHỚ ĐỐI VỚI NHÀ MARKETING XUẤT NHẬP KHẨU CHƯƠNG II: NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI (Researching The World Market) I. NHIỆM VỤ CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI 1. Các thông tin đại cương 2. Môi trường kinh tế - Tài chính - Cơ sở hạ tầng 3. Môi trường pháp luật, chính trị 4. Môi trường cạnh tranh 5. Môi trường văn hóa - xã hội II. TỔNG QUAN MỘT SỐ THỊ TRƯỜNG CHÍNH TRÊN THẾ GIỚI III. HIỆP HỘI CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á - ASEAN A. Quá trình hình thành và phát triển của ASEAN B. Các nguyên tắc hợp tác ASEAN 1. Các nguyên tắc cơ bản 2. Các nguyên tắc hoạt động của ASEAN C. Cơ hội, thách thức, triển vọng hợp tác Việt Nam - ASEAN D. Việt Nam tham gia khu vuc mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) 1. Nội dung của CEPT/AFTA 2. Lộ trình thực hiện AFTA của Việt Nam 3. Khó khăn và thuận lợi của Việt Nam khi thực hiện CEPT/AFTA IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI 0. Thu thập thông tin 1. Xử lý thông tin V. CHUYẾN ĐI RA NƯỚC NGOÀI NHẰM MỤC ĐÍCH KINH DOANH CHƯƠNG III: CHIẾN LƯỢC THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI (Entry strategies to World Market) I. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LỰA CHỌN CHIẾN LƯỢC THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI II. NHỮNG CHIẾN LƯỢC THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI 1. Chiến lược thâm nhập thị trường thế giới từ sản xuất trong nước 2. Các hình thức thực hiện chiến lược thâm nhập thì trường thế giới từ sản xuất ở nước ngoài 3. Phương thức thực hiện chiến lược thâm nhập thị trường thế giới tại khu thương mại tự do CHƯƠNG IV: CHÍNH SÁCH SẢN PHẨM QUỐC TẾ (International Product Policy) I. CHÍNH SÁCH SẢN PHẨM 1. Định nghĩa sản phẩm 2. Dãy sản phẩm, tuyến, đường sản phẩm 3. Hệ sản phẩm 4. Thành phần và yếu tố của sản phẩm II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN MỘT SẢN PHẨM 1. Sản phẩm mới 2. Quá trình phát triển sản phẩm mới 3. Quản lý chất lượng 4. Nghiên cứu và phát triển III. QUYẾT ĐỊNH HỆ SẢN PHẨM 1. Danh sách đầu tư sản phẩm 2. Từng giai đoạn của sản phẩm trong chu kỳ sống 3. Tiêu chuẩn hóa sản phẩm hay sản phẩm được sản xuất thích nghi với yêu cầu của thị trường IV. BAO BÌ V. NHÃN HIỆU 1. Bao vệ nhãn hiệu 2. Quyết định dán nhãn CHƯƠNG V: ÐỊNH GIÁ SẢN PHẨM QUỐC TẾ (Pricing the International Product(s)) I. ĐỊNH NGHĨA VỀ GIÁ II. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ XUẤT KHẨU 1. Chi phí 2. Điều kiện thị trường 3. Sự cạnh tranh 4. Sự ảnh hưởng bởi chính trị và luật pháp 5. Chính sách của công ty và marketing hổn hợp III. CHIẾN LƯỢC ĐỊNH GIÁ XUẤT KHẨU CƠ BẢN 1. Định giá hớt kem 2. Định giá thâm nhập 3. Định giá theo giá hiện hành 4. Định giá hủy diệt 5. Định giá dựa vào chi phí biên tế IV. MỐI QUAN HỆ CỦA CÁC CHÍNH SÁCH GIÁ XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI GIÁ NỘI ĐỊA 1. Giá xuất khẩu thấp hơn giá nội địa 2. Giá xuất khẩu cao hơn giá nội địa 3. Giá xuất khẩu bằng giá nội địa 4. Định giá có sự chênh lệch V. CHÀO GIÁ 1. So sánh các điều khoản 2. Lựa chọn các điều kiện thương mại 3. Chào giá CIF VI. ĐỊNH GIÁ CHUYỂN NỘI BỘ 1. Phân quyền và các trung tâm lợi nhuận 2. Định giá chuyển nội bộ đối với các vệ tinh ở nước ngoài mà công ty sở hữu hoàn toàn 3. Việc định giá chuyển nội bộ đối với các xí nghiệp mà công ty có một phần sở hữu CHƯƠNG VII: PHƯƠNG PHÁP XUẤT KHẨU & HỆ THỐNG PHÂN PHỐI HÀNG HÓA (Export Method and Distribution System) I. XUẤT KHẨU GIÁN TIẾP II. XUẤT KHẨU TRỰC TIẾP 1. Cải tổ cơ cấu tổ chức để có thể phục vụ xuất khẩu 2. Hệ thống phân phối III. PHÂN PHỐI SẢN PHẨM XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM

doc72 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1608 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Marketting xuất nhập khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng có một chính sách tối ưu hoặc các phương pháp sẵn có để áp dụng cho mọi tình huống hoặc ở một số thị trường nước ngoài nào đó. Chính sách định giá là một vấn đề  làm thế nào càng có nhiều thông tin càng tốt về giá trị sản phẩm đối với nhiều tầng lớp người tiêu dùng (khách hàng) khác nhau ở các thị trường khác nhau. Với nguồn thông tin có được và sự áp dụng một cách thông minh, mối nguy hiểm của  việc định giá xuất khẩu  của công ty  đối với  các thị trường có lợi nhuận tiềm năng được giảm đáng kể. IV.   MỐI QUAN HỆ CỦA CÁC CHÍNH SÁCH GIÁ XUẤT KHẨU ÐỐI VỚI GIÁ NỘI ÐỊA  Top (Relation of Export to Domestic Price Policies) Phương diện thứ hai của chính sách giá đối với nhà quản lý tiếp thị xuất khẩu là một mối liên hệ của chính sách giá xuất khẩu đối với chính sách (hoặc các chính sách) giá nội địa của công ty. Nhà quản trị phải quyết định các mức giá cao hơn, bằng hoặc thấp hơn giá nội địa. Có những lập luận thậm chí đối nghịch nhau để chúng ta chọn lựa.               1. Giá xuất khẩu thấp hơn giá nội địa Top (Export Prices Lower than Domestic) Có một lý luận cho rằng giá xuất khẩu thấp hơn giá nội địa là do sản phẩm của nhà máy có lẽ ít nổi tiếng ở nước ngoài hơn là trong nước. Ðể đảm bảo sự chấp nhận của thị trường và sức mua ban đầu, mức giá cả thấp nhất có thể xây dựng được nên được đưa ra chào. Hơn nữa, có lập luận cho rằng nhà xuất khẩu nên chịu các chi phí bổ sung như vận chuyển, bảo hiểm hàng hải và thậm chí trong một vài trường hợp cá biệt có thể chịu cả thuế nhập khẩu . Những người khác tin rằng giá xuất khẩu nên được hạ thấp vì các đối thủ cạnh tranh nước ngoài có thể sản xuất rẻ hơn bởi chi phí nhân công thấp, sự trợ giúp của chính phủ hoặc là những lợi thế khác mà họ được hưởng. Vẫn còn một lý luận khác dẫn đầu trong việc ủng hộ cho việc định giá xuất khẩu thấp đó là sự hấp dẫn của việc gia tăng doanh số bán để trợ giúp cho việc tập trung sản xuất và các chi phí  cần thiết. Có một lý thuyết xa hơn là nhà máy phải gánh chịu một số chi phí cần thiết nhất định trong giai đoạn đầu mà hoạt động kinh doanh của họ phải gánh chịu và không tránh khỏi. Vì vậy, mỗi hoạt động kinh doanh xuất khẩu thì nằm trong ý nghĩa kinh doanh thêm và không nên tính chi phí với gánh nặng này. Một trở ngại tiềm năng có thể xảy ra trong khi theo đuổi chính sách này đó là nhà xuất khẩu có thể bị cho là phá giá. Vì vậy, nhà xuất khẩu nên chú ý đến phản ứng của chính phủ ở các thị trường xuất khẩu.               2. Giá xuất khẩu cao hơn giá nội địa Top (Export Prices Higher than Domestic) Một trong các lập luận phổ biến hàng đầu trong việc ủng hộ giá xuất khẩu cao hơn giá nội địa là do sự gia tăng chi phí của việc thiết lập tổ chức để thâm nhập các hoạt động xuất khẩu là cần được xem xét. Thông thường chi phí bán hàng xuất khẩu có thể cao hơn ở thị trường nội địa do có nhiều thủ tục phức tạp, bất đồng trong ngôn ngữ, sự khác nhau về tập quán thương mại và sự khác nhau về các yêu cầu pháp lý, thị hiếu khách hàng ở các thị trường nước ngoài. Có sự đầu tư thêm một cách thường xuyên và các chi phí bổ sung trong việc chuẩn bị các tài liệu đặc biệt và các hình thức đóng gói, chuẩn bị và sửa đổi sản phẩm. Có người cho rằng chi phí của việc mở rộng tín dụng và tài trợ với các nhà bán hàng ở nước ngoài làm giảm tổng số vốn đầu tư và tăng chi phí. Một vài nhà máy và các nhà xuất khẩu cảm thấy sự rủi ro gia tăng trong việc kinh doanh ở nước ngoài đối với các điều kiện chính trị và kinh tế không ổn định, và mức độ rủi ro này nên được đền bù cho hình thức định giá cao.               3. Giá xuất khẩu bằng giá nội địa Top (Export Prices on a Par with Domestic Prices) Chính sách mang giá nội địa vào thị trường xuất khẩu được tán thành rất đông đảo, đặc biệt đối với các xí nghiệp, các nhà sản xuất lần đầu tiên thâm nhập thị trường thế giới. Những người này chưa thăm dò một cách đầy đủ các điều kiện khác nhau mà họ sẽ gặp phải trên thị trường thế giới.  Có nhiều lập luận ủng hộ chính sách này. Nó tạo điều kiện cho nhà sản xuất để định giá xuất khẩu mà chi phí và kinh nghiệm ở thị trường nội địa được chỉ ra là cần thiết và công bằng. Nó tạo cho nhà xuất khẩu cảm giác an toàn khi thâm nhập thị trường thế giới khi các cơ hội nghiên cứu tiếp thị, sự thông hiểu về các điều kiện cạnh tranh và những kinh nghiệm trước đó vẫn còn thiếu. Nó xua tan nổi sợ hãi mà nhà sản xuất có thể bị dính líu đến các quy định chống phá giá hiện có tại nhiều nước trên thế giới. Nó cũng là một chính sách dễ dàng được thay đổi khi nhà sản xuất gặt hái được những kinh nghiệm và đạt được một sự hiểu biết sâu sắc hơn  về thị trường xuất khẩu. Phương pháp này dễ thực hiện, nhưng có thể không thích hợp nếu giá nội địa thấp, vì các hoàn cảnh bất thường như có sự cạnh tranh mạnh mẽ. Trước khi tiến hành phương pháp này nhà quản trị nên nắm chắc rằng trong thực tế, giá nội địa là một giá phổ biến, bình thường. Việc định giá xuất khẩu giống như giá nội địa được giả định rằng các đối tượng là giống nhau. Cách định giá như vậy sẽ được công nhận, tuy nhiên các đối tượng của công ty và các điều kiện thị trường có thể không giống nhau qua nhiều thị trường khác nhau.               4. Ðịnh giá có sự chênh lệch (Differential Pricing) Top Do các điều kiện cạnh tranh, thị trường và các yếu tố môi trường khác không giống nhau từ một thị trường này đối với một thị trường khác, vấn đề có thể được đặt ra là cách định giá xuất khẩu khác nhau đối với mỗi thị trường. Có nhiều điều đã được đề cập trong các quyển sách kinh tế học về các hiệp ước quốc tế nói về các điều kiện theo đó có các sự chênh lệch về giá cả xảy ra giữa các thị trường. Những điều kiện quan trọng hàng đầu là             (1) Sự co giãn đường cầu khác nhau .             (2) Việc phân chia các thị trường một cách chính xác. Các sự co giãn khác nhau của đường cầu là cần thiết đối với nhà xuất khẩu để định giá ở một thị trường này cao hơn giá ở một thị trường khác. Sự co giãn vì giá cao thì sẽ đưa đến giá thấp. Sự không co giãn về giá thì nên định giá cao. Một điều kiện cần thiết khác cho việc định giá cao là các thị trường có liên quan phải được phân chia một cách hiệu quả. Trừ phí, thuế quan chi phí vận chuyển hoặc chi phí tái xuất thì cao hơn sự chênh lệch của giá hoặc trừ phi các sự giới hạn khác đối với lưu thông tự do của hàng hóa xuyên qua các quốc gia. Tuy nhiên, sản phẩm được bán ở mức giá thấp có thể tự nó tìm đường đến các thị trường có giá cao. Trong trường hợp nơi nào mà giá xuất khẩu cao hơn giá nội địa nhà xuất khẩu phải bảo đảm chống lại việc định giá quá cao đến nỗi mà khách hàng nước ngoài hoặc các đại diện của mình bị hấp dẫn với cách thâm nhập vào thị trường nội địa và tự họ đảm nhận nhiệm vụ công tác xuất khẩu. Ðó là trường hợp Công ty Minotta, một công ty sản xuất cameras hàng đầu của Nhật Bản tự phát hiện vào đầu thập niên 1970. Do sự chuyển tải từ Hong Kong cameras đã được bán qua kênh không chính thức bao gồm bán sĩ và bán lẻ đến các khách hàng ở Tây Ðức với một giá thấp hơn rất nhiều so với các kênh phân phối thông thường. Rõ ràng một số nhà buôn sỉ của Hong Kong đã mua trực tiếp các sản phẩm từ Nhật và đã trở thành các nhà xuất khẩu sang thị trường Tây Ðức. Ðây là vấn đề giá hàng hóa được tạo nên bởi các nhà nhập khẩu song song hoặc được gọi là thị trường chợ đen. Nêú người mua hàng ở một nước có thể mua được giá thấp hơn ở một nước khác sẽ là phần thưởng đối với khách hàng ở thị trường có giá thấp hơn bằng cách chuyển hàng hóa đến thị trường có giá cao để tạo ra lợi nhuận. Hiển nhiên, các nhà phân phối và bán hàng của công ty xuất khẩu ở những nước có giá cao sẽ khiếu nại về sự nhập khẩu không chính thức như vậy, vì chúng tạo ra sự tổn thất trong doanh số bán đối với họ. Luật pháp của nhiều nước kể cả liên hiệp Châu Âu và Nhật Bản khuyến khích những sự nhập khẩu song song như một phương tiện kích thích cạnh tranh và buộc nhà phân phối bán hàng ra khỏi quốc gia của họ có thể bị xem là vi phạm luật pháp (nhưng chỉ trong Liên hiệp Châu Âu mà thôi) Các nhà xuất khẩu nghiên cứu việc định giá có sự chênh lệch khác nhau cũng phải chú ý  đến các yếu tố khác kể cả sự cạnh tranh bên trong ở mỗi thị trường, tỷ lệ chi phí biến đổi/ chi phí cố định  của sản phẩm công ty, sự ổn định của đường cầu trong thị trường nội địa và chiến lược marketing tổng thể được sử dụng. Những lý do cho việc theo đuổi chính sách định giá có sự chênh lệch thường được đưa ra do có sự khác nhau về chiến lược tiếp thị giữa thị trường này và thị trường khác. VD: ở một quốc gia sự phân phối được mở rộng gấp đôi với sự quảng  cáo mạnh mẽ có thể đi kèm với việc định giá thấp để phục vụ cho thị trường đại chúng. Ở một quốc gia khác kênh tiếp thị trực tiếp với sự quảng  cáo ít có thể lôi kéo cho việc định giá cao trên mỗi đơn vị sản phẩm để phục vụ cho một thiểu số người có thu nhập cao. Việc xem xét dãy sản phẩm cũng có thể đóng góp đáng kể đối với việc định giá có sự chênh lệch khác nhau. VD: cái gọi là việc xem xét đầy đủ dãy sản phẩm  có thể trở nên quan trọng, nếu khách hàng có ý định mua một số sản phẩm nào đó từ một nguồn chung, nhà xuất khẩu đó không có tất cả các sản phẩm trong danh mục hàng hóa được đặt hàng ở trong hệ sản phẩm dường như gặp khó khăn trong việc bán một loại hàng trong cả hệ sản phẩm. Người mua có thể viện lý do: tại sao tôi phải tách đơn hàng của mình cho nhiều nhà cung cấp trong khi tôi có thể đặt hàng cho tất cả yêu cầu của tôi đối với chỉ một nhà cung cấp và cùng một lúc. Như vậy vừa tiết kiệm thời gian lẫn công sức. Theo những điều kiện này nó có thể cần thiết đối với người bán hàng bao gồm một số hàng hóa ở trong một dãy sản phẩm nó không thể bán với giá cao như ở một số thị trường khác. Như vậy, giá cả của nhóm hàng hóa khác nhau giữa các quốc gia. Việc định giá dãy sản phẩm ở một ý nghĩa khác nhau cũng có thể đóng góp đối với việc định giá đa dạng của một số sản phẩm trong dãy sản phẩm. Các sản phẩm ở trong dãy thường phải được định giá để có mối liên hệ hợp lý giữa chúng với nhau. VD: các loại máy kéo khác nhau và có các đặc tính khác nhau có thể có một mức độ thay thế lẫn nhau. Tuy nhiên, có một mức độ mà không có sự thay thế đó là sự đánh giá bởi khách hàng cũng như đối với mức độ một sản phẩm này thì tốt hơn hoặc thích hợp hơn sản phẩm khác nên áng chừng một cách phù hợp đối với sự chênh lệch của giá cả. Vì  nhiều nhóm khách hàng ở trong nhiều thị trường  khác nhau có thể đánh giá sản phẩm một cách khác nhau những sự khác nhau thích hợp trong giá cả của các loại hàng hóa trong dãy sản phẩm sẽ khác nhau. Như vậy nó có thể được xem xét một cách thích đáng cho các loại giá cả của những sản phẩm khác biệt khác nhau giữa quốc gia này và quốc gia khác. Chính sách định giá sản phẩm cũng có thể được dựa trên những cơ sở cơ hội. Trong các ngành công nghiệp đòi hỏi vốn đầu tư cố định lớn, sẽ có lợi khi có những thời kỳ thừa công suất do sự dao động nhất thời của đường cầu, để hạ giá sản phẩm ở các thị trường nước ngoài nếu những doanh số như vậy đóng góp vào chi phí cố định. Mặc dù sự lựa chọn và khảo sát các thị trường tiếp thị đồng nhất đòi  hỏi các chiến lược tiếp thị khác nhau, có một xác suất là một xí nghiệp có thể cố gắng để chọn lựa các mục tiêu trên thị trường giống nhau ở trong các khúc thị trường khác nhau ở mỗi nước. VD: một nhà sản xuất có thể tạo ra một sản phẩm hấp dẫn đối với những người có vị trí xã hội hoặc kinh tế nhất định nào đó không phân biệt quốc tịch. Các thị trường dân tộc  có thể được phân khúc trên cơ sở thu nhập, giáo dục, cỡ gia đình, thời gian rỗi ... và những khúc thị trường của Canada, Demark, France, Germany, Australia, Japan và một số nước khác có những động cơ hoặc nhu cầu giống nhau, chiến lược tiếp thị và các sản phẩm tiêu chuẩn hóa có thể thỏa mãn ở các thị trường này. Những yêu cầu của khách hàng ở một số khúc thị trường cho những sản phẩm như đồ dùng gia đình, dịch vụ hàng không, xe hơi có thể giống nhau ở nhiều phương diện. Tương tự, chiến lược tiếp thị, kể cả giá cả có thể giống nhau. Mặt khác, các cơ hội lớn nhất cho sự tăng trưởng tồn tại ở các khúc thị trường mới hoặc đang phát triển nó chưa được với tới hoặc phục vụ một cách đầy đủ ở trong quá khứ. Trong thực tế, một trong các mục tiêu được trình bày thường xuyên của giá cả có sự chênh lệch là để thâm nhập vào thị trường mới hoặc hấp dẫn một tầng lớp khách hàng mới. Mục tiêu này đôi khi có thể đạt được bởi sự chọn lọc và các kênh tiếp thị bổ sung nó có thể cung cấp một hệ chức năng khác nhau và đạt đến các khúc thị trường bổ sung. Một kênh như vậy dường như để có một cơ cấu chi phí khác nhau đối với các kênh khác và điều này sẽ đòi hỏi một biên tế điều hành khác nhau. Biên tế điều hành được đòi hỏi bởi các kênh tiếp thị có thể khác nhau do nhiều lý do kể cả chi phí phát triển thị trường (VD: nhu cầu của việc quảng cáo mạnh mẽ ở một số khu vực, nơi khác lại nhẹ nhàng hơn). chi phí nhân công hay các biên tế, cung cấp đối với các hãng marketing bởi đối thủ cạnh tranh. Giá cả của nhà sản xuất cũng như giá cả của nhà tiếp thị trung gian hoặc cả hai nên khác nhau đối với giá cả ở kênh thông thường được thiết lập trước đây. Xét thấy có sự đa dạng hóa giữa các thị trường nước ngoài. Vì vậy, chính sách định giá sản phẩm có sự khác nhau thường là hợp lý. Về mặt thiết bị và hàng hóa tư bản chúng thường đòi hỏi phải có sự sửa đổi hoặc sản phẩm được làm theo ý khách hàng để đáp ứng các nhu cầu của khách hàng khác nhau và đặc biệt khi giá cả bao gồm một số dịch vụ khác nhau trước, trong và sau khi bán hàng nó thường không thực tế để kết hợp đối với giá xuất khẩu có tiêu chuẩn. Một VD đó là hãng Boeing và Airbus đã định giá máy bay của họ cho các hãng hàng không dân dụng ở nhiều quốc gia khác nhau. Không chỉ khác nhau về chi phí, giá sàn mà còn là sự thiếu khả năng tương đối của khách hàng để so sánh chi phí một cách chính xác cũng cho phép người bán đối với các biên tế lợi nhuận khác nhau để cạnh tranh thành công và duy trì mức độ sản xuất ở mức cao. Do vậy việc giữ tổng chi phí ở mức thấp có thể được. VD: cũng nên điều hành lợi nhuận biên tế ở mức tương đối thấp trên mỗi chương trình và chuẩn bị cho nó một công việc tiếp theo hoặc với khách hàng khác. Quy mô của nhà xuất khẩu và thị phần của họ cũng chứa đựng chính sách nên theo đuổi đó là sự định giá có sự chênh lệch. Một nhà xuất khẩu có quy mô nhỏ dường như cảm thấy rằng có sự linh hoạt lớn hơn vì công ty có thị phần tương đối nhỏ trong tổng số thị trường thế giới. Nếu khách hàng ít và rải rác, khách hàng áp lực cho các loại giá tương đồng có thể là rất ít. Tuy nhiên, một nhà xuất khẩu tầm cỡ lệ thuộc vào số lượng lớn khách hàng cho tỷ lệ doanh số đáng kể có thể nhận thấy rằng áp lực của khách hàng đòi hỏi cho sự đồng nhất giá cả để tránh sự bất mãn của khách hàng. Trong những trường hợp nơi mà các thị trường không được phân chia một cách rõ ràng về chi phí vận chuyển, thuế quan, các hàng rào phi quan thuế, số lượng lớn khách hàng dường như quyết định mua ở các quốc gia có giá thấp. Hoặc nếu sản phẩm là sự quan trọng ở một thị trường có lẽ các nhà trung gian tiếp thị sẽ mua sản phẩm ở thị trường có giá thấp và bán chúng ở thị trường có giá cao dưới cây dù giá cả được cung cấp bởi nhà sản xuất , người đã bán với sự chênh lệch giá rất lớn một cách không bình thường. Có lẽ điều này chính là hoàn cảnh mà Minolta đã tự nhìn thấy vào thập niên 1970. Việc định giá chênh lệch cũng có thể thực hiện theo mùa hoặc chu kỳ. VD: một sản phẩm có kiểu dáng được bán theo mùa được bán ở Bắc bán cầu thì nó sẽ có một kiểu ngược lại ở Nam bán cầu. Như vậy, nhà sản xuất ở phía bắc có thể tìm thấy thị trường ở Nam Mỹ suốt trong mùa ế ẩm trong nước. Có thể giá cả khác nhau theo mùa sẽ đóng góp đến việc khai thác một cách đầy đủ cả hai thị trường. V.     CHÀO GIÁ (The Price Quotation)   Top Giai đoạn 3 của việc định giá xuất khẩu nên được dựa trên sự xem xét các yếu tố bao gồm việc chào giá. Một yếu tố quyết định như vậy sẽ được thực hiện bởi nhà xuất khẩu kết hợp với khách hàng của ông ta ở nước ngoài. Giá xuất khẩu được chào bởi nhiều cách khác nhau. Có hai hệ thống chủ  yếu cho việc chào giá được gọi là các điều khoản thương mại. Việc sử dụng các điều khoản như: FOB, FAS, C&F và CIF rất quan trọng về mặt cụ thể hóa không chỉ bổn phận và trách nhiệm pháp lý cuối cùng của nhà xuất khẩu (và bổn phận và trách nhiệm pháp lý bắt đầu của người mua) mà chúng còn quyết định các chi phí mà nhà xuất khẩu sẽ gánh chịu. Như vậy tuy cách tính toán thông thường của việc chào giá là cộng thêm các chi phí hợp lý đối với giá cơ bản. Có hai hệ thống định nghĩa được sử dụng bởi các nhà xuất khẩu trên khắp thế giới - Incoterms 1990 (được xây dựng bởi Phòng Thương mại thế giới) và Revised American Foreign Trade Definitions - 1941 (được xây dựng đầu tiên bởi Phòng Thương mại Hoa Kỳ và hai tổ chức khác) Việc xác định điều khoản thương mại thường không có luât sẵn trừ phi có quy định  luật pháp cụ thể được cung cấp cho nó hoặc trừ phi nó được xác định bởi phán quyết của Toà án. Nếu người bán và người mua đồng ý sự chấp nhận chúng như là một phần của hợp đồng bán hàng, những sự xác định trở nên sự ràng buộc pháp lý lên cả các bên đối với việc bán hàng. Ở Châu Âu, sự áp dụng Incoterms 1990 là tự nguyện, Toà án và các cơ quan trọng tài kinh tế có khuynh hướng áp dụng chúng nếu không có một sự quy định cụ thể.               1. So sánh các điều khoản (Comparision of Terms) Top Các định nghĩa ngoại thương của Mỹ (có hiệu chỉnh) - 1941 và Incoterms 1990 mỗi loại có chứa định nghĩa chỉ ra ở điểm nào thì chấm dứt nhiệm vụ, chi phí, và trách nhiệm pháp lý của nhà xuất khẩu, những rủi ro trách nhiệm về hư hỏng một cách chi tiết gắn với các hoạt động có liên quan được trình bày trong các tài liệu khác. Ở đây chúng tôi chỉ trình bày một cách tóm tắt các điều khoản chính một cách tổng quát như sau: 1.      EX (Point of Origin) điều kiện này có liên quan đến các hình thức như: EX Factory, Ex Mill, EX Mine, EX Works, EX Ware-house ... Chi phí và trách nhiệm của người bán hàng chấm dứt tại quốc gia của ông ta. 2.      Free on board (F.O.B) : giao lên mạn tàu ở một cảng đã được chỉ định trước thuộc quốc gia xuất khẩu. Trong trường hợp hàng hóa không giao lên mạn tàu mà giao lên các phương tiện vận chuyển khác như tàu hỏa, máy bay thì được gọi là Free carrier (F.C.A). Trách nhiệm của nguời bán chấm dứt khi hàng hóa dược xếp lên tàu và được cấp vận đơn (Bill of lading). Trong trường hợp hàng hóa được giao đến tận cảng được chỉ định trước nằm ở nước nhập khẩu. Trong trường hợp này nguời bán phải chịu trách nhiệm cho đến khi hàng hóa đến nơi thích hợp ở nước ngoài. Trường hợp này được gọi là Delivered Duty Unpaid (DDU) hoặc Delivered Duty Paid (DDP) 3.      Free along side ship (FAS): nguời bán hàng chịu trách nhiệm giao hàng đến dọc mạn tàu tại cảng xuất khẩu. Như vậy điều kiện này khác FOB ở chỗ thời gian và chi phí xếp hàng lên tàu không được tính vào điều kiện FAS. 4.      Cost and Freight (C&F): C&F (hoặc CFR, CPT) nghĩa là chi phí vận chuyển được mở rộng ra ngoài quốc gia xuất khẩu. Mặc dù trách nhiệm pháp lý của người bán chấm dứt khi hàng đã được xếp lên phương tiện vận chuyển tại cảng xuất khẩu. Nhưng người bán vẫn phải chịu trách nhiệm hợp đồng và thanh toán tiền vận chuyển hàng hóa đến cảng sẽ bốc dở hàng ở nước ngoài. Người mua chịu trách nhiệm mua bảo hiểm. 5.      Cost Insurance, and freight (CIF): điều kiện này thì nó cũng giống như C&F chỉ có điều là người bán phải mua thêm bảo hiểm. 6.      EX Dock: EX Dock (và DEQ) đòi người bán phải tốn thêm nhiều chi phí  để xếp hàng vào một kho bên trong của cảng nhập khẩu ở nước ngoài kể cả phải chịu chi phí thuế nhập khẩu của lô hàng đó.               2. Lựa chọn các điều kiện thương mại: (Selection of Trade Terms) Top Ðể quyết định khi nào nên sử dụng điều kiện  nào, nhà xuất khẩu nên xem xét các yếu tố sau: ·        Việc vận chuyển được thực hiện bởi phương tiện thuộc trong nước hay thuộc nước ngoài. ·        Các thông tin về chi phí nước đóng bảo hiểm. ·        Nhu cầu của nhà xuất khẩu là cần tiền (lý do này không phù hợp với điều kiện C&F và CFR/CPT) ·        Nhu cầu của nhà nhập khẩu có nhiều bảng biểu gía từ nhiều nhà cung cấp để tiện trong việc so sánh (nên chọn điều kiện CIF & CIP) ·        Các vấn đề chuyển đổi tiền tệ. Người mua nên chọn điều kiện FOB để thanh toán các vận chuyển bằng tiền tệ của nước mình. Tuy nhiên, nếu hãng vận tải thuộc nước ngoài thì nó vẫn tiếp tục là vấn đề trong chuyển đổi tiền tệ. ·        Những yêu cầu của chính phủ nước nhập khẩu. VD: một vài quốc gia đang phát triển đòi hỏi phải mua hàng với điều kiện FOB thì họ mới cấp giấy phép nhập khẩu. Ðiều này nhằm mục đích đỡ đầu và phát triển các hãng tàu biển và bảo hiểm của nước nhập khẩu. Nhiều nhà nhập khẩu yêu cầu điều kiện CIF (hoặc CIP) để họ dễ dàng so sánh giá, sau đó họ lại mua hàng với giá FOB. Sự Biến giá là một phần quan trọng trong chiến lược tiếp thị xuất khẩu. Một cách lý tưởng, sự Biến giá nên thực hiện ở hình thức nào thích hợp nhất đối với khách hàng như họ được cung cấp bởi các đối thủ cạnh tranh của nhà xuất khẩu. Thông thường họ hay đòi chào giá theo điều kiện CIF hoặc CIP vì đó là một cách duy nhất để họ cho phép người mua so sánh giá cả dễ dàng từ các nhà cung cấp thuộc các địa phương khác nhau.               3. Chào giá CIF: Top Ðây là một trong những cách chào giá phổ biến nhất trong ngoại thương. Cách chào giá CIF rất khó để giải thích một cách chính xác. Vì theo thông lệ các nhà xuất khẩu thường cộng thêm 10% đối với giá trị được bảo hiểm để bù đắp các chi phí và tổn thất không được tính trong giá CIF. Vì vậy, giá trị CIF là tiền hàng hóa, cước vận tải tới cảng đến và chi phí bảo hiểm trên 110% của giá trị CIF. Có hai phương pháp để định giá bảo hiểm khi giá C&F đã được xác định. Ðó là phương pháp phỏng chừng và phương pháp tính theo công thức. 3.1 Phương pháp phỏng chừng (The Estimate Method) Nhà xuất khẩu sử dụng phương pháp phỏng chừøng chỉ đơn giản thêm 10% vào giá C&F. Sau đó, nếu phí bảo hiểm là X% ông ta lấy X% của giá C&F và sau đó thêm vào 10%. con số cuối cùng đó được cộng thêm vào giá C&F. Có rất nhiều nhà xuất khẩu áp dụng phương pháp tính phỏng chừng này và không để ý đến các cách tính khác. 3.2 Phương pháp theo công thức (The Formula Method) Phương pháp chính xác nhất để tính toán việc chào giá CIF liên quan đến việc sử dụng công thức.            Việc thêm vào 10% đây chỉ là thông lệ để nhằm mục đích tính để mua bảo hiểm. Nhiều công ty có thể tính 15% hoặc một tỷ lệ phần trăm nào khác để thay thế cho tỷ lệ 10%, khi tỷ lệ phần trăm thay đổi thì con số tương ứng trong công thức cũng được thay đổi cho phù hợp. 3.3 Cách tính toán cước hàng hải: (Computation of Ocean Freight) Long Ton        : 2240 pounds           40 cubic feet Short Ton       : 2000 pounds           Metric Ton      : 2204,62 pounds      pound=0,454 Kg. VI.   ÐỊNH GIÁ CHUYỂN NỘI BỘ (Transfer Pricing)  Top Việc định giá không chỉ áp dụng đối với các sản phẩm bán cho khách hàng độc lập, mà nó còn thực hiện đối với các sản phẩm được chuyển cho các công ty con hoặc ban điều hành ở nước ngoài, nơi mà nhà xuất khẩu có một phần sở hữu. Như vậy, việc định giá sản phẩm được cung cấp cho các công ty mà nhà xuất khẩu có quyền sở hữu toàn phần hoặc một phần đối với các công ty đó, được gọi là giá chuyển nội bộ (Transfer Prices). Chính sách định giá chuyển nội bộ quốc tế về nghĩa rộng thì nó cũng giống như chính sách định giá chuyển nội bộ trong nước. Tuy nhiên, khi xem xét kỹ thì người ta nhận thấy rằng các chi tiết trong việc định giá chuyển giao quốc tế phức tạp hơn nhiều đối với trong nước và tiến trình ra quyết định cũng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố quan trọng.               1. Phân quyền và các trung tâm lợi nhuận (Decentralization and Profit Centers) Top Trước hết cần phải làm rõ nhu cầu của việc định giá chuyển giao chỉ xuất hiện khi công ty phân cấp quản lý, giao quyền hạn và trách nhiệm làm cho mỗi đơn vị phải hạch toán về lợi nhuận từ kết quả hoạt động kinh doanh. Những lý do phân quyền như vậy có thể do yêu cầu của luật pháp hoặc công tác quản lý. Các luật lệ liên quan đến các tổ chức của công ty, thuế khóa và các vấn đề khác cần được thực hiện đối với đơn vị cơ sở , các phòng ban của công ty trong việc được phân công hoạt động một cách độc lập. Theo các điều kiện như vậy, các chứng từ về tài chính của đơn vị phải được giữ y như của công ty xuất khẩu. Công ty như là một trung tâm lợi nhuận. Nếu không vì lý do đó thì việc định giá chuyển nội bộ để đáp ứng theo yêu cầu của các cơ quan thuế trong nước và ngoài nước. Thực ra, việc định giá chuyển nội bộ được xem xét chủ yếu như là một phương tiện để kiểm tra việc thực hiện của các phòng ban và điều phối các dòng lợi nhuận và tiền bạc đối với các công ty con ở nước ngoài. Tuy nhiên, có một bằng chứng vững chắc rằng việc định giá chuyển nội bộ kể cả việc định giá chuyển nội bộ ra nước ngoài có thể được áp dụng cho quyết định tiếp thị. Ðịnh giá chuyển nội bộ có tầm quan trọng lớn cho việc giúp các giám đốc tiếp thị đạt được các mục tiêu chiến lược trong việc làm thay đổi môi trường quốc tế.               2. Ðịnh giá chuyển nội bộ đối với các vệ tinh ở nước ngoài mà công ty sở hữu hoàn toàn (Transfer Pricing to Wholly owned Foreign Subsidiaries) Top Ðối với các vệ tinh công ty xuất khẩu sở hữu hoàn toàn thì các yếu tố như khoảng cách địa lý, chi phí thông tin liên lạc và sự phân quyền đối với từng cấp địa phương làm phức tạp quá trình định giá chuyển nội bộ xuất khẩu và hàng loạt phức tạp do thuế quan, quy định của chính phủ cũng ảnh hưởng đến sự quyết định. Vì các điều kiện  thị trường và cạnh tranh rất khác nhau giữa các nước, thật là khó khăn để phát triển một chính sách có thể áp dụng một cách đồng nhất. Trong trường hợp nơi mà công ty sở hữu 100% thì công ty có toàn quyền để quyết định ai sẽ kiểm tra việc thiết lập giá chuyển nội bộ, VD: Ban Giám Ðốc công ty, các đơn vị bán hàng, các đối thủ cạnh tranh (bằng giá thị trường ) đơn vị mua hàng hoặc một sự kết hợp nào đó. Nhân tố quyết định ai sẽ định giá chuyển nội bộ và phương pháp được áp dụng lệ thuộc một phần nào các yêu cầu của công ty đối với chi phí và thông tin về lợi nhuận. Một cách tiêu biểu, thông tin này được sử dụng cho các quyết định để làm hay mua. Việc ra quyết định cho giá cả của sản phẩm cuối cùng, quyết định thêm vào hay rút đi các sản phẩm, và quyết định cho kinh phí của chi phí đầu tư. Vấn đề định giá chuyển nội bộ có hai phạm vi:             (1) Nên được định như thế nào.             (2) Ai sẽ định giá chuyển nội bộ. Những câu hỏi này có sự liên quan với nhau vì bất cứ ai định giá sẽ có một ảnh hưởng nhất định đến sự quyết định những yếu tố của nó để cân nhắc và có trọng lượng tương đối để đưa ra cho mỗi yếu tố. 2.1 Giá chuyển nội bộ nên được định như thế nào? (How should transfer prices to be set?) Một số phương pháp định giá chuyển nội bộ đã được thử và kiểm tra bởi các công ty có các quy mô và dãy sản phẩm khác nhau. Ngoài kinh nghiệm này còn có một số hướng dẫn. Tuy nhiên, vẫn chưa có một sự thống nhất chung là phương pháp định gía nào là tốt nhất, không có phương pháp nào là tốt nhất cho mọi hoàn cảnh vì phương pháp tốt nhất cho một công ty tùy thuộc vào các đặc điểm của công ty và mục đích của giá cả được chuyển đi. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc định giá chuyển nội bộ rơi vào ba loại tổng quát sau: ·        Giá thị trường cạnh tranh kể cả giá danh sách và giá mua của đối thủ cạnh tranh. ·        Chi phí: bao gồm chi phí sản xuất, chi phí bộ máy phân phối, thuế quan trong và ngoài nước và thuế thu nhập của công ty. ·        Hạn chế về luật pháp: bao gồm các chính sách chính trị, việc kiểm tra của chính phủ và các luât nước ngoài chống lại các việc thực hành như sự phân biệt giá và phá giá. Ðặc biệt hơn nữa, một sự nghiên cứu ở các tổng công ty đa quốc gia của Mỹ đã chỉ ra rằng các điều kiện thị trường và sự cạnh tranh ở nước ngoài là hai nhân tố ảnh hưởng quan trọng nhất đối với giá chuyển nội bộ cho xuất khẩu.  Nếu mục đích của việc định giá chuyển nội bộ là để cung cấp các dữ kiện về lợi nhuận như vậy nó là sự cần thiết để có thể xác định được tình hình lợi nhuận một cách chính xác. Những quyết định như vậy phải được thực hiện trên cơ sở các tỷ lệ được chọn lựa để thu hồi lợi nhuận từ sự đầu tư. Tuy ngắn hạn cũng như dài hạn chi phí cơ hội cũng phải được xem xét. Như vậy, cơ sở của việc xem xét này nên đặt giá chuyển nội bộ trên giá thị trường cạnh tranh hoặc sự phỏng đoán tốt nhất về giá thị trường và yêu cầu đơn vị mua hàng phải mua với giá nội bộ. Theo chính sách này, nếu đơn vị bán hàng có chi phí quá cao, lợi nhuận của nó sẽ chịu đựng và việc quản lý của phân bộ sẽ nhanh chóng điều chỉnh tình hình hoặc phải đương đầu với Ban quản trị công ty với một hồ sơ lợi nhuận quá yếu kém. Nếu mục đích của giá chuyển nội bộ là để giúp Ban quản trị trong việc định giá sàn hoặc giá của các sản phẩm cuối cùng hoặc giả như mục đích là để chuyển dịch lợi nhuận cho một Ban điều hành ở nước ngoài, việc sử dụng chi phí đáng được thực hiện như là một phương tiện mang tính quyết định  đối với giá chuyển nội bộ. Có những quan niệm về chi phí có liên quan khác nhau để xem xét. Trong ngắn hạn chi phí biên tế có thể là một sự liên quan tối thiểu. Vì mỗi số lượng chi phí vượt quá như vậy sẽ tạo ra ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận thuần. Về dài hạn, chi phí đầy đủ hoặc chi phí chuẩn có thể gần hơn với sự tối thiểu lý tưởng nó sẽ giúp Ban quản trị quyết định nên hay không nên nguồn lực của công ty được sử dụng để tạo lợi nhuận tối đa và nếu không, để điều chỉnh tình hình. Theo quan điểm của các viên chức quan thuế nước ngoài (nhằm mục đích định giá hàng hóa và áp giá thuế quan) cũng rất quan trọng. Ðể giảm thiểu tối đa thuế quan, thường nên xem xét cách định giá càng sát với chi phí càng tốt. Tuy nhiên ở  một số nước đòi hỏi việc định thuế quan là “Giá thị trường công bằng” hoặc có quan niệm về giá cả liên quan đến giá thị trường của danh mục hàng hóa ở quốc gia xuất khẩu. Các quy định về thuế của nước ngoài và trong nước và sự bắt buộc của họ cũng ảnh hưởng đến chi phí như là những nền tảng của giá cả. Tỷ lệ thuế khác nhau giữa các nước, khi thuế thu nhập công ty ở nước nhà cao hơn tỷ lệ thuế ở nước mà công ty con đang đóng, phương pháp thực hiện là định giá chuyển đi sát với chi phí theo mức được phép. Tuy nhiên, cơ quan thuế lợi tức có thể chống đối việc sử dụng thuế như là một tiêu chuẩn cho việc định giá chuyển nội bộ. Vả lại, luật chống phá giá được áp dụng chỉ hạn chế sự tự do của người bán trong việc định giá dựa trên chi phí. Việc định giá chuyển nội bộ cộng thêm chi phí có nhiều nhược điểm là không thể định giá để đảm bảo lợi nhuận tối đa, nếu nó là mục tiêu. Giá cả được định theo cách này có thể không tạo ra sự khuyến khích một cách đầy đủ đối với bộ phận sản xuất để chi phí giảm thiểu tối đa. Tuy nhiên, chi phí tiêu chuẩn có thể được thỏa mãn như là một cơ sở cho giá cả chuyển nội bộ cộng thêm chi phí nếu tiêu chuẩn là chính xác. Phương pháp định giá chuyển nội bộ sử dụng cả giá chi phí và giá thị trường cạnh tranh có thể cho phép hoàn hảo các mục tiêu mong ước không phải gánh chịu những nhược điểm mà mỗi phương pháp được áp dụng riêng lẻ. VD: một hệ thống có thể được xây dựng nơi đó giá chuyển nội bộ thì định giá ở chi phí, nhưng đơn vị bán hàng thì được hưởng tín dụng với một phần trăm nhất định của lợi nhuận thuần kết quả từ mọi tiến trình xa hơn và sự bán hàng sau cùng. Một hệ thống như vậy có thể được áp dụng để giảm thiểu thuế và thuế quan ở cùng một lúc tạo ra các dữ liệu lợi nhuận. Có một sự cần thiết là phải có một mức độ linh hoạt trong quá trình thành lập giá chuyển nội bộ được duy trì. Nếu sự linh hoạt được duy trì và nếu lợi nhuận của đơn vị bán và mua hàng cũng như toàn thể công ty đáng được xem xét. Một hệ thống thương lượng hay trả giá là cần thiết. Việc thương lượng cũng có một số nhược điểm. Việc thảo luận có thể kéo dài và chán nản. Các sự thương lượng này có thể tạo ra sự cải vả mất đoàn kết giữa các phòng ban. Mặc dù sự thương lượng và thỏa thuận phải được xem xét trong một thời hạn, lượng thời gian bỏ ra cho sự thương lượng có thể bị giữ trong những giới hạn chấp nhận được. Có lẽ, nhược điểm lớn nhất của việc thương lượng, ở một phương diện khác là xảy ra sự tranh chấp khiếu nại. Nếu việc khiếu nại được giải quyết trên cơ sở bởi sức mạnh cá nhân hoặc vị thế quyền lực ở trong công ty, mối quan hệ nội bộ, hợp tác lành mạnh của công ty có thể bị hủy diệt. Nếu giá chuyển nội bộ được áp đặt trên các nhà quản trị, có cũng có thể làm cản ngại sự trưởng thành về lợi ích vật chất và tinh thần. Ðiều đáng được mong ước của mỗi hệ thống định giá chuyển nội bộ có liên quan đến các đặc điểm của công ty và các sản phẩm mà công ty bán. Một công ty tương đối nhỏ với chỉ vài đơn vị điều hành ở nước ngoài, việc thu nhận thêm nhân viên bởi các nhà quản lý, người này biết rất rành về những người khác thường có thể điều hành khá linh hoạt hơn là ở công ty lớn. Quy mô của công ty cũng liên quan đến một số và kiểu sản phẩm ở trong hệ sản phẩm của công ty. Vì giá chuyển nội bộ của các sán phẩm khác nhau có thể nên được định bởi các phương pháp khác nhau. Tình hình này các công ty lớn phải đối đầu một cách phức tạp. Có một tác giả, công nhận tình hình này, cách đây đã lâu, đã giới thiệu các phương pháp định giá chuyển nội bộ được thiết lập bằng cách phân loại sản phẩm thành ba nhóm: 1.      Loại A: gồm những sản phẩm mà có lẽ nó chưa từng được sản xuất bởi các nhà cung cấp bên ngoài công ty bởi vì sản phẩm không sẵn có, sự bí mật được giữ hoặc chất lượng được duy trì vì nó chỉ được sản xuất trong nội bộ công ty. 2.      Loại B: gồm những sản phẩm từ khi đặt hàng đến khi sản xuất phải mất một thời gian dài và đòi hỏi một chi phí đầu tư đáng kể. VD: sản xuất các bộ phận của xe auto hoặc xe gắn máy. 3.      Loại C: bao gồm những sản phẩm mà người sản xuất có  thể thay đổi trong một thời gian ngắn. Tác giả này tiếp tục giới thiệu rằng: 1.      Giá chuyển nội bộ cho sản phẩm loại A nên đặt ở mức độ cạnh tranh dài hạn, ngay cả một sự phỏng chừng tương đối cho loại giá cả như vậy có thể được thực hiện. 2.      Giá chuyển nội bộ cho sản phẩm loại B nên đặt ở mức cạnh tranh dài hạn và được điều chỉnh cho ngắn hạn bất thường. 3.      Việc định giá chuyển nội bộ cho sản phẩm loại C nên được đặt ở mức cạnh tranh hiện hành. Nói chung, hầu hết các người có thẩm quyền về việc định giá chuyển nội bộ cảm thấy rằng nếu tài liệu lợi nhuận từ các trung tâm lợi nhuận được sử dụng để hoàn thiện các mục tiêu quản lý, chính sách định giá phải nhắm đến việc định giá cả chuyển nội bộ cạnh tranh là luật thuế. Một lý do khác cho việc sử dụng giá cả chuyển nội bộ cạnh tranh là luật thuế thường được đặt ra để ngăn chặn việc di chuyển quyền tài phán vì lợi tức trong số các đơn vị dựa thế của công ty để trốn thuế. Một cuộc kiểm tra quan trọng dường như việc giá chuyển nội bộ thì hợp lý hơn thay vì tài phán. Một trong những bằng chứng mạnh mẽ nhất rằng giá cả thì công bằng và hợp lý là giá không chỉ dựa vào giá thị trường mà nó được thiết lập liên quan đến mối quan hệ ở chiều dài của những cánh tay, yêu cầu chiều dài của những cánh tay cũng là một lập luận mạnh mẽ ủng hộ việc cho phép giá cả được thiết lập bởi sự trả giá giữa các đơn vị mua bán với đơn vị mua có toàn quyền mua bên ngoài nếu họ muốn. Vì giá cả cạnh tranh có thể khác nhau giữa các thị trường một công ty lấy giá chuyển nội bộ dựa trên cơ sở các điều kiện cạnh tranh ở mỗi thị trường có thể phải đặt nhiều giá khác nhau cho mỗi thị trường. Một cách tâp hợp định giá như vậy không chỉ phức tạp tốn kém đối với nhà quản lý mà sự bất hòa có thể xuất hiện giữa các đơn vị của công ty. Vả lại, cơ quan thuế lợi tức trong nước và ngoài nước có thể chống đối nếu họ cảm thấy rằng giá chuyển nội bộ khác nhau có thể tạo ra sự di chuyển lợi nhuận từ một nước này sang một nước khác và do đó ảnh hưởng đến lợi tức chịu thuế. Một cuộc kiểm tra gọi là mục đích kinh doanh yêu cầu rằng nơi đó có mục đích quản trị chứng minh được cho việc áp dụng một phương pháp riêng cho việc định giá chuyển nội bộ. Nơi nào có những phương pháp khác nhau nhưng thỏa mãn cân bằng của việc định giá chuyển nội bộ có sẵn, xí nghiệp kinh doanh không bị ngăn ngừa từ sự chọn lựa phương pháp mà đối với họ có lợi về thuế. Tuy nhiên, nói chung, mục đích kinh doanh phải tối cao. Như vậy, dường như phương pháp định giá chuyển nội bộ sẽ được chính phủ chấp nhận nếu phương pháp này đáp ứng được chiều dài của những cánh tay hoặc kiểm tra mục đích kinh doanh và không phải là mục đích tránh thuế. 2.2 Ai sẽ định giá chuyển nội bộ (Who should set transfer prices?) Quyền lực định giá chuyển nội bộ có thể được duy trì bởi Ban quản lý công ty hoặc đại biểu đối với đơn vị mua hoặc đơn vị bán. Một sự thỏa hiệp có thể cho phép đơn vị bán định giá nhưng cũng cho phép đơn vị mua mua ngoài nếu họ muốn. Hoặc Ban quản lý có thể để cho các bộ phận bán và mua nên thương lượng với nhau về giá chuyển nội bộ. Khi điều này là một chính sách Ban quản lý công ty chỉ tham gia vào các cuộc thương lượng khi có sự tranh chấp xảy ra.               3. Việc định giá chuyển nội bộ đối với các xí nghiệp mà công ty có một phần sở hữu Top (Transfer pricing to partially owned foreign enterprices) Tương đối phổ biến cho các công ty có một phần quyền lợi ở việc điều hành nước ngoài trong việc đối tác với công ty ở nước ngoài hoặc xí nghiệp khác đóng cùng quốc gia nhà. Khi việc nắm giữ quyền lợi một phần hoặc trong trường hợp liên doanh, ngườøi bán không thể độc quyền giá cả đối với việc chuyển giá nội bộ. Bản chất độc lập của nguời mua yêu cầu giá cả phải được định theo quyền lợi của các chủ sở hữu khác hoặc các đối tác trong liên doanh. Việc định giá chuyển nội bộ đối với ban điều hành ở nước ngoài mà công ty không sở hữu hoàn toàn liên quan đến một số sự xem xét thêm, mà sự xem xét này có liên quan đến việc định giá cho các công ty con mà nhà xuất khẩu sở hữu hoàn toàn. Có rất ít lý do để định giá chuyển nội bộ càng sát với chi phí càng tốt bởi vì sự chuyển dịch lợi nhuận ra nước ngoài có nghĩa là đối tác sẽ chia xẻ trong đó. Tương tự, cũng không hợp lý nếu việc chuyển đi được thực hiện ở nước ngoài cao hơn giá thị trường có cạnh tranh. Trong thực tế, ở đó có thể có một phần áp lực của đối tác nước ngoài để giá chuyển nội bộ phải thấp hơn giá thị trường bên ngoài. Tiến trình định giá chuyển nội bộ trong hoàn cảnh như vậy thì giống như tiến trình định giá đối với đối tác thứ ba. Cách thực hành thông thường thì dường như giống cuộc đàm phán chiều dài của cánh tay với điều kiện người mua có toàn quyền mua bên ngoài. Tuy nhiên, nếu liên doanh được thành lập cho một mục đích đặc biệt, có lẽ để sản xuất một số sản phẩm không có sẵn ở đâu đó, giá chuyển nội bộ có thể được định trên cơ sở các yếu tố thêm vào và sẵn sàng để thảo luận. VD: mục đích của liên doanh là được thâm nhập bởi hai bên. Như vậy, mọi lợi nhuận mà xí nghiệp thu được sẽ được chia là, hai phần tương đương cho hai cổ đông hoặc giữ lại cho hoạt động kinh doanh. Hoặc mỗi bên đều nhận được 50% sản phẩm sản xuất ra, cả hai xí nghiệp đều có lợi tương đương với nhau.Theo những điều kiện như vậy, cách điều hành hay nhất đối với nhà máy là lấy cơ sở điểm hòa vốn. Giá cả được tính cho hai khách hàng của nhà mày có thể tính cao một cách vừa phải để bù đắp chi phí. Tuy nhiên, nếu một trong hai đối tác nhận phần nhiều hơn của sản phẩm của liên doanh, đối tác này sẽ hưởng lợi nhiều hơn đối tác kia. Nếu sản phẩm của liên doanh yêu cầu các bộ phận được sản xuất bởi một trong các đối tác, tình hình trở nên phức tạp hơn nhiều. Nói chung, theo hoàn cảnh này, đối tác bán bộ phận cho liên doanh rất muốn định giá cao, đối tác kia muốn định giá thấp. Không có sự hướng dẫn chung để hướng dẫn các bên trong việc định giá chuyển nội bộ trong một tình hình như vậy. Việc thực hành thông thường đối với các bên trong bối cảnh của một liên doanh như vậy là: ·        Tính số lượng bộ phận được cung cấp bởi một hoặc cả hai bên. ·        Phỏng chừng phần sản lượng của liên doanh để chia cho mỗi bên. ·        Xem xét đến các yếu tố thuế quan và thuế. ·        Ðàm phán một hợp đồng có nội dung theo một công thức cụ thể cho việc tính toán giá chuyển nội bộ. Tóm tắt: Chương này xem xét việc định giá xuất khẩu. Vấn đề chủ yếu được đưa ra bao gồm các nhân tố ảnh hưởng giá cả, chiến lược định giá, giá xuất khẩu và giá nội địa có liên quan như thế nào, các yếu tố của việc chào giá và định giá chuyển nội bộ. Mặc dù các vấn đề định giá xuất khẩu có nhiều cách giống như việc xem xét giá nội địa, có các  yếu tố, chỉ riêng đối với tiếp thị ngoại thương mới gặp phải; các nhà xuất khẩu phải đối phó với nhiều vấn đề phức tạp hơn khi số lượng thị trường mà họ thâm nhập nhiều hơn ( và các thị trường này thường trái ngược nhau). CHƯƠNG VII:  PHƯƠNG PHÁP XUẤT KHẨU & HỆ THỐNG PHÂN PHỐI HÀNG HÓA (Export Method and Distribution System) XUẤT KHẨU GIÁN TIẾP XUẤT KHẨU TRỰC TIẾP Cải tổ cơ cấu tổ chức để có thể phục vụ xuất khẩu Hệ thống phân phối PHÂN PHỐI SẢN PHẨM XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM Phương pháp xuất khẩu thông thường nhất là bán gián tiếp và bán trực tiếp. Trong trường hợp bán gián tiếp nhà xuất khẩu phải thông qua các tổ chức hoặc cá nhân để làm trung gian. Trong việc bán hàng trực tiếp, nhà xuất khẩu phải làm ăn trực tiếp với một nhà nhập khẩu nước ngoài. Ðể quyết định nên xuất khẩu trực tiếp hoặc gián tiếp, doanh nghiệp xuất khẩu cần phải xem xét một số yếu tố như sau: ·        Tầm vóc của công ty. ·        Ðặc tính của sản phẩm do công ty làm ra. ·        Kinh nghiệm về xuất khẩu đã qua và khả năng chuyên môn của công ty. ·        Các điều kiện về kinh doanh tại các thị trường đã được tuyển chọn ở nước ngoài. I.    XUẤT KHẨU GIÁN TIẾP  Top Loại hình này giúp cho các công ty nhỏ có một phương thức để thâm nhập vào thị trường nước ngoài mà không phải đương đầu với những rắc rối và rủi ro như trong xuất khẩu trực tiếp. Nhà sản xuất có thể xuất khẩu gián tiếp thông qua các tổ chức hoặc cá nhân như sau: ·        Công ty quản lý xuất khẩu. ·        Khách hàng ngoại kiều. ·        Nhà ủy thác xuất khẩu. ·        Nhà môi giới xuất khẩu. ·        Hãng buôn xuất khẩu. II.    XUẤT KHẨU TRỰC TIẾP Top Thuận lợi: các lợi thế đối với một công ty trực tiếp xuất khẩu là kiểm soát được nhiều hơn tiến trình xuất khẩu, có khả năng thu được nhiều lợi nhuận và nắm được một cách chặt chẽ hơn mối quan hệ với người mua bên ngoài và thị trường liên quan. Khó khăn: công ty mất nhiều thời gian, tốn nhiều nhân sự và sử dụng nhiều nguồn tài lực của công ty hơn xuất khẩu gián tiếp. Một nhà xuất khẩu trực tiếp thường tuyển chọn kỹ các thị trường mà họ muốn thâm nhập vào, chọn ra các hệ thống phân phối riêng cho mỗi thị trường.               1. Cải tổ cơ cấu tổ chức để có thể phục vụ xuất khẩu: Top ·        Công ty nên tách rờiviệc quản lý xuất khẩu ra khỏi việc quản lý kinh doanh trong nước, nhằm tập trung được tài năng chuyên môn để đáp ứng nhu cầu đối phó với thị trường quốc tế và thứ hai là nổ lực tiếp thị được tập trung sẽ dẫn đến kết quả là mức độ xuất khẩu sẽ tăng. ·        Thông thường công ty sẽ lập ra một Phòng xuất nhập khẩu hoặc Phòng giao dịch quốc tế. ·        Sự thành công của một công ty tại các thị trường nước ngoài tùy thuộc vào các phương pháp tiếp thị nhiều hơn là chất lượng sản phẩm.               2. Hệ thống phân phối: Top Một khi công ty đã được tổ chức để phục vụ xuất khẩu thì cần phải lựa chọn hệ thống phân phối thích nghi cho mỗi thị trường, các hệ thống này bao gồm các đại diện thương mại, các đại lý, các nhà phân phối, các nhà bán lẻ và những người tiêu thụ sau cùng. 2.1 Văn phòng đại diện hoặc chi nhánh của công ty ở nước ngoài. 2.2 Ðại diện thương mại: Một nhà đại diện thương mại thường phụ trách đại diện cho nhiều hệ thống thương mại hoặc sản xuất có thể bổ sung cho nhau nhưng không cạnh tranh với nhau. Ðại diện thương mại thường hoạt động trên cơ sở được hưởng hoa hồng, không gánh chịu rủi ro hoặc trách nhiệm. Ðại diện thương mại có thể làm việc  trên cơ sở độc quyền hoặc không độc quyền. 2.3 Ðại lý: Thường là một người đại diện có nhiều quyền hạn và có thể được ủy nhiệm để hành xử mọi vấn đề thay mặt công ty mà ông ta làm đại diện. 2.4 Nhà phân phối: Là một nhà buôn mua hàng của nhà xuất khẩu với một giá có chiết khấu và bán lại hàng hóa đó để kiếm lời. Nhà phân phối chuyên nghiệp thường phân phối một loạt nhiều sản phẩm có thể bổ sung cho nhau nhưng không cạnh tranh lại với nhau. 2.5 Nhà bán lẻ nước ngoài: Một công ty xuất khẩu cũng có thể bán hàng trực tiếp cho một nhà bán lẻ ở nước ngoài mặc dù trong các loại thương vụ như thế, thì hệ thống người tiêu dùng nói chung thường bị giới hạn. 2.6 Bán hàng trực tiếp cho người sử dụng sau cùng: Một công ty xuất khẩu có thể bán sản phẩm hoặc dịch vụ của mình trực tiếp cho người sử dụng hoặc tiêu dùng sau cùng ở nước ngoài. Những người mua hàng trực tiếp này có thể là các chính phủ nước ngoài, các cơ quan như bệnh viện, trường học hoặc các doanh nghiệp. Thông thường mỗi sản phẩm bán ra nước ngoài phải kèm theo sự bảo đảm, bảo hành hoặc dịch vụ kèm theo nhà xuất khẩu có thể tổ chức nhờ hệ thống phân phối của mình ở nước ngoài để thực hiện các dịch vụ trên. III.    PHÂN PHỐI SẢN PHẨM XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM  Top Nhìn chung, tình hình xuất khẩu ở Việt Nam trong những năm qua như sau: ·        Mạng lưới bạn hàng, khách hàng hẹp, nhiều trường hợp phải thông qua trung gian. ·        Quy mô hoạt động còn hạn chế nên các công ty chưa có tham vọng hình thành một mạng lưới tiêu thụ ở nước ngoài, việc tiêu thụ sản phẩm của công ty được xem như chấm dứt khi hàng rời khỏi Việt Nam. Mặt khác, vì hoạt động đa dạng, đa ngành hàng nên phần lớn các công ty không thể đi vào chuyên sâu nhằm phát huy sở trường của mình ở lãnh vực nhất định nào. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất kỹ thuật trang bị làm hàng xuất khẩu thiếu đồng bộ, lạc hậu, hệ thống kho chuyên dùng để bảo quản, dự trữ còn quá kém... Những hạn chế này ảnh hưởng đến tổ chức phân phối hợp lý hàng xuất khẩu đến các phân đoạn của thị trường . CHƯƠNG VIII: TỔ CHỨC CÁC HOẠT ÐỘNG MARKETING QUỐC TẾ (Organization of International Marketing Activites) YÊU CẦU CƠ CẤU TỔ CHỨC Phòng xuất khẩu theo chức năng Phòng giao dịch quốc tế Cơ cấu tổ chức dựa trên sản phẩm Cơ cấu tổ chức dựa trên vùng địa lý I.     YÊU CẦU  Top Trong giai đoạn đầu của hoạt động marketing quốc tế, doanh nghiệp xuất khẩu có thể đơn giản chỉ việc sử dụng các nhà trung gian hoặc thiết lập một bộ phận xuất khẩu nhỏ để điều hành việc xuất khẩu các sản phẩm được tiêu chuẩn hóa. Khi các hoạt động xuất khẩu phát triển, sự cạnh tranh quốc tế gia tăng, bộ máy xuất khẩu phải được tổ chức chuyên sâu hơn để đáp ứng một cách đầy đủ cho những yêu cầu của khách hàng nước ngoài... cũng có sự quan tâm về phối trí và kiểm tra các hoạt động thị trường nước ngoài. Những kỹ năng và sự nhạy cảm mới trong quản lý được đặt ra. Những sự thay đổi trong vị trí của các chức năng then chốt và trong cách ra quyết định được theo đuổi để đáp ứng một cách đồng bộ đối với những nhu cầu của địa phương đối với việc điều hành một cách thống nhất và tập trung. Các quyết định phải được đưa ra dù là đối với tổ chức chủ yếu dựa vào chức năng, sản phẩm, địa lý hay ngay cả nhóm khách hàng. Mục tiêu việc tổ chức các hoạt động marketing quốc tế là trách nhiệm của các nhà quản trị cao cấp phải đối phó trong việc triển khai bộ máy tổ chức phù hợp với những nhu cầu và cơ hội của mình. Những mối đe dọa và cơ hội đặt ra đối với tổ chức cũng phải thay đổi theo để duy trì sự cạnh tranh của công ty. Các sự xem xét chủ yếu về sự tồn tại của tổ chức quốc tế: Không có một bộ máy tổ chức hoàn hảo riêng lẻ cho marketing quốc tế. Sự đa dạng về địa lý tạo ra sự mở rộng chiến lược quốc tế. Hiệu quả của các hoạt động ở nhiều khu vực và quốc gia khác nhau đóng một vai trò quan trọng và chủ yếu của tổ chức. Ở mức độ căn bản nhất, việc thiết kế bộ máy tổ chức marketing quốc tế có liên quan đến ba vấn đề: - Xác định các đơn vị tổ chức phụ thuộc dựa trên cơ sở chức năng và phạm vi hoạt động. - Chọn lựa tập trung hay phân cấp các chức năng và nhiệm vụ cá nhân. - Phân công hệ thống kiểm tra và báo cáo. Kết quả của các vấn để này mang tính quyết định một cách tổng quát về bộ máy tổ chức. II.      CƠ CẤU TỔ CHỨC (Organizational structures)                 1. Phòng xuất khẩu theo chức năng (Functional export department) Top Ðối với các nhà sản xuất mới có hoạt động xuất khẩu thì nên tuyển dụng một cán bộ chuyên trách làm công tác xuất khẩu, cán bộ này chịu trách nhiệm trước quản trị viên marketing nội địa. Khi hoạt động xuất khẩu phát triển thêm nhiều khách hàng và lúc đó sẽ thành lập một phòng xuất khẩu riêng. Bộ máy này phù hợp với các xí nghiệp vừa và nhỏ hoặc ngay cả các công ty lớn chuyên sản xuất các sản phẩm được tiêu chuẩn hóa ở giai đoạn đầu trong hoạt động xuất khẩu. Các công ty lớn này thường là các công ty thuộc ngành công nghiệp khai thác như hầm mỏ, dầu khí ...               2. Phòng giao dịch quốc tế: (International division) Top Áp dụng cho những công ty có nhiều sản phẩm và đang chiếm thị phần lớn tại thị trường nội địa, mới bắt đầu hoạt động xuất khẩu. VD: Xí nghiệp điện tử. Trong trường hợp này trưởng phòng giao dịch quốc tế thường phải là phó tổng giám đốc, chịu trách nhiệm mọi hoạt động của mình trước tổng giám đốc điều hành của công ty.               3. Cơ cấu tổ chức dựa trên sản phẩm: Top (Organization structure based on product) Ðối với công ty có nhiều sản phẩm đa dạng khác nhau nên được tổ chức bộ máy marketing quốc tế dựa trên sản phẩm. Mô hình này xem sản phẩm là trung tâm của hoạt động marketing quốc tế.               4. Cơ cấu tổ chức dựa trên vùng địa lý: Top (Organization structure based on geographic area) Mô hình này phù hợp cho các công ty đa quốc gia có tầm hoạt động rộng khắp thế giới, đang ở thời kỳ trưởng thành và có các sản phẩm được sản xuất theo tiêu chuẩn hóa. Tầm hoạt động của các công ty này được chia ra như sau: thế giới được chia ra thành từng vùng, vùng được chia ra làm nhiều khu vực, mỗi khu vực được chia ra thành từng nước hoặc nhiều nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docmarketting-xuat-nhap-khau.doc
Tài liệu liên quan