Mâu thuẫn biện chứng của quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Sau hơn 10 năm đổi mới, đất nước ta đã thu được nhiều thành tưu to lớn. Kinh tế thị trường đã đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, góp phần khơi dậy nhiều tiềm năng sáng tạo, làm cho nền kinh tế sống động hơn, các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ sôi nổi hơn, bộ mặt thị trường được thay đổi và sôi động hơn. bên cạnh đó, kinh tế thị trường không chỉ tạo ra các điều kiện vật chất để xây dựng phát huy nguồn lực con người, mà còn tạo ra môi trường xã hội ổn định thích hợp cho con người phát triển hài hoà toàn diện về thể chất và tinh thần. Điều đó buộc con người phảI năng động, sáng tạo, linh hoạt có tác phong nhanh nhạy, đầu óc quan sát, để từ đó nâng cao năng lực, ohạt động thực tiễn của con người. Kinh tế thị trường tạo ra những điều kiện thích hợp để con người mở rộng các mối quan hệ giao lưu, buôn bán, từ đó hình thành các chuẩn mực văn hoá, chuẩn mực đạo đức mới.

doc17 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1037 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mâu thuẫn biện chứng của quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mâu thuẫn biện chứng của quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay Mục Lục Lời nói đầu.. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. . . .. .. .. .. .. .. .. .. .. ... .. . 2 I. Lý luận phép biện chứng về mâu thuẫn (Quy luật về sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập).. .. .. .. .. .. .. . . .. ..3 II. Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. 6 Lời nói đầu Việt Nam, đất nước có tiềm năng to lớn về nhiều mặt, song đang đứng trước những thử thách to lớn và gay gắt trong những năm sau khi nền kinh tế chuyển từ thời kỳ kinh tế hàng hoá tập trung sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Năm 1992, tốc độ tăng trưởng kinh tế là 8,3% trong khi lạm phát được giảm xuống mức kiếm soát được là 15%. Xuất khẩu tăng mạnh. Kể từ năm 1988-1993, mức tăng trưởng trung bình là 30%. Tính chung cả 4 năm (1991-1994), tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt tốc độ tăng bình quân là 7,2%. Sản lượng nông nghiệp đạt mức cao chưa từng có (hiện đứng thứ 2 trên thế giới về sản lượng gạo xuất khẩu). Trong khi Việt Nam vẫn phải đương đầu với nhiều khó khăn. Nước ta là một trong những nước nghèo nhất thế giới, thu nhập quốc dân tính theo đầu người hiện chỉ có khoảng 300USD. Sau nhiều thập kỉ, chiến tranh và quản lý kém, cơ sở hạ tầng trong tình trạng thấp kém, nghèo nàn... Thành công về kinh tế vừa qua của nước ta là kết quả của một chương trình của cải cách đổi mới rộng lớn do Đại hội Đảng VI (1986) đề ra và Đại hội Đảng VII (1991) phát triển và cụ thể hoá. Chính phủ đã quyết định chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang một nền kinh tế vận hành the cơ chế thị trường và tiến hành nhiều cải cách cụ thể. Quá trình chuyển đổi đang diễn ra rất nhanh chóng. Tuy nhiên, vẫn còn phải tiến hành một chương trình rộng lớn để tiếp tục cải cách hơn nữa. Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị trường ở Việt Nam đã nảy sinh nhiều mối quan hệ mâu thuẫn: I. Lý luận phép biện chứng về mâu thuẫn (Quy luật về sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập) Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có 1 vị trí đặc biệt quan trọng trong những quy luật của phép biện chứng duy vật: V.I Lênin viết: “Người ta có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng duy vật là lý luận về sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, như thế người ta sẽ nắm được hạt nhân của phép biện chứng; nhưng đIều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và mỗi sự phát triển thêm... Đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan phổ biến. Chủ nghĩa duy tâm cùng với phương pháp siêu hình cho rằng: không có mâu thuẫn ở bên trong sự vật mà chỉ có sự khác nhau hoặc mâu thuẫn giữa các sự vật, hiên tượng với nhau, trong tư tưởng có thể có mâu thuẫn, nhưng khi đó tư tưởng có sai lầm. Phép biện chứng duy vật khẳng định: Mọi sự vật, hiện tượng đều có mâu thuẫn bên trong, và mỗi sự vật, hiện tượng đều là sự thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hươngs đối lập nhau, chính ự đấu tranh sủa các mặt đối lập làm cho sự, hiện tượng vân động, phát triển. Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến. Mâu thuẫn tồn tạI khách quan trong tất cả mọi sự vậ và hiện tượng. Không có sự vật, hiện tượng nào là không có mâu thuẫn, không lúc nào là không có mâu thuẫn. Trong sự vật hay hiện tượng nếu không có mâu thuẫn này thì có mâu thuẫn khác và có một mâu thuẫn hay nhiều mâu thuẫn . F. Anghen viết: “ Nếu bản thân sự di động một cách máy móc đơn giản đã chứa đựng mâu thuẫn, thì tất nhiện những hình thức vận động cao hơn của vật chất và đặc biệt là sự sống hữu cơ và sự phát triển của sự sống hữu cơ đó lại càng phải chứa đựng mâu thuẫn như vậy, sự sống trước hết chính là ở chỗ một sinh vật trong mỗi lúc vừa là nó nhưng lại không vừa lại là cái khác. Như vậy, sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại trong bản thân các sự vật và các quá trình, tự đề ra và tự giải quyết không ngừng, và khi mâu thuẫn đã hết thì sự sống cũng không còn nữa và cái chết xảy đến”. Quan hệ giữa các mặt đối lập Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất của những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau hợ thành những mâu thuẫn của sự vật. Mỗi một mâu thuẫn là sự thóng nhất của hai mặt đối lập liên hệ với nhau, ràng buộc lẫn nhau, qui định lẫn nhau. Mỗi mặt ấy lại lấy mặt đối lập kia làm tiền đề tồn tạI cho mình. V.I Lenin viết: “Sự phân đôi của cái thống nhất và nhận thức các bộ phận đối lập của nó... đó là thực chất... của phép biện chứng.” Thực ra, sự vật không có lúc nào là một cái gì đó thống nhất tuyệt đối rồi sau mới chia thành hai, mà bao giờ nó cũng là một thể thống nhất của các mặt đối lập. Vậy, sự thống nhất giữa các mặt đối lập chỉ là sự “tương đối” tạm thời, nó có điểm khởi đầu và điểm kết thúc. Mỗi sự vật hay hiện tượng là một thể thống nhất của các mặt đối lập, các mặt đó liên hệ với nhau nhưng vì chúng là những mặt có tính chất đối lập nhau, có khuynh hướng phát triển tráI ngược nhau , nên chúng không nằm yên ở bên nhau mà bàI trừ lẫn nhau, phủ định lẫn nhau. Đó là sự đấu tranh của các mặt đối lập. Đấu tranh diễn ra khi thống nhất được thiết lập cho đến khi mất đI để thiết lập một thể thống nhất mới. Quá trình đó diễn ra liên tục, tạo thành xu hướng phát triển nhày càng cao, ngày càng hoàn thiện của sự vật. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là “vĩnh viễn tuyệt đối”. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là quá trình phức tạp và được chia thành nhiều giai đoạn. được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong một mâu thuẫn cụ thể, hai mặt đối lập không phảI lúc nào cũng đấu tranh gay gặt, mà thông thường chúng thường cắt đầu từ sự khác biệt, sau đó dẫn tới đối lập, tiếp theo là xung đột, cuối cùng mới là mâu thuẫn. Và chỉ có hai mặt khác nhau nào liên hệ với nhau, có khuynh hướng phát triển đối lập nhau thì mới hình thành mẫu thuẫn. Khi có đầy đủ những mâu thuẫn sẽ xảy ra sự chuyển hoá cuối cùng giữa 2 mặt đối lập, cả 2 đều có sự thay đổi. Khi đó mâu thuẫn được giảI quyết. Sự chuyển hoá cuối cùng là bước phát triển tất yếu, là sự kiện quan trọng nhất trong quá trình vận động giải quyết mâu thuẫn. Nhờ có sự chuyển hoá cuối cùng. Mâu thuẫn trở thành nguồn gốc, động lực của mọi sự phát triển. V.I. Lênin viết: “Phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập” Không có sự đấu tranh của các mặt đối lập thì không có sự xuất hiện, phát triển, giảI quyết mấu thuẫn, do đó cũng không có sự chuyển hoá mâu thuẫn này sang mâu thuẫn khác, không có sự chuyển hoá từ sự vật này sang sự vật khác. II. Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Sự nghiệp đổi mới mà Đảng ta đã lựa chọn từ đại hội VI (1986) đến nay đã từng đi vào cuộc sống của mọi người. Thực tiễn trong những năm qua đã chứng minh rằng sự lựa chọn của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, là phù hợp với sự phát triển khách quan của đất nước ta. Một trong những vấn đề cơ bản nhất góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đó là sự chuyển đổi mô hình kinh tế của nước ta, từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần (hay là kinh tế thị trường). Thực chất của sự chuyển đổi mô hình kinh tế đó là sự phát triển một nền kinh tế thị trường dưới sự định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nghị quyết Đại hội Đảng VII, Đảng ta nhấn mạnh: “Xây dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Kinh tế thị trường là một kiểu quan hệ kinh tế - xã hội mà trong đó, sản xuất và táí sản xuât gắn chặt với thị trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoá tiền tệ, với quan hệ cung cầu... Trong nền kinh tế thị trường nét biểu hiện có tính chất bề mặt đời sống xã hội là quan hệ hàng hoá. Mọi hoạt động xã hội đều phải tính đến quan hệ hàng hoá, hay ít nhất thì cũng phải sử dụng các quan hệ hàng hoá khác như là mặt khâu trung gian. Nếu như trước đây, nền kinh tế nước ta chỉ có một kiểu sở hữu quốc doanh và tập thể, thì sau khi đối với, cùng với các thành phần sở hữu chủ đạo còn có các thành phần sở hữu khác. Những hình thức sở hữu đó không hẳn đã đồng bộ với nhau mà đôI khi còn mâu thuẫn với nhau. Nhưng xét tổng thể, thì chúng đều là những mặt khách quan của nền kinh tế. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo sự định hướng xã hội chủ nghĩa là điều không cần phải bàn cãi. Nhà nước ngoài việc trực tiếp quyết định những vấn đề bản thân nên kinh tế còn đóng vai trò trung gian giữa các vấn đề kinh tế với các vấn đề xã hội. Nhà nước với các chính sách, luật lện của minh, một mặt, có khả năng làm cho nền kinh tế đạt tới một sự tăng trưởng nhất định, có hiệu quả, nhưng mặt khác lại phải giải quyết những vấn đề do sự tăng trưởng đó sinh ra. Tóm lại, chìa khoá để đáp ứng những nhu cầu phức tạp và mâu thuẫn nhau của xã hội nằm trong tay bộ máy quản lý vĩ mô của xã hội, đó chính là Nhà nước. Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. sự chỉ đạo của nền kinh tế Nhà nước đối với các thành phần kinh tế khác được thể hiện ở nhiều mặt: Kinh tế Nhà nước có thể là lực lượng nắm bắt các yết hầu kinh tế, cũng có thể là lực lượng chi phối đặc biệt; kinh tế Nhà nước đảm bảo những tư liệu sản xuất chủ yếu phải thuộc về toàn xã hội, phục vụ cho lợi ích của cả cộng đồng. Trong quá trình đổi mới, nền kinh tế nước ta nảy sinh nhiều mâu thuẫn giữa nhu cầu ra đời nền kinh tế mới với nền kinh tế cũ. Trong suốt một thời gian dàI, nước ta đã không nhận thức đúng vai trò của sản xuất hàng hoá, của nền kinh tế thị trường, đã đồng nhất hình thức sở hữu với hình thức tổ chức kinh tế và thành phần kinh tế, coi nhẹ, thậm chí phủ nhận quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường, phủ nhận quan hệ hàng hóa - tiền tệ. Chúng ta đã tách rời sản xuất hàng hoá với trường, vì chúng ta cho thị trường là phạm trù riêng của chủ nghĩa tư bản. Chính vì thế, chúng ta không tạo được động lức để phát triển sản xuất, vô tình hạn chế việc ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, năng suất lao động thấp, gây rối loạn và ách tắc trong lĩnh vực phân phối, lưu thông, làm cho nền kinh tế rơI vào tình trạng kém năng động, trì trệ. Do đó nhu cầu ra đời một nền kinh tế mới là một tất yếu khách quan. Khi giảI quyết được mâu thuẫn giữa nhu cầu ra đời nền kinh tế mới với nền kinh tế cũ thì nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ra đời. Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội luôn có mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển nền kinh tế với kiến trúc thượng tầng như chính trị, pháp luật, văn hoá... Như ta đã biết, cơ cấu nền kinh tế của xã hội chính là cơ sở hạ tầng của xã hội đó. Mà cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng luôn có quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự đổ mới nền kinh tế của chúng ta, những biến đổi về cơ cấu nền kinh tế và cơ cấu thành phần kinh tế nhất định sẽ gây ra những biến đổi trong cơ cấu dân cư, trong cơ cấu giai cấp - xã hội. Việc đó in dấu ấn vào trong hệ thống chính trị của nước ta. Chúng ta khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế tư nhân nhưng phải chịu sự điều tiết, chỉ đạo của kinh tế Nhà nước. Chúng ta mở cửa, “sẵn sàng làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới” để đa dạng hoá nền kinh tế, phát tiển nguồn nhân lực của đất nước nhưng vẫn phải nằm trong một giới hạn mà Nhà nước cho phép. Nền kinh tế nước ta hình thành các vùng kinh tế tập trung lấy một hình thức sản xuất kinh tế làm chủ đạo. Do hệ thống chính trị nói riêng và kiến trúc thượng tầng của chúng ta nói chung có phần phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế nước ta, cho nên sau vài năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã giành được nhiều thành tựu to lớn, kinh tế phát triển, nạn đói dần được đảy kùi, lạm phát bị chặn lại, chỉ số GDP tăng... Nhưng chúng vẫn có những phần chưa phù hợp. Do đó nền kinh tế nước ta vẫn thuộc trong số những nước đang phát triển và là một trong số những nước nghèo trên thế giới. Nền công nghiệp nặng của nước ta vẫn chưa thực sự phát triển được. Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế của chúng ta hiện nay vừa khác nhau về vai trò, chức năng, về tính chất,lạI vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân: chúng vừa cạnh tranh với nhau, lại vừa liên kết với nhau, bổ sung cho nhau. Các thành phần kinh tế đó vận hành theo cơ chế thị trường. Nhưng vì kinh tế thị trường cót ính hai mặt nên cần phảI có sự quản lí, điều tiết của Nhà nước để phát huy những mặt tích cực, đồn thời hạn chế những mặt tiêu cực. Ngoài ra, trong sự chuyển đổi sang kinh tế thị trường còn làm phát sinh mâu thuẫn giữa tính tự phát, ra đời của chủ nghĩa tư bản kinh tế thị trường với sự định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường như đã nói ở trên là kiểu quan hệ kinh tế - xã hội, trong đó sản xuất và tái sản xuất gắn chặt với thị trường, gắn chặt với quy luật cung cầu. Hình thức kinh tế thị trường tự do kinh doanh là hình thức kinh tế của tất cả các nước tư bản trên thế giới. Dưới chế độ chủ nghĩa tư bản, nền kinh tế chạy theo lợi nhuận, chạy theo giá trị thặng dư, chà đạp lên cả chân, thiện, mỹ. ở đây, sự tự do kinh doanh theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé”. Nhưng khi phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta và một số nước xã hội chủ nghĩa thì những vấn đề đó không phù hợp. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta quyết định phát triển kinh tế thị trương ở nước ta nhưng dưới sự chỉ đạo của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghĩa là, chúng ta loại bỏ những gì không phù hợp với xã hội chúng ta, phát triển những gì thích hợp với xã hội ta chúng ta cần. Đây chính là sự mẫu thuẫn giữa sự phát triển kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN. Xây dựng và hoàn thiện QHSX trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta suy cho cùng là tạo mọi điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế (TPKT) đều phát triển, từ đó phát huy tốt nhất vị trí vai trò của mỗi TPKT đối với đất nước và xử lý hài hoà mối quan hệ hợp tác và cạnh tranh giữa các TPKT, từng bước phát huy vai trò chủ đạo của TPKTNN. Phương hướng cơ bản đó đòi hỏi việc xây dựng và hoàn thiện QHSX phải theo các quan điểm chỉ đạo sau đây: a. Xây dựng và hoàn thiện QHSX theo định hướng XHCN phải làm cho QHSX phù hợp hơn với sức sản xuất trong các thành phần kinh tế, đồng thời đẩy mạnh cải cách môi trường thể chế nhằm thực hiện các mục tiêu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Thực chất đổi mới kinh tế ở nước ta trong hơn 10 năm qua là sự điều chỉnh một cách toàn diện về các quan hệ sản xuất bao gồm cả về mặt quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Đó là bước khởi đầu của cách mạng về các quan hệ sản xuất, xuất phát từ yêu cầu khách quan của quá trình xã hội hoá sản xuất, CNH, HĐH đất nước, phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Nhờ bước đầu "cởi trói" cho một loạt các quan hệ sản xuất, các thành phần kinh tế đang phát huy tác dụng, chứng tỏ sức sống và vị trí quan trọng của nó trong công cuộc xây dựng kinh tế mới. Tuy nhiên, cho đến nay kinh tế thị trường của ta còn sơ khai. ở các vùng nông thôn, miền núi, còn mang nặng dấu ấn kinh tế tự nhiên. Với đặc trưng là tự cung, tự cấp. ở đây kinh tế hàng hoá chưa phát triển , công nghệ sản xuất còn lạc hậu, đơn sơ. Kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân, thợ thủ công còn chiếm tỷ trọng lớn và phát triển một cách manh mún, lại chưa được tổ chức và quản lý tốt. Kinh tế tư bản tư nhân chưa được chú ý phát triển đúng mức, phần lớn còn là quy mô nhỏ và kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực lưu thông. Kinh tế tư bản nhà nước được từng bước hình thành và phát triển nhưng chưa được huy động hết tiềm năng vốn có của nó. Kinh tế nhà nước đang trong quá trình đổi mới, tổ chức sắp xếp lại cho phù hợp với lực lượng sản xuất và thích nghi với việc quản lý theo kinh tế thị trường. Nền sản xuất mặc dù đan xen những yếu tố hiện đại, song kinh tế tự nhiên , tự cấp, tự túc còn chiếm tỷ lệ lớn. Trong điều kiện đó, những lệch lạc về nhận thức, tình trạng yếu kém về tổ chức, quản lý và phân phối, sự lạc hậu của môi trường thể chế.v.v.. sẽ là những vướng mắc đối với sự phát triển của sức sản xuất , cản trở việc huy động tối đa mọi nguồn lực, làm chậm quá trình đa dạng hoá sở hữu và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, vi phạm yêu cầu quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy, để chiến lược phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thực sự đi vào cuộc sống cần phải giải quyết những vấn đề sau đây: Trước hết, cần nhận thức rõ bản chất, nội dung, phạm vi và các hình thức biểu hiện của từng thành phần kinh tế. Cần thấy rằng đặc trưng kết cấu thành phần kinh tế nước ta trong thời kỳ chuyển đổi là một cơ câú động. Do vậy, trong quá trình phát triển phải thừa nhận sự chuyển đổi giữa các thành phần cũng như chấp nhận sự chuyển đổi giữa các thành phần cũng như chấp nhận những "bước tiến" hoặc "bước lùi" trong việc hoàn thiện QHSX ở mỗi một thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan. Theo hướng đó việc phát triển các thành phần kinh tế cần chú ý tới các vấn đề sau đây: Đối với kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc ở các vùng (trong đó có vùng núi) phải chuyển nhanh sang kinh tế hàng hoá. Đối với sản xuất hàng hoá nhỏ, cần đẩy mạnh các hình thức liên kết, tổ chức quản lý và định hướng sự phát triển nhằm phục vụ các mục tiêu chung. Đối với kinh tế tiểu chủ và tư bản tư nhân cần tạo điều kiện để phát huy hết tiềm lực của họ. Trong điều kiện mới của quan hệ kinh tế quốc tế, một mặt phải phát huy tối đa những nguồn lực bên trong, mặt khác phải hết sức tranh thủ các nguồn lực bên ngoài thông qua việc phát triển mạnh thành phần kinh tée tư bản nhà nước để nhanh chóng tạo ra lực lượng sản xuất mới, trên cơ sở đó cho phép việc hoàn thiện QHSX rút ngắn được thời gian trong tiến trình thực hiện. Đối với kinh tế nhà nước cần sắp xếp lại các DNNN cho phù hợp với lực lượng sản xuất hiện có và vai tiof của nó trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đồng thời với việc đổi mới sở hữu, để hoàn thiện đồng bộ các mặt của QHSX, phải chú ý nâng dần trình độ tổ chức quản lý và hoàn thiện các quan hệ phân phối một cách thích ứng trong các thành phần phù hợp với điều kiện của nền kinh tế vận hành theo cơ chế mới. Trong quá trình vận động, chuyển hoá giữa các thành phần kinh tế có khả năng xảy ra tình trạng tự phát theo sự điều tiết của thị trường. Vì vậy, phải tăng cường vai trò định hướng của nhà nước. Để làm điều đó điều quan trọng là phải tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, cải cách môi trường thể chế tạo thuận lợi cho việc phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế theo định hướng XHCN ở nước ta. *. Xây dựng và hoàn thiện QHSX đòi hỏi phải nâng cao hiệu lực điều tiết của nhà nước, thực hiện phân phối theo nguyên tắc kinh tế thị trường, đẩy mạnh phúc lợi xã hôị. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đa hình thức sở hữu đang làm nảy sinh những quan điểm mới về quan hệ phân phối. Quan hệ phân phối trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải kết hợp phân phối theo lao động và huưởng lợi theo tài sản. Phấn đấu và tạo điều kiện để mỗi người lao động đều có một phần tài sản, vốn liếng đóng góp cổ phần của mình vào các cơ sở sản xuất, dịch vụ để tạo điều kiện phát huy vai trò của họ trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Mục tiêu là phải đảm bảo đời sống của người lao động từng bước được nâng cao góp phần xoá đòi giảm nghèo. Chấp nhận sự phân hoá giàu nghèo trong các tầng lớp dân cư và giữa các vùng nhưng có giới hạn. Khuyến khích động viên mọi người từ quần chúng đến Đảng viên tạo nhiều việc làm và làm giàu chính đáng. Nghiêm cấm những hành vi làm giầu bất chính, bòn rút của công, hà hiếp quần chúng lao động làm giảm sút lòng tin của nhân dân và triệt tiêu động lực của người lao động . Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu độc lập và đan xen sẽ tạo ra rất nhiều hình thức phân phối, tỷ lệ phân phối khác nhau về nguồn lực và sản phẩm. Quan hệ đối với tài sản bao gồm nhiều quyền khác nhau. Do vậy, cần phân biệt rõ các quyền này và gắn chúng với việc hưởng lợi trong phân phối kết quả sản xuất kinh doanh. Phân phối vật phẩm tiêu dùng phải căn cứ vào lao động giản đơn và lao động phức tạp, khuyến khích nâng cao tay nghề của lao động giản đơn, chú ý tới lao động của những nhà khoa học và quản lý. Phân phối dựa trên nguyên tắc thị trường không tránh khỏi sự bất bình đẳng trong thu nhập, mà hậu quả của nó là sự mất ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội như nhiều nước phát triển theo con đường kinh tế thị trường đã trải qua. Vì vậy phải có sự điều tiết trong tái phân phối. ở đây sự điều tiết của nhà nước là hết sức quan trọng thông qua thuế thu nhập và phúc lợi xã hội. Vì vậy đi liền với cải cách chế độ phân phối, cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính theo hướng tăng cường khả năng điều tiết vĩ mô của nhà nước nhằm điều hoà thu nhập, đảm bảo phúc lợi giữa các tầng lớp dân cư. * Xây dựng và hoàn thiện QHSX, một mặt phải tạo điều kiện để thành phần kinh tế nhà nước vươn lên nắm vai trò chủ đạo, mặt khác phải đảm bảo tính bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Trong bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào cũng có PTSX tiêu biểu cho chế độ kinh tế xã hội đương thời, giữ vị trí thống trị chi phối, còn các PTSX tàn dư, PTSX mầm mống của hình thái xã hội tương lai, ở vào địa vị lệ thuộc, bị chi phối. Các phương thức sản xuất trong một hình thái kinh tế xã hội được biểu hiện thành các thành phần kinh tế. Trong giai đoạn quá độ, chưa có thành phần kinh tế nào đủ sức giữ vai trò thống trị và chi phối các thành phần kinh tế khác. V.I.Lênin đã chỉ ra, các thành phần kinh tế chỉ là những mảnh, những bộ phận hợp thành kết cấu kinh tế xã hội, vừa có tính độc lập tương đối, vừa tác động lẫn nhau. Kinh nghiệm của tiến trình lịch sử cho thấy, vai trò chủ đạo của một thành phần kinh tế nào đó không phải ở chỗ quy mô của nó to hay nhỏ, lực lượng của nó nhiều hay ít, mà là ở chỗ nó có ảnh hưởng chi phối được các TPKT khác hay không, có làm cho các mối quan hệ kinh tế diễn ra theo tính chất của phương thức sản xuất thống trị hay không. Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần, đang trong quá trình chuyển đổi. Các thành phần kinh tế này đan xen lẫn nhau, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau, luôn vận động và có sự chuyển hoá trong quá trình phát triển. Định hướng XHCN là phải tạo điều kiện cho thành phần kinh tế nhà nước vươn lên nắm vai trò chủ đạo. Thực tế hiện nay, các DNNN ở nước ta chưa đáp ứng được vai trò này kể cả về hiệu quả sản xuất kinh doanh, về trình độ tổ chức quản lý và phương thức phân phối. Vì vậy, muốn thực hiện được vai trò chủ đạo, các doanh nghiệp nhà nước cần phải được tiếp tục sắp xếp lại, phát triển doanh nghiệp nhà nước một mặt phải đặt trong mối tương quan với nguồn lực của Nhà nước, mặt khác phải đặt trong mối quan hệ với các thành phần kinh tế khác. Về tổ chức quản lý phải chặt chẽ hơn, phải có chế độ phân phối hợp lý để vừa nâng cao mức sống của người lao động, vừa đảm bảo tái sản xuất của các doanh nghiệp, phải củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các DNNN cũng có nghĩa là phải nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước đối với các doanh nghiệp khác ở trong và ngoài nước. Chính điều đó có nghĩa là củng cố tính chất xã hội chủ nghĩa trong thành phần kinh tế này trên tất cả các mặt của QHSX để tạo điều kiện cho nó nhanh chóng giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Đồng thời với việc thiết lập vai trò chủ đạo cho thành phần kinh tế nhà nước, hoàn thiện QHSX phải bảo đảm tính dân chủ và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Dân chủ giữa các thành phần kinh tế được biểu hiện ở mối quan hệ giữa lợi ích và nghĩa vụ của các thành phần với nhau và với nhà nước. ở đây, không đề cập tới dân chủ về mặt chính trị, mà chỉ giới hạn trong kinh tế. Dân chủ trong kinh tế đó là quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản, quyền hưởng thụ kết quả kinh doanh và nghĩa vụ đóng góp đối với nhà nước. Dân chủ không thể thực hiện được bằng mệnh lệnh mà phải được thể chế hoá bằng luật pháp, cơ chế và dân chủ phải đảm bảo tính tập trung. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, việc ưu tiên, ưu đãi không áp dụng theo thành phần kinh tế mà theo mục tiêu, theo lĩnh vực, theo ngành. Nhà nước cần có chính sách tài trợ cho một số lĩnh vực, mặt hàng sản phẩm khuyến khích hoặc đáp ứng yêu cầu thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội. Việc tài trợ này không phân biệt thành phần kinh tế, thành phần nào làm được thì hưởng ưu đãi. Đồng thời với việc đảm bảo tính dân chủ, phải đảm bảo tính bình đẳng giữa các TPKT, tạo điều kiện phát huy đầy đủ mọi năng lực và vị trí của mỗi TPKT, hình thành một hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất. Trong điều kiện nước ta hiện nay, nền kinh tế chỉ có thể phát triển bền vững nếu các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng , có hiệu quả, có sức phát triển và cạnh tranh cao. Điều này cần được thể hiện trong việc hoạch định chính sách của nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc hai mặt: đối xử giống nhau đối với mọi thành phần để đảm bảo công bằng theo chiều ngang và đối xử khác nhau đối với các thành phần để thực hiện công bằng theo chiều dọc. Cần nhấn mạnh, trong nền kinh tế thị trường khi chính quyền trong tay nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo, thì vai trò của nhà nước , bộ phận của kiến trúc thượng tầng, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tác động chi phối tới các thành phần kinh tế khác. Thông qua luật pháp và các công cụ chính sách mang tính điều tiết của nhà nước, có thể hướng hoạt động của các TPKT khác đi theo quỹ đạo của mình. Do đó, ngoài việc sắp xếp , củng cố lại các DNNN thì việc cải cách bộ máy nhà nước, hoàn thiện môi trường luật pháp cho kinh doanh, tạo những điều kiện cần thiết cho đầu tư phát triển của các doanh nghiệp ... là những công việc có ý nghĩa quyết định. Kết luận Sau hơn 10 năm đổi mới, đất nước ta đã thu được nhiều thành tưu to lớn. Kinh tế thị trường đã đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, góp phần khơi dậy nhiều tiềm năng sáng tạo, làm cho nền kinh tế sống động hơn, các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ sôi nổi hơn, bộ mặt thị trường được thay đổi và sôi động hơn. bên cạnh đó, kinh tế thị trường không chỉ tạo ra các điều kiện vật chất để xây dựng phát huy nguồn lực con người, mà còn tạo ra môi trường xã hội ổn định thích hợp cho con người phát triển hài hoà toàn diện về thể chất và tinh thần. Điều đó buộc con người phảI năng động, sáng tạo, linh hoạt có tác phong nhanh nhạy, đầu óc quan sát, để từ đó nâng cao năng lực, ohạt động thực tiễn của con người. Kinh tế thị trường tạo ra những điều kiện thích hợp để con người mở rộng các mối quan hệ giao lưu, buôn bán, từ đó hình thành các chuẩn mực văn hoá, chuẩn mực đạo đức mới... Tuy nhiên, Đảng ta không coi cơ chế thị trường là kiều thuốc vạn năng, vì vậy không khuyến khích phát triển nó về mọi mặt. Bởi lẽ, việc tuyệt đối hoá vai trò của kinh tế thị trường sẽ rơi vào một sai lầm nguy hiểm từ phía khác. kinh tế thị trường tuy có nhiều điểm mạnh nhưng bản thân nó vốn có những giới hạn, những khuyết tật mang tính tự phát hết sức bướng bỉnh. Hơn thế, quan hệ thị trường còn là môi trường thuận lợi để phát sinh tiêu cực và tệ nạn xã hội. Thực tế cho thấy, tuy mới áp dụng cơ chế thị trường chưa được bao nhiêu lâu, bên cạnh những thành tựu đã xuất hiện những mặt trái của thị trường như làm ăn thuần tuý, chạy theo lợi nhuận dẫn đến các hình thức lừa đảo, hối lộ, trốn thuế thương mại hoá một cách tràn lan, xâm nhập cả vào các kinh vực dễ thương tổn như y tế, văn hoá,... làm cho giá trị đạo đức bị băng hoại, xuống cấp; sự phân hóa giàu nghèo và bất công xã hội có chiều hướng tăng lên. Về vấn đề con người, có những nơi kinh tế thị trường không làm con người năng động hơn mà còn làm tha hoá bản chất của con người. Việc đề cao lợi ích của cá nhận, bất chấp lợi ích xã hội, lợi ích tập thể là một nguy cơ lớn. Lợi nhuận kích thích sản xuất nhưng mặt khác, lợi nhuận cũng tự phát đẩy con người tới hành vi phá hoại môi trường sống, làm tha hoá đạo đức, nhân phẩm. Ngoài ra, đi kèm với kinh tế thị trường là hàng loạt các tệ nạn xã hội dễ đưa đến những rối loạn, khủng hoảng cho gia đình. Nạn cờ bạc, rượu chè, mại dâm ma tuý, buôn lậu, hối lộ, tham nhũng... là những căn bệnh trầm kha không dễ bề khắc phục. Thật không sai khác khi hình dung kinh tế thị trường là con dao hai lưỡi. Bởi vậy, Đảng ta chỉ rõ: “Vận dụng các hình thức và phương pháp quản lý nên kinh tế thị trường là để sử dụng mặt tích cực của nó phục vụ mục đích xây dựng chứ không đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”. Như vậy, nền kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng nền là nền kinh tế vận động theo cơ chế tự nhiên của nó nhưng có sự quản lí, hướng dẫn, điều tiết vĩ mô của Nhà nước nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự quản lí của Nhà nước sẽ đảm bảo cho kinh tế phát triển đúng hướng vìmúc tiên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh; nhân dân lao động làm chủ, sống có văn hoá, có kỷ cương; từng bước xoá bỏ mọi áp bức, bất công, tạo đIều kiện cho mọi người dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc. Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta một mặt là nền kinh tế tôn trọng các chủ thể tự do, tự chủ kinh doanh theo pháp lật, vừa liên kết, hợp tác và phát triển để đạt tới trình độ xã hội hoá cao; mặt khác lại thừa nhận Nhà nước có vai trò chủ đạo trong một số lĩnh vực và một số khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, cơ chế vận hành được bảo đảm trong toàn bộ nền kinh tế vẫn là cơ chế thị trường.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8966.doc
Tài liệu liên quan