Giáo Trình Máy Chế Biến Thực Phẩm
Giáo trình đã trình bày cấu tạo và nguyên tắc hoạt động của một số loại máy chế biến thực phẩm. Giáo trình được biên soạn nhằm mục đích cung cấp một tài liệu học tập và tham khảo cho sinh viên ngành chế tạo máy và các đối tượng quan tâm.
Trong quá trình sản xuất thực phẩm, thông thường nguyên vật liệu phải qua các công đoạn gia công chế biến bằng nhiều máy móc thiết bị khác nhau, do đó nguyên vật liệu cần phải được chuyển từ công đoạn này sang công đoạn khác. Quá trình này được thực hiện nhờ các máy vận chuyển phù hợp với tính chất của nguyên vật liệu. Thông thường, máy vận chuyển làm việc liên tục, chuyên chở vật lệu theo hướng đã định, có thể làm việc trong một thời gian không giới hạn, không dừng lại khi nạp và tháo liệu. Các máy và thiết bị vận chuyển liên tục bao gôm các loại chính như: gàu tải, băng tải, xích tải, cào tải thuộc nhóm máy có bộ phận kéo và vít tải, vận chuyễn bằng không khí và thủy lực thuộc nhóm máy không có bộ phận kéo
60 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2380 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Máy chế biến thực phẩm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I
VẬN CHUYỂN VẬT LIỆU RỜI
Trong quá trình sản xuất thực phẩm, thông thường nguyên vật liệu phải qua các công
đoạn gia công chế biến bằng nhiều máy móc thiết bị khác nhau, do đó nguyên vật liệu cần phải
được chuyển từ công đoạn nầy sang công đoạn khác. Quá trình nầy được thực hiện nhờ các máy
vận chuyển phù hợp với tính chất của nguyên vật liệu. Thông thường, máy vận chuyển làm việc
liên tục, chuyên chở vật liệu theo hướng đã định, có thể làm việc trong một thời gian không giới
hạn, không dừng lại khi nạp và tháo liệu.
Các máy và thiết bị vận chuyển liên tục bao gồm các loại chính như: gàu tải, băng tải,
xích tải, cào tải thuộc nhóm máy có bộ phận kéo và vít tải, vận chuyển bằng không khí và thủy
lực thuộc nhóm máy không có bộ phận kéo.
VÍT TẢI
Vít tải là máy vận chuyển vật liệu rời chủ yếu theo phương nằm ngang. Ngoài ra vít tải có
thể dùng để vận chuyển lên cao với góc nghiêng có thể lên tới 90o, tuy nhiên góc nghiêng càng
lớn hiệu suất vận chuyển càng thấp.
Vít tải gồm có một trục vít xoắn ốc quay được trong lòng một máng hình nửa trụ. Trường
hợp góc nghiêng lớn, vít tải quay trong ống trụ thay cho máng. Máng của vít tải gồm nhiều đoạn
dài từ 2 m đến 4 m, đuờng kính trong lớn hơn đường kính cánh vít khoảng vài mm, được ghép
với nhau bằng bích và bulông. Trục vít làm bằng thép ống trên có cánh vít. Cánh vít làm từ thép
tấm được hàn lên trục theo đường xoắn ốc tạo thành một đường xoắn vô tận. Trục vít và cánh
quay được nhờ các ổ đỡ ở hai đầu máng. Nếu vít quá dài thì phải lắp những ổ trục trung gian,
thường là ổ treo, cách nhau khoảng 3-4 m. Khi trục vít quay sẽ đẩy vật liệu chuyển động tịnh
tiến trong máng nhờ cánh vít, tương tự như chuyển động của bulông và đai ốc. Vật liệu trượt dọc
theo đáy máng và trượt theo cánh vít đang quay.
Vít tải chỉ có thể đẩy vật liệu di chuyển khi vật liệu rời, khô. Nếu vật liệu ẩm, bám dính
vào trục sẽ quay theo trục, nên không có chuyển động tương đối giữa trục và vật liệu, quá trình
vận chuyển không xảy ra. Để có thể chuyển được các nguyên liệu dạng cục hoặc có tính dính
bám, cần chọn loại cánh vít có dạng băng xoắn hoặc dạng bơi chèo, tuy nhiên năng suất vận
chuyển bị giảm đáng kể.
Hình I - 1. Cấu tạo vít tải
- 1 -
Chiều di chuyển của vật liệu phụ thuộc vào chiều xoắn của cánh vít và chiều quay của
trục vít. Nếu đảo chiều quay của trục vít sẽ làm đổi chiều chuyển động của vật liệu. Hai trục vít
có chiều xoắn của cánh vít ngược nhau sẽ đẩy vật liệu theo hai hướng ngược nhau nếu quay cùng
chiều.
Vít tải thường được truyền động nhờ động cơ điện thông qua hộp giảm tốc. Số vòng quay
của trục vít trong khoảng từ 50-250 vòng/phút. Chiều dài vận chuyển của vít tải thường không
dài quá 15-20 m.
Năng suất vận chuyển của vít tải được tính theo công thức:
kg/hCSndDQ , *
4
)(60 1
22
ψρπ −=
trong đó:
Q: năng suất vận chuyển, kg/h
D: đường kính ngoài của cánh vít, m
n: số vòng quay trục vít, v/phút
ρ: khối lượng riêng xốp của vật liệu, kg/m3
ψ: hệ số nạp đầy. Đối với vật liệu dạng hạt chọn ψ= (0,3-0,45); đối với vật liệu đã
nghiền nhỏ ψ= 0,45-0,55
S: bước vít, m. để vận chuyển hạt rời, thông thường S = (0,8-1) D
C1: hệ số xét tới độ dốc của vít tải so với mặt phẳng ngang (bảng 1.1)
Bảng 1.1 Hệ số C1
Độ dốc của vít tải, độ 15 20 45 60 75
Hệ số C1 0,9 0,8 0,7 0,6 0,5
Hình I - 2. Vít tải nghiêng vận chuyển sàn phẩm dạng bột
Vít tải có các ưu điểm sau:
− Chúng chiếm chỗ rất ít, với cùng năng suất thì diện tích tiết diện ngang của vít tải nhỏ
hơn rất nhiều so với tiết diện ngang của các máy vận chuyển khác.
− Bộ phận công tác của vít nằm trong máng kín, nên có thể hạn chế được bụi khi làm việc
với nguyên liệu sinh nhiều bụi.
− Giá thành thấp hơn so với nhiều loại máy vận chuyển khác.
- 2 -
Những nhược điểm của vít tải:
− Chiều dài cũng như năng suất bị giới hạn, thông thường không dài quá 30 m với năng
suất tối đa khoảng 100 tấn/giờ
− Chỉ vận chuyển được vật liệu rời, không vận chuyển được các vật liệu có tính dính bám
lớn hoặc dạng sợi do bị bám vào trục.
− Trong quá trình vận chuyển vật liệu bị đảo trộn mạnh và một phần bị nghiền nát ở khe
hở giữa cánh vít và máng. Ngoài ra nếu quãng đường vận chuyển dài, vật liệu có thể bị phân lớp
theo khối lượng riêng.
− Năng lượng tiêu tốn trên đơn vị nguyên liệu vận chuyển lớn hơn so với các máy khác.
BĂNG TẢI
Băng tải là một máy vận chuyển vật liệu rời theo phương ngang bằng cách cho vật liệu
nằm trên một mặt băng chuyển động. Vật liệu sẽ được mang từ đầu nầy tới đầu kia của băng và
được tháo ra ở cuối băng.
Băng tải gồm một băng bằng cao su hoặc vải hoặc bằng kim loại được mắc vào hai puli ở
hai đầu. Bên dưới băng là các con lăn đỡ giúp cho băng không bị chùng khi mang tải. Một trong
hai puli được nối với động cơ điện con puli kia là puli căng băng. Tất cả được đặt trên một khung
bằng thép vững chắc. Khi puli dẫn động quay kéo băng di chuyển theo.
Vật liệu cần chuyển được đặt lên một đầu băng và sẽ được băng tải mang đến đầu kia.
Trong nhiều trường hợp cần phải tháo liệu giữa chừng có thể dùng các tấm gạt hoặc xe tháo di
động. Thông thường puli căng là puli ở vị trí nạp liệu, còn puli dẫn động ở phía tháo liệu vì với
cách bố trí như vậy nhánh băng phía trên sẽ là nhánh thẳng giúp mang vật liệu đi dễ dàng hơn.
Để tránh hiện tượng trượt, giữa puli và băng cần có một lực ma sát đủ lớn, do đó băng cần phải
được căng thẳng nhờ puli căng được đặt trên một khung riêng có thể kéo ra phía sau được.
Hình I - 3. Cấu tạo và nguyên lý hoạt động của băng tải
- 3 -
Hình I - 4. Con lăn đỡ nghiêng
Băng tải có các đặc điểm như sau:
− Không làm hư hỏng vật liệu do vật liệu không có chuyển động tương đối với mặt băng
− Có thể áp dụng cho nhiều loại sản phẩm khác nhau như các loại vật liệu rời, vật liệu đơn
chiếc hoặc các loại vật liệu không đồng nhất.
− Có khả năng vận chuyển tương đối xa.
− Chiếm nhiều diện tích và không gian lắp đặt.
− Tiêu tốn năng lượng trên một đơn vị khối lượng vận chuyển tương đối cao
Năng suất của băng tải có thể tính theo công thức
*60*60 ρπρ DnAvAQ == , kg/h
trong đó Q: năng suất vận chuyển của băng tải, kg/h
v: vận tốc chuyển động của băng, m/phút
A: diện tích mặt cắt ngang trung bình lớp vật liệu trên băng, m2
ρ*: khối lượng riêng xốp của vật liệu, kg/m3
D: đường kính puli truyền động, m
n: số vòng puli truyền động, v/phút
Hình I - 5. Băng tải bằng thép không rỉ và bằng lưới
- 4 -
GÀU TẢI
Gàu tải là thiết bị vận chuyển vật liệu rời theo phương thẳng đứng. Cấu tạo của gàu tải
gồm có hai puli đặt trong một thân làm bằng thép mỏng. Một đai dẹt trên đó có bắt các gàu múc
được mắc vào giữa hai puli. Puli trên cao được truyền động quay nhờ động cơ điện thông qua
hộp giảm tốc, còn puli dưới được nối với bộ phận căng đai có nhiệm vụ giữ cho đai có đủ độ
căng cần thiết bảo đảm đủ lực ma sát giữa đai và puli. Vật liệu được mang lên cao nhờ các gàu
múc di chuyển từ dưới lên.
Gàu múc vật liệu từ phía chân gàu đi lên phía trên và đổ ra ngoài theo hai phương pháp
chủ yếu là đổ nhờ lực ly tâm và nhờ trọng lực. Ở phương pháp ly tâm, gàu chứa đầy vật liệu khi
đi vào phần bán kính cong của puli trên sẽ xuất hiện lực ly tâm, có phương thay đổi liên tục theo
vị trí của gàu. Hợp lực của trong lực và lực ly tâm làm cho vật liệu văng ra khỏi gàu và rơi xuống
đúng vào miệng ống dẫn vật liệu ra. Lực ly tâm sinh ra phụ thuộc vào vân tốc quay của puli, nếu
số vòng quay của puli lớn, lực ly tâm lớn làm vật liệu văng ra ngoài sớm hơn, rơi trở lại chân
gàu. Nếu quay chậm, lực ly tâm nhỏ vật liệu ra khỏi gàu chậm và không văng xa được, do đó vật
liệu không rơi đúng vào miệng ống dẫn vật liệu. Số vòng quay của puli phải phù hợp mới có thể
đổ vật liệu đúng vào miệng ống dẫn vật liệu ra.
Hình I - 6. Cấu tạo gàu tải đổ theo phương pháp ly tâm và phương pháp trọng lực - Cách bắt gàu lên đai gàu
- 5 -
Hình I - 7. Puli căng dạng cánh chống nghiền nát vật liệu Hình I - 8. Hình dạng bên ngoài của gàu
Năng suất vận chuyển của gàu được tính bằng công thức:
kg/hDnmVvmVQ , *60*60 ψρπψρ ==
trong đó Q: năng suất vận chuyển của gàu, kg/h
v: vận tốc chuyển động của đai gàu, m/phút
n: số vòng quay puli, v/phút
V: thể tích chứa của 1 gàu, m3
ρ*: khối lượng riêng xốp của vật liệu, kg/m3
D: đường kính puli truyền động, m
ψ: hệ số nạp đầy
HỆ THỐNG VẬN CHUYỂN BẰNG KHÍ ĐỘNG
Vận chuyển vật liệu bằng không khí được ứng dụng đầu tiên vào vận chuyển những vật
liệu dạng sợi và hạt. Nhờ có nhiều uu điểm nên hình thức vận chuyển nầy được ứng dụng rộng
rãi và trong rất nhiều trường hợp được thay thế hoàn toàn cho phương pháp vận chuyển cơ khí.
Vận chuyển vật liệu bằng không khí dựa trên nguyên lý sử dụng dòng khí chuyển động
trong ống dẫn với tốc độ đủ lớn để mang vật liệu từ chỗ nầy đến chỗ khác dưới trạng thái lơ
lửng. Theo lý thuyết, dòng khí có vận tốc đủ lớn có thể vận chuyển vật liệu có khối lượng riêng
và kích thước bất kỳ. Nhưng vì năng lượng để vận chuyển và tiêu tốn tăng nhanh rất nhiều lần so
với trọng lực của hạt vật liệu, cho nên trong phạm vi thực tế ứng dụng của phương pháp vận
chuyển bằng không khí thường chỉ sử dụng cho các loại vật liệu hạt có kích thước tương đối nhỏ,
nhẹ .
Vận chuyển bằng không khí được dùng nhiều trong các ngành công nghiệp khác nhau.
Hiện nay năng suất của các hệ thống vận chuyển bằng không khí dao động trong giới hạn khá
lớn, có thể đạt tới 800 t/h, độ dài vận chuyển có thể tới 1800 m và độ cao có thể đạt tới 100m.
Trong các nhà máy chế biến lương thực thực phẩm, hệ thống áp suất thấp và trung bình
(chênh áp giữa đầu hút và đẩy <0,1 at) được sử dụng rộng rãi để cơ giới hóa các nguyên công
vận chuyển trong phân xưởng và giữa các phân xưởng với nhau. Những hệ thống nầy làm việc
với vận tốc khí trong ống khoảng 18-20 m/s, nồng độ hỗn hợp tương đối thấp (µ= 5kg vật liệu/kg
- 6 -
không khí), suất tiêu tốn không khí khá lớn. Trong nhiều trường cho phép kết hợp vận chuyển
với một vài quá trình công nghệ khác như làm mát, phân loại, sấy, v.v...
Hình I - 9. Hệ thống vận chuyển hạt bằng khí động
Nguyên liệu hạt được ôtô hoặc tàu chở tới, đổ vào thùng chứa rồi được hút theo ống dẫn vào
buồng lắng hạt. Tại đây do vận tốc dòng khí giảm, hạt lắng xuống đáy buồng, sau đó được tháo
ra nhờ bộ phận tháo liệu lắp ở đáy buồng. Không khí được dẫn vào xyclôn lắng rồi vào máy lọc
túi để làm sạch bụi. Từ máy lọc không khí sạch được hút vào quạt và ra ngoài trời. Để có thể lấy
nguyên liệu tại nhiều vị trí khác nhau cần có các đoạn ống mềm. Nhờ hệ thống nầy có thể hút
nguyên vật liệu từ nhiều vị trí trong cùng một lúc.
Để đảm bảo cho các hệ thống vận chuyển bằng không khí làm việc không bị ngưng trệ và
đáng tin cậy, cần chọn tốc độ không khí như sau:
- Trường hợp vận chuyển hạt trong các ống dẫn thẳng đứng lấy v = 22m/s khi nồng độ là µ ≤
4 kg /kg và v =25m/s khi µ > 4 kg/kg.
- Trường hợp vận chuyển hạt trong các ống dẫn nằm ngang khi µ = 1- 4 kg/kg v≥ 18 - 22
m/s.
- 7 -
Chương II
MÁY RỬA BAO BÌ- NGUYÊN LIỆU THỰC
PHẨM
1. NGUYÊN TẮC CHUNG KHI RỬA BAO BÌ, NGUYÊN
LIỆU
Bao bì thực phẩm thường sử dụng là hộp sắt, chai thủy tinh và các loại bao bì nhựa. Các loại hộp
sắt cần phải được rửa trước khi sử dụng vì quá trình gia công và bảo quản không bảo đảm độ
sạch cần thiết. Ðối với chai lọ thủy tinh, phần lớn chai được quay vòng sử dụng nhiều lần nên
trong chai thường chứa nhiều loại cặn bẩn, rác, v.v..Bao bì thủy tinh mới cũng không bảo đảm
sạch. Vì vậy chai quay vòng và chai mới đều cần phải được rửa sạch trước khi sử dụng. Các hệ
thống máy rửa được thiết kế chủ yếu cho hai loại bao bì này. Các loại bao bì nhựa là bao bì mới
thường chỉ cần qua súc tráng sơ bộ trước khi đưa sản phẩm thực phẩm vào
Nguyên liệu sử dụng trong sản xuất thực phẩm đều cần rửa sạch và có thể phải xử lý sơ bộ trước
khi chế biến. Có thể áp dụng máy rửa đối với một số loại nguyên liệu sử dụng trong quá trình
chế biến ở quy mô lớn. Tuy nhiên, vì nguyên liệu có hình dạng phức tạp và dễ hư hỏng, xây xát
nên khó có thể áp dụng cơ giới cho tất cả các loại nguyên liệu.
Quá trình rửa nguyên liệu và bao bì có thể chia làm 2 giai đoạn:
- Giai đoạn ngâm: ngâm trong nước, nước nóng, hoặc nước có pha hóa chất. Mục đích của
giai đoạn nầy là làm trương nuớc, giảm liên kết của các cặn bẩn, bị bở tơi ra. Thời gian ngâm tùy
thuộc vào loại bao bì, nguyên liệu và đặc tính của cặn bẩn.
- Giai đoạn rửa: Làm sạch sau khi ngâm bằng cách dùng lực cơ học như tia nước mạnh
hoặc chổi, bàn chải hoặc ma sát làm trôi cặn bẩn. Tuỳ theo cấu trúc của nguyên liệu, cần phải có
phương pháp rửa thích hợp nhằm tránh làm xây xát hư hỏng nguyên liệu nhưng vẫn đạt được
hiệu quả tối đa. Đối với nguyên liệu, kích thước, hình dạng thường không đồng nhất nên quá
trình rửa khó sạch đồng đều, do vậy phải rửa lại bằng tay. Với bao bì thủy tinh và hộp sắt,
thường cần năng suất lớn nên hầu hết các nhà máy sản xuất thực phẩm sử dụng hệ thống rửa
bằng máy.
2. TÁC DỤNG CỦA MÔI TRƯỜNG RỬA
Nguyên tắc làm việc của máy để rửa sạch bao bì thực phẩm là dựa trên cơ sở gia công bằng dung
dịch nóng các hoá chất tẩy rửa. Phổ biến nhất để rửa chai lọ là dung dịch NaOH có nồng độ 1,5-
3%.Tác dụng của dung dịch NaOH là :
- hòa tan các chất bẩn, dung dịch có tác dụng hóa học lên cặn bẩn, ví dụ như xà phòng hóa
chất béo trên thành chai
- làm nở cặn khô đến trạng thái mềm, bở
- sát trùng
Nhiệt độ có tác dụng làm cho các phản ứng hoá lý xảy ra nhanh hơn, tốc độ thấm ướt nhanh.
Chai hay lọ rửa sạch được là nhờ cả tác dụng hóa học và tác dụng nhiệt của dung dịch.
Đối với nguyên liệu thực phẩm, việc sử dụng nhiệt và hoá chất tẩy rửa có nhiều hạn chế do làm
ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm, và dư lượng hoá chất có thể gây nguy cơ ảnh hưởng tới điều
- 8 -
kiện an toàn vệ sinh thực phẩm. Vì vậy khi rửa nguyên liệu thực phẩm, chỉ sử dụng nhiệt độ
ngâm không cao lắm, và chỉ sử dụng các loại hoá chất an toàn ở mức độ cho phép.
3. MÁY RỬA BAO BÌ
3.1 Máy rửa hộp sắt
Hộp sắt thường bám dầu, bụi trong quá trình gia công và bảo quản, do đó cần rửa sạch trước khi
sử dụng. Do hộp trước khi rửa hoàn toàn là hộp mới nên các loại cặn bẩn không nhiều và tương
đối dễ rửa.
Ðặc tính cuả các loại bao bì sắt là không chịu được các loại hoá chất mạnh, tuy nhiên có khả
năng chịu nhiệt tốt, do đó thông thường các máy rửa hộp sử dụng nước nóng và hơi nước bão
hoà để làm sạch hộp. Quá trình rửa ở nhiệt độ cao còn có tác dụng tiêu diệt các vi sinh vật có sẵn
trong hộp, làm giảm được hiện tượng hư hỏng sản phẩm sau nầy.
Nguyên tắc làm việc của các máy rửa hộp sắt là phun nước nóng có nhiệt độ 90 -95 oC vào trong
hộp, làm cho các hạt bụi trương nở rất nhanh, bong ra khỏi bề mặt hộp và được mang ra ngoài
nhờ dòng nước. Sau khi rửa bằng nước nóng, hơi có nhiệt độ cao 105-120 oC được phun vào bên
trong hộp. Mục đích của việc phun hơi là tiêu diệt tất cả các vi sinh vật còn sót lại trong hộp
trước khi cho thực phẩm vào, nhờ đó tăng khả năng bảo quản của đồ hộp. Ở cuối quá trình rửa,
hộp được sấy khô bằng không khí nóng.
Máy rửa hộp sắt kiểu băng chuyền
Máy rửa hộp sắt kiểu băng chuyền gồm một hệ thống băng tải bằng thép không rỉ và các buồng
phun nước lạnh, buồng phun nước nóng, buồng phun hơi nước, buồng sấy hộp. Băng tải mang
hộp nằm ngang di chuyển lần lượt qua các buồng. Bên trong buồng có các vòi phun nước hoặc
hơi nước được bố trí dọc hai bên thành của băng chuyền. Các vòi phun được bố trí thành hàng
liên tiếp nhau nhờ đó hộp được phun nhiều lần trong suốt thời gian di chuyển trong mỗi buồng.
Hộp lần lượt được phun nước lạnh, nước nóng, hơi nước và sau đó sấy khô bằng không khí
nóng. Bụi bẩn sẽ được mang ra theo dòng nước. Trong buồng sấy khô, một hệ thống quạt thổi
không khí nóng làm khô hộp trong khi di chuyển. Ðể tiết kiệm nước, thông thường các máy rửa
có hệ thống lọc nước đã sử dụng, chỉ bổ sung thêm phần hao hụt.
Hình II- 1. Máy rửa hộp sắt kiểu băng chuyền
- 9 -
Hình II- 2. Phun rửa bên trong hộp trên băng tải
3.2 Máy rửa chai thủy tinh-chai nhựa
Ðặc tính của bao bì thủy tinh là không chịu được sự thay đổi nhiệt độ đột ngột nhưng chịu được
các hóa chất mạnh. Do đó, bao bì thủy tinh có thể được rửa sạch bằng cách ngâm trong dung
dịch kiềm nóng.
Máy rửa chai thủy tinh gồm có 2 sợi xích thép chạy song song nhau. Các giá giữ chai bằng thép
nối giữa 2 sợi xích sẽ làm cho cả hệ thống xích-giá giữ chai di chuyển. Xích chạy vòng trong
máy đi qua các thùng chứa nước và dung dịch hoá chất theo một trong hai cách: di chuyển từng
nấc: di chuyển-dừng-di chuyển hoặc di chuyển liên tục với vận tốc không đổi.
Trong máy rửa chuyển động theo phương pháp thứ nhất, ở chu kỳ dừng, tại vị trí nhận, chai sẽ
được một hệ thống tay gạt sắp xếp thẳng hàng đưa vào giá giữ chai. Sau khi nhận, chai được
chuyển dần xuống bên dưới và được ngâm trong bể chứa nước ấm. Tại đây phần lớn các loại cặn
bẩn thô sẽ rơi ra và lắng xuống đáy bể ngâm. Nhãn chai bằng giấy sẽ trôi ra dễ dàng trong giai
đoạn nầy. Kế tiếp chai được đưa sang bể ngâm dung dịch kiềm nóng, các chất bẩn còn bám trên
bề mặt sẽ bở tơi nhanh chóng. Thời gian ngâm trong dung dich kiềm phải đủ để tất cả các chất
bẩn mềm ra và dễ dàng tách ra, kể cả một ít nhãn còn sót lại. Sau khi ngâm trong dung dịch
kiềm, chai được đưa lên trên, dốc ngược và được phun dung dịch rửa phía bên trong nhờ các vòi
phun vận tốc cao được bố trí đúng tâm của chai trong giai đoạn dừng của băng chuyền Bên ngoài
chai cũng được phun rửa. Sau đó, chai được tráng lại nhiều lần bằng nước nóng rồi nước lạnh.
Dòng nước mạnh sẽ cuốn trôi tất cả các bụi bẩn bên trong chai. Chai được giữ ở tư thế dốc
ngược trong một thời gian để ráo bớt nước trước khi được đẩy khỏi giá giữ chai ra ngoài.
Đối với máy có chuyển động liên tục, xích di chuyển với vận tốc không đổi, không dừng lại khi
nhận chai vào và lấy chai ra khỏi máy. Bộ phận đưa chai vào và lấy ra sẽ có chuyển động cùng
tốc độ với xích, do đó chai được thao tác êm hơn. Ở giai đoạn phun nước, vòi phun sẽ tự động di
chuyển theo chai bảo đảm tia nước luôn luôn được phun vào đúng miệng chai, nhờ vậy chai
được rửa sạch hoàn toàn. Máy nầy cần phải có độ chính xác khi chế tạo cũng như khi làm việc
cao hơn nhiều so với máy chạy từng nấc.
Nước và dung dịch sút trong máy được lọc để tái sử dụng nhằm tiết kiệm nước và hoá chất.
Nhiệt độ được duy trì nhờ các ống gia nhiệt bằng hơi nước lắp phía dưới đáy.
- 10 -
Hình
II- 3. Máy rửa chai thủy tinh
Hình II- 4. Qui trình máy rửa chai sử dụng sút 2 lần (Krones –CHLB Đức)
Đối với chai nhựa, thường không cần phải rửa bằng các loại hoá chất mà chỉ cần súc tráng bằng
tia nước mạnh, bởi vì chai nhựa chỉ sử dụng một lần không quay vòng, nên bên trong chai tương
đối sạch. Máy rửa loại nầy có hai dạng: dạng máy thẳng và dạng bàn quay. Dạng thẳng thích hợp
cho các qui trình năng suất nhỏ, còn dạng bàn quay áp dụng cho năng suất lớn
4. MÁY RỬA NGUYÊN LIỆU
Có nhiều loại máy rửa nguyên liệu khác nhau về cấu tạo, tuy nhiên nguyên tắc hoạt động gần
như giống nhau.Các loại nguyên liệu có thể rửa bằng máy rất đa dạng như rau, củ, quả, nguyên
liệu thủy sản, v.v..
- 11 -
4.1 Máy rửa băng chuyền
Máy được cấu tạo gồm một băng tải bằng thép không rỉ và thùng chứa nước rửa có thể tích
tương đối lớn. Băng tải được chia làm 3 phần, phần nằm ngang ngập trong nước, phần nghiêng
có các ống phun nước mạnh và một phần nằm ngang ở phía cao. Bên dưới băng tải phần ngập
trong nước có bố trí các ống thổi khí nhận không khí từ một quạt đặt bên ngoài.
Trong giai đoạn ngâm, nguyên liệu ở trên phần băng nằm ngang ngập trong nước, các cặn bẩn
bám trên ngoài bề mặt nguyên liệu bị bong ra. Băng tải di chuyển sẽ mang nguyên liệu đi dần về
phía phần băng nghiêng. Hiệu quả của quá trình ngâm được tăng cường nhờ thổi khí làm xáo
trộn nước và nguyên liệu trên mặt băng, làm tăng diện tích tiếp xúc của nguyên liệu và nước nên
thời gian ngâm được rút ngắn. Khi nguyên liệu di chuyển đến phần nghiêng của băng, các vòi
phun nước với áp suất cao đến 2-3 at sẽ rửa sạch cặn bẩn. Ở cuối quá trình rửa, nguyên liệu di
chuyển đến phần nằm ngang phía trên để được làm ráo nước.
Hình II- 5. Máy rửa băng chuyền
Tùy thuộc loại nguyên liệu và mức độ bẩn, có thể điều chỉnh tốc độ di chuyển của băng chuyền
cho phù hợp. Nếu nguyên liệu quá bẩn, cho băng chuyền đi chậm lại, làm tăng thời gian rửa.
Ngược lại, nếu cặn bẩn bám trên ngoài nguyên liệu ít, có thể cho băng chuyền đi nhanh hơn
nhằm tăng năng suất quá trình. Nước sạch từ vòi phun vào thùng ngâm sẽ bổ sung nước cho hệ
thống, còn cặn bẩn được tháo ra liên tục qua van xả và nước thừa theo máng chảy tràn ra ngoài.
Tuy nhiên, chất lượng rửa của máy chưa cao, do đó cần kiểm tra và rửa lại bằng tay khi cần thiết.
4.2 Máy rửa thổi khí
Máy rửa thổi khí gồm hai ngăn có đáy hình phễu, ngăn thứ nhất lớn, ngăn thứ hai nhỏ hơn, chứa
đầy nước. Trong ngăn thứ nhất có dàn ống thổi khí mạnh lắp phía dưới, ngăn cách giữa ngăn thứ
nhất và thứ hai có ống lưới quay, cuối ngăn thứ hai có ống lưới quay thứ hai. Khi làm việc,
không khí từ dàn ống thổi khí nổi lên làm xáo trộn rất mạnh nước trong ngăn thứ nhất. Nguyên
liệu nổi trong nước như rau, trái cây nhỏ cho vào ở đầu ngăn thứ nhất. Nước xáo động mạnh làm
các chất bẩn nhanh chóng hút nước, bở tơi và tách ra khỏi bề mặt nguyên liệu.Ống quay thứ nhất
đưa nguyên liệu sang ngăn thứ hai, tại đây nước không bị xáo động nhiều nên các chất bẩn còn
bám trên nguyên liệu sẽ tách ra hoàn toàn và lắng xuống đáy hình phễu của ngăn. Cuối máy,
nguyên liệu được ống lưới quay thứ hai vớt lên và chuyển ra ngoài. Nguyên liệu còn được phun
nước sạch rửa lần cuối trườc khi rơi ra khỏi ống lưới thứ hai. Nước từ các ngăn được lọc và bơm
trở lại ngăn đầu sử dụng lại. Cặn lắng chủ yếu ở ngăn đầu được xả ra ngoài.
Máy rửa thổi khí thích hợp để rửa các loại rau, các loại trái cây nhỏ. Các nguyên liệu nặng, chìm
sâu không rửa được trên máy loại nầy.
- 12 -
Hình II- 6. Máy rửa thổi khí dùng rửa rau
4.3 Máy rửa cánh đảo
Máy rửa cánh đảo là loại máy rửa làm việc liên tục, thường được dùng để rửa các loại củ quả
cứng. Nguyên tắc làm việc của máy là đảo trộn tích cực nguyên liệu trong khi rửa. Cấu tạo của
máy gồm một máng đục lỗ hình bán trụ đặt nằm ngang, bên trong có trục quay. Trên trục có các
cánh đảo được bố trí theo đường xoắn ốc. Bên trên máng là một hệ thống ống phun nước áp suất
cao. Quá trình ngâm và rửa trôi được tiến hành đồng thời bằng cách phun nước rửa liên tục trong
khi đảo trộn nguyên liệu. Nước ngấm và làm mềm các chất bẩn bám trên bề mặt, sự đảo trộn làm
các nguyên liệu va chạm với nhau làm chất bẩn rơi ra, đồng thời dòng nước sẽ mang ra ngoài
theo các lỗ ở đáy máng. Thời gian cần thiết để rửa sạch có thể giảm đáng kể do đó kích thước
của máy trở nên gọn nhẹ hơn. Tuy nhiên do đảo trộn mạnh nên máy chỉ có thể làm việc với các
loại nguyên liệu củ quả cứng.
Hình II - 1 . Máy rửa cánh đảo
- 13 -
4.4 Máy rửa kiểu sàng
Để rửa các loại nguyên liệu tương đối cứng, có thể dùng máy rửa kiểu sàng. cấu tạo của máy rửa
kiểu sàng gồm có một sàng đục lỗ, thường làm bằng thép không rỉ, được nối với cơ cấu truyền
động làm cho sàng có chuyển động tịnh tiến. Phía trên sàng có bố trí các vòi phun nước rửa.
Thông thường sàng được đặt nghiêng một góc đủ để nguyên liệu có thể di chuyển từ đầu nầy đến
đầu kia của sàng. Nguyên liệu ban đầu được cho vào ở đầu cao của máy rửa kiểu sàng. Do
chuyển động của sàng, nguyên liệu sẽ tiếp xúc với bề mặt sàng đồng thời với nước xối từ trên
làm các chất bẩn bám trên bề mặt nguyên liệu bị thấm ướt và tách ra. Nước bẩn theo các lỗ trên
sàng rơi xuống máng hứng phía dưới và được tháo ra ngoài. Với lượng nước sử dụng đủ, thời
gian lưu lại trên sàng càng lâu, nguyên liệu rửa càng sạch.
Hình II - 2. Máy rửa kiểu sàng
- 14 -
Chương III
MÁY PHÂN LOẠI - LÀM SẠCH VẬT LIỆU RỜI
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ PHÂN LOẠI - LÀM SẠCH
Vật liệu rời là các vật liệu dạng hạt như đường, bột, hạt ngũ cốc, v.v.. Thông thường vật liệu rời
bao gồm nhiều thành phần khác nhau và thường không hoàn toàn đồng nhất. Sự phân chia khối
vật liệu rời theo một tính chất vật lý nào đó được gọi chung là quá trình phân loại-làm sạch vật
liệu rời. Tuy nhiên tùy theo công việc cụ thể, các máy phân loại-làm sạch có thể được gọi là máy
phân loại hay máy làm sạch. Máy phân loại và máy làm sạch có thể được phân biệt như sau:
− Máy làm sạch tách phần vật liệu được xem là tạp chất ra khỏi khối hạt nguyên liệu ban đầu
để thu được khối hạt có tính chất công nghệ như nhau. Thí dụ như tách các loại tạp chất rơm rạ
ra khỏi khối hạt thóc lúa.
− Máy phân loại chia khối vật liệu ban đầu thành nhiều loại khác nhau dựa trên một số đặc
điểm, tính chất nào đó, thí dụ như phân chia hạt thóc thành loại hạt dài và hạt ngắn.
Trong công nghệ thực phẩm, các máy phân loại được chia thành hai nhóm:
− Nhóm đơn giản: Các máy phân loại thuộc nhóm nầy có nhiệm vụ phân loại hỗn hợp thành
hai thành phần theo một dấu hiệu riêng, thí dụ mặt sàng với một loại lỗ (cùng kích thước và hình
dạng lỗ), máy chọn theo cỡ hạt, ống phân loại,...
− Nhóm phức tạp: Các máy phân loại theo nhóm nầy có cấu tạo gồm hai hoặc nhiều máy đơn
giản trong một hệ thống hoàn chỉnh và có thể tách một hỗn hợp thành ba hoặc bốn thành phần
trở lên theo những tính chất riêng. Thí dụ sàng quạt có thể phân loại hỗn hợp thành nhiều thành
phần theo kích thước khối lượng riêng và tính chất khí dộng của các cấu tử (các loại tạp chất như
rác, bụi, hạt lép được tách riêng ra khỏi khối hạt chính.
Hiện nay trong sản suất, quá trình phân lọai có thể thực hiện trên một số máy theo các nguyên lý
sau:
− Phân loại theo kích thước hình học của hạt: dùng các loại máy sàng, máy rây và ống phân
loại hạt kiểu ống trụ
− Phân loại theo trạng thái bề mặt của hạt: máy gằn thóc khỏi gạo lức (máy sàng Pakis, máy
sàng kiểu khay)
− Phân lọai theo khối lượng riêng: dùng băng tải nghiêng, mặt xoắn ốc, các lọai máy gằn đá,
sàng Pakis, sàng kiểu khay,
− Phân loại theo tính chất khí động của hạt: dùng quạt thổi hoặc hút
− Phân lọai theo từ tính: dùng nam châm vĩnh cửu và nam châm điện để tách các tạp chất sắt
− Phân loại theo màu sắc: dùng các máy phân loại bằng điện tử và quang điện
I.1 Phân loại theo khối lượng riêng
Các tạp chất như đất, đá, sỏi, mảnh thủy tinh v.v.. rất khó tách ra khi phân loại theo kích thước vì
chúng rất gần với kích thước của hạt. Tuy nhiên do khối lượng riêng của chúng khác nhau nên có
thể dựa vào sự khác nhau đó để phân loại. Nếu các cấu tử trong hỗn hợp cần phân loại có sự
khác nhau rõ rệt về khối lượng riêng thì càng dễ để phân chia riêng ra. Khối lượng riêng khác
nhau có thể dẫn tới sự phân lớp của hạt hoặc có hướng chuyển động khác nhau do tác động của
lực quán tính. Sự phân lớp xảy ra khi khối hạt có chuyển động thích hợp sẽ làm cho thành phần
khối lượng riêng nhỏ nổi lên phía trên còn thành phần khối lượng riêng lớn nằm bên dưới.
- 15 -
I.2 Phân loại theo từ tính.
Tạp chất sắt có thể làm hư hỏng bộ phận làm việc của máy, đặc biệt là các máy có vận tốc làm
việc lớn hoặc có khe hở làm việc nhỏ, và có thể bật tia lửa gây ra hỏa hoạn. Các loại tạp chất sắt,
gang, niken, coban đều có thể dùng nam châm tách ra được, thường dùng nam châm vĩnh cữu
hoặc nam châm điện để tách các tạp chất sắt. Ðối với nam châm vĩnh cữu phải đảm bảo lực hút
khoảng 12 kG. Lớp hạt chảy qua nam châm không được quá dày. Ðể đảm bảo vận tốc chảy của
dòng hạt thì góc nghiêng của đường ống tự trượt nơi đặt nam châm chỉ được lớn hơn góc
nghiêng tự nhiên của hạt 3- 6O
I.3 Phân loại theo tính chất của bề mặt nguyên liệu
Các cấu tử khác nhau trong khối hạt có trạng thái bề mặt không giống nhau. Bề mặt của chúng
có thể xù xì, rỗ, nhẵn bóng, có vỏ hoặc không vỏ v.v.. Những trạng thái bề mặt khác nhau ấy có
thể áp dụng để phân loại trên mặt phẳng nghiêng. Khi các
phần tử có trạng thái bề mặt không giống nhau chuyển động
trên mặt phẳng nghiêng sẽ chuyển động với những vận tốc
khác nhau. Vì vậy nên có những phần tử rơi xa hơn, có
những phần tử rơi gần hơn. Nếu đặt trên quỹ đạo rơi những
tấm chắn thì có thể phân lọai hỗn hợp ra làm nhiều phần
khác nhau theo tính chất bề mặt. Các thiết bị phân loại cố
định đều dựa vào nguyên tắc trên để phân lọai, trong đó có
cả thiết bị phân loại hạt dạng cầu và hạt dẹt. Phương pháp
phân loại dựa vào sự khác nhau về hệ số ma sát có ý nghĩa
rất lớn trong trường hợp phân lọai hỗn hợp gồm hai hoặc
nhiều dạng hạt có kích thước gần nhau (hình III-1).
I.4 Phân loại theo những tính chất khí động học.
Phương pháp phân loại này dùng sức gió, dựa vào tính chất
khí động học để phân chia khối hạt thành các phần khác
nhau. Những tính chất khí động phụ thuộc vào hình dáng,
kích thước, khối lượng, trạng thái bề mặt và vị trí của phần
tử trong dòng không khí cũng như trạng thái của không khí.
Với đặc tính sức cản không giống nhau trong khi chuyển
động trong dòng khí làm cho điểm rơi khác nhau, hạt có sức
cản lớn, khối lượng nhỏ sẽ rơi xa còn hạt có sức cản nhỏ sẽ rơi sớm hơn. Căn cứ vào vị trí rơi
của hạt có thể phân chia thành nhiều loại khác nhau
Hình III -1. Thiết bị phân loại
hạt theo tính chất bề mặt
Khả năng phân riêng của hỗn hợp theo một tính chất vật lý nào đó là cơ sở để chọn máy phân
loại. Căn cứ vào các nghiên cứu thực nghiệm, có thể xác định được những tính chất nào cho
phép phân riêng hỗn hợp một cách tốt nhất
Hình 2 biểu diễn đồ thị phân chia hỗn hợp hai cấu tử. Trục hoành biểu diễn tính chất cơ lý x của
hạt được dùng làm phương pháp phân loại. Trục y biểu diễn tần suất. Khi phân loại hỗn hợp nầy
có 3 trường hợp xảy ra:
• Hai cấu tử theo tính chất x khác nhau hoàn toàn. Hỗn hợp nầy dễ phân loại
• Hai cấu tử có chung một số phần tử cùng tính chất x. Hỗn hợp nầy khó phân loại
• Hai cấu tử theo tính chất cơ lý x hoàn toàn giống nhau. Hỗn hợp nầy không thể
phân loại được
- 16 -
Hình III - 2. Đồ thị phân chia hỗn hợp thành hai cấu tử
a- Hai cấu tử không có chung phần tử cùng tính chất
b- Hai cấu tử có một phần phần tử cùng tính chất
c- Hai cấu tử chung nhau hoàn toàn các phần tử cùng tính
chất
II. CÁC MÁY-THIẾT BỊ PHÂN LOẠI
II.1 Sàng phẳng
Sàng phẳng là một loại thiết bị phân loại-làm sạch được sử dụng từ thời cổ. Sàng phẳng có thể là
công cụ đơn giản làm bằng các loại vật liệu tre trúc hoặc có thể là một máy sàng hiện đại có khả
năng phân loại chính xác các loại vật liệu rời theo các kích thước khác nhau.
Nguyên tắc làm việc của sàng phân loại là phân chia khối vật liệu theo kích thước nhờ một bề
mặt kim loại có đục lỗ hoặc lưới. Vật liệu chuyển động trên mặt sàng và được phân chia thành
hai loại:
• Phần lọt qua sàng là những hạt có kích thước nhỏ hơn kích thước lỗ sàng
• Phần không qua sàng có cỡ lớn hơn kích thước lỗ sàng, do đó sẽ nằm lại trên bề mặt
của sàng
Tùy theo yêu cầu vật liệu rời cần phân loại, có thể bố trí các hệ thống sàng gồm nhiều lớp. Thí
dụ, sàng 2 lớp sẽ phân chia nguyên liệu thành 3 loại kích thước khác nhau, sàng 3 lớp sẽ phân
chia vật liệu thành 4 cỡ kích thước... Kích của lỗ sàng ở lớp trên lớn hơn ở lớp sàng dưới.
Quá trình chuyển động sàng giúp cho có quá trình phân loại-làm sạch xảy ra tốt hơn do tạo cơ
hội để cho hạt tiếp xúc với lỗ sàng. Trong trường hợp làm việc liên tục, sàng được đặt nghiêng
một góc từ 2 - 7o, hạt sẽ có khuynh hướng di chuyển xuống phía dưới. Quá trình di chuyển như
vậy giúp cho hạt có kích thước nhỏ sẽ chui qua lỗ sàng. Phần hạt không qua sàng sẽ được hứng ở
phía đầu thấp của sàng.
Tùy theo bố trí hệ thống truyền động, chuyển động của sàng có thể khác nhau làm cho chuyển
động của hạt trên sàng cũng khác nhau. Thông thường sàng được thiết kế sao cho hạt có cả
chuyển động xuống và lên nhưng với khoảng đi xuống dài hơn khoảng đi lên.
Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất của sàng có thể kể đến là:
• Diện tích bề mặt sàng, là thông số quan trọng nhất. Diện tích càng lớn, năng suất càng lớn.
Tổng diện tích lỗ sàng cũng ảng hưởng trực tiếp đến năng suất sàng.
• Tốc độ chuyển động của sàng. Tốc độ càng lớn, năng suất càng lớn
• Số vật liệu qua lỗ sàng. Lượng vật liệu nhỏ hơn lỗ sàng càng nhiều, năng suất sàng càng
giảm do cần nhiều thời gian hơn để tách phần vật liệu nầy.
Ðối với một sàng đã có sẵn, diện tích mặt sàng và tốc độ chuyển động của sàng hầu như không
điều chỉnh được, do đó để điều chỉnh khả năng làm việc của sàng, người ta thay đổi lượng nhập
liệu.
- 17 -
Hình III - 3. Sơ đồ cấu tạo sàng phẳng
Hình III - 4. Hình dạng của một số loại sàng
II.2 Sàng ống quay
Sàng ống quay gồm có một ống bằng lưới được truyền động quay với số vòng quay khoảng 5-10
v/ph. Nguyên liệu cần làm sạch đi ngang qua ống quay hoặc đổ vào bên trong ống. Trường hợp
đi bên ngoài, vật liệu di chuyển ngang qua ống, phần có kích thước nhỏ hơn lỗ lưới sẽ chui qua
lưới rơi xuống phía dưới, phần có kích thước lớn không qua lưới được đi ngang qua ống và được
hứng phía sau. Trường hợp nguyên liệu đổ vào bên trong ống, khi ống quay, phần có kích thước
nhỏ rới qua lỗ lưới, phần có kích thước lớn di chuyển dọc theo ống đến đầu kia. Vật liệu di
chuyển từ đầu nầy đến đầu kia được là nhờ ống đựơc đặt nghiêng một góc 2-5o. Năng suất của
sàng ống quay tuỳ thuộc vào kích thước của ống lưới quay, ống càng lớn năng suất càng cao. Ưu
điểm của sàng ống quay là cầu tạo đơn giản, làm việc êm, không gây rung động mạnh như sàng
phẳng, không chiếm nhiều mặt bằng. Nhược điểm là không phân riêng được các hỗn hợp có kích
thước gần bằng nhau, tỉ lệ sót còn lớn.
- 18 -
Sàng ống quay thường dùng để làm sạch các loại hạt nông sản, tách bụi, cát và các tạp chất lớn,
rơm, rạ,…Thường sàng ống quay được kết hợp nhiều ống và cả quạt hút để làm sạch tốt hơn.
Hình III - 5. Máy làm sạch hạt sử dụng sàng ống quay
Hình III - 6. Sàng ống quay nhập liệu trong ống
II.3 Ống phân loại
Sử dụng rất hiệu quả trong công nghiệp xay xát, dùng phân loại hạt dài và ngắn, thí dụ như phân
loại tấm ra khỏi gạo.
Ống phân loại là một ống hình trụ được truyền động quay, làm từ thép tấm mỏng cuộn tròn lại.
Bề mặt bên trong của ống được tạo các hốc lõm có kích thước chính xác và bằng nhau bằng
phương pháp dập Bên trong và đồng trục với ống có một vít tải và máng hứng có thể điều chỉnh
vị trí hứng được bằng các quay máng. Ống và vít tải có thể quay cùng số vòng quay hoặc có thể
khác nhau.
Nguyên liệu được đưa vào ở một đầu của ống. Khi quay, hạt sẽ chui vào hốc. Các hạt dài rơi ra
ngay khi hốc vừa được quay lên. Trái lại, hạt ngắn nằm sâu trong hốc nên rơi ra sau khi ống đã
quay lên cao. Phần hạt ngắn sẽ rơi vào máng hứng và được vít tải đẩy dọc theo máng ra ngoài và
rơi theo một đường riêng. Sau một số lần quay, hấu hết hạt ngắn được chuyển lên máng hứng,
phần còn lại trong ống chỉ là hạt dài. Do ống quay đặt hơi dốc nên hạt dài di chuyển dần về đầu
- 19 -
thấp của ống và rơi ra. Tùy theo vị trí của máng
hứng, kích thước của các hạt dài và ngắn được
phân riêng sẽ thay đổi.
Năng suất và chất lượng làm việc của ống phân
loại tăng khi ống dài hơn. Ngoài ra kích thước l
cần chính xác và đồng nhất, nếu không rất khó
phân loại.Trong trường hợp quay nhanh, lực ly
tâm quá lớn sẽ làm hạt bám chặt lên thành ống
làm giảm khả năng phân riêng hoặc đôi khi
không phân riêng được.
ỗ
Ống phân loại thường được chế tạo thành cụm
gồm 2 ống làm việc nối tiếp nhau, ống trên đổ
xuống ống dưới. Như vậy cho phép điều chỉnh 2
ống khác nhau nhằm đạt hiệu suất phân riêng
cao nhất. Ống phân loại thường được dùng
phân riêng gạo-tấm sau khi xay xát, cho phép tách hầu hết các hạt gãy ra khỏi khối hạt từ đó có
thể đấu trộn trở lại để có được hỗn hợp gạo tấm theo đúng tỉ lệ yêu cầu
Hình III - 7. Ống phân loại hạt ngắn
II.4 Sàng phân loại thóc gạo
II.4.1 Sàng phân loại kiểu zig- zag (sàng Pakis)
Ðây là loại sàng công dụng đặc biệt dùng cho phân loại hỗn hợp thóc gạo sau khi xay.
Thóc sau khi xay gồm có gạo lức (đã tách vỏ trấu), vỏ trấu và thóc chứa được xay. Vỏ trấu được
lấy ra nhờ một hệ thống quạt hút hoặc thổi. Gạo lức và thóc được đưa sang sàng phân loại để
phân riêng. Phần gạo lức tách ra được chuyển sang công đoạn xát tách vỏ lụa, phần thóc chưa
tách vỏ sẽ được hồi lại công đoạn xay.
Ưu điểm của sàng zig- zag là tiết kiệm được số lần sàng. Thóc và gạo lức có kích thước
gần nhau, nếu sử dụng sàng phân loại bình thường rất khó, phải qua hơn 10 lần sàng.
- 20 -
Hình III - 8. Nguyên lý làm việc của sàng zig-zag
Nguyên tắc phân loại của sàng zig- zag dựa theo khối lượng riêng và độ nhám bề mặt. Mặt
sàng là một tấm kim loại phẳng và nhẵn bóng, được đặt hơi nghiêng, góc nghiêng có thể điều
chỉnh được. Trên mặt sàng có các gờ hình zig- zag lắp song song nhau tạo thành một khe cũng
có dạng zig-zag. Sàng được truyền chuyển động theo phương vuông góc với các gờ với tần số
trong khoảng 90-120 lần/phút.
Hỗn hợp thóc gạo được đổ vào ở giữa sàng. Khi sàng chuyển động, hỗn hợp thóc gạo do
lực quán tính bị va đập mạnh lên các gờ. Do sự khác biệt về khối lượng riêng và độ nhám, dẫn
đến hiện tượng phân lớp, gạo có khuynh hướng di chuyển xuống phía dưới thấp, còn thóc được
đưa lên phía đầu cao.
Hình III - 9. Sàng zig zag
- 21 -
Một tầng sàng có nhiều khe, thông thường từ 5 đến 20 khe và mỗi một máy sàng có thể có
tới 5 tầng sàng song song nhau. Số khe và tầng sàng càng nhiều, năng suất sàng càng lớn. Ðiều
chỉnh độ phân loại bằng cách điều chỉnh góc nghiêng của sàng. Góc nghiêng càng lớn, thóc càng
có khuynh hướng di chuyển xuống dưới và ngược lại góc nghiêng nhỏ sẽ làm gạo đi lên phía trên
cao cùng với thóc. Quá trình điều chỉnh nầy cần tiến hành thường xuyên, thông thường đòi hỏi
người điều chỉnh có kinh nghiệm.
Trong thực tế, sàng Pakis thường được điều chỉnh sao cho hoàn toàn không còn thóc theo
gạo, do đó sẽ có một số lượng khá lớn gạo theo thóc lên phía trên sàng quay lại. Vì vậy, một máy
xay khác được bố trí để xay riêng cho lượng thóc-gạo hồi lưu. Sau khi xay lượng hồi lưu cũng
được đưa qua cùng sàng Pakis, như vậy năng suất của sàng theo qui trình nầy phải lớn hơn, tuy
vậy đây là qui trình có hiệu quả xay đạt cao nhất.
II.4.2 Sàng khay (sàng giật)
Sàng khay cũng là sàng dùng để phân riêng hỗn hợp thóc gạo sau khi xay. Nguyên lý làm việc
của nó dựa lên sự khác biệt khối lượng riêng và hiện tượng phân lớp khi chuyển động giữa thóc
và gạo.
Sàng giật được cấu tạo gồm tấm kim loại nhẵn láng có dập các hốc lõm xen kẽ. Kích thước
và hình dạng của các hốc được thiết kế sao cho khi sàng chuyển động, hốc sẽ tác dụng lực lên
khối hạt trên mặt sàng. Sàng được đặt nghiêng theo hai chiều sao cho có một góc cao nhất và
một góc thấp nhất.
Hỗn hợp thóc gạo được đưa vào ở góc cao nhất. Nhờ vào chuyển động của sàng, thóc bị
phân lớp và nổi lên trên bề mặt lớp hạt. Do có các hốc nên khi sàng chuyển động lớp gạo sẽ được
đưa lên phía cao của sàng và lấy ra ở một góc sàng. Lớp thóc nằm trên bề mặt lớp gạo sẽ trượt
xuống dưới (trượt trên bề mặt lớp gạo), và sẽ di chuyển xuống góc thấp nhất. Giữa góc lấy thóc
và gạo là vùng hỗn hợp, trong đó gạo còn lẫn thóc và sẽ được đưa trở lại phía trước sàng. Tần số
chuyển động của sàng thường là 300 lần/phút. Năng suất của một tầng sàng có thể tới 1-1,5 tấn/h
Hình III - 10. Đường di chuyển của thóc, gạo trên mặt sàng
- 22 -
Hình III - 11. Nguyên lý hoạt động của sàng khay và đường đi của thóc, gạo trên mặt sàng
Bề mặt sàng cần phải thật phẳng để bảo đảm quá trình phân loại xảy ra chính xác. Trường
hợp bề mặt sàng bị gồ, lớp gạo mỏng đi, khi sàng giật cả thóc cũng chạy lên theo gạo và ngược
lại một phần gạo bị trượt xuống. Ở chỗ lõm, lớp gạo lên dày hơn nên một phần gạo không được
đẩy lên và sẽ trượt xuống theo thóc.
* Ưu nhược điểm của sàng giật
− Do năng suất một lớp sàng nhỏ nên năng suất chung của cả máy sàng có thể từ rất nhỏ đến
lớn.
− Cấu tạo nhỏ, gọn, dễ lắp đặt, điều chỉnh.
− Do có nhiều lớp sàng được bố trí chồng lên nhau nên khó đạt độ đồng nhất cho tất cả các
lớp.
Hình III - 12. Sàng khay với 3 cửa lấy gạo, hỗn hợp và thóc
II.5 Máy phân cỡ kiểu cáp
Dùng để phân loại quả theo kích thước. Cấu tạo của máy gồm có 2 dây cáp mắc giữa 4 puli (2
puli cho mỗi sợi) được lắp sao cho khoảng cách giữa 2 dây cáp càng lúc càng xa hơn. Khi các
puli quay, dây cáp sẽ chạy đồng thời và cùng tốc độ. Trái cây cần phân cỡ được đặt trên khoảng
- 23 -
hở giữa hai dây cáp, khi cáp chuyển động sẽ di chuyển cùng với cáp. Khi khoảng hở giữa 2 sợi
cáp tăng dần, các trái có kích cỡ khác nhau sẽ rơi xuống các ngăn chứa được bố trí bên dưới.
Máy phân cỡ kiểu cáp chỉ sử dụng chủ yếu
phân cỡ các loại quả lớn, không phân loại các
loại quả hoặc hạt có kích thước nhỏ.
Máy phân cỡ nguyên liệu thủy sản (tôm)
cũng làm việc theo nguyên lý tương tự: hai trục
hình côn song song quay ngược chiều nhau với
số vòng quay thấp tạo thành một khe hở có kích
thước lớn dần. Nguyên liệu cho vào ở đầu khe
hở nhỏ. Do có độ dốc nên khi trục quay, nguyên
liệu sẽ trượt dần xuống phía dưới, đến khi khe
hở lớn hơn nguyên liệu rơi xuống bên dưới. Tuỳ
vị trí hứng có thể phân làm nhiều cỡ khác nhau.
Máy được thiết kế có máng dẫn phía trên với hệ
thống phun nước làm sạch để bảo đảm
II.6 Máy tách tạp chất sắt
Tạp chất sắt như bulông, đinh, thép, mạt
sắt... thường lẫn trong các vật liệu rời, hạt ngũ
cốc. Sắt thể làm hư hỏng máy móc sản xuất gia
công chế biến, do đó cần chú ý tách sắt ra nhằm
hạn chế hư hỏng.
Ðể tách tạp chất sắt thường sử dụng nam châm vĩnh cữu
hoặc nam châm điện. Nam chân được lắp trên đường đi của
nguyên liệu, tạp chất sắt sẽ được giữ lại còn các vật liệu
khác đi qua. Phần tạp chất nầy được lấy ra định kỳ để bảo đảm khả năng làm việc của nam châm.
Hình III -13. Máy phân cỡ trái
cây, thủy sản
Hình III - 14. Máy tách tạp chất sắt
- 24 -
Hình III - 15. Trống quay tách tạp chất sắt từ
II.7 Máy tách hạt màu
Hạt ngũ cốc có màu khác không đặc trưng thường là các hạt không tốt hoặc hư hỏng. Để tách các
hạt có màu khác thường ra khỏi khối hạt, có thể dùng máy tách hạt màu. Máy tách hạt màu làm
việc dựa theo nguyên tắc phân biệt hạt màu bằng cảm biến màu của dòng hạt đang trượt trên
rãnh. Nếu phát hiện hạt có màu khác lạ, một ống thổi khí sẽ thổi hạt màu ra khỏi rãnh và rơi
xuống máng hứng bên dưới. Máy có thể tách hầu hết các hạt có màu sẫm ra khỏi khối hạt có màu
sáng.
Đối với gạo, năng suất máy có thể đạt tới 200 kg/h/rãnh. Thông thường mỗi máy có thể có từ 60-
80 rãnh làm việc đồng thời.
Hình III - 16. Nguyên lý tách hạt màu
- 25 -
Chương IV
ÐỊNH LƯỢNG VẬT LIỆU RỜI
Trong sản xuất thực phẩm, quá trình đo lường lượng nguyên liệu xác định, định lượng những vật
liệu bổ sung và thành phẩm có ý nghĩa lớn. Ðịnh lượng phải đảm bảo tiến hành đúng các quá
trình công nghệ, cách pha trộn đã qui định, phân lượng đúng và chính xác thành phẩm...
Quá trình định lượng vật liệu rời thường được tiến hành theo 2 cách:
− Ðịnh lượng liên tục: vật liệu rời được cung cấp liên tục và không đổi theo thời gian. Có
thể xác định lượng cung cấp bằng cách xác định thể tích hoặc khối lượng vật liệu qua máy trong
một đơn vị thời gian.
− Ðịnh lượng từng mẻ: phần lớn là quá trình cân tự động, khi đã nạp đủ lượng đã định, hệ
thống tự động sẽ đóng đường nạp liệu và tháo lượng sản phẩm trong máy ra. Lượng cung cấp
được xác định bằng thể tích hoặc khối lượng vật liệu trong một mẻ cân.
VÍT ÐỊNH LƯỢNG
Vít định lượng là thiết bị định lượng vật liệu rời với độ chính xác trung bình. Cấu tạo của vít
định lượng tương tự như một vít tải, tuy nhiên thường có kích thước tương đối nhỏ và không quá
dài. Khi vít định lượng quay với số vòng quay không đổi, lượng cung cấp cũng không thay đổi
theo thời gian. Ðể thay đổi lượng cung cấp, tốc độ quay của vít định lượng được điều chỉnh nhờ
một bộ biến tốc vô cấp.
Năng suất của vít cấp liệu được xác định theo công thức :
*
4 1
22
ρψπ ⋅⋅⋅⋅−= CnSdDQ , kg/phút
trong đó
D: đường kính ngoài vít xoắn, m
d : đường kính trong vít xoắn, m
S: bước vít, m, thường thường S = (0,8÷1) D
ψ: hệ số nạp đầy ψ = 0,6÷0,8
n: số vòng quay của vít xoắn, v/phút
thông thường n = 40-80 v/ph, khi độ linh động của sản phẩm giảm xuống thì n= 20-40 v/ph.
Ðể tránh vật liệu tích tụ trong vít định lượng cần phải đảm bảo tỉ lệ :
D ≥ [4 - 5]dC
dC : kích thước lớn nhất của sản phẩm.
ρ*: khối lượng riêng xốp của vật liệu, kg/m3
- 26 -
Hình IV- 1. Vít định lượng
Lượng cung cấp của vít định lượng không hoàn toàn đồng đều theo thời gian do cấu tạo của vít
và tính chất khó chảy thành dòng liên tục của vật liệu rời. Trong thực tế, lượng cung cấp thường
xác định bằng đo đạc tại chỗ.
BĂNG ÐỊNH LƯỢNG
Cấu tạo giống băng tải vận chuyển nhưng ngắn hơn do chỉ dùng để định lượng hơn là vận
chuyển. Phễu chứa nguyên liệu được lắp phía trên băng giúp cho việc cung cấp được đồng đều.
Cửa ra của phễu nạp liệu có tấm chắn điều chỉnh diện tích cửa ra để thay đổi lượng cung cấp.
Dọc theo hai bên băng có lắp thêm tấm chắn khi đó mặt cắt của lớp sản phẩm trên băng là một
hình chữ nhật, giúp cho quá trình định lượng được chính xác. Lượng cung cấp có thể xác định
theo công thức:
** ρπρ ⋅⋅⋅⋅⋅=⋅⋅⋅⋅= hkbnDkhbvQ , kg/phút
trong đó n: số vòng quay puli, v/phút
b, h: bề rộng và chiếu dầy lớp vật liệu trên băng, m
v: vận tốc chuyển động của băng, m/s
D: đường kính puli chủ động, m
ρ∗: khối lượng riêng xốp của vật liệu, kg/m3
k: hệ số trượt giữa puli và băng
Ðể có thể tự động hoá quá trình định lượng, một hệ thống cảm biến thường được lắp để nhận biết
sự thay đổi trọng lượng hoặc thể tích vật liệu trên băng. Khi trọng lượng vật liệu trên băng thay
đổi, hệ thống cảm biến sẽ làm thay đổi tần số rung của một máy rung cấp liệu đặt ở cửa ra của
phễu nạp liệu làm thay đổi tương ứng lượng cung cấp hoặc làm thay đổi số vòng quay của puli
băng tải.
Hình 3 mô tả một hệ thống cảm biến nhận biết sự thay đổi chiều rộng lớp vật liệu nhờ một chùm
tia gamma hẹp chiếu từ bên dưới. Cảm biến lắp phía trên nhận biết do dự thay đổi cường độ bức
xạ gamma khi di xuyên ngang lớp vật liệu, từ đó có thể tính được khối lượng vật liệu cung cấp.
- 27 -
Hình IV- 2. Băng định lượng
Hình IV- 3. Băng định lượng có máng rung
- 28 -
Hình IV- 4. Đo lượng cung cấp bằng tia gamma
DĨA ÐỊNH LƯỢNG
Dĩa hay mâm định lượng là một dĩa quay nằm ngang, bên trên là phễu chứa vật liệu. Trên mặt
dĩa có thanh gạt cố định, động cơ điện và bộ giảm tốc được bố trí bên dưới. Sản phẩm từ phễu
chảy xuống dĩa quay, và phần vật liệu tiếp xúc với thanh gạt được lấy ra rơi xuống phía dưới.
Lương vật liệu định lượng được điều chỉnh bằng cách dịch chuyển ống tiếp liệu di động phủ bên
ngoài đoạn ống tháo của phễu chứa hoặc thay đổi vị trí thanh gạt vào sâu hay lùi ra khỏi dĩa
quay. Ðộng cơ điện làm quay trục thẳng đứng qua cơ cấu truyền động. Năng suất của máy định
lượng phụ thuộc vào thể tích sản phẩm trên dĩa, vào chiều cao và vị trí đặt ống điều chỉnh và số
vòng quay của dĩa. Số vòng quay của dĩa trong khoảng vài vòng/phút nhằm tránh không để vật
liệu bị văng ra do lực ly tâm.
Hình IV- 5. Dĩa định lượng Hình IV- 6. Trống định lượng
- 29 -
TRỐNG ÐỊNH LƯỢNG
Là một thiết bị định lượng theo thể tích. Cấu tạo gồm một trống hình trụ đặt nằm ngang, trên bề
mặt trống có hốc hoặc các ngăn. Trống được truyền động quay với số vòng quay thấp và có thể
thay đổi được. Phía trên trống là phễu chứa nguyên liệu cần định lượng, phía dưới là ống dẫn
nguyên liệu ra.
Khi trống quay, vật liệu trong phễu rơi vào hốc và được mang xuống tháo ra ở phía dưới. Do
kích thước các hốc là bằng nhau và số vòng quay của trống là cố định nên lượng nguyên liệu
tháo ra ở phía dưới là không thay đổi. Tùy thuộc vào số vòng quay của trống, nguyên liệu được
định lượng khác nhau.
Ngoài ra còn có loại trống định lượng đặc biệt:
-Trống trơn: Sử dụng để định lượng nguyên liệu lượng nhỏ, nguyên liệu có kích thước hạt
nhỏ.
- Trống có hốc lớn: định lượng nguyên liệu có số lượng lớn (vài trăm kg/giờ)
Tốc độ vòng của trống từ 0,025 đến 1m/s. Thông thường các trống định lượng thay đổi lượng
cung cấp bằng cách thay đổi số vòng quay trống nhờ các biến tốc vô cấp hoặc thay đổi số vòng
quay động cơ bằng bộ biến tần.
Năng suất trống định lượng có thể tính theo
*ρ⋅⋅⋅= VmnQ , kg/phút
trong đó D: đường kính trống, m
n: số vòng quay trống, v/phút
m: số hốc trên trống
V: thể tích 1 hốc, m3
ρ∗: khối lượng riêng xốp của vật liệu, kg/m3
Ngoài ra còn có thể tính năng suất định lượng của trống bằng công thức
*ρ⋅⋅⋅= kFvQ , kg/phút
trong đó F : diện tích tiết diện lỗ, m2
v : tốc độ trung bình của sản phẩm chảy ra qua lỗ, m/s
k : hệ số nạp đầy của lỗ ra
ρ : khối lượng riêng xốp của sản phẩm, kg/m3
Ðể tính toán tốc độ trung bình của sản phẩm chảy ra có thể lấy bằng tốc độ vòng của thùng. Hệ
số nạp đầy của lỗ ra k phụ thuộc vào trọng lượng thể tích và thành phần cỡ hạt của vật liệu, trung
bình lấy k = 0,7. Khối lượng riêng của sản phẩm càng lớn và thành phần của nó đồng đều thì đại
lượng k càng lớn.
ĐỊNH LƯỢNG TỪNG PHẦN
Định lượng từng phần là lấy từng phần vật liệu rời từ khối vật liệu ban đầu, với thể tích hoặc
trọng lượng của từng phần bằng nhau. Thiết bị định lượng từng phần làm việc gián đoạn theo
chu kỳ, có thể điểu khiển bằng tay kết hợp với các cơ khí hoặc điều khiển tự động nhờ các hệ
thống vi xử lý. Hình IV-7 mô tả chu trình làm viêc của một máy định lượng từng phần có bộ
phần vi xử lý. Giai đoạn đầu là giai đoạn xả nhanh, đến khi đạt 97% trong lượng yêu cầu thi cửa
- 30 -
xả sẽ đóng bớt lại, dòng vật liệu chảy xuống chậm hơn. Khi vừa đủ trọng lượng, cửa xả đóng lại,
sau đó cửa tháo vật liệu mở ra đổ toàn bộ lượng vật
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- May che bien thuc pham.pdf