Mở đầu lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học gắn liền với cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa hai phương pháp biện chứ

Sự phát triển của phép biện chứng duy vậtMỞ ĐẦU Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học gắn liền với cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa hai phương pháp biện chứng và siêu hình. Trong đó, phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái đứng im, không vận động, tách rời. Phương pháp này đã dẫn đến sai lầm phủ nhận sự phát triển, không thấy được mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Còn phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét những sự vật, hiện tượng là những phản ánh của chúng vào tư duy chủ yếu là trong mối liên hệ qua lại giữa chúng, trong sự phát sinh và tiêu vong của chúng. Trong lịch sử triết học đã từng có thời kỳ tư duy siêu hình chiếm ưu thế so với tư duy biện chứng. Nhưng xét trên toàn bộ lịch sử triết học, thì phương pháp biện chứng luôn chiếm một vị trí đặc biệt, là phương pháp xuyên suốt trong đời sống tinh thần xã hội của nhân loại. Vì vậy nó cũng phát triển từ thấp đến cao mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật mácxít của triết học Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đánh giá cao phép biện chứng, coi đó là một công cụ tư duy sắc bén để đấu tranh với thuyết bất khả tri, tư duy siêu hình, củng cố niềm tin và sức mạnh của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CÁC PHÉP BIỆN CHỨNG TRƯỚC TRIẾT HỌC MÁC 1.1. Phép biện chứng thời cổ đại 1.1.1. Triết học Trung Hoa cổ đại 1.1.2. Triết học Ân Độ cổ đại 1.1.3. Triết học Hy Lạp cổ đại 1.2. Phép biện chứng thời kỳ Phục hưng và cận đại ở Tây Âu 1.3 Phép biện chứng cổ điển Đức CHƯƠNG 2: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT MÁC XÍT 2.1. Những tiền đề về kinh tế- xã hội, lý luận, khoa học cho sự ra đời phép biện chứng duy vật. 2.2. Nội dung chính của phép biện chứng duy vật 2.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu lịch sử của phép biện chứng KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc26 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1789 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mở đầu lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học gắn liền với cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa hai phương pháp biện chứ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 2 NỘI DUNG 3 CHƯƠNG 1: CÁC PHÉP BIỆN CHỨNG TRƯỚC TRIẾT HỌC MÁC 3 1.1. Phép biện chứng thời cổ đại 3 1.1.1. Triết học Trung Hoa cổ đại 3 1.1.2. Triết học Ân Độ cổ đại 5 1.1.3. Triết học Hy Lạp cổ đại 6 1.2. Phép biện chứng thời kỳ Phục hưng và cận đại ở Tây Âu 11 1.3 Phép biện chứng cổ điển Đức 13 CHƯƠNG 2: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT MÁC XÍT 16 2.1. Những tiền đề về kinh tế- xã hội, lý luận, khoa học cho sự ra đời phép biện chứng duy vật. 16 2.2. Nội dung chính của phép biện chứng duy vật 17 2.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu lịch sử của phép biện chứng 20 KẾT LUẬN 23 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 24 MỞ ĐẦU Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học gắn liền với cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa hai phương pháp biện chứng và siêu hình. Trong đó, phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái đứng im, không vận động, tách rời. Phương pháp này đã dẫn đến sai lầm phủ nhận sự phát triển, không thấy được mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Còn phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét những sự vật, hiện tượng là những phản ánh của chúng vào tư duy chủ yếu là trong mối liên hệ qua lại giữa chúng, trong sự phát sinh và tiêu vong của chúng. Trong lịch sử triết học đã từng có thời kỳ tư duy siêu hình chiếm ưu thế so với tư duy biện chứng. Nhưng xét trên toàn bộ lịch sử triết học, thì phương pháp biện chứng luôn chiếm một vị trí đặc biệt, là phương pháp xuyên suốt trong đời sống tinh thần xã hội của nhân loại. Vì vậy nó cũng phát triển từ thấp đến cao mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật mácxít của triết học Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đánh giá cao phép biện chứng, coi đó là một công cụ tư duy sắc bén để đấu tranh với thuyết bất khả tri, tư duy siêu hình, củng cố niềm tin và sức mạnh của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới. Thực tiễn cách mạng đã chứng minh rằng chỉ khi nào con người nắm vững những lý luận về phép biện chứng và vận dụng sáng tạo các nguyên tắc phương pháp luận của nó phù hợp với hoàn cảnh cụ thể thì quá trình cải tạo và biến đổi xã hội mới mang tính cách mạng triệt để. Vì vậy, việc nghiên cứu về lịch sử phát triển của phép biện chứng sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn bản chất của phép biện chứng và sự phát triển của tư duy biện chứng của nhân loại. Từ mục đích đó em chọn đề tài tiểu luận: “Sự phát triển của phép biện chứng trong triết học”. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CÁC PHÉP BIỆN CHỨNG TRƯỚC TRIẾT HỌC MÁC Phép biện chứng thời Cổ đại. Phép biện chứng thời Cổ đại là phép biện chứng tự phát, ngây thơ và mang tính trực quan, được hình thành trên cơ sở quan sát tự nhiên, xã hội hoặc thông qua kinh nghiệm bản thân. Thời Cổ đại có ba trung tâm triết học lớn nhất bấy giờ là: Triết học Trung Hoa cổ đại, Triết học Ấn Độ cổ đại, Triết học Hy Lạp cổ đại. Bên cạnh những đặc điểm chung, do đặc điểm văn hoá cũng như hoàn cảnh lịch sử khác nhau nên sự thể hiện tư tưởng biện chứng trong hệ thống triết học ở mỗi trung tâm đều có những đặc điểm riêng không giống nhau. 1.1.1 Triết học Trung Hoa cổ đại Triết học Trung Hoa cổ đại là một nền triết học lớn của nhân loại, có tới 103 trường phái triết học. Do đặc điểm của bối cảnh lịch sử Trung Quốc lúc đó là xã hội loạn lạc, đời sống nhân dân cơ cực, đạo đức suy đồi nên Triết học Trung Hoa cổ đại tập trung vào giải quyết các vấn đề về chính trị - xã hội. Những tư tưởng biện chứng thời kỳ này chỉ thể hiện khi các nhà triết học kiến giải các vấn đề về vũ trụ quan. Thuyết Âm- Dương là một học thuyết triết học mang tư tưởng biện chứng sơ khai, tự phát nhưng rất sâu sắc của người Trung Quốc cổ đại. Một trong những nguyên lý cơ bản nhất của học thuyết này là nhìn nhận mọi sự tồn tại không phải trong tính đồng nhất tuyệt đối, mà cũng không phải trong sự loại trừ biệt lập không thể tương đồng. Trái lại tất cả đều bao hàm sự thống nhất của các mặt đối lập Âm - dương, Âm - dương không loại trừ, không biệt lập mà bao hàm nhau, liên hệ tương tác lẫn nhau, chế ước lẫn nhau. Sự tương tác lẫn nhau giữa Âm - dương các mặt đối lập làm cho vũ trụ biến đổi không ngừng. Đây là quan điểm tư tưởng biện chứng sâu sắc. Học thuyết này cũng cho rằng chu trình vận động, biến dịch của vạn vật trong vũ trụ diễn ra theo nguyên lý phân đôi các thể thống nhất. Điều đó có nghĩa là giữa cái đa và cái duy nhất có sự cân bằng. Thế giới có tính chỉnh thể, toàn vẹn, thống nhất giữa những cái bất biến và những cái hằng biến. Bằng mô hình Thái cực, người Trung Quốc đã giải thích sự biến hóa của vũ trụ như sau: Thái cực( thể thống nhất) phân đôi thành Lưỡng nghi (Âm - Dương). Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (thái âm- thiếu âm, thái dương- thiếu dương). Tứ trụ lại sinh ra Bát quái( Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài) và từ Bát quái sinh ra vạn vật. Tuy nhiên, học thuyết Âm - dương cho rằng sự vận động của vạn vật đều diễn ra theo chu kỳ lặp lại, không có sự phát triển đi lên. Hơn nữa, học thuyết Âm - dương còn nhiều yếu tố duy tâm thần bí như quan điểm “Thiên tôn địa ty” cho rằng trật tự sang hèn trong xã hội bắt nguồn từ trật tự của trời đất, họ đem trật tự xã hội gán cho giới tự nhiên, rồi lại dùng học thuyết bịa đặt đó chứng minh cho sự hợp lý của chế độ đẳng cấp xã hội. Học thuyết Âm - dương, mặc dù còn có những tính chất trực quan, chất phác ngây thơ và tồn tại nhiều quan điểm duy tâm thần bí về xã hội, nhưng học thuyết Âm - dương đã bộc lộ rõ khuynh hướng duy vật và tư tưởng biện chứng tự phát của mình trong quan điểm về cơ cấu và sự vận động, biến hoá của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội. Nói đến tư tưỏng biện chứng chất phác, chúng ta không thể không nói đến Đạo gia. Đạo gia là trường phái mang tính triết học nhiều nhất trong các hệ thống triết học Trung Hoa với những đại biểu điển hình là: Lão tử, Trang Tử, Dương Chu. Vì vậy, mà người ta hay gọi Đạo gia là đạo Lão Trang. Quan điểm của Đạo gia về vũ trụ quan: Đạo gia cho rằng có một chúa tể vô hình và tối cao không hình thù không bản sắc, là nguyên nhân, là đầu mối của vạn vật. Đạo gia gọi chúa tể này là “Đạo”- con đường biến hoá của vạn vật. Đạo sáng tạo ra vạn vật. Vạn vật nhờ có Đạo mà sinh ra, sự sinh sản ra vạn vật theo trình tự “đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh ra vạn vật”. Trong mỗi sự vật hiện tượng luôn bao hàm các mặt đối lập. Vạn vật “bồng âm” và “cõng dương”, không có vật nào thuần âm hoặc thuần dương. Quy luật biến hoá của vạn vật là “ phản giả đạo chi động” (luôn luôn có động thái muốn quay trở về gốc, về điểm xuất phát của mình). Như vậy, tư tưởng biện chứng của Đạo gia thể hiện ở: Một là, những cái đối lập tồn tại dựa vào nhau, thống nhất với nhau, do vậy trừ bỏ được một mặt trong đó thì cũng tức là trừ bỏ được mặt kia. Hai là, muốn cho một vật nào đó suy tàn thì trước hết hãy làm cho nó tạm thời hưng thịnh lên đã, đến điểm tột cùng nó sẽ chuyển sang mặt đối lập( tức suy tàn). Đạo gia đã có những tư tưởng biện chứng chất phác nhưng chưa trở thành hệ thống. Trong tư tưởng chính trị- xã hội của Đạo gia còn chứa nhiều yếu tố bảo thủ, thậm chí là phản động( khuyên con người sống vô vi, thuận theo tự nhiên, thủ tiêu đấu tranh giai cấp). Tóm lại, tư tưởng biện chứng trong triết học Trung Quốc cổ đại mang tính tự phát, sơ khai, nhấn mạnh sự hài hòa thống nhất giữa tự nhiên, xã hội và nhân sinh. Đa số các nhà triết học đều nhấn mạnh sự hài hòa thống nhất giữa các mặt đối lập, coi trọng tính đồng nhất của các mối liên hệ tương hỗ của các sự vật, coi việc điều hòa mâu thuẫn là muc tiêu cuối cùng để giải quyết vấn đề. Đây cũng là tư duy điển hình của người phương Đông trong suốt chiều dài lịch sử. 1.1.2. Triết học Ấn Độ cổ đại Đây là hệ thống triết học có sự đan xen giữa triết học với tôn giáo và giữa các trường phái khác nhau. Các tư tưởng triết học được thể hiện dưới hình thức là một tôn giáo. Trong các trường phái tôn giáo ở Ấn Độ thì Phật giáo mang tính duy vật và biện chứng sâu sắc của nền triết học cổ đại Ấn Độ. Phật giáo được hình thành từ thế kỷ VI TCN, do thái tử Tất Đạt Đa tên hiệu là Thích Ca Mâu Ni (563-483 TCN) khai sáng. Phật giáo cho rằng vạn vật trên thế giới không do một đấng thần linh nào đó tạo ra mà được tạo ra bởi hai yếu tố là Danh (tinh thần) và Sắc (vật chất). Trong đó Danh bao gồm tâm và thức, còn Sắc bao gồm bốn đại (đại thuỷ, đại địa, đại hoả, đại phong). Chính nhờ quan điểm nêu trên mà Phật giáo được coi là tôn giáo có tư tưởng biện chứng duy vật sơ khai. Triết học Phật giáo có yếu tố vô ngã, vô thường. Vô ngã là không có cái tôi bất biến, cách nhìn này hoàn toàn đối lập với cách nhìn siêu hình về tồn tại. Cũng từ cách nhìn này, triết học Phật giáo đưa ra nguyên lý về mối liên hệ nhất định: không có cái nào là biệt lập tuyệt đối so với tồn tại khác, tất cả đều hoà đồng nhau. Vô thường là nói lên sự biến đổi không ngừng của vạn vật, không có cái gì là đứng im. Quy luật vô thường của mọi tồn tại là: Sinh, Trụ, Dị, Diệt. Đây là phỏng đoán biện chứng về sự biến đổi của tồn tại. Quy luật nhân - quả cho rằng sự tồn tại đa dạng và phong phú của thế giới đều có nguyên nhân tự thân, đó là quy luật nhân quả, một định lý tất định và phổ biến của mọi tồn tại, dù đó là vũ trụ hay nhân sinh. Theo trường phái Samkhya, Prakriti( hay Pradhana) là vật chất đầu tiên, nó không phải là vật chất ở dạng thô hay rõ ràng có thể nhận thức bằng cảm giác, mà là vật chất ở dạng tinh tế, tiềm ẩn vô định hình và trong nó chứa đựng khả năng tự biến hoá. Vật chất là vĩnh hằng nhưng không đứng yên, biến đi không nhừng từ dạng này sang dạng khác. Prakriti không ngừng biến hoá, phát triển trong không gian theo luật nhân - quả dẫn tới xuất hiện tính đa dạng của giới tự nhiên. Tuy nhiên, về bản thể luận, phái Samkhya theo quan điểm nhị nguyên luận khi thừa nhận sự tồn tại hai bản nguyên của vũ trụ là bản nguyên vật chất Prakriti và bản nguyên tinh thần Prusa. Tóm lại, Triết học Ấn Độ là một trong những nôi triết học vĩ đại của nhân loại thời kỳ cổ đại. Nó chứa đựng những yếu tố duy vật, vô thần đã manh nha hình thành tư tưởng biện chứng sơ khai. Tuy nhiên, tư duy triết học thời kỳ này cũng bộc lộ những hạn chế như: coi linh hồn con người là bất tử, có yếu tố duy tâm…. 1.1.3. Triết học Hy Lạp cổ đại Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển vào thế kỷ thứ VI TCN. Cơ sở kinh tế của nền triết học đó là quyền sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và người nô lệ. Khoa học lúc đó chưa phân ngành, các nhà triết học đồng thời là nhà toán học, vật lý học, thiên văn học…Nhìn chung, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phát và biện chứng sơ khai. Đời sống chính trị của Hy Lạp lúc bấy giờ sôi động, những quan hệ thương mại với nhiều nước khác nhau trên Địa Trung Hải. Sự tiếp xúc với đời sống sinh hoạt và những tri thức muôn vẻ của nhân dân các nước ấy đã góp phần quyết định và làm phát triển thế giới quan duy vật và biện chứng sơ khai của Hy Lạp cổ đại. Có thể tìm hiếu các tư tưởng biện chứng nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại qua một số đại diện cơ bản sau đây: • Talét (625-547 TCN): Talet là đại biểu tiêu biểu của trường phái triết học Mile. Thành tựu nổi bật của Talét là quan niệm triết học duy vật và biện chứng tự phát. Ông cho rằng nước là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của mọi vật trong thế giới. Mọi tồn tại đều sinh ra từ nước và khi phân huỷ lại biến thành nước. Theo Talét, vật chất tồn tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó sinh ra thì biến đổi không ngừng sinh ra và chết đi. Toàn bộ thế giới là một chỉnh thể thống nhất, tồn tại tựa như một vòng tuần hoàn biến đổi không ngừng mà nước là nền tảng của vòng tuần hoàn đó. Tuy nhiên, các quan điểm triết học duy vật của Talét mới chỉ dừng lại ở mức độ mộc mạc, thô sơ, cảm tính. • Hêraclít ( 540- 480 TCN) Theo các nhà kinh điển Mác- Lênin thì Hêraclit là người sáng lập phép biện chứng và ông xây dựng phép biện chứng trên lập trường duy vật. Thứ nhất: Quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Theo Hêraclít không có sự vật hiện tượng nào của thế giới đứng im tuyệt đối mà trái lại tất cả đều ở trạng thái biến đổi và chuyển hoá thành cái khác và ngược lại, ông từng nói: “Chúng ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông vì nước mới không ngừng chảy trên sông” và “Ngay cả mặt trời cũng mỗi ngày một mới”…. Thứ hai: Hêraclit thừa nhận sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập, trong các mối quan hệ khác nhau, chúng chuyển hóa, liên hệ và tác động lẫn nhau. Chẳng hạn, “đối với loài cá - ông nói - thì nước là rất cần thiết cho sự sống, nhưng đối với con người thì đó là một loại độc tố có hại” Các nhà duy vật Hy Lạp cổ đại, Nxb. Tư tưởng, Mátscova, 1955, tr.46( tiếng Nga) , cũng như “một con khỉ dù đẹp đến đâu nhưng vẫn là xấu nếu đem so với con người” Các nhà duy vật Hy Lạp cổ đại, Nxb. Tư tưởng, Mátscova, 1955, tr.49( tiếng Nga) . Sự xuất hiện của mặt đối lập này là quy định sự xuất hiện của mặt đối lập kia: “Bệnh tật làm cho sức khỏe quý hơn, cái ác làm cho cái thiện cao cả hơn, cái đói làm cho cái no dễ chịu hơn, mệt mỏi làm cho nghỉ ngơi thú vị hơn”. Song sự vận động biến hóa trong quan niệm của Hêraclit chỉ dừng lại trong vòng tuần hoàn, khép kín của tự nhiên. Ông chưa biết đến sự phát triển tiến lên, nhưng đó cũng là do sự giới hạn của lịch sử. Thứ ba: Theo Hêraclít, sự vận động và phát triển của thế giới là do quy luật( logos) quy định. Logos khách quan là trật tự kết quả mọi cái đang diến ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ, học thuyết, lời nói của con người. Logos chủ quan phải phù hợp với logos khách quan. Lý luận nhận thức của Hêraclít còn mang tính chất duy vật và biện chứng sơ khai, nhưng về cơ bản là đúng đắn. Tuy nhiên, ông lại có hạn chế về mặt chính trị, thù địch với nhân dân và ông chủ trương dùng chính quyền để nhanh chóng dập tắt phong trào dân chủ. Đêmôcrít (460-370 TCN) Ông là một trong những người đã phát triển học thuyết nguyên tử lên một trình độ mới, ông kế thừa quan điểm của Hêraclít cho rằng mọi sự vật đều biến đổi không ngừng. Đêmôcrít đã đưa ra lý thuyết về vũ trụ học: Lý thuyết này được xây dựng trên cơ sở lý luận nguyên tử về cấu tạo của vật chất, thấm nhuần tinh thần biện chứng tự phát và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lịch sử triết học. Ông khẳng định: Vũ trụ là vô tận và vĩnh viễn, có vô số thế giới phát sinh, phát triển và bị tiêu diệt, quan điểm của ông về vận động gắn liền với vật chất là một phỏng đoán có giá trị đặc biệt. Theo ông, vận động của nguyên tử là vĩnh viễn và ông đã cố gắng giải thích nguyên nhân vận động của nguyên tử là bản thân nguyên tử, ở động lực tự thân, tự nó. Tuy nhiên, ông đã không lý giải được nguồn gốc của sự vận động. Dựa trên học thuyết nguyên tử, Đêmôcrít đã đi tới quan điểm quyết định luận, đó là thừa nhận sự ràng buộc theo luật nhân quả, tính tất nhiên và khách quan của các hiện tượng tự nhiên. Đây là một quan điểm có giá trị của Đêmôcrít đống góp cho nền triết học Hi Lạp cổ đại. Mặc dù triết học Đêmôcrít còn mang tính thô sơ, chất phác nhưng những đóng góp của ông về các tư tưởng biện chứng và thề giới quan duy vật là rất đáng ghi nhận. Platôn (427-347TCN) Platôn là một trong những nhà triết học, nhà tư tưởng kiệt xuất nhất thời cổ đại. Ông được coi là nhười mở đầu cho siều hình học ở phương Tây. Các quan điểm triết học của ông chứa đựng những yếu tố biện chứng. Ông thừa nhận sự vận động của thế giới song đó chỉ là vận động theo sự điều khiển của ý niệm. Ông chia thế giới thành hai loại: - Thế giới của ý niệm: là thế giới tồn tại chân thực bất tử, tuyệt đối và là cơ sở tồn tại của thế giới sự vật cảm tính. - Thế giới của các sự vật cảm tính: là thế giới tồn tại không chân thực, thường xuyên biến đổi và phụ thuộc vào thế giới của những ý niệm. Đặc biệt, trong lý luận nhận thức của Platôn về cơ bản đó là: nhận thức là sự hồi tưởng, là sự liên hệ các chân lý được hồi tưởng lại. Cái chủ yếu nhất trong phương pháp hồi tưởng lại là nghệ thuật suy diễn lôgic, đàm thoại triết học hay còn gọi là nghệ thuật biện chứng. Platôn đã phát triển quan niệm của Xôcrat về phép biện chứng như một nghệ thuật tranh luận, ông hiểu nó theo hai khía cạnh: Thứ nhất, đó là kỹ năng đặt câu hỏi và giải đáp. Thứ hai, đó là khả năng sử dụng và tiếp cận các khái niệm, tổng hợp các quan điểm khác nhau trong tranh luận để đi đến ý tưởng thống nhất, xem tranh luận là phương tiện để đi tới chân lý. Phép biện chứng ở Platôn “không phải là thứ biện chứng mà trước đây chúng ta tìm thấy ở các nhà ngụy biện, những người nói chung đã lầm lẫn các quan niệm… mà là phép biện chứng vận động trong các khái niệm thuần túy, đó là vận động lôgic tự biện” G.V. Ph. Hêghen: Các bài giảng lịch sử triết học, Nxb.Tư tưởng, Mátxcơva, 1974, tr.104 (tiêng Nga) . Nhưng đó là phép biện chứng duy tâm, biện chứng của các khái niệm, tách rời hiện thực, từ bỏ cảm giác, chỉ nhận thức bằng tư duy thuần tuý. Tóm lại, mặc dù tư tưởng biện chứng của Platôn mang tính duy tâm khách quan nhưng đó lại là một hệ thống triết học khá hoàn chỉnh và nhất quán. Nó đối lập hoàn toàn với hệ thống triết học duy vật của Đêmôcrit về mọi lĩnh vực: bản thể luận, nhận thức luận, đạo đức học, quan niệm chính trị - xã hội. Điều này tạo nên cuộc đấu tranh điển hình giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học. Triết học của Platôn đã có công lớn tròn việc khẳng định bản chất, vai trò của khái niệm. Ông đặt nền móng cho việc xây dựng các phạm trù và tư duy lý luận nói chung. Arixtốt ( 384- 322 TCN) Arixtốt là bộ óc bách khoa toàn thư của triết học cổ đại Hy Lạp, người đầu tiên khám phá ra những quy luật sơ đẳng của tư duy biện chứng. Đây là một trong những nhà triết học vĩ đại nhất của thời cổ Hy Lạp. Xu hướng duy vật và phát triển biện chứng trong triết học của Arixtốt thể hiện ở chỗ: ông thừa nhận tự nhiên là toàn bộ sự vật có một bản thể vật chất mãi mãi vận động và biến đổi, không có bản chất sự vật tồn tại bên ngoài sự vật, hơn nữa sự vật nào cũng là một hệ thống và có quan hệ với các sự vật khác. Ông cho rằng vận động gắn liền với các vật thể, với mọi sự vật hiện tượng của giới tự nhiên. Ông cũng khẳng định, vận động là không thể bị tiêu diệt “đã có vận động và mãi mãi có vận động”. Ông đã tiến gần đến quan niệm vận động là tự thân của vật chất. Song cuối cùng ông lại rơi vào duy tâm khi cho rằng thần thánh là nguồn gốc của mọi sự vận động. Ông là người đầu tiên hệ thống hoá các hình thức vận động ở sáu dạng khác nhau. Về logic học, Arixtốt đã có gắng giải thích mối quan hệ thống nhất mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, nhưng ông không giải quyết được vấn đề chuyển hoá từ cái riêng thành cái chung. Tuy nhiên, do hạn chế về lịch sử và là nhà tư tưởng của giai cấp chủ nô Hy Lạp cho nên về bản thể luận triết học ông giao động giữa chủ nghĩa duy tâm và duy vật nên ông lại rơi vào phái nhị nguyên luận. Tóm lại, triết học Hy Lạp cố đại đã thể hiện rất rõ nét cuộc đấu tranh giữa biện chứng và siêu hình mà song song với nó là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm. Với những tư tưởng nổi bật như thuyết nguyên tử của Đêmôcrít, phép biện chứng của Hêraclit, của Platôn, biện chứng chất phác của Arixtốt, triết học Hy Lạp cổ đại đã hàm chứa mầm mống của tất cả thế giới quan về sau này và đánh dấu sự phát triển tư duy biện chứng trong lịch sử triết học nhân loại. Ăngghen đã đánh giá: “Những nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng tự phát, bẩm sinh…Trong triết học này, tư duy biện chứng xuất hiện với tính chất thuần phác, tự nhiên, chưa bị khuấy đục bởi những trở ngại đáng yêu…Mối liên hệ phổ biến giữa các hiện tượng tự nhiên chưa được chứng minh về chi tiết, đối với họ mối liên hệ đó là kết quả của sự quan sát trực tiếp” C.Mác và Ăngghen :Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t 20, tr. 694 . Do đó, nên coi phép biện chứng của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại là khởi nguyên lịch sử phép biện chứng. 1.2 Phép biện chứng thời kỳ Phục hưng và cận đại ở Tây Âu Trước khi bước sang thế kỷ XV- XVI ở Châu Âu là thời đại Phục hưng, lịch sử triết học đã trải qua thời kỳ trung cổ với sự thống trị của tư tưởng thần học. Do đó, chủ nghĩa kinh viện trở thành nét chủ đạo của Triết học Tây Âu thời trung cổ, tất cả vạn vật đều do Chúa trời và thần thánh tạo nên. Đến thời kỳ Phục hưng, triết học thời kỳ này đã khôi phục lại quan điểm duy vật cổ đại nhưng vẫn còn mang tính phiếm thần, yếu tố duy vật xen lẫn duy tâm. Tuy nhiên, phép biện chứng thời kỳ này vẫn có bước phát triển về “sự phù hợp của các mặt đối lập” của Gioocdanơ Brunô( 1548-1600). Chịu ảnh hưởng nhiều quan niệm của Arixtốt, Brunô khẳng định sự thống nhất vật chất và hình dạng trong Uno( cái duy nhất). Uno được coi là sự thống nhất của các mặt đối lập( cực đại - cực tiểu, tính thống nhất - tính nhiều vẻ, khả năng - hiện thực…). Nó là tất cả, đồng thời lại không là gì cả, nó ở trong tất cả mọi cái, nhưng đồng thời lại không ở đâu cả. Ông nhận thức được chân lý: mọi sự vật đều nằm trong vũ trụ và vũ trụ nằm trong tất thảy mọi vật. Chúng ta ở trong vũ trụ và vũ trụ nằm trong chúng ta. Tiếp đó, một trong những đại biểu của triết học Tây Âu thế kỷ VXII là Phranxis Bêcơn (1561-1626). Ph.Bêcơn khẳng định vật chất không tách rời vận động, nhận thức biện chứng của sự vật là nhận thức sự vận động của chúng. Ông đã tiến hành phân vận động thành 19 loại, trong đó bao gồm cả đứng yên. Tuy nhiên, tính chất siêu hình của ông thể hiện: Ông quy mọi loại vận động về vận động cơ học. Song cống hiến của ông là ở chỗ coi đứng yên là một hình thức của vận động, coi vận động là đặc tính cố hữu của vật chất, ông là người đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của thế giới. Trong thời kỳ cận đại, khoa học tự nhiên đã phát triển và đi sâu phân tích giới tự nhiên thành những bộ phận nhỏ để nghiên cứu. Những phương pháp đó đã tạo ra thói quen nghiên cứư xem xét sự phận hiện tượng trong trạng thái cô lập, tách rời cà bất biến.Từ khi Ph. Bêcơn và Lốccơ đem phương pháp khoa học tự nhiên áp dụng vào triết học thì phương pháp siêu hình trở thành phương pháp thống trị trong triết học. Phương pháp siêu hình đóng một vai trò nhất định trong quá trình nhận thức thế giới tự nhiên, phương pháp đó chỉ thích ứng với trình độ sưu tầm, mô tả thế giới tự nhiên. Do đó, khi khoa học chuyển sang nghiên cứu các quy trình phát sinh phát triển của sự vật, hiện tượng thì nó bộc lộ những hạn chế. Vì vậy nó không tránh khỏi bị phủ định bởi phép biện chứng của triết học cổ điển Đức với đỉnh cao là phép biện chứng Hêghen. Tóm lại, tuy có những hạn chế ở phương pháp tư duy siêu hình, máy móc, quan điểm duy tâm về xã hội…nhưng triết học thời Phục hưng, Cận đại, đặc biệt thời Cận đại có một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển triết học của nhân loại. Những tư tưởng duy vật tiến bộ và những yếu tố biện chứng thời kỳ này đã được các nhà triết học duy vật thời sau phát triển, đồng thời được Mác, Ăngghen, Lênin chọn lọc và kế thừa trong quá trình xây dựng học thuyết triết học mácxit. 1.3 Phép biện chứng cổ điển Đức Như Lênin đã từng đánh giá: Dù có sự thần thánh hoá duy tâm, nhưng phép biện chứng cổ điển Đức đã đặt ra sự thống nhất giữa phép biện chứng, lôgic học và lý luận nhận thức. Trong các nền triết học trước Mác thì triết học cổ điển Đức có trình độ khái quát hoá cao với kết cấu hệ thống chặt chẽ, logic. Nền triết học cổ điển Đức bắt đầu từ Cantơ đạt đỉnh cao là Hêghen sau đó suy tàn ở triết học Phoiơbac. Cantơ (1724-1804) là người sáng lập ra trường phái triết học cổ điển Đức. Ông cho rằng chỉ khi nhận thức ở trình độ lý tính thì mới có mâu thuẫn mà chưa thấy được rằng mâu thuẫn là vốn có trong hiện thực khách quan. Mâu thuẫn chưa phải là mâu thuẫn biện chứng giữa chính đề và phản đề, chưa có sự thống nhất và chuyến hoá lẫn nhau. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng trong vấn đề này Cantơ đã tiến gần đến phép biện chứng. Hêghen(1770-1831) được coi là nhà biện chứng lỗi lạc nhất của triết học trước Mác, phép biện chứng của ông là một tiền đề lý luận quan trọng của triết học mácxit. Triết học của ông có ảnh hưởng rất mạnh đến tư tưởng của nước Đức và cả Châu Âu đương thời, triết học của ông được gọi là “tinh thần Phổ”. Các quan niệm truyền thống coi biện chứng chỉ là nghệ thuật tranh luận, còn Hêghen cho biện chứng là khoa học về sự phá triển của các khái niệm. Ông khẳng định mọi sự vật trong thế giới đều phát triển theo quy luật biện chứng. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm tức là phép biện chứng về sự vận động và phát triển của các khái niệm được ông đồng nhất với bản chất sự vật. Ông viết: “Phép biện chứng nói chung là nguyên tắc của mọi vận động, mọi sự sống và mọi hoạt động trong phạm vi hiện thực. Cái biện chứng là linh hồn của mọi nhận thức khoa học chân chính” Triết học dành cho cao học và nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học. Nxb CTQG, 1997, tập 1, tr 331. . Luận điểm xuyên suốt trong hệ thống triết học cúa Hêghen là: “Tất cả cái gì là hiện thực đều là hợp lý và tất cả những cái gì hợp lý đều là tồn tại” C. Mác, Ph. Ăngghen, Tuyển tập, Nxb Sự thật, HN, 1984, tr.361. . Hêghen là người đã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và là người đầu tiên trình bày toàn bộ thế giới tự nhiên, xã hội, tư duy một cách biện chứng có nghĩa là trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Trong logic học, nếu như các quan điểm đương thời cho rằng phát triển chỉ là sự chuyển động cơ học hay tăng giảm đơn thuần về số lượng thì Hêghen lý giải sự phát triển đó là do sự thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự biến đổi nhảy vọt về chất, là sự nảy sinh và giải quyết giữa các mặt đối lập trong lòng mỗi sự vật, là sự phủ định của phủ định, trong đó cái mới thay thế cái cũ. Ônh cũng cho rằng phát triển là quy luật khách quan không gì có thể cưỡng lại nổi. Như vậy, Hêghen không chỉ trình bày các phạm trù triết học như lượng - chất, vật chất - vận động mà còn đề cập đến các quy luật khác như lượng đổi dẫn đến chất đổi, quy luật phủ định biện chứng. Nhưng tất cả chỉ là những quy luật vận động phạm trù của tư duy của kinh nghiệm. Khi nghiên cứu xã hội, Hêghen khẳng định sự phát triển của xã hội là sự đi lên. Quá trình phát triển của lịch sử có tính kế thừa. Lịch sử là tính thống nhất giữa tính khách quan và chủ quan trong hoạt động của con người. Hêghen đã có công xây dựng một hệ thống các phạm trù các quy luật của phép biện chứng như là những công cụ của tư duy biện chứng. Trong khi hệ thống triết học của Hêghen chú trọng những tư tưởng biện chứng sâu sắc thì cách trình bày của ông lại mang tính duy tâm bảo thủ, thể hiện ở sự vận động của xã hội là sự vận động của tư duy (ý niệm tuyệt đối) sinh ra. Do đó, mà C. Mác gọi phép biện chứng của Hêghen là: “Phép biện chứng đi lộn đầu xuống đất”. Vì vậy, cần phải đặt nó đứng bằng hai chân trên mảnh đất hiện thực, nghĩa là trên quan điểm duy vật. Đồng thời cũng không thể phủ nhận vai trò lịch sử của triết học Hêghen ở chỗ: nó đã phát triển đến độ hoàn chỉnh phép biện chứng bao quát toàn bộ những vấn đề cốt lõi của tự nhiên, xã hội và tư duy với cách lập luận, lý giải rất sâu sắc. Chính Mác, Ăngghen và sau này cả Lênin nữa đều đánh giá rất cao vai trò và ý nghĩa của triết học Hêghen mặc dù nó duy tâm và phương pháp biện chứng trong hệ thống của ông còn nhiều mâu thuẫn. Cùng với chủ nghĩa duy vật Phơbách, phép biện chứng Hêghen đã trở thành một trong những nguồn gốc lý luận quan trọng nhất của triết học mácxit. CHƯƠNG 2: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT MÁC XÍT 2.1. Những tiền đề về kinh tế- xã hội, lý luận, khoa học cho sự ra đời phép biện chứng duy vật. Vào nhứng năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã được Mác - Ăngghen sáng lập nên và được Lênin phát triển hơn nữa vào đầu thế kỷ XX. Sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của Mác- Ăngghen là một quá trình đầy khó khăn phức tạp, dựa trên các tiền đề về kinh tế - xã hội, tiền đề về lý luận và tiền đề về khoa học tự nhiên. + Tiền đề kinh tế - xã hội: Đầu thế kỷ XIX phương thức tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh làm bộc lộ những mâu thuẫn bên trong của nó, biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Phép biện chứng duy vật ra đời trong điều kiện đó đã cung cấp thực tiễn cho C.Mác- Ăngghen để đúc kết và kiểm nghiệm lý luận về phép biện chứng. + Tiền đề lý luận: Triết học Mác ra đời trên cơ sở kế thừa và phát triển các giá trị trong các tư tưởng triết học tiến bộ của nhân loại, đặc biệt phép biện chứng của Hêghen và chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc là một trong những tiền đề lý luận trực tiếp của triết học Mác. Mác đã đánh giá cao tư tưởng biện chứng của triết học Hêghen. C.Mác cho rằng ở Hêghen biện chứng bị lộn đầu xuống đất, chỉ cần dựng nó lại sẽ phát hiện được cái hạn nhân hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần bí. + Tiền đề về khoa học tự nhiên: Cùng với những nguồn gốc lý luận trên đây, những thành tựu của khoa học tự nhiên có vi trò quan trọng không thể thiếu cho sự ra đời của triết học Mác. Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên làm bộc lộ tính hạn chế, chật hẹp và bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận thức thế giới; đồng thời cung cấp cơ sở tri thức khoa học để phát triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật. Trong số các thành tựu khoa học tự nhiên, có ba phát minh lớn của khoa học tự nhiên thời kỳ này là: định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng của Maye năm 1845( đã chứng minh rằng mọi dạng vận động của vật chất đều được chuyển hóa và bảo toàn lẫn nhau), học thuyết về tế bào được phát hiện vào cuối những năm 30 của thế kỷ XIX( chứng minh toàn bộ thế giới sinh vật đều cấu tạo từ tế bào, nối liền mọi sinh vật với nhau, chứng minh sự thống nhất của giới sinh vật) và thuyết tiến hóa của Đarwin năm 1949( thế giới bắt đầu từ vô cơ, đến hữu cơ, đến những sinh vật đầu tiên và tiếp tục tiến hóa đến mức cao nhất là con người). Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên đòi hỏi phải khái quát về mặt triết học để chỉ ra những mối liên hệ giữa các quá trình diễn ra trong tự nhiên. Điều này dẫn tới tất yếu sự thay thế thế giới duy tâm và phương pháp siêu hình bằng phép biện chứng duy vật. Chính Mác- Ăngghen đã khái quát về mặt triết học toàn bộ những thành tựu của khoa học tự nhiên lúc bấy giờ để xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng. 2.2. Nội dung chính của phép biện chứng duy vật Theo C.Mác: Biện chứng khách quan là cái có trước, còn biện chứng chủ quan (tư duy biện chứng) là cái có sau, và là phản ánh của biện chứng khách quan, đây là sự khác nhau giữa phép biện chứng duy vật với phép biện chứng duy tâm của Hêghen. C.Mác cho rằng ông chỉ làm cái công việc là đặt phép biện chứng duy tâm của Hêghen “đứng trên hai chân của mình” tức là đứng trên nền tảng duy vật. Theo Mác thì phép biện chứng chính là : “Khoa học về mối liên hệ phổ biến trong tự nhiên, trong xã hội và trong cả tư duy”. Theo Lênin thì phép biện chứng là “Hệ thống về sự phát triển đầy đủ, sâu sắc và toàn diện nhất, học thuyết về tính tương đối của sự vật”. Từ “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”(1848) Mác - Ăngghen đã trình bày một cách thiên tài, thống nhất hữu cơ với các quan điểm kinh tế và các quan điểm chính trị - xã hội. Trong đó, phép biện chứng với tư cách là học thuyết toàn diện nhất và sâu sắc nhất về sự phát triển, lý luận đấu tranh giai cấp và vai trò cách mạng. Giai đoạn sau này, Mác - Ăngghen đã bổ sung và phát triển lý luận triết học của mình trên nhiều vấn đề, đặc biệt là những vấn đề phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đến bộ “Tư bản”( viết từ những năm 40 và xuất bản tập I năm 1867), trước những quan điểm của các nhà lý luận tư sản cho rằng phép biện chứng trong bộ “Tư bản” chẳng qua là phép biện chứng của Hêghen, Mác viết: “Phương pháp biện chứng của tôi không những khác về căn bản phương pháp biện chứng của Hêghen mà còn đối lập trực tiếp với phương pháp đó. Đối với Hêghen quá trình tư duy mà ông ta biến thành chủ thể độc lập dưới cái tên là ý niệm, chính là chúa sáng tạo ra cái hiện thực, cái hiện thực này chỉ là cái biểu hiện bề ngoài của ý niệm đó. Còn ở tôi thì trái lại, cái ý niệm không phải là cái gì khác mà là cái vật chất được chuyển vào đầu óc con người và được cải tạo trong đó” Mác – Ăngghen: Toàn tập, tập 23, Nxb. Chính trị quốc gia, 1993, tr. 35 . Nghiên cứu xã hội tư bản bằng phép biện chứng, Mác đã sử dụng các quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, khẳng định đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự phát triển; quy luật lượng chất; quy luật phủ định; các quy luật không cơ bản của phép biện chứng như cặp phạm trù bản chất - hiện tượng, tất nhiên - ngẫu nhiên, khả năng - hiện thực…đều được Mác áp dụng một cách tài tình để phân tích nền tư bản chủ nghĩa. Từ đó, Mác chỉ ra bản chất của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư, chủ nghĩa tư bản tồn tại trên cơ sở chế độ người bóc lột người, do đó chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị diệt vong, chủ nghĩa cộng sản tất yếu sẽ thay đổi chủ nghĩa tư bản. Sau khi Mác mất, Ăngghen đã phát triển triết học Mác thông qua việc khái quát các thành tựu khoa học và phê phán các lý luận triết học duy tâm, siêu hình và đấu tranh bảo vệ những tư tưởng của Mác. Những nội dung chính của phép duy vật biện chứng được Ăngghen luận chứng trong các tác phẩm như: “Biện chứng của tự nhiên”(1873-1883): tác giả đã khái quát về mặt triết học những thành tựu về khoa học tự nhiên đạt được vào giữa thế kỷ XIX để bổ sung và phát triển phép biện chứng duy vật. “Chống Đuyrinh” (1876-1878): trong tác phẩm này cùng với những vấn đề kinh tế - chính trị, chính trị - xã hội, Ăngghen đã giải quyết triệt để những nội dung cơ bản của triết học Mác như đối tượng của triết học, vấn đề cơ bản của triết học, vấn đề tính thống nhất của thế giới, vấn đề vận động, không gian, thời gian, các quy luật của phép biện chứng… “ Lutvích Phơbách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”: trên cơ sở phê phán Hêghen và Phơbách, Ăngghen trình bày có hệ thống quá trình phát sinh, phát triển của triết học Mác, các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật. Tóm lại, sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của triết học của Mác- Ăngghen vừa là kết quả khái quát kinh nghiệm đấu tranh cách mạng và kế thừa có tính phê phán di sản của lý luận của loài người vừa là khách quan nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc các thành tựu khoa học. Các tiến bộ khoa học kỹ thuật của thời đại đã chứng minh tính đúng đắn của phép biện chứng duy vật mácxit và người đưa nó lên thành đỉnh cao của phép biện chứng. Mặc dù vậy, các nguyên lý của phép biện chứng duy vật cần tiếp tục được thực tiễn kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển. Sau Mác- Ăngghen, VI. Lênin đã đưa phép biện chứng duy vật mácxit lên một tầm cao mới. Ông làm phong phú thêm nguyên lý cơ bản của triết học duy vật biện chứng về mối liên hệ hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn. “ Bút ký triết học” của Lênin là một tác phẩm tiếp tục phát triển phép biện chứng mácxit, trong đó Lênin phân tích sâu sắc tư tưởng coi phép biện chứng như là khoa học về sự phát triển. Như vậy, chủ nghĩa Lênin là sự phát triển duy nhất đúng đắn và triệt để chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản. Sự phát triển phép biện chứng của Lênin gắn liền với việc nghiên cứu các vấn đề cách mạng, phong trào công nhân, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chiến lược và sách lược của Đảng cộng sản. Với những cống hiến quý báu vào kho tàng triết học Mác, có thể nói Lênin đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng Mácxít. Tóm lại, phép biện chứng Mác - Lênin có hai đặc trưng cơ bản sau: Một là: Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin là phép biện chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học. Với đặc trưng này, phép biện chứng duy vật chẳng những có sự khác biệt căn bản với phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức, đặc biệt là phép biện chứng Hêghen( phép biện chứng được xác lập trên nền tảng thế giới quan duy tâm) mà còn có sự khác biệt về trình độ phát triển so với nhiều tư tưởng biện chứng đã từng có trong lịch sử triết học từ thời Cổ đại( là phép biện chứng về căn bản được xây dựng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật nhưng là chủ nghĩa duy vật ở trình độ trực quan, ngây thơ và chất phác). Hai là: trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin là sự thống nhất giữa nội dung thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật. Do đó nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Trên cơ sở khái quát các mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, những quy luật phổ biến của các quá trình vận động, phát triển cảu tất thảy mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin cung cấp những nguyên tắc phương pháp luận chung nhất cho quá trình nhận thức thế giới và cải tạo thế giới, đó không chỉ là phương pháp luận khách quan mà còn là phương pháp luận toàn diện, phát triển, lịch sử, cụ thể, phương pháp luận phân tích mâu thuẫn nhằm tìm ra nguồn gốc, động lực cơ bản của các quá trình vận động, phát triển. Với tư cách đó, phép biện chứng duy vật chính là công cụ khoa học vĩ đại để giai cấp cách mạng nhận thức và cải tạo thế giới. 2.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu lịch sử của phép biện chứng Ngày nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang tác động lên tất cả các quốc gia. Có thể nói tất cả mọi quốc gia hoặc là đang ở trạng thái này, trình độ này hoặc là ở trạng thái khác, trình độ khác của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đối với những nước phát triển, công nghiệp hoá tiếp tục đào tạo ra và nâng cao hơn nữa năng suất lao động, đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Đối với những nước chậm và đang phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường tất yếu để đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, từng bước hội nhập vào tiến trình phát triển chung của nhân loại. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang là xu thế tất yếu mang tính toàn cầu hiện nay. Xuất phát từ kết quả của mười năm đổi mới, từ những tiền đề kinh tế - xã hội đã tạo ra, Đảng ta nhận định rằng đất nước đã chuyển sang thời kì phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta có mục tiêu: “Biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Để đạt được mục tiêu đó “điều quyết định là ở con người, với trí tuệ và năng lực cao”, và đặc biệt quan trọng là phải có một cơ sở khoa học, một cơ sở lí luận vững chắc, lấy đó làm cơ sở phương pháp luận để xây dựng và tổ chức thực hiện các quyết sách chính trị của chúng ta. Điều này có vai trò quyết định cho thắng lợi cuối cùng của công cuộc đổi mới ở nước ta. Trong tình hình đó, Đảng ta đã khẳng định giá trị khoa học của phép biện chứng duy vật - chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời, lấy nó làm kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng bởi: Chủ nghĩa duy vật biện chứng là khoa học và là một trong những đỉnh cao của trí tuệ loài người, không một ai có thể phủ nhận rằng khi lí luận khoa học đó được quán triệt và vận dụng đúng đắn thì nhân dân lao động thế giới đã làm nên những biến cố lịch sử vĩ đại, chủ nghĩa xã hội từ chỗ còn là “bóng ma” đã biến thành hiện thực và tồn tại với tư thế một hệ thống hùng hậu trong hơn nửa thế kỷ. Ngày nay, cho dù chủ nghĩa xã hội có bị tổn thương, sụp đổ một mảng lớn, song nó vẫn chứa đựng những khả năng hồi phục, phát triển và chiến thắng chủ nghĩa tư bản cùng tất cả các chế độ xã hội có áp bức, bất công trong tương lai. Bởi vậy, chúng ta có nắm vững chủ nghĩa duy vật biện chứng, có vận dụng một cách sáng tạo vào công cuộc đổi mới hiện nay thì thành công mới có thể nắm trong tầm tay. Việt Nam quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ phát triển tư bản chủ nghĩa, xuất phát từ nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển. Đó là con đường quá độ lâu dài mà có thể nói mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ này là mâu thuẫn giữa xu hướng tự phát lên tư bản chủ nghĩa với xu hướng tự giác lên chủ nghĩa xã hội. Điều này có nghĩa là chúng ta phải vận dụng linh hoạt, mềm dẻo và luôn đổi mới phù hợp với điều kiện quốc tế và điều kiện của nước ta trong từng giai đoạn cụ thể. Cũng cần thừa nhận một thức tế là sự phát triển của chủ nghĩa tư bản với sự hậu thuẫn của các tiến bộ vượt bậc về khoa học kỹ thuật trong đó có những ưu thế nhất định và tạm thời làm dịu đi những mâu thuẫn vốn có của nó. Vì vậy, nếu nhận thức về chủ nghĩa xã hội như một mặt đối lập tuyệt đối với chủ nghĩa tư bản là một quan niệm không biện chứng. Biện chứng của sự kết hợp các mặt đối lập. Vì vậy, chúng ta phải biết vận dụng các khâu trung gian và thực hiện các bước quá độ cho phù hợp. Đó là phương pháp luận chung về sự kết hợp các mặt đối lập trong sự thống nhất biện chứng. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta không thể phủ định sạch trơn chủ nghĩa tư bản, không thể cho rằng cái gì có trong chủ nghĩa tư bản là không thể có trong chủ nghĩa xã hội, càng không thể áp dụng nguyên vẹn mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước khác để xây dựng nước ta. Trong quá trình vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường, chúng ta gặp những mâu thuẫn đó là: Mâu thuẫn giữa phát triển và phát triển kinh tế. Do vậy, trong Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VIII khẳng định: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu của nền văn minh nhân loại tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và ngay cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng” Văn kiện ĐH toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, ĐCSVN, Nxb CTQG, 1997, tr 25 . KẾT LUẬN Xuyên suốt chiều dài lịch sử nhiều thế kỷ hình thành và phát triển từ phép biện chứng tự phát, thô sơ Cổ đại cho đến phép biện chứng duy tâm Hêghen của triết học cổ điển Đức và đạt đến đỉnh cao là phép biện chứng duy vật mácxít thì phép biện chứng luôn luôn là công cụ sắc bén, là chìa khóa giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới để phục vụ nhu cầu chính bản thân con người. Thực tiễn cách mạng đã chứng minh sự cần thiết phải nghiên cứu và vận dụng phép biện chứng duy vật mácxít vào hoạt động nhận thức và cải tạo hiện thực của con người. Điều này đặt ra một nhu cầu tất yếu của lịch sử nhân loại là tiếp tục phát triển và hoàn thiện phép biện chứng duy vật mácxit cho phù hợp với điều kiện mới … Với tính chất cách mạng và khoa học của mình, phép biện chứng duy vật đã mở ra một phương pháp nhận thức thế giới toàn diện nhất và khoa học nhất cho lịch sử nhân loại mãi mãi về sau. Tiến trình đổi mới đất nước ta trong giai đoạn hiện nay ngày càng đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ. Sự nghiệp cách mạng không phải là quá trình dễ dàng, trơn tru mà là một quá trình khó khăn phức tạp thậm chí có những bước thụt lùi tạm thời. Song với bản chất cách mạng khoa học sâu sắc và triệt để của phép biện chứng duy vật chúng ta phải giữ vững niềm tin vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa tiếp tục vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh để chèo lái con thuyền cách mạng ta đến bến bờ thắng lợi./. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. C. Mác, Ph. Ăngghen: Tuyển tập( 1984), Nxb Sự thật, HN. 2. C.Mác và Ăngghen( 2004): Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. C.Mác – Ph. Ăngghen( 1993): Toàn tập, Tập 23, Nxb CTQG, Hà Nội. 4. Các nhà duy vật Hy Lạp cổ đại( 1995), Nxb. Tư tưởng, Matxcơva,( tiếng Nga). 5. G.V. Ph. Hêghen: Các bài giảng lịch sử triết học( 1974), Nxb. Tư tưởng, Mátxcơva, (tiêng Nga). 6. Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng( 1997), Nxb CTQG, Hà Nội. 7. Nguyễn Văn Đại – TS. Bùi Thị Thanh Hương( 2011), Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Khoa Triết học, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội. 8. GS.TS Nguyễn Hữu Vui( 2007), Lịch sử Triết học, Nxb CTQG, Hà Nội. 9. Giáo trình Triết học dùng cho nghiên cứu sinh và cao học không thuộc chuyên ngành Triết học, tập 1, 2, Nxb. CTQG. 10. Giáo trình đại cương lịch sử Triết học( 1997), Nxb Thống kê, HN. 11. Giáo trình Triết học Mác- Lênin( 2005), Nxb CTQG, HN.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu luan Triet.doc
Tài liệu liên quan