Bến Tre hiện cũng đã có một vài công ty kinh doanh
DLNN hoạt động hiệu quả, tăng trưởng tốt nên có
thể phát triển mô hình liên kết kiểu mô hình của
Tổng công ty DLNN Maharashtra, ở Ấn Độ. Công ty
Mekong Travel với thương hiệu Út Trinh homstay đã
thành công với cụm homstay ở cồn An Bình (Vĩnh
Long), được chứng nhận danh hiệu “Homestay đạt
chuẩn Asean” năm 2017 – 201915. Công ty Mekong
Travel đã mở điểm homstay Út Trinh ở cồn Tam Hiệp
(Bình Đại, Bến Tre), không chỉ cung cấp các dịch vụ
trong phạm vi homstay như nghỉ đêm, ẩm thực địa
phương mà còn liên kết với các hộ dân ở cồn Tam
Hiệp để đưa khách trải nghiệm ở những nhà dân có
hoạt động sản xuất nông nghiệp như vườn lá sâm, trại
nuôi ong, vườn cây ăn trái để chia sẻ lợi ích cho cộng
đồng. Công ty Hải Vân với thương hiệu Nông trại Hải
Vân - Sân chim Vàm Hồ hiện đã có mạng lưới cung
cấp thực phẩm và nguồn nhân lực tại chỗ cũng có khả
năng phát triển thành công theo mô hình Tổng công
ty. Như vậy, Mekong Travel và Hải Vân hiện đang có
mạng lưới liên kết dọc hoạt động tốt. Từ kinh nghiệm
tổ chức mạng lưới liên kết dọc, hai công ty này có
nhiều khả năng phát triển thành công mạng lưới liên
kết ngang với thương hiệu riêng như trường hợp của
Tổng Công ty Maharashtra nếu lãnh đạo địa phương
có chủ trương và hỗ trợ
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 305 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô hình du lịch nông nghiệp ở Bến Tre - Hiện tại và tương lai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):814-822
Open Access Full Text Article Bài nghiên cứu
1Trường Đại học Văn Hiến, Việt Nam
2Trường Đại học Văn Lang, Việt Nam
Liên hệ
Đoàn Thị Mỹ Hạnh, Trường Đại học Văn
Hiến, Việt Nam
Email: hanhdtm@gmail.com
Lịch sử
Ngày nhận: 7/7/2020
Ngày chấp nhận: 23/12/2020
Ngày đăng: 15/1/2020
DOI : 10.32508/stdjssh.v4i4.630
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Mô hình du lịch nông nghiệp ở Bến Tre - Hiện tại và tương lai
Đoàn Thị Mỹ Hạnh1,*, Mã Bích Tiên2
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Bến Tre là điểm đến mới nổi trong vùng đồng bằng sông Cửu Long và được biết đến là ``Xứ Dừa
của Việt Nam''. Số lượt khách đến Bến Tre hằng năm liên tục tăng nhưng doanh thu trung bình trên
lượt khách còn khá thấp so với những điểm đến khác. Hiện tại, sản phẩm du lịch của Bến Tre chủ
yếu là Du lịch nông nghiệp (DLNN), hầu hết được cung cấp bởi các điểm sản xuất nông nghiệp
truyền thống. Rất ít điểm DLNN thực hành sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Khách DLNN
đến Bến Tre chủ yếu là từ TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận. Do quymô nhỏ các điểm kinh doanh
DLNN hiện chưa có điều kiện tiếp cận các thị trường lớn và cao cấp. Nhằmmục tiêu nhận diện các
mô hình kinh doanh DLNN hiện tại ở Bến Tre từ đó đề xuất các mô hình liên kết kinh doanh trong
tương lai, phương pháp nghiên cứu định tính được sử dụng để thực hiện nghiên cứu này. Dữ liệu
được thu thập bằng kỹ thuật quan sát tham gia kết hợp phỏng vấn trực tiếp tại Khu du lịch Phú An
Khang, Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ, Vườn sầu riêng Bảy Thảo và Hợp tác xã Du lịch sinh
thái cộng đồng Thạnh Phong. Nghiên cứu đề xuất trong tương lai Bến Tre nên liên kết các điểm
DLNN theo mô hình liên kết ngang để có điều kiện thuận lợi tiến hành các hoạt động xúc tiến sản
phẩm vào các thị trường mới có quy mô lớn và cao cấp. Mô hình liên kết ngang nên triển khai là
mô hình Hiệp hội tương tự như "Bienvenu à la ferme" (Pháp) vàmô hình Tổng công ty tương tự như
Tổng công ty Marahastra (Ấn Độ) vì Bến Tre đang có những điều kiện tương đồng để hình thành
và phát triển.
Từ khoá: Bến Tre, du lịch nông nghiệp, liên kết ngang, mô hình kinh doanh
GIỚI THIỆU
Du lịch nông nghiệp (DLNN) là phân khúc thị trường
có tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng
chung của thị trường du lịch toàn cầu, mở ra cơ hội
cho các vùng sản xuất thuần nông chuyển dịch cơ cấu
kinh tế. Dự báo thời kỳ 2019 - 2023 DLNN toàn cầu
sẽ tăng trưởng với tốc độ 18%, tức tăng 1,34 tỷ USD
và quy mô toàn thị trường sẽ đạt 54,63 tỷ USD. Năm
2018, Bắc Mỹ là nơi dẫn đầu trên thị trường DLNN
nhưng dự báo sẽ tăng trưởng chậm hơn các khu vực
khác trong thời kỳ 2019 - 2023 1. Châu Âu là nơi
DLNN phát triển từ những năm 1960, đến nay các
quốc gia cung cấp dịch vụ này như Ý, Áo, Thụy Sĩ,
Đức, ĐanMạch, Tây Ban Nha, Hà Lan, Pháp, Bồ Đào
Nha bắt đầu lo ngại DLNN sẽ làm ảnh hưởng đến chất
lượng cuộc sống của cư dân2. Do đó khu vực này sẽ có
xu hướng nhắm vào những thị trường cao cấp để hạn
chế số lượt khách nhưng vẫn tăng được doanh thu.
Ở khu vực châu Á, ở các quốc gia như Ấn Độ, Thái
Lan DLNN đóng góp đáng kể vào tổng sản phẩm
quốc gia và được chính phủ thúc đẩy phát triển thông
qua các chương trình phát triển nông thôn. Ở Việt
Nam, DLNN là một sản phẩm còn khá mới nhưng
đang có điều kiện phát triển thuận lợi. Nhờ vào thành
tựu của chương trình xây dựng nông thôn mới, khả
năng tiếp cận điểm đến DLNN đã trở nên dễ dàng
hơn và cơ sở vật chất ở nhiều vùng nông thôn đủ điều
kiện đáp ứng yêu cầu phục vụ du khách.
Bến Tre nằm trong vùng đồng bằng sông Cửu Long
cách TP. Hồ Chí Minh 85 km, và cách TP. Cần Thơ
120 km nên có lợi thế về vị trí so với các điểm đến
khác. Tuy nhiên lợi thế này sẽ dần mất đi khi hạ tầng
giao thông của toàn vùng phát triển, khoảng cách sẽ
không còn là rào cản đối với việc tiếp cận các điểm
đến khác xa hơn. Điểm khác biệt độc đáo của Bến
Tre là có không gian vườn dừa rộng lớn và ẩm thực từ
dừa phong phú nên được mệnh danh là “Xứ Dừa của
Việt Nam”. Những năm gần đây, số lượt khách đến
Bến Tre liên tục tăng, năm 2018 đạt 1.574.128 lượt,
tăng 22% so với năm trước; tổng thu từ du khách đạt
khoảng 1.329 tỷ đồng, tăng 26% so với năm trước 3.
Doanh thu trung bình trên lượt khách còn khá thấp,
chỉ hơn 800.000 đồng/lượt trong khi con số này của
cả nước là khoảng 6.670.000 đồng.
Ban đầu sản phẩm du lịch của Bến Tre chỉ là tham
quan vườn cây ăn trái, đi tàu trên sông và nghỉ ở
nhà dân với các điểm du lịch ở huyện Châu Thành,
Chợ Lách. Đến nay đã có thêm nhiều điểm ở các
huyện Giồng Trôm, Ba Tri, Bình Đại, Thạnh Phú và
sản phẩm phát triển khá đa dạng. Khách DLNN đến
Trích dẫn bài báo này: Hạnh D T M, Tiên M B. Mô hình du lịch nông nghiệp ở Bến Tre - Hiện tại và
tương lai. Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 4(4):814-822.
814
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):814-822
đây thường là từ TP. Hồ Chí Minh và các địa phương
lân cận, thời gian lưu trú ngắn chỉ một đêm hoặc
trong ngày. Sở dĩ các điểm DLNN ở Bến Tre chưa
tiếp cận được các thị trường xa, quy mô lớn và cao
cấp hơn là do từng điểm hoạt động riêng lẻ chưa thể
thực hiện các chương trình xúc tiến ấn tượng. Mặt
khác sức chứa hạn chế của từng điểm không cho phép
đón những đoàn khách số lượng lớn. Từ thực tế đó,
nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục tiêu nhận
diện các mô hình kinh doanh DLNN hiện tại ở Bến
Tre và đề xuất cácmô hình liên kết phù hợp để có điều
kiện đưa sản phẩm vào các thị trườngmới xa hơn, lớn
hơn hoặc/và cao cấp hơn với kỳ vọng DLNN Bến Tre
tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn và nâng cao doanh
thu trung bình/ lượt khách trong tương lai.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Du lịch nông nghiệp và các mô hình kinh
doanh
Du lịch nông nghiệp (agritourism) xuất hiện từ đầu
thế kỷ XX và đã nhanh chóng lan rộng trên toàn thế
giới 4. Ở châu Âu, DLNN xuất hiện từ những năm
1960, qua quá trình 60 nămphát triển đến nay đã hình
thành những mạng lưới rộng lớn, mỗi mạng lưới tập
hợp đến vài ngàn điểm đón khách là các trang trại hay
nông trại được gọi chung là nông trại trong nghiên
cứu này. Trong vòng 10 năm gần đây, DLNN phát
triển mạnh mẽ ở các vùng còn lại trên thế giới, được
coi là cách để xóa đói giảm nghèo. Tuy vậy DLNN là
thuật ngữ vẫn còn nhiều tranh luận trong giới nghiên
cứu du lịch.
Những điểm còn đang tranh luận liên quan đến các
thành phần trong sản phẩm, mô hình kinh doanh và
cả về thuật ngữ du lịch. Liệu du lịch có nhất thiết
phải là thực hiện một chuyến đi khỏi nơi cư trú hay
không? Liệu các hoạt động trải nghiệm tại nơi cư trú
như tham gia các lễ hội truyền thống, các hoạt động
ẩm thực có thể được xem là trải nghiệm du lịch hay
không? Cùng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0,
hành vi tiêu dùng của du khách cũng thay đổi và hình
thành nên những xu hướng thị trường mới nên định
nghĩa du lịch cũng cần được mở rộng hơn cho phù
hợp với sự thay đổi đó.
DLNN là một trong những sản phẩm đáp ứng nhu
cầu của thị trường khách chọn lọc. Trong khi Du
lịch nông thôn và DLNN được phân biệt rõ ràng thì
DLNN và du lịch nông trại có khác nhau hay không
vẫn còn là vấn đề đang tranh luận. Du lịch nông thôn
bao gồm tất cả các hoạt động trải nghiệm diễn ra ở
vùng nông thôn có thể là rừng, núi, biển trong khi du
lịch nông trại chỉ giới hạn các hoạt động trong khuôn
viên của nông trại và DLNN bao gồm cả trải nghiệm
hoạt động sản xuất nông nghiệp bên ngoài nông trại5.
Theo cách giải thích này thì DLNN và du lịch nông
trại có khác nhau về phạm vi không gian trải nghiệm.
Mô hình kinh doanh DLNN cũng là khái niệm chưa
đạt được sự đồng thuận. Một điểm đón khách DLNN
phải làmột nông trại đang có hoạt động sản xuất nông
nghiệp thực sự4–7 hay có thể là một cơ sở mô phỏng
hoạt động sản xuất nông nghiệp? Liệu một di sản
trang trại, một vườn ươm, một trung tâm nghiên cứu
nông nghiệp và thậm chí là cơ sở phi nông nghiệp
có phải là điểm DLNN?5.
Tương tự như những vùng sản xuất nông nghiệp khác
ở Việt Nam, phần lớn hộ nông dân ở Bến Tre sở hữu
đất nông nghiệp với diện tích rất nhỏ so với các nông
trại ở châu Âu hay các quốc gia khác. Từ thực tế đó,
nghiên cứu này ủng hộ quan điểm cho rằng DLNN
phải là chuyến đi đến những nơi có hoạt động sản
xuất nông nghiệp thực sự được gọi chung là nông trại,
không phân biệt DLNN với du lịch nông trại. Mục
đích của chuyến đi là tham gia, quan sát hoặc học hỏi
và do đó hình thành ba nhóm là khách nghỉ dưỡng,
khách trải nghiệm và khách học hỏi8. Du khách có
thể tiếp xúc với hoạt động nông nghiệp theo cách trực
tiếp, gián tiếp hoặc thụ động5. Trong trường hợp tiếp
xúc trực tiếp, du khách được trải nghiệm đích thực
các hoạt động sản xuất nông nghiệp tại khuôn viên
dành riêng hoặc tham gia vào các công việc chung của
nông trại. Nông trại hữu cơ có thuận lợi để cung cấp
dịch vụ loại này vì còn có những công việc cần đến lao
động giản đơn. Du khách có thể làm việc để có chỗ
ở và thực phẩm và đóng góp vào kết quả sản xuất của
nông trại. Trong thực tế khách trải nghiệm DLNN
đích thực là khá ít, đa phần là tiếp xúc trực tiếp với
các hoạt động nông nghiệp đích thực nhưng ít nhiều
có dàn dựng. Du khách đến nông trại đang sản xuất
cũng có thể chỉ tiếp xúc với hoạt động nông nghiệp
thụ động như ngắm cảnh quan nông trại, nghỉ đêm và
ăn sáng. Trường hợp du khách tiếp xúc gián tiếp với
các hoạt động nông nghiệp là qua di sản nông nghiệp
hay hình ảnh còn đang tranh luận là liệu đây có phải
là DLNN hay là du lịch nông thôn.
Mô hình kinh doanh DLNN trước đây hầu như phải
gắn với cộng đồng dân cư địa phương vìDLNNkhông
thể tách rời văn hóa nông nghiệp và văn hóa làng quê.
Những năm gần đây xuất hiện mô hình DLNN dựa
vào vốn. Đó là các nông trại nông nghiệp công nghệ
cao, với kỹ thuật và công nghệ sản xuất khác với nông
nghiệp truyền thống. Du khách đến các điểm này
được tiếp xúc trực tiếp với hoạt động nông nghiệp
thường là có dàn dựng vì có đông người tiếp xúc khó
tuân thủ các yêu cầu kỹ thuật canh tác, ảnh hưởng đến
các tiêu chuẩn chất lượng và sản lượng.
815
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):814-822
Trong nghiên cứu này DLNN là chuyến đi đến nơi có
hoạt động sản xuất nông nghiệp để tiếp xúc trực tiếp
theo cách chủ động hoặc thụ động với các hoạt động
đó nhằm trải nghiệmnghề nông và cuộc sống của nhà
nông. Điểm du lịch nông nghiệp là nơi có hoạt động
sản xuất nông nghiệp thật sự, có nông sản bán ra thị
trường không phân biệt là nông nghiệp truyền thống
hay công nghệ cao và không bao gồm hình thức tiếp
xúc gián tiếp. Do đó các khu vui chơi giải trí ở đô thị
có mô phỏng hoạt động sản xuất nông nghiệp, các di
sản nông nghiệp, các cơ sở nghề truyền thống chế biến
nông sản hay nhà dân ở nông thôn chỉ kinh doanh
dịch vụ lưu trú và ăn uống không thuộc phạm vi của
nghiên cứu này.
Liên kết kinh tế và mô hình liên kết Du lịch
nông nghiệp
Liên kết kinh tế có ba kiểu là liên kết theo chiều ngang,
chiều dọc và khối hay vùng lãnh thổ9,10. Liên kết theo
chiều ngang là trường hợp các doanh nghiệp kinh
doanh cùng loại sản phẩm liên kết với nhau trong
tiêu thụ sản phẩm. Liên kết theo chiều dọc là khi các
doanh nghiệp trong cùng một ngành liên kết để thực
hiện từng phần của sản phẩm. Liên kết khối hay vùng
lãnh thổ là liên kết không nhất thiết phải cùng loại sản
phẩm hay cùng ngành.
Mỗi kiểu liên kết đều mang lại lợi ích cho các thành
viên tham gia mà lợi ích cơ bản là có lợi thế hơn
các doanh nghiệp riêng lẻ. Liên kết dọc giúp doanh
nghiệp thành viên tiết kiệm chi phí đầu vào. Liên kết
ngang giúp doanh nghiệp thành viên được hưởng lợi
nhờ hiệu quả theo quy mô và nâng cao khả năng tiếp
cận thị trường. Liên kết khối hay vùng lãnh thổ sẽ
giúp doanh nghiệp được hưởng lợi ích của cả liên kết
dọc và liên kết ngang10. Do đó liên kết giữa các nhà
sản xuất nhỏ được khuyến khích ở nhiều quốc gia.
Trong lĩnh vực DLNN, trên thế giới đã có nhiều hình
thức liên kết khác nhau từ đơn giản đến rất tiên tiến.
Mạng lưới DLNNdạngHiệp hội làmột hình thức liên
kết tiên tiến theo chiều ngang hoạt động vì lợi ích của
nông dân thamgia kinh doanhDLNN.Mộtmạng lưới
như vậy có thể chỉ thực hiện một vài hoạt động như
quảng cáo trên mạng internet, qua tờ rơi, tạo cơ hội
hợp tác, đào tạo và thu thập thông tin, tổ chức hội nghị
hoặc tiến hành nghiên cứu chung10. Đó là những
hoạt động mà một điểm DLNN riêng lẻ với quy mô
nhỏ khó tự triển khai vì không đủ khả năng tài chính
và nhân lực. Tuy nhiên để mạng lưới liên kết ngang
hoạt động thành công, thực sự mang lại lợi ích cho
các thành viên thì điều quan trọng là phải xây dựng
được đội ngũ quản lý chuyên nghiệp áp dụng phương
pháp quản lý tiên tiến và sử dụng hiệu quả các công
cụ quản lý hiện đại.
Mạng lưới “Bienvenue à la ferme” ở Pháp là một
trường hợp thành công của mô hình liên kết ngang
dạngHiệp hội. Mạng lưới này do PhòngNông nghiệp
Pháp thành lập vào năm 1988 với 83 thành viên. Đến
năm 2018, mạng lưới đã có hơn 8.000 nông trại thành
viên, trong đó 20% là nông trại DLNN, 53% bán trực
tiếp sản phẩm cho khách du lịch và 27% vừa cung cấp
dịch vụ DLNN vừa bán trực tiếp sản phẩm cho khách
du lịch. Sau 30 năm hình thành và phát triển “Bienv-
enue à la ferme” là mạng lưới số 1 về số lượng thành
viên ở Pháp với doanh số đạt gần 1 tỷ euro và có 43%
nông trại thành viên đạt 75% thu nhập từ hoạt động
cung cấp dịch vụ cho mạng lưới11. Tham gia mạng
lưới các nông trại thành viên được yêu cầu gắn logo
của mạng lưới như là cam kết với du khách về chất
lượng các dịch vụ được cung cấp. Mỗi thành viên
phải ký cam kết chỉ bán những sản phẩm chất lượng
hàng đầu, cung cấp cho du khách sự tiếp đón riêng
và chuyên nghiệp, duy trì tốt môi trường xung quanh
và đồng ý trở thành đại sứ của nông nghiệp có trách
nhiệm và bền vững bắt nguồn từ sự tôn trọng trái đất.
Các Ủy viên hội đồng chính quyền địa phương hỗ trợ
và quản lý các nông trại hoạt động theo chuẩn chất
lượng quy định. Mạng lưới đã thiết lậpmột trang web
cho phép người tiêu dùng tìm kiếm để mua các sản
phẩm hoặc đặt chỗ và một ứng dụng di động sử dụng
GPS để giúp người dùng tìm vị trí, sản phẩm và dịch
vụ của nông trại. Mạng lưới cũng thamdự nhiều triển
lãm thương mại nông nghiệp và thực phẩm, xuất bản
tờ rơi và tổ chức thăm nông trại12. Như vậy, sự hỗ trợ
của chính quyền địa phương là rất cần thiết để phát
triển mô hình liên kết dạng Hiệp hội.
Tổng công ty DLNN Maharashtra, ở Ấn Độ được
thành lập vào tháng 7/2005 với dự án DLNN thí điểm
tại Baramati. Sau khi dự án thành công Tổng công ty
đã mở rộng hoạt động bằng cách cho các chủ trang
trại ởMaharashtra đăng ký tham gia cung cấp dịch vụ
DLNN theo chuẩn của Tổng công ty. Đến nay Tổng
công ty đã xây dựng được mạng lưới 152 nông trại
được gọi là Trung tâm DLNN. Các Trung tâm được
cung cấp các hướng dẫn và chương trình đào tạo để
điều hành hoạt động. Tổng công ty bán tour và giữ lại
30%doanh thu để trang trải chi phí quản lý, quảng cáo
và khuyến mãi13. Với mô hình Tổng công ty những
người quản lý có trình độ quản lý chuyên nghiệp, có
tầm nhìn rộng, tự nguyện dấn thân vào lĩnh vực kinh
doanh DLNN nên điều hành hiệu quả hoạt động của
mạng lưới liên kết. Về tính cộng đồng thì đây có thể
coi là mô hình nhà đầu tư bên ngoài dựa vào cộng
đồng. Mặc dù hình thức là Tổng công ty nhưng đây
cũng là mô hình liên kết ngang do tư nhân quản lý
điều hành kinh doanh. Một Tổng công ty có thời gian
hoạt động chỉ 15 năm đã xây dựng được hệ thống tiêu
816
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):814-822
chuẩn sản phẩm, tỷ lệ phân chia thu nhập, phát triển
được mạng lưới với 152 nông trại thành viên và thị
trường tiêu thụ tương ứng với năng lực cung cấp là
một trường hợp thành công có thể được coi là một
mô hình liên kết kinh doanh DLNN thành công.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp phân tích định tính được sử dụng để
thực hiện nghiên cứu này. Dữ liệu được thu thập
trong năm 2019 bằng kỹ thuật quan sát kết hợp phỏng
vấn sâu một đối một tại bốn điểm kinh doanh DLNN
đại diện cho bốn kiểu mô hình vận hành. Đó là Khu
du lịch Phú An Khang (xã Bình Phú, TP. Bến Tre),
Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ (xã Tân Mỹ,
huyện Bình Đại), Vườn sầu riêng Bảy Thảo (xã Vĩnh
Thành, huyện Chợ Lách), Hợp tác xã Du lịch sinh
thái cộng đồngThạnh Phong (xãThạnh Phong, huyện
Thạnh Phú). Bốn điểm này được chọn qua tham khảo
tổng quan tài liệu của Trung tâm xúc tiến du lịch tỉnh
Bến Tre, các trang giới thiệu của các điểm du lịch và
khảo sát thực địa sơ bộ. Quan sát được thực hiện tại
mỗi điểm ít nhất hai lần, một lần trong vai du khách
quan sát không để quản lý và nhân viên biết đang thực
hiện nghiên cứu và một lần cho đối tượng được quan
sát biết đang thực hiện nghiên cứu. Số lần quan sát
và trình tự tùy vào thực tế tiếp cận từng điểm. Dù
quan sát có cho biết hay không cho biết đang thực
hiện nghiên cứu, phỏng vấn một đối một quản lý và
nhân viên tại điểm đều được tiến hành nhằm thu thập
thông tin về cách thức vận hành điểm du lịch. Do
đặc thù của DLNN coi giao lưu giữa chủ nhà/quản
lý/nhân viên với khách du lịch là một hoạt động trong
sản phẩm được cung cấp nên việc thu thập thông tin
qua kênh này là khá dễ dàng.
Tại HTX Du lịch sinh thái cộng đồng Thạnh Phong,
có bốn lần quan sát đã được thực hiện ở hai nhà là nhà
chị Bảy và nhà chị Nga theo trình tự lần một tự tiếp
cận trong vai khách du lịch và lần hai tiếp cận qua giới
thiệu của Ban quản lý Khu du lịch di tích đường Hồ
Chí Minh trên biển huyện Thạnh Phú và cán bộ văn
hóa xã Thạnh Phong. Tại điểm Vườn sầu riêng Bảy
Thảo cũng theo trình tự như ở Thạnh Phong nhưng
cả hai lần đều tự tiếp cận. Với Khu du lịch Phú An
Khang trình tự ngược lại do có cơ hội tiếp cận phỏng
vấn Giám đốc điều hành Khu du lịch tại một hội thảo
xúc tiến du lịch của địa phương nên quan sát thực địa
trong vai khách du lịch kết hợp với phỏng vấn nhân
viên được tiến hành sau. Tại Nông trại Hải Vân – Sân
chim VàmHồ thông tin thu thập được từ các lần trực
tiếp tư vấn chiến lược phát triển cho Giám đốc công
ty TNHHDu lịch sinh thái Hải Vân là công ty sở hữu
điểm du lịch này và những lần đưa khách đến đây
trải nghiệm trong khoảng thời gian từ khi mở cửa vào
tháng 3 năm 2016 đến cuối năm 2019.
KẾT QUẢNGHIÊN CỨU
Mặc dù là điểm đến DLNN mới nổi nhưng mô hình
điểm DLNN ở Bến Tre khá phong phú. Các mô hình
điểm DLNN dựa vào cộng đồng có thể chia thành ba
loại là cả cộng đồng tham gia, một vài hộ trong cộng
đồng tham gia và nhà đầu tư bên ngoài dựa vào cộng
đồng. Mô hình DLNN dựa vào vốn hoạt động không
gắn với cộng đồng nhưng vẫn là một nông trại thật
sự. Hai điểm khác biệt cơ bản giữa nông trại nhà đầu
tư bên ngoài dựa vào cộng đồng và nông trại dựa vào
vốn là từ kỹ thuật công nghệ sản xuất và nguồn nhân
lực.
Điểm du lịch theomô hình dựa vào vốn vận hành quy
trình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, sử dụng lao
động chuyên nghiệp có thể từ nơi khác đến. Khu du
lịch Phú An Khang là một điểm như vậy. Dưa lưới,
rau củ quả được trồng theo tiêu chuẩn VietGAP, vừa
bán trực tiếp cho du khách vừa bán ra thị trường TP.
Hồ Chí Minh. Du khách đến đây được tiếp xúc trực
tiếp với hoạt động nông nghiệp theo cách chủ động
qua các hoạt động hướng dẫn kỹ thuật trồng rau sạch,
trái cây sạch theo kỹ thuật hiện đại, được tự tay trồng
cây, hái trái cây. Ngoài ra còn có “Vườn cây online” để
du khách theo dõi từ xa quá trình sinh trưởng những
cây thuộc quyền sở hữu của mình.
Điểm du lịch theo mô hình nhà đầu tư bên ngoài
dựa vào cộng đồng vận hành quy trình sản xuất nông
nghiệp truyền thống, sử dụng lao động là cư dân trong
cộng đồng. Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ
hoạt động theo mô hình này. Các loại cây trái như
Bưởi da xanh,mít, đu đủ, thanh long,mận, ổivà rau
được trồng sạch theo cách truyền thống. Sản phẩm
thu hoạch được phần lớn dùng phục vụ bữa ăn và bán
cho du kháchmang về, phần còn lại bán ra thị trường.
Những loại thực phẩm nông trại không tự sản xuất
được mua từ các nhà dân lân cận như gà, tôm, cá,
hến Nhà đầu tư trực tiếp quản lý điều hành và tất
cả nhân viên làm việc trong nông trại đều là cư dân tại
chỗ. Một số là giáo viên trường tiểu học, trung học cơ
sở tại địa phương luân phiên tham gia vào quy trình
cung cấp sản phẩm du lịch giáo dục cho du khách là
sinh viên, học sinh.
Mô hình một hoặc một vài hộ trong cộng đồng tham
gia có khá nhiều điểmởhuyệnChâuThành, ChợLách
và vùng venTP. BếnTre. Trong đóVườn sầu riêngBảy
Thảo ở xã VĩnhThành huyện Chợ Lách đã hoạt động
hơn 10 năm. Ở đây không chỉ có vườn sầu riêng lâu
năm mà còn trồng thêm kiểng lá, các loại cây công
trình và có ao nuôi cá tai tượng, có trại nuôi gà nòi.
Nông sản ở đây không chỉ bán trực tiếp cho du khách
mà còn bán online. Do quy mô nhỏ, lao động chính
là người trong gia đình, những khi đông khách chủ
817
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):814-822
nhà gọi thêm lao động láng giềng phụ giúp hoặc mua
giúp khách những loại nông sản của nhà láng giềng
sản xuất.
Mô hình cả cộng đồng tham gia ở Bến Tre có Hợp
tác xã Du lịch sinh thái cộng đồng Thạnh Phong
(huyện Thạnh Phú) được thành lập vào năm 2015 từ
tài trợ của Chương trình Rừng ngập mặn cho tương
lai (Mangrove for the Future, MFF), thuộc Quỹ bảo
tồn thiên nhiên quốc tế (International Union for Con-
servation of Nature, IUCN) (Hình 1). Dự án “Hỗ trợ
xây dựng và phát triển mô hình du lịch sinh thái dựa
vào cộng đồng tại khu vực Bảo tồn thiên nhiên và Bảo
vệ môi trường vùng ven biển, thuộc xãThạnh Phong”
do Trung tâm chuyển giao công nghệ dịch vụ và phát
triển cộng đồng nông ngư nghiệp Việt Nam tổ chức
triển khai thực hiện trong 18 tháng. Sau khi dự án kết
thúc vào tháng 5 năm 2015, Hợp tác xã Du lịch sinh
thái cộng đồng Thạnh Phong do Ban Điều hành và 4
Tổ chuyên trách vận hành. Mặc dù đã có các chương
trình đào tạo kiến thức du lịch cộng đồng cho các
xã viên, nhưng do hạn chế về khả năng tiếp cận thị
trường, tổ chức thực hiện quy trình cung cấp dịch vụ,
nên đến nay Hợp tác xã vẫn chưa khẳng định được vị
thế trên thị trường. Tuy vậy vẫn có một vài hộ duy trì
tiếp đón khách dù không thường xuyên như nhà chị
Bảy và chị Nga.
Do mô hình kinh doanh khác nhau nên sản phẩm
của các điểm du lịch cũng khác nhau. Mỗi điểm có
khúc thị trường riêng, hoạt động độc lập, tự thân phát
triển nên không là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với
nhau. Tuy vậy mỗi điểm với quy mô nhỏ khó phát
triển nhanh vì không đủ năng lực đáp ứng nhu cầu
của các thị trường khách cao cấp nội địa và quốc tế
cũng như khó dành những khoản chi phí lớn để xúc
tiến, quảng bá sản phẩm. Do đó nguồn khách chủ
yếu của các điểm DLNN này là từ TP. Hồ Chí Minh
và vùng lân cận.
THẢO LUẬN VÀĐỀ XUẤT
Trong nền kinh tế thị trường, những mô hình kinh
doanh hiệu quả sẽ phát triển, mô hình kém hiệu quả
sẽ phải mất đi. Tuy nhiên nhà nước sẽ hỗ trợ những
nhóm yếu thế vì những lợi ích khác như ổn định xã
hội, hạn chế di dân, giảm cách biệt thu nhập của dân
cư ở nông thôn và thành thị Phát triển du lịch nông
nghiệp dựa vào cộng đồng nên ưu tiên phát triển các
nông trại quy mô nhỏ do người địa phương sở hữu và
điều hành sẽ tối ưu hóa được chi phí nhờ tự sản xuất
nguyên liệu và vận hành quy trình cung cấp dịch vụ 14.
Nhưng quy mô nhỏ sẽ bị bất lợi vì không có được sức
mạnh thị trường, khó tiếp cận được những thị trường
lớn. Vì vậy, liên kết ngang là cách để tăng sức mạnh
thị trường, để có điều kiện quảng bá sảnphẩmrộng rãi
hơn và thực hiện quy trình cung cấp dịch vụ chuyên
nghiệp hơn. Tuy nhiên quản lý mạng lưới liên kết
ngang các điểm DLNN đòi hỏi phải áp dụng phương
pháp quản lý hiện đại và đây làmột thách thức lớn đối
với mô hình cả cộng đồng tham gia. Bởi vì, thực tế là
hiện nay ở nông thôn không riêng gì BếnTre, số người
có trình độ đã và đang di chuyển về thành thị để sinh
sống và làm việc. Việc đào tạo đòi hỏi phải có thời
gian và người được đào tạo phải có trình độ học vấn
nhất định còn thu hút nhân lực ngoài cộng đồng cũng
không phải là dễ dàng vì họ phải rời xa môi trường
sống quen thuộc. Chính vì “hạn chế về năng lực tổ
chức quản lý mà Hợp tác xã Du lịch sinh thái cộng
đồng Thạnh Phong qua gần 5 năm hoạt động không
phát triển được” là nhận định củamột lãnh đạoPhòng
Văn hóa thông tin huyện Thạnh Phú. Trong trường
hợp thu hút được nhân lực quản lý thì cũng có nguy cơ
xảy ra bất đồng lợi ích giữa người chủ và người quản
lý điều hành. Mô hình DLNN cả cộng đồng tham gia
với mô hình HTX đòi hỏi phải có thời gian để giải
quyết vấn đề nhân lực quản lý nên trong nghiên cứu
này chỉ đề xuất hai mô hình là Tổng Công ty và Hiệp
hội.
Từ mô hình mạng lưới “Bienvenue à la ferme” ở Pháp
cho thấy BếnTre có thể áp dụngmôhình liên kết dạng
này trong tương lai gần vì đã có những điều kiện tiền
đề thuận lợi. Đó là sự quan tâm phát triển DLNN của
chính quyền và cơ quan quản lý nhà nước về du lịch
từ tỉnh đến huyện. Tuy vậy, hiện các hoạt động liên
quan đến liên kết và hợp tác chỉ là “trao đổi thông
tin trong công tác quản lý nhà nước, công tác xúc
tiến, quảng bá du lịch, đào tạo nguồn nhân lực du
lịch, tổ chức các đoàn tham quan, học tập, khảo sát
mô hình phát triển du lịch; phối hợp các tỉnh trong
cụm phía Đông ĐBSCL tham gia gian hàng chung tại
các sự kiện, hội chợ, triển lãm du lịch trong nước”3.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch hoàn toàn có khả
năng làm cầu nối để tổ chứcmạng lưới trong toàn tỉnh
thông qua mạng lưới Phòng Văn hóa các huyện như
cách tổ chức của mạng lưới “Bienvenue à la ferme”
do đã có kinh nghiệm tổ chức Hiệp hội Du lịch của
tỉnh. Mô hình này nên ưu tiên tập hợp các điểm du
lịch cộng đồng quy mô nhỏ và sản xuất nông nghiệp
truyền thống. Thời gian đầu xây dựng mạng lưới có
thể tìm nguồn kinh phí từ các chương trình tài trợ của
chính phủ hoặc của chính quyền địa phương chẳng
hạn như kết nối những điểm đã từng nhận được tài
trợ từ các dự án như dự án “Thích ứng với biến đổi khí
hậu vùng đồng bằng sông Cửu Long tại tỉnh Bến Tre”
(Adaptation to climate change in the Mekong Delta in
Ben Tre Province, AMD). Sản phẩm DLNN của các
thành viên trong mạng lưới nên chọn thành phần cốt
lõi là các hoạt động ở các vườn cây đã có danh tiếng
818
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):814-822
Hình 1: Các mô hình vận hành điểm DLNN hiện tại ở Bến Tre
như “Dừa xiêm xanh”, “Bưởi da xanh”, “sầu riêng Cái
Mơn”, (Chợ Lách), “xoài Tứ Quý” (Thạnh Phú), và
ẩm thực đặc trưng xứ dừa để tạo ra sự khác biệt. Khi
xây dựng được các tiêu chuẩn chất lượng nội bộ và
thương hiệu sản phẩm thì tổ chức gắn logo cho sản
phẩm của các thành viên như là một cam kết cung
cấp sản phẩm đúng theo tiêu chuẩn chất lượng của
mạng lưới. Thông qua mạng lưới triển khai những
hoạt động xúc tiến, ứng dụng công nghệ nhận đặt
chỗ, thanh toán nhằm tăng tiện ích cung cấp cho
du khách. Khi mạng lưới đã vận hành tốt, các thành
viên sẽ được hưởng lợi trước hết là tiếp cận nguồn
khách và các tiện ích kết nối với du khách nên họ sẽ
sẵn lòng đóng góp chi phí vận hành mạng lưới. Mạng
lưới cũng cần phải thể hiện trách nhiệm chia sẻ lợi ích
với cộng đồng qua một khoản trích để hỗ trợ những
nhóm yếu thế trong cộng đồng, xây dựng các công
trình chung phục vụ cộng đồng, xây dựng mối quan
hệ tốt đẹp trong cộng đồngđể nhận được sự ủng hộ
của cộng đồng.
Bến Tre hiện cũng đã có một vài công ty kinh doanh
DLNN hoạt động hiệu quả, tăng trưởng tốt nên có
thể phát triển mô hình liên kết kiểu mô hình của
Tổng công ty DLNNMaharashtra, ở Ấn Độ. Công ty
Mekong Travel với thương hiệu Út Trinh homstay đã
thành công với cụm homstay ở cồn An Bình (Vĩnh
Long), được chứng nhận danh hiệu “Homestay đạt
chuẩn Asean” năm 2017 – 2019 15. Công ty Mekong
Travel đã mở điểm homstay Út Trinh ở cồn TamHiệp
(Bình Đại, Bến Tre), không chỉ cung cấp các dịch vụ
trong phạm vi homstay như nghỉ đêm, ẩm thực địa
phương mà còn liên kết với các hộ dân ở cồn Tam
Hiệp để đưa khách trải nghiệm ở những nhà dân có
hoạt động sản xuất nông nghiệp như vườn lá sâm, trại
nuôi ong, vườn cây ăn tráiđể chia sẻ lợi ích cho cộng
đồng. Công ty Hải Vân với thương hiệu Nông trại Hải
Vân - Sân chim Vàm Hồ hiện đã có mạng lưới cung
cấp thực phẩm và nguồn nhân lực tại chỗ cũng có khả
năng phát triển thành công theo mô hình Tổng công
ty. Như vậy, Mekong Travel và Hải Vân hiện đang có
mạng lưới liên kết dọc hoạt động tốt. Từ kinh nghiệm
tổ chức mạng lưới liên kết dọc, hai công ty này có
nhiều khả năng phát triển thành công mạng lưới liên
kết ngang với thương hiệu riêng như trường hợp của
Tổng Công ty Maharashtra nếu lãnh đạo địa phương
có chủ trương và hỗ trợ cách làm Hình 2.
KẾT LUẬN
Bến Tre có tài nguyên DLNN phong phú và hiện đã
hình thành nhiều điểm cung cấp dịch vụ trải nghiệm
đáp ứng được nhu cầu của du khách. Tùy theo điều
kiện và năng lực của từng nơi, các điểm DLNN vận
hành theo nhiều mô hình khác nhau nhưng có thể
chia thành hai nhóm là dựa vào cộng đồng và dựa
vào vốn. Khác biệt giữa hai mô hình này là các điểm
theo mô hình dựa vào cộng đồng vận hành với nông
nghiệp sạch truyền thống trong khi các điểm dựa vào
vốn vận hành với nông nghiệp công nghệ cao. Mô
hình DLNN dựa vào cộng đồng gồm ba nhóm là cả
cộng đồng tham gia, một hoặc vài hộ trong cộng đồng
tham gia và nhà đầu tư bên ngoài dựa vào cộng đồng.
Hiện tại mô hình cả cộng đồng tham gia đang phải
đối mặt với nhiều thách thức trong khi các mô hình
khác phát triển thuận lợi hơn. Tuy vậy dù vận hành
theo mô hình nào tất cả đều bị hạn chế do quy mô
nhỏ nên cần có sự liên kết thành một mạng lưới rộng
lớn để có thể cùng tiến hành các hoạt độngmarketing
chuyên nghiệp đến những thị trườngmới và cung cấp
sản phẩm đáp ứng được mong đợi của khách hàng.
Nghiên cứu đã đề xuất nên ưu tiên phát triển hai kiểu
819
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):814-822
Hình 2: Mô hình liên kết DLNN trong tương lai ở Bến Tre
liên kết ngang theomôhìnhTổng công ty du lịch nông
nghiệp Maharashtra (Ấn Độ) và Mạng lưới “Bienv-
enue à la ferme” (Pháp) là hai mô hình liên kết đã rất
thành công trong thực tế phát triển DLNN và Bến Tre
đang có những điều kiện phù hợp.
LỜI CẢMƠN
- Nhóm tác giả trân trọng cảm ơn Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tỉnh Bến Tre, UBND và Phòng Văn
hóa – Thông tin huyện Thạnh Phú, UBND xã Thạnh
Phong và Thạnh Hải, Ban Quản lý Khu du lịch Di
tích đường Hồ Chí Minh trên biển huyệnThạnh Phú,
Công ty TNHH Du lịch sinh thái Hải Vân đã nhiệt
tình hỗ trợ chúng tôi trong quá trình thực hiện nghiên
cứu này.
- Đây là sản phẩm của đề tài cấp Nhà nước ”Phát triển
chuỗi giá trị du lịch nông nghiệp tại Đồng bằng sông
Cửu Long trong bối cảnh mới”. Mã số: KX.01.52/16-
20
DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT
DLNN : Du lịch nông nghiệp
ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long
HTX : Hợp tác xã
XUNGĐỘT LỢI ÍCH
Bài báo này không có xung đột lợi ích.
ĐÓNGGÓP CỦA TÁC GIẢ
1. Tạo lập cơ sở dữ liệu sơ cấp bằng kỹ thuật quan sát
kết hợp phỏng vấnmột đối một tại 4 điểmDLNN của
tỉnh Bến Tre trong năm 2019.
• Thu thập dữ liệu tại HTXDu lịch sinh thái cộng
đồngThạnh Phong: Bích Tiên
• Thu thập dữ liệu tại Khu du lịch Phú An Khang,
Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ, Vườn
sầu riêng BảyThảo: Mỹ Hạnh
2. Thu thập và xử lý dữ liệu thứ cấp tiếng Việt và tiếng
Anh: Mỹ Hạnh & Bích Tiên
• Xử lý các tài liệu tiếng Việt: Mỹ Hạnh
• Xử lý các tài liệu tiếng Anh: Bích Tiên
3. Viết bài công bố kết quả nghiên cứu
• Viết tóm tắt tiếng Việt và tiếng Anh, phần
phương pháp nghiên cứu: Bích Tiên
• Các nội dung còn lại của bài: Mỹ Hạnh
ĐÓNGGÓP VỀMẶT KHOAHỌC
Bài viết cung cấp kết quả nghiên cứu đạt được về các
mô hình kinh doanh DLNN tại tỉnh Bến Tre – một
điểm đến mới nổi ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Đóng góp về khoa học của bài viết là:
• Phát triển khái niệmDLNN và điểmDLNN,mô
hình liên kết DLNN
• Chỉ ra bốn kiểu mô hình kinh doanh DLNN ở
Bến Tre là (1) dựa vào vốn, (2) cả cộng đồng
tham gia, (3) một/một vài hộ tham gia, (4) nhà
đầu tư bên ngoài dựa vào cộng đồng
• Đề xuất hai kiểu mô hình liên kết ngang trong
kinh doanh DLNN là Tổng công ty và Hiệp hội.
820
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):814-822
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. Technavio. Global Agritourism Market 2019-2023. 2019;.
2. Ciolac R, Adamov T, Iancu T, Popescu G, Lile R, Rujescu C at al.
Agritourism-A SustainableDevelopment Factor for Improving
the ’Health’ of Rural Settlements, Case Study Apuseni Moun-
tains Area. Sustainability. 2019;11:14–67. Available from:
https://doi.org/10.3390/su11051467.
3. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Báo cáo Tổng kết tình hình
hoạt độngdu lịch năm2018 vàphươnghướng, nhiệmvụnăm
2019;.
4. Arroyo CG, Barbieri C, Rich SR. Defining agritourism: A com-
parative study of stakeholders’ perceptions in Missouri and
North Carolina. Tourism Management . 2013;37(C):39–47.
Available from: https://doi.org/10.1016/j.tourman.2012.12.007.
5. Phillip S, Hunter C, Blackstock K. A typology for defining agri-
tourism. Tourism Management, Elsevier. 2010;31:754–758.
Available from: https://doi.org/10.1016/j.tourman.2009.08.001.
6. Broccardo L, Culasso F, Truant E. Unlocking Value Creation Us-
ing an Agritourism Business Model. Sustainability. 2017;9:16–
18. Available from: https://doi.org/10.3390/su9091618.
7. Kizos T, Iosifides T. The contradictions of agrotourism devel-
opment in Greece: evidence from three case studies. South
European Society and Politics. 2007;12:59–77. Available from:
https://doi.org/10.1080/13608740601155443.
8. Lago NAA. Tourism Demand and Agriculture Supply: Basis
for AgritourismDevelopment in Quezon Province. Asia Pacific
Journal of Multidisciplinary Research. 2017;5(3).
9. BayeMR. Managerial Economics and Business Strategy. 7e ed.
Mc GrawHill. 2010;p. 249.
10. Sznajder M, Przezbórska L, Scrimgeour F. Cooperation of agri-
tourist entities in Agritourism book, CABI. 2009;p. 122. Avail-
able from: https://doi.org/10.1079/9781845934828.0000.
11. Dossier de presse 2018 [online];Available from:
https://www.bienvenue-a-la-ferme.com/files/download/
dossier_de_presse_2018.pdf.
12. Chaire de Tourisme Transat. Agritourism Development - Pre-
liminary Report. ASG UQÀM. 2018;31:22.
13. Ingavale D. Agri Tourism - A Business Model of Agri Tourism
Development Corporation. Management. 2015;4(1).
14. Khamung R. Analysis of Aptitudes, Aspirations, Capacities,
and Resources for a Community-based Agritourism Establish-
ment. Silpakorn University Journal of Social Sciences, Human-
ities, and Arts. 2015;15(2):25–57.
15. Trảng N, Thúy P. Homestay - niềm vui và những trăn
trở. Vĩnh Long online [06/02/2018] ;Available from:
homestay-niem-vui-va-nhung-tran-tro-2880372/.
821
Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 4(4):814-822
Open Access Full Text Article Research Article
1Van Hien University, Vietnam
2Van Lang University, Vietnam
Correspondence
Doan Thi My Hanh, Van Hien University,
Vietnam
Email: hanhdtm@gmail.com
History
Received: 7/7/2020
Accepted: 23/12/2020
Published: 15/1/2021
DOI : 10.32508/stdjssh.v4i4.630
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Agritourism business model in Ben Tre – Present and future
Doan Thi My Hanh1,*, Ma Bich Tien2
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
ABSTRACT
Ben Tre is an emerging destination in the Mekong Delta and known as ``Vietnam's coconut king-
dom''. The number of visitors to Ben Tre has been continuously increased, but the revenue per vis-
itor is still quite low compared with other destinations. In the current, the tourism product of Ben
Tre is mainly agritourism which mostly supplied by traditional agricultural production sites. Very
few agritourism practice hi-tech agricultural productions. Most visitors visit Ben Tre are from HCMC
and neighboring provinces. Due to the small scale of agritourism business sites, they have not
been reached the large and high-end markets. This study aims to identify the current agritourism
business models and then proposed future business linkage models. Qualitative method is used
to conduct this study. Data is collected through observation techniques and combined with face-
to-face interviews at Phu An Khang Tourist, Hai Van Farm- Van Ho Bird Sanctuary, Bay Thao Durian
Garden, and Ecotourism cooperation of Thanh Phong community. This study proposes that in the
future, Ben Tre should link agritourism business sites based on horizontal integrationmodel to pro-
mote tourist products into a new market with large scale and high-end customers. The models of
horizontal integration should be implemented as the association model as similar to "Bienvenu à
la ferme" (France) and the corporation model as similar to Marahastra Corporation (India) because
Ben Tre has the similar conditions conduct and develop these models.
Key words: agritourism, Ben Tre, business model, horizontal integration
Cite this article : Hanh D T M, Tien M B. Agritourism business model in Ben Tre – Present and future.
Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 4(4):814-822.
822
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mo_hinh_du_lich_nong_nghiep_o_ben_tre_hien_tai_va_tuong_lai.pdf