Triển khai áp dụng bộ tiêu chí UPM cho
một số cơ sở giáo dục đại học Việt Nam, có thể
nhận xét rằng, đối với các tiêu chuẩn về quản trị
chiến lược, đào tạo, nghiên cứu, thậm chí cả
tiêu chuẩn về đổi mới sáng tạo, một số cơ sở đã
có thể đạt đến mức 4 hoặc 5 sao, nhưng tiêu
chuẩn về công nghệ thông tin và tài nguyên số
mới chủ yếu đạt mức 3 hoặc 4 sao, trong đó bất
cập lớn nhất không chỉ là do các cơ sở giáo dục
đại học mới triển khai bước đầu mà còn là vấn
đề thói quen quản lý theo hiện tượng, không
quản lý định lượng.
Hình 9 và 10, minh họa kết quả đối sánh
tiêu chuẩn công nghệ thông tin và tài nguyên số
của UMP cho Trường Đại học Công nghệ,
ĐHQGHN. Đây là trường đại học có tài nguyên
số trên websie của trường và thư viện dùng
chung của ĐHQGHN rất phong phú về số
lượng, có chỉ số xếp hạng Webometrics cao.
Trường đã chủ động xây dựng bộ công cụ để
quản lý mức độ truy cập tài nguyên số và mức
độ tương tác của nhóm môn học trên website
môn học. Về mức độ tin học hóa, trường là hình
mẫu về dịch vụ sinh viên một cửa của
ĐHQGHN. Tuy nhiên, Trường Đại học Công
nghệ, ĐHQGHN vẫn còn hạn chế về số lượng
bài giảng điện tử (ở mức cao), tần suất tương
tác giữa giảng viên và sinh viên trong nhóm
môn học và mức độ ứng dụng các hệ thống thực
ảo còn khiêm tốn.
16 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 247 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô hình khái niệm và xếp hạng đối sánh đại học thông minh V-Smarth, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-16
1
Review Article
Conceptual and Rating Model
of the V-SMARTH Smart University
Nguyen Huu Duc1,*, Ha Quang Thuy1, Pham Bao Son1,
Tran Trong Hieu1, Ton Quang Cuong2
1VNU University of Engineeing and Technology, Vietnam National University, Hanoi,
144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
2VNU University of Education, Vietnam National University, Hanoi,
144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Received 04 April 2020
Revised 13 April 2020; Accepted 13 April 2020
Abstract: The conceptual model of smart university has been generalized as a digital
transformation-oriented higher educational institution using digital infrastructure (digital legal,
digital human resources, digital data, digital technologies and digital applications) to provide
personalized learning services to learners of all generations in the country and around the world. It
meets the lifelong learning requirements and sustainable development of individuals as well as
nations. The smart university is described through the V-SMARTH model, which consists of 6
basic components of digital resources, open access learning materials, virtual learning
environment, individualized education, interactive learning and digital platform. These elements
come together in three pillars of digitization, digital learning model and comprehensive digital
transformation process. The study also approached the notions of the smartness and the readiness
level of the smart university. In particular, issues of performance metrics of smart universities have
been developed and implemented with the UPM rating criteria for the VNU University of
Engineering and Technology.
Keywords: Smart university, V-SMARTH model, digital resources, digital infrastructure, smart
level, readiness level, benchmarking.
D*
_______
* Corresponding author.
E-mail address: ducnh@vnu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4400
N.H. Duc et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-16
2
Mô hình khái niệm và xếp hạng đối sánh
đại học thông minh V-SMARTH
Nguyễn Hữu Đức1,*, Hà Quang Thụy1, Phạm Bảo Sơn1,
Trần Trọng Hiếu1, Tôn Quang Cường2
1Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
2Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 04 tháng 4 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 13 tháng 4 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 13 tháng 4 năm 2020
Tóm tắt: Mô hình khái niệm về đại học thông minh đã được khái quát là một cơ sở giáo dục định
hướng đổi mới sáng tạo được chuyển đổi số; sử dụng hạ tầng số (pháp lý số, nhân lực số, dữ liệu
số, công nghệ số và ứng dụng số) để cung cấp dịch vụ đào tạo cá thể hóa cho người học mọi thế hệ
ở trong nước và trên khắp thế giới, đáp ứng yêu cầu học tập suốt đời và phát triển bền vững của
các cá nhân cũng như các quốc gia. Đại học thông minh cũng được mô tả thông qua mô hình
V-SMARTH, bao gồm 6 thành tố cơ bản: tài nguyên số, học liệu truy cập mở, môi trường
dạy-học ảo, nhu cầu học tập riêng, phương pháp dạy-học có tương tác và hạ tầng số. Các thành tố
này qui tụ trong ba trụ cột: số hóa, mô hình dạy-học dựa trên công nghệ số và quá trình chuyển đổi
số toàn diện hệ thống. Nghiên cứu còn tiếp cận các khái niệm về mức độ thông minh và mức độ
sẵn sàng của đại học thông minh. Đặc biệt, vấn đề đo lường và đối sánh chất lượng của đại học
thông minh đã được thử nghiệm với bộ tiêu chuẩn xếp hạng đối sánh UPM đối với Trường Đại học
Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Từ khóa: Đại học thông minh, đại học V-SMARTH, tài nguyên số, hạ tầng số, mức độ thông minh,
mức độ sẵn sàng, đối sánh.
1. Mở đầu *
Cùng với sự phát triển của công nghệ Web
và công cuộc chuyển đổi số, đại học thông
minh (Smart University) là một thiết chế giáo
dục mới dựa vào các công nghệ mới nổi, đang
được phát triển rất mạnh mẽ. Mô hình đại học
thông minh hiện đại nhất hiện nay đã cho thấy
khả năng ứng dụng thành công Internet kết nối
vạn vật (IoT) và các hệ thống thực-ảo (Cyber-
Physical System - CPS). Việc thiết kế và thực
thi mô hình đại học thông minh không còn bị
giới hạn bởi các giải pháp công nghệ đối với
việc triển khai và quản lí đào tạo, mà cần đến
một chiến lược tổng thể và mô hình mang tính
_______
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: ducnh@vnu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4400
tích hợp với các thiết chế xã hội, hạ tầng kinh
tế, văn hóa, giáo dục ở tầm vĩ mô. Theo tiếp cận
thành phố thông minh (Smart City), đại học
thông minh cũng đang được quan tâm với đầy
đủ các yếu tố từ mô hình khái niệm đến đặc
điểm và tính năng, chương trình đào tạo và học
liệu, phương pháp sư phạm, khuôn viên đại học
và cơ sở hạ tầng, Các vấn đề này đã và đang
được nghiên cứu mạnh mẽ ở trên thế giới [1-5].
Ở Việt Nam, đã có một số nghiên cứu về trường
học thông minh, trong đó việc mô tả khái niệm,
mục tiêu và đặc điểm bước đầu đã được đề cập
và thu hút được sự quan tâm nhất định của các
nhà chuyên môn [6-10].
Trên cơ sở tổng quan và phân tích các
nghiên cứu, bài báo này mô hình hóa khái niệm,
mức độ thông minh và mức độ sẵn sàng của đại
học thông minh; đề xuất mô hình V-SMARTH
với ba trụ cột về tài nguyên số, mô hình
N.H. Duc et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-16
3
dạy-học số và chuyển đổi số. Đặc biệt vấn đề
đo lường, đối sánh cho đại học thông minh
cũng được tiếp cận và triển khai áp dụng.
2. Mô hình hóa khái niệm đại học thông
minh và mức độ sẵn sàng
2.1. Mô hình hóa khái niệm đại học thông minh
Đại học thông minh là một phần của thành
phố thông minh. Do đó, trong nghiên cứu này
các mô tả, phân tích và kiến giải mô hình hóa
khái niệm đại học thông minh được viện dẫn
và liên hệ trên nền tảng các đặc điểm, thuộc
tính và chức năng của thành phố thông minh.
Khái niệm thành phố thông minh xuất hiện
từ cuối những năm 1990 và có nhiều sự thay
đổi theo thời gian. Hiện nay, khái niệm thành
phố thông minh về cơ bản đã có sự thống nhất.
“Thành phố thông minh bền vững là một thành
phố đổi mới sáng tạo sử dụng các công nghệ
thông tin - truyền thông (ICT) và các giải pháp
công nghệ hiện đại khác để nâng cao chất
lượng cuộc sống, hiệu quả hoạt động và dịch vụ
đô thị; nâng cao tính cạnh tranh, đồng thời đảm
bảo đáp ứng được nhu cầu của các thế hệ hiện
tại và tương lai về các khía cạnh kinh tế, xã hội,
môi trường và văn hóa” [11]. Thành phố thông
minh là nơi thực hiện chiến lược phát triển tổng
thể, thống nhất dựa trên các công nghệ và giải
pháp thông minh đối với 8 thành tố: Công dân
thông minh, năng lượng thông minh, chăm sóc
sức khỏe thông minh, tòa nhà thông minh, di
động thông minh, hạ tầng thông minh, công
nghệ thông minh, quản trị và giáo dục thông
minh (Hình 1).
Đại học thông minh là một khái niệm liên
quan đến việc hiện đại hóa và công nghệ hóa
toàn diện tất cả các quy trình và hoạt động giáo
dục, còn giáo dục thông minh là hoạt động trực
tiếp đổi mới chất lượng đào tạo, nghiên cứu,
thương mại hóa tri thức và các hoạt động khác
của đại học. Về giáo dục thông minh, IBM định
nghĩa như sau [2]: “Một hệ thống giáo dục liên
ngành, lấy người học làm trung tâm, kết nối các
cơ sở giáo dục và cung cấp: (i) các chương
trình học tập thích ứng và điều kiện học tập tốt
cho người học; (ii) công nghệ dạy - học hợp tác
và tài nguyên số cho giảng viên và người học;
(iii) qui trình quản trị được tin học hóa, hoạt
động trong lớp học được giám sát và báo cáo;
(iv) thường xuyên cập nhật thông tin về người
học, (v) tài nguyên học tập trực tuyến cho
người học ở khắp mọi nơi”.
Hình 1. Đại học thông minh trên hệ thống nền của
thành phố thông minh.
Theo tiếp cận kỹ thuật, Roth-Berghofer [3]
mô tả đại học thông minh là “một nền tảng thu
nhận và cung cấp dữ liệu cơ sở để thúc đẩy khả
năng phân tích và đề ra giải pháp cải thiện môi
trường và chất lượng dạy và học dựa trên truy
xuất dữ liệu cảm biến và sử dụng dữ liệu mở
được liên kết và kiến thức giảng dạy hình thức
hóa”. Trên cơ sở đó, Coccoli và cộng sự [4]
nhấn mạnh: Đại học thông minh có đặc trưng
được hỗ trợ bằng công nghệ thông minh, sử
dụng các công cụ và thiết bị thông minh (điển
hình là thiết bị di động thông minh), mạng thế
hệ mới, các ứng dụng phần mềm tương tác cao.
Theo đó, giáo dục thông minh chỉ là tầng cao,
tầng kết quả và hiển thị được của rất nhiều
thành phần bên dưới như hạ tầng ICT, khả năng
di chuyển, lưu trữ và phân phối dữ liệu, chia sẻ
tri thức, quản lý năng lượng, tương tác xã hội,
quản trị và quản lý hành chính và chăm sóc sức
khỏe. Trong dự án đại học thông minh tại Đại
N.H. Duc et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-16
4
học Trento, Italia [12], đại học thông minh còn
được quan niệm là “một nền tảng đa dạng cung
cấp dịch vụ được cá nhân hóa cho sinh viên đại
học trong nước và trên khắp thế giới”. Như
vậy, giáo dục thông minh đặt trong đại học
thông minh cũng gần như được đặt trong mối
liên hệ với các thành phần của thành phố thông
minh (Hình 1).
Hình 2. Quá trình chuyển đổi mô hình đại học truyền
thống sang mô hình đại học K-SMART của Hàn
Quốc. Tổng hợp và phát triển từ [14].
Trên cơ sở tổng hợp và phân tích vừa nêu,
kết hợp với sứ mệnh và đặc điểm của đại học
thế hệ thứ ba trong thời kỳ Cách mạng công
nghiệp 4.0 [8], có thể đưa ra một định nghĩa
mới về đại học thông minh: “Đại học thông
minh là một cơ sở giáo dục định hướng đổi mới
sáng tạo được chuyển đổi số; sử dụng hạ tầng
số (pháp lý số, nhân lực số, dữ liệu số, công
nghệ số và ứng dụng số) để cung cấp dịch vụ
đào tạo cá thể hóa cho người học mọi thế hệ ở
trong nước và trên khắp thế giới, đáp ứng yêu
cầu học tập suốt đời và phát triển bền vững của
các cá nhân cũng như các quốc gia”.
Mô hình đại học thông minh như vậy rõ
ràng có liên quan chặt chẽ đến các yếu tố nền
tảng của thành phố thông minh (Hình 1), có
mục tiêu và thích ứng với yêu cầu Cách mạng
công nghiệp 4.0. Trong định nghĩa này, thành tố
đại học định hướng đổi mới sáng tạo là bản chất
và động lực phát triển quyết định nội dung và
mục tiêu đào tạo [6, 8]; còn thành tố đại học
thông minh là hệ thống nền, là phương thức và
công cụ thực hiện. Xây dựng đại học thông
minh thực chất là thực hiện quá trình chuyển
đổi số để thay đổi phương thức hoạt động học
thuật truyền thống sang phương thức hoạt động
học thuật dựa trên các phiên bản số của các
thực thể và kết nối của chúng trong không gian
số [13]; đáp ứng mục tiêu cá nhân và nhu cầu
học tập suốt đời và do đó góp phần nâng cao
chất lượng và tạo ra những giá trị mới của quá
trình đào tạo.
Theo tiếp cận đã nêu, Hàn Quốc đã đưa ra
sáng kiến giáo dục để chuyển đổi mô hình giáo
dục truyền thống giáo dục 3R (năng lực đọc,
viết và tính toán - Reading, wRiting và
aRithmetic) với giáo trình giấy truyền thống;
không gian - phòng học thực (giảng đường);
thời khóa biểu cố định và phương pháp sư
phạm thuyết giảng) thành mô hình giáo dục "Tự
định hướng, Tạo động lực, Thích ứng, Giàu tài
nguyên, Dựa trên công nghệ" (Self-directed,
Motivated, Adaptive, Resource enriched,
Technology, viết tắt là mô hình SMART) [14].
Để so sánh với mô hình mà bài báo này đề
xuất cho Việt Nam, mô hình chuyển đổi giáo
dục của Hàn Quốc được ký hiệu lại là
K-SMART (Hình 2). Đây là mô hình đơn giản,
cơ bản về giáo dục thông minh, được UNESCO
coi như một ví dụ điển hình về chính sách cải
thiện hệ thống giáo dục quốc gia của chính phủ,
định hướng việc xây dựng môi trường học tùy
biến (cá nhân hóa) và hiệu quả cho người học ở
Thế kỷ 21 [5]. Sáng kiến K-SMART tập trung
vào ba nội dung. Thứ nhất là phương pháp sư
phạm mới, không chỉ giải quyết các chữ (đọc,
viết) và số (tính toán) mà giải quyết cả vấn đề
âm thanh và hình ảnh cùng với tất cả các công
nghệ đa phương tiện khác. Thứ hai, người dạy
và người học có tầm quan trọng như nhau trong
lớp học. Thứ ba, môi trường học tập giàu tài
nguyên số, được triển khai qua công nghệ điện
toán đám mây. Ở đó, người dạy và người học
có thể tự do sản xuất nội dung, học liệu số và
tải lên, tải xuống một cách an toàn phục vụ cho
việc học tập và nghiên cứu. Đây chính là thế
mạnh của Web 2.0 đã trình bày ở phần đầu.
Thiết nghĩ, đây là phương châm, nội dung và
cách đi hiệu quả mà các quốc gia đang phát
triển có thể áp dụng.
N.H. Duc et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-16
5
2.2. Mức độ thông minh của đại học thông minh
Đại học thông minh có sáu đặc trưng là: khả
năng thích ứng (adaptation), khả năng thu nhận
thông tin (sensing), khả năng chuyển đổi thông
tin thành cơ sở dữ liệu, số hóa (infering), khả
năng phân tích, chẩn đoán (self-learning), khả
năng dự báo (anticipation), khả năng tối ưu hóa
(self-optimization or re-structuring) [15]. Đó
cũng được coi là sáu mức thông minh sắp xếp
tăng dần từ thấp lên cao của đại học thông
minh. Tuy nhiên, khi xem xét và phân tích kỹ
có thể thấy rằng mức độ đầu tiên (thích ứng) và
cuối cùng (tối ưu hóa) là điểm đầu tiên và cuối
cùng khi thực hiện một chu trình. Điểm cuối
của chu trình này có thể là điểm xuất phát của
chu trình mới; chúng có nhiều điểm tương đồng
nên có thể tích hợp vào làm một. Đề xuất này
phù hợp với thiết kế kiến trúc của các hệ thống
CPS [6, 16-17].
Hình 3. Cấu trúc 5C của các hệ thống CPS và các
mức độ thông minh của đại học thông minh.
Tổng hợp và phát triển từ [6].
Các hệ CPS là đặc trưng tiêu biểu của môi
trường công nghiệp 4.0, là cơ sở để thiết kế và
xây dựng các mô hình nhà máy thông minh.
CPS thường được thiết kế với cấu trúc 5C
(Connection - thu nhận và kết nối thông tin,
Conversion - chuyển đổi thông tin và số hóa,
Cyber - phân tích và chẩn đoán, Cognition -
nhận diện và dự báo, Configuration - tối ưu
hóa). Khi áp dụng vào giáo dục đại học, thiết kế
và chức năng của CPS được mô tả trên Hình 3
[6]. Theo đó, các chức năng và đặc trưng của
đại học thông minh đã nêu ở trên có thể tích
hợp lại và đều được đáp ứng thông qua 5 lớp
cấu trúc này:
- Mô đun thu nhận và kết nối thông tin
(Connection - Sensing, C1) là năng lực thu nhận
và quản lý thông tin về tất cả đối tượng, sự
kiện, quá trình và cả tác động đến tất cả các
hoạt động và trên mọi địa điểm trong khuôn
viên đại học. Hệ thống thông tin này bao gồm:
hệ thống cảm biến thu nhận dữ liệu về việc sử
dụng năng lượng, ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, an
toàn, an ninh; hệ thống đầu đọc thẻ thông minh
(hoặc sinh trắc học) để mở cửa cho các giảng
đường, phòng máy tính, lớp học thông minh và
kích hoạt các thiết bị, phần mềm; hệ thống nhận
diện khuôn mặt, giọng nói, cử chỉ và các thiết bị
tương ứng để truy xuất và xử lý dữ liệu về việc
tham gia lớp học của sinh viên, hoạt động của
lớp học, của giảng viên và cả thông tin do giảng
viên và sinh viên cing cấp, ví dụ về kết quả
kiểm tra, đánh giá học tập (câu hỏi, bài kiểm tra
và bài tập trong lớp). Điều quan trọng là các
công nghệ thu nhận thông tin này không sử
dụng một cách độc lập, riêng lẻ mà được liên
kết, trong đó IoT, điện toán đám mây, chuỗi
khối đã kết nối, lưu trữ các thông tin tạo nên hạ
tầng dữ liệu lớn. Thêm vào đó, hệ thống mạng
không dây cho phép chuyển tải chúng trong
không gian mạng.
- Mô đun chuyển đổi thông tin - số hóa
(Conversion - Infering, C2): Hệ thống có thể
thu nhận tất cả thông tin từ mô đun kết nối để
xử lý, số hóa và đưa ra kết quả thống kê, ví dụ
về kết quả điểm danh và tình hình học tập của
sinh viên, cập nhật hồ sơ sinh viên; chất lượng
bài giảng thông qua kết quả trả lời các câu hỏi
kiểm tra; tình hình sử dụng giảng đường, phòng
thí nghiệm; mức độ và sự phân bổ giờ giảng
cho giảng viên.
- Mô đun phân tích và chẩn đoán (Cyber -
Self-learning, C3): Cho phép theo dõi sự
chuyên cần và tiến bộ của sinh viên trong quá
trình học tập môn học, mức độ hài lòng của
sinh viên và khảo sát trực tuyến về chất lượng
bài giảng, trên cơ sở đó phân tích và chẩn đoán
sinh viên có thể hoàn thành học phần hay
không; về hiệu quả của việc bố trí lịch giảng
N.H. Duc et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-16
6
dạy cho môn học; hiệu quả sử dụng năng
lượng,... Hiện nay, khả năng phân tích, khai
thác và sử dụng dữ liệu không chỉ được thực
hiện bởi các phần mềm truyền thống mà đã
được hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo (AI). Điều này
cũng góp phần lý giải cho thuật ngữ tiếng Anh
cyber được sử dụng trong mức độ thông minh
này. Đối với việc hoạt động dạy-học, mô đun
này có thể thực hiện qua chức năng phân tích
quá trình dạy-học (learning analytics) trong hệ
thống quản lý dạy-học (learning management
system - LMS) sẽ được trình bày trong phần 3.
- Mô đun nhận diện và dự báo (Cognition -
Anticipation, C4): Sau quá trình phân tích, các
thông tin về hiệu quả của việc phẩn bổ và sử
dụng cơ sở vật chất, đầu tư, điều chỉnh chương
trình đào tạo, sẽ được đánh giá. Trên cơ sở
đó, các giải pháp cải tiến sẽ được đề xuất. Đặc
biệt, đây còn là năng lực dự báo các rủi ro có
thể xảy ra và giải pháp phòng ngừa về an ninh,
tình hình tuyển sinh, mức độ tham gia học tập.
- Mô đun tối ưu hóa (Configuration and
Adaptation, C5): Là các giải pháp tổ chức lại để
nâng cao hiệu quả và chất lượng đào tạo, trong
đó có đổi mới môi trường dạy-học; phương
pháp dạy-học linh hoạt có tương tác, truyền
thông xã hội; học tập cá thể hóa và gần đây là
việc đầu tư mô hình các nhà máy thông minh
cho phép sinh viên triển khai mô phỏng ý tưởng
đến chế thử tại phòng thí nghiệm; điều kiện ánh
sáng, môi trường, Đặc biệt, đại học thông
minh còn có năng lực tự động thay đổi cấu hình
nội tại, tự tái tạo và tự duy trì theo chủ đích
trong các điều kiện thích hợp mà không có tác
nhân, thực thể bên ngoài tác động. Ví dụ như tự
động cấu hình hệ thống, tham số hiệu năng,
cảm biến, bộ truyền động và các tính năng
thông minh khác trong giờ học theo hồ sơ của
giảng viên; tự động đóng và phục hồi trong
trường hợp mất điện tạm thời; tự động cấu hình
lại mạng cảm biến không dây phù hợp với mức
độ sử dụng. Thậm chí, đại học thông minh cũng
có năng lực tự động sửa đổi các chức năng
nghiệp vụ, điều kiện day-học mới, dễ dàng
thích ứng với nhu cầu của sinh viên khuyết tật
(hệ thống chuyển văn bản thành giọng nói hoặc
ngược lại, hệ thống tìm kiếm, điều khiển bằng
giọng nói,...) và dễ dàng thích ứng mạng với
các nền tảng kỹ thuật mới.
Cấu hình thiết kế và các mức độ thông minh
như vậy được biểu diễn trên Hình 3.
2.3. Mức độ sẵn sàng của đại học thông minh
Để giúp các cơ sở đại học hình dung rõ ràng
hơn lộ trình chuyển đổi từ mô hình đại học
truyền thống tới mô hình đại học thông minh,
trên cơ sở phát triển mô hình năng lực trưởng
thành tích hợp (Capability Maturity Model
Integration: CMMI) [18] trong phát triển phần
mềm, Heinemann và Uskov [19] đã đề xuất và
phát triển mô hình trưởng thành thông minh
(Smart Maturity Model: SMM).
Theo mô hình trưởng thành thông minh
này, đại học thực hiện giáo dục thông minh có
năm mức độ sẵn sàng: Khởi đầu, Hoàn thiện,
Tiêu chuẩn hóa, Định lượng hóa và Tối ưu hóa
(Hình 4).
Ở mức Khởi đầu (mức sẵn sàng thấp
nhất - R1), mới có nhóm với khoảng 2-3% giảng
viên - nhà đổi mới triển khai các hoạt động theo
phương châm "đề xuất và thử nghiệm" một số
trong nội dung đã mô tả trong mô hình
K-SMART và theo các mức độ 5C ở trên.
Ở mức Hoàn thiện (mức sẵn sàng thứ hai -
R2), đã có thêm nhóm giảng viên tiên phong
tiếp nhận (chiếm khoảng 13-15% giảng viên)
tham gia cùng nhóm giảng viên - nhà đổi mới
tiến hành các hoạt động theo phương châm
“Phân tích dữ liệu và hoàn thiện”, thực hiện lặp
các công cụ và phương pháp đổi mới đối với
nhiều đối tượng người học, theo các địa điểm
và trên các thiết bị đặt khác nhau, theo các
chuyên ngành khác nhau; phân tích và đánh giá
kết quả thu được; tổng quát hóa kinh nghiệm
triển khai.
Ở mức Tiêu chuẩn hóa (mức sẵn sàng thứ
ba - R3), ngoài các giảng viên - nhà đổi mới,
giảng viên tiên phong tiếp nhận đổi mới sớm,
có thêm khoảng 30-35% giảng viên nữa và các
nhóm cán bộ quản lý tham gia các hoạt động
theo phương châm "Phát triển và thực thi tiêu
chuẩn" để xây dựng và hình thành các tiêu
chuẩn, tiêu chí đánh giá nhằm chuẩn hóa các
hoạt động.
N.H. Duc et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-16
7
Ở mức Định lượng hóa (mức sẵn sàng thứ
tư - R4), hầu hết giảng viên và cán bộ quản lý
tham gia. Các hoạt động triển khai theo phương
châm "Đánh giá, kiểm soát và quản lý", nhằm
xác định các chỉ số định lượng cho các tiêu
chuẩn, tiêu chí, làm cơ sở đánh giá hiệu quả.
J
Hình 4. Các mức độ sẵn sàng của đại học thông minh. Phát triển từ [19].
Ở mức Tối ưu hóa (mức sẵn sàng cao nhất -
R5), toàn bộ giảng viên, cán bộ quản lý và
chuyên viên của trường đại học tiến hành các
hoạt động theo phương châm "Liên tục đánh giá
và tối ưu hóa". Đây như là một hoạt động đảm
bảo chất lượng bên trong, bao gồm việc liên tục
đánh giá kết quả hiện thời, giảng dạy thông
minh, học thông minh, sư phạm thông minh và
phân tích so sánh "kết quả dự kiến so với thực
tế"; phân tích nguyên nhân và giải pháp, chỉnh
sửa và/ hoặc tối ưu hóa các nhược điểm hoặc
điểm yếu đã xác định; liên tục cải tiến các chức
năng nghiệp vụ chính; liên tục cải tiến công tác
quản lý và quản trị.
Mặc dù luôn luôn ổ súy đạt được mức sẵn
sáng cao nhất, nhưng mô hình trưởng thành
thông minh cũng chỉ ra rằng để tối ưu hóa về
mặt hiệu quả, đặc biệt là hiieuj quả chi phí, các
nhóm giảng viên cụ thể chỉ nên bắt đầu tham
gia vào giáo dục thông minh ở các mức sẵn
sàng phù hợp.
3. Mô hình đại học thông minh V-SMARTH
So sánh với các quốc gia trên thế giới, Việt
Nam có cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và
viễn thông được xây dựng khá đồng bộ. Vùng
phủ sóng di động đạt 99,7% dân số trên cả
nước. Trong đó, vùng phủ sóng 3G, 4G đạt trên
98% với mức cước phí thấp. Mạng 5G đã được
cấp phép thử nghiệm và dự kiến triển khai
N.H. Duc et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-16
8
thương mại từ năm 2020. Tuy nhiên, các ứng
dụng vào công nghệ thông tin nói riêng và các
công nghệ 4.0 trong giáo dục và đào tạo còn
chậm, chưa cơ bản, chuyên nghiệp và đồng bộ,
đặc biệt đang thiếu vắng một thiết kế về chiến
lược và nội dung. Các cơ sở giáo dục đại học
Việt Nam cần thực hiện công cuộc chuyển đổi
số để từng bước xây dựng đại học thông minh
với 3 trụ cột:
- Số hóa: Tạo ra biểu diễn số của các thực
thể vật lý, đặc biệt là nguồn học liệu;
- Đổi mới mô hình hoạt động: đổi mới
phương thức quản lý và dạy-học dựa trên các
công nghệ số;
- Chuyển đổi: chuyển đổi toàn diện tư duy,
văn hóa và phương thức lãnh đạo, quản lý và tổ
chức phù hợp với mô hình dạy-học mới.
Trên cơ sở phát triển mô hình K-SMART
về mục tiêu của đại học thông minh, đối sánh
với tình hình cụ thể và điểm xuất phát của các
cơ sở giáo dục đại học nước ta, mô hình
V-SMARTH về nội dung và nhiệm vụ của đại
học thông minh ở Việt Nam đã được đề xuất
như trên Hình 5. Theo mô hình này, đại học
V-SMARTH có 6 đặc trưng: (i) S - tài nguyên
Số, (ii) M - học liệu truy cập Mở, (iii) A - môi
trường dạy - học Ảo, (iv) R - đáp ứng nhu cầu
học tập Riêng, (v) T - phương pháp dạy - học có
Tương tác và (vi) H - có Hạ tầng số. Nội dung
của các thành tố này được mô tả trong Bảng 1
và Hình 5.
S - Tài nguyên, học liệu số là yếu tố cơ bản
của đại học thông minh V-SMARTH và
dạy - học trực tuyến, trong đó, giáo trình số
(digital textbook) là cốt lõi. Khác với giáo trình
điện tử (e-textbook), giáo trình số cho phép tích
hợp các học liệu tham khảo; thực hiện các hoạt
động tương tác, kiểm tra, đánh giá với các học
liệu đa phương tiện, các học liệu bổ sung, tăng
cường. Ngoài ta, với giáo trình số, người học
(không cần thiết có thêm tài liệu tham khảo và
bài tập khác) có thể trực tiếp theo dõi, quản lý
quá trình và kết quả học tập, đánh giá và kiểm
tra; cho phép kết nối với nguồn học liệu bên
ngoài, trên toàn thế giới. Đặc biệt, theo triết lý
giáo dục và các phương pháp dạy - học hiện
nay, cả người học và người dạy đều có thể (và
có trách nhiệm) phát triển tài nguyên học liệu
số. Ngoài ra, tài nguyên số còn do các bên liên
quan cung cấp, chia sẻ.
Bảng 1. Nội dung của mô hình đại học thông minh
V-SMARTH
M - Khả năng truy cập mở của tài nguyên
số là đặc điểm quan trọng để thực hiện sứ mệnh
của đại học thông minh về đào tạo linh hoạt và
cá thể hóa. Nếu có nguồn tài nguyên phong phú
nhưng không chia sẻ thì việc thực hiện mục tiêu
chuyển đổi từ đại học truyền thống sang đại học
thông minh không thực hiện được. Nội dung
giáo dục mở bao gồm: Học liệu mở; thông tin
mở, bài giảng trực tuyến MOOC, chương trình
đào tạo mở và nội dung di động, Ngoài việc
đo lường mức độ sử dụng nội bộ, chất lượng và
hiệu quả của tài nguyên số của trường đại học
còn được đánh giá bằng mức độ được các đại
học khác kết nối và sử dụng. Để thực hiện khả
năng truy cập mở của tài nguyên số, như sẽ
trình bày dưới đây, việc xây dựng văn hóa chia
sẻ và thực thi đạo đức khoa học là rất cần thiết.
N.H. Duc et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-16
9
Hình 5. Mô hình đại học thông minh V-SMARTH:
Nội dung giáo dục SMART trên nền tảng hạ tầng H.
A - Môi trường giáo dục ảo áp dụng cho cả
hoạt động dạy-học và kiểm tra đánh giá. Về
dạy-học, trước hết, đó là mô hình lớp học hỗn
hợp (blended) b-SMARTH trong các phòng học
thông minh áp dụng cho lớp học chung, lớp học
đặc biệt, lớp học tích hợp và lớp học trải
nghiệm sáng tạo. Mô hình này sử dụng các
phương pháp dạy-học khác nhau như dạy-học
dựa trên vấn đề, dạy-học theo dự án, thảo luận,
dạy-học hội tụ và tích hợp liên ngành, day-học
qua trải nghiệm. Mô hình b-SMARTH cung cấp
các cơ hội cho giảng viên, chuyên gia thỉnh
giảng và người học giao tiếp với nhau. Trong
đó, mô hình lớp học chung là các lớp học thông
thường triển khai mô hình học tập lấy người
học làm trung tâm. Lớp học đặc biệt được thiết
kế áp dụng đáp ứng với năng lực, trình độ của
các nhóm người học đặc thù từ các lớp môn
học, cáclớp học tích hợp, và đặc biệt là các lớp
môn học đặc thù (âm nhạc, thư viện,...). Mô
hình lớp học tích hợp có thể thực hiện để kết
hợp việc kết nối, trao đổi với các trường đối tác
quốc tế và lớp học quy mô nhỏ hoặc ở xa khuôn
viên nhà trường. Cuối cùng, mô hình lớp học
trải nghiệm sáng tạo nghiệm được phát triển để
hỗ trợ kinh nghiệm và sở thích đa dạng của sinh
viên. Điều đặc biệt lưu ý là, trong b-SMARTH
này, giáo trình số được sử dụng (Hình 6).
Thứ hai, mô hình dạy-học trực tuyến
e-SMARTH (Hình 7) được sử dụng để triển
khai các môn học tự chọn, môn học tăng cường,
xác nhận tham gia lớp học hoặc tự tăng cường,
bổ sung thêm kiến thức ở nhà,... Lớp học môn
học tự chọn là lớp học không được triển khai
trực tiếp (off-line) tại trường, tạo điều kiện cho
người học tham gia vào các lớp học theo sự lựa
chọn của riêng của cá nhân. Khóa học tăng
cường được tổ chức để hỗ trợ quyền học tập của
các sinh viên phải chuyển trường hoặc đi học
trao đổi tín chỉ. Lớp học ghi danh áp dụng để
thay thế lớp học thông thường trong trường hợp
sinh viên không thể tham dự do các thảm họa
quốc gia, bệnh tật hoặc nhập viện dài hạn. Cuối
cùng, các khóa học nâng cao, bổ sung sau giờ
học là một mô hình giảng dạy nâng cao năng
lực quản lý học tập của sinh viên bằng cách cho
phép học tập nâng cao ở nhà. Trong mô hình
e-SMARTH có các thành phần sau đây tham
gia: Giảng viên dạy trực tuyến phụ trách việc
hướng dẫn học tập, phát triển học liệu, giao bài
tập, đánh giá các hoạt động và kết quả học tập;
Cán hộ hỗ trợ lớp học trực tuyến: Quản lý sự
tham gia, hỗ trợ hoạt động học tập, cập nhật
thông tin lớp học và hỗ trợ học liệu ôn tập,
kiểm tra, đánh giá; Cán bộ quản lý việc đăng ký
lớp học: Hướng dẫn và tư vấn việc đăng ký,
chấp nhận và quản lý kết quả đăng ký; Các
phương pháp dạy-học áp dụng trong mô hình
e-SMARTH là dạy-học cá thể hóa, dạy-học hợp
tác, dạy-học phân hóa theo trình độ, năng lực và
dạy-học qua giao tiếp xã hội.
Trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0,
yếu tố quan trọng và khác biệt của môi trường
giáo dục ảo là các không gian học tập ảo (đặc
biệt là các phòng thí nghiệm ảo, thư viện ảo và
các thiết bị học tập ảo), đồng thời, đại học ảo
tạo ra các cộng đồng học tập ảo. Phòng thí
nghiệm ảo cho phép người học thực hiện các thí
nghiệm ảo theo các kịch bản của thực tại ảo để
cung cấp các cơ hội trải nghiệm thực tiễn mới
trong giáo dục, tạo điều kiện cho người học dễ
dàng có được trải nghiệm tương tự như trong
phòng thí nghiệm thực, góp phần hình thành
các kĩ năng của người học theo yêu cầu của
Cách mạng công nghiệp 4.0. Hơn nữa, thí
nghiệm ảo cũng cung cấp một mô hình nghiên
cứu khám phá phi rủi ro tránh được các rủi ro
có thể trong thí nghiệm thực giúp sinh viên hình
dung được các quy trình phức tạp và trừu
N.H. Duc et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-16
10
tượng. Đặc biệt, tiếp cận đại học ảo rất phù hợp
đối với các nước có thu nhập thấp [6].
Giám sát, kiểm tra đánh giá trực tuyến là
một trong các thành tố chính của dạy-hoc thông
minh. Điều này hoàn toàn khả thi nhờ sự thông
minh của môi trường dạy-học ảo. Môi trường
dạy-học thông minh (smart learning
environment - SLE) có khả năng ghi lại từng
chi tiết về hành vi học tập của sinh viên; cho
phép các bên liên quan khác nhau như người
hướng dẫn, người học, giảng viên, nghiên cứu
viên, cơ sở giáo dục thu nhận được các thông
tin quan trọng và có giá trị thông qua việc phân
tích các hành vi này. SLE có khả năng nhận
diện bối cảnh, bao gồm kiến thức đã có của
người học, phương pháp học tập, tốc độ học
tập, các hoạt động hiện tại, mục tiêu và kết quả
đầu ra, thời gian cho phép, địa điểm và sở thích
cá nhân. Tất cả các thông tin thu thập được về
các hành vi học tập của sinh viên và sự tương
tác của chúng với các bối cảnh khác nhau được
phân tích để nhận diện tình hình. Thêm vào đó,
các công cụ phân tích học tập (learning
analysis system - LAS) thường được cung cấp
trong các hệ thống quản lý dạy-hoc (learning
management system - LMS). Ví dụ như Moodle
cho phép đánh giá kết quả đầu ra của môn học
và cả quá trình tiến bộ trong học tập của sinh
viên như: sự chuyên cần, mức độ tham gia và
hoàn thành các hoạt động, đánh giá tổng quan
về khóa học và phân tích thái độ tham gia, đóng
góp của người học trong quá trình học tập. Do
đó, SLE phân tích và đo lường, đánh giá kết
quả học tập khóa học và dự đoán thành công
của sinh viên [20].
R - Giáo dục cá thể hóa củng cố tính linh
hoạt của hệ thống giáo dục và thực hiện việc
học tùy chỉnh gắn liền với sở thích cá nhân và
nghề nghiệp trong tương lai. Các trường học
phát triển từ nơi truyền thụ kiến thức đến các
không gian kiến tạo việc học tập cá nhân để
thúc đẩy năng lực và năng khiếu của người học.
Khi đó, việc dạy-học theo chương trình xác
định (trực tiếp và trực tuyến) có thể kết hợp với
dạy-học theo định hướng cá nhân (năng lực, lộ
trình, sở thích, nhu cầu,), dạy học trên thiết bị
di động.
L
Hình 6. Mô hình dạy học kết hợp trực tiếp - trực tuyến b-SMARTH với phòng học thông minh. Tổng hợp từ [5].
N.H. Duc et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-16
11
Hình 7. Mô hình dạy học kết hợp trực tuyến e-SMARTH với phòng học thông minh. Tổng hợp từ [5].
Thậm chí, các trường đại học trên thế giới
đã bắt đầu áp dụng phương pháp dạy-học ngẫu
nhiên, sinh viên có thể học mọi lúc, mọi nơi,
với các phương pháp dạy-học khác nhau thông
qua nền tảng công nghệ thông tin và môi trường
giáo dục được cung cấp để tích hợp các chứng
chỉ micro-nano [8]. Đặc biệt, giáo dục cá thể
hóa có thể hỗ trợ học tập suốt đời rất
hiệu quả. T - phương pháp dạy - học có tương
tác là một thế mạnh của công nghệ Web 2.0 -
“Web đọc - viết”, “Web hướng con người - xã
hội”, “Web hai chiều” đến kết nối những người
sử dụng web để người dùng có thể đọc, viết và
trao đổi được với nhau ở một mức độ nhất định.
Đây là cơ sở cho e-learning 2.0 được phát triển
và ứng dụng để tổ chức học tập có tương tác,
thông qua các dự án khám phá tri thức với học
liệu mở. Với cách tổ chức như vậy, việc học tập
có thể được thực hiện khắp nơi, với đầy đủ nội
hàm của đại học 2.0. Do đó, có thể khái quát
hoá đây là giai đoạn chuyển từ quá trình
e-learning (với nghĩa Learning everywhere)
thành we-learning (với nghĩa Learning
everywhere With everybody) [21]. Đây cũng là
cơ sở để mở rộng và tăng cường phương pháp
dạy-học hợp tác. Vào đầu thế kỷ này, nhiều
trường đại học đã áp dụng website môn học.
Trên hệ thống đó, người học không chỉ được
cung cấp các tài nguyên, học liệu, bài tập về
nhà, mà còn được kết nối, trực tiếp trao đổi
và nắm bắt được các trao đổi học thuật của
nhóm sinh viên và giảng viên tham gia môn
học. Ngày nay, bên cạnh các phần mềm và hệ
thống chuyên dụng, các hệ thống mạng xã hội
N.H. Duc et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-16
12
cũng hỗ trợ tương tác của các nhóm môn học
rất hiệu quả. Tương tác trên các hệ thống công
nghệ thông tin là phương tiện để thúc đẩy sự
chia sẻ thông tin và xây dựng văn hóa chia sẻ.
Tuy nhiên, công nghệ thông tin, đặc biệt là
công nghệ số cũng có mặt trái của nó trong việc
bảo mật thông tin cá nhân và bản quyền, sở hữu
trí trí tuệ. Do đó, cùng với văn hóa chia sẻ phải
xây dựng văn hóa trích dẫn và đạo đức khoa
học chuẩn mực.
H - Về hạ tầng số, phải đảm bảo hạ tầng
pháp lý, hạ tầng nhân lực, hạ tầng kỹ thuật, hạ
tầng dữ liệu và hạ tầng ứng dụng [13].
Về hạ tầng pháp lý, cùng với các quy định
của các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ sở
giáo dục đại học cần xây dựng các văn bản quy
định, hướng dẫn và các chế tài trong việc phát
triển tài nguyên số, truy cập mở, đào tạo trực
tuyến, học tập cá thể hóa, văn hóa chia sẻ và
đạo đức học thuật. Đặc biệt phải có giải pháp để
tăng cường nhận thức về đại học thông minh và
chính sách đầu tư hiệu quả.
Về hạ tầng nhân lực, cần quan tâm đến
năng lực số, văn hóa số, văn hóa chia sẻ và có
kế hoạch tập huấn, bồi dưỡng và trang bị các
công cụ cần thiết để giảng viên, nhân viên,
người học và các bên liên quan có khả năng
tham gia và đóng góp hiệu quả vào quá trình
chuyển đổi số.
Hạ tầng dữ liệu được tạo ra liên tục ở khắp
nơi, cả dữ liệu có cấu trúc và dữ liệu phi cấu
trúc. Nếu như trước đây thách thức về dữ liệu là
việc lưu trữ và quản lý thì hiện nay đó chỉ còn
là thách thức về việc biến dữ liệu thành thông
tin và tri thức có giá trị. Dữ liệu không chỉ được
quản lý ở các bộ phận, đơn vị tách biệt mà
chính việc kết nối dữ liệu giữa các bộ phận tách
biệt đó mới tạo ra giá trị lớn. Dữ liệu không chỉ
là công cụ để tối ưu hoá các quá trình mà là tài
sản vô hình để tạo ra giá trị. Đối với các cơ sở
giáo dục đại học, các dữ liệu quan trọng bao
gồm dữ liệu về các nguồn lực (con người, tài
chính, cơ sở vật chất), tài nguyên học liệu, quá
trình và kết quả day-học, năng suất và chất
lượng nghiên cứu,
Hạ tầng kỹ thuật số chủ yếu là các hệ thống
máy tính và kết nối mạng đảm bảo dữ liệu lớn
và tốc độ truyền thông cao. Đó còn là các trang
thiết bị liên quan, các tòa nhà, phòng học,
khuôn viên thông minh và các hạ tầng dịch vụ
hỗ trợ đào tạo, quản trị thông minh.
Hạ tầng ứng dụng là các phần mềm và công
nghệ số và đặc biệt là các công nghệ số chuyên
dụng cho từng lĩnh vực cho phép khai thác dữ
liệu số để thay đổi phương thức quản lý và tổ
chức các hoạt động.
5. Đối sánh mức độ đáp ứng đại học
thông minh
Về nguyên tắc, mức độ đáp ứng và chất
lượng của đại học thông minh được đánh giá
bằng sự tích hợp của hai kết quả về mức độ
thông minh (Ci) và mức độ sẵn sàng (Ri). Như
đã minh họa trên hình 8, đại học thông minh
xuất sắc thường được xác định khi cả C và R ở
trên mức 3. Với C và R ở dưới mức 3, nói
chung đấy vẫn chủ yếu là đại học truyền thống.
Khi R > 3 nhưng C < 3, đại học vẫn hạn chế về
mức độ thông minh, còn khi C > 3 và R < 3 thì
đấy là đại học đã hội đủ các yếu tố thông minh
nhưng tỷ lệ giảng viên và cán bộ quản lý tham
gia còn ít, các hoạt động chưa được tiêu chuẩn
hóa, định lượng hóa và cải tiến, phát triển
(Hình 8).
Hình 8. Đối sánh mức độ đáp ứng đại học
thông minh.
Trong khi các hoạt động đào tạo, nghiên
cứu và chuyển giao tri thức và phục vụ cộng
N.H. Duc et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-16
13
đồng đã được đánh giá, đối sánh và xếp hạng đã
được triển khai khá hiệu quả thì vấn đề đo
lường, đánh giá mức độ thông minh của đại học
vẫn còn khá mới mẻ. Bảng xếp hạng
Webometrics đã có cơ sở dữ liệu của hầu hết
các cơ sở giáo dục đại học ở trên thế giới,
nhưng chủ yếu tập trung vào tài nguyên số (mở)
và mức độ công bố khoa học trên các tạp chí
trực tuyến thuộc hệ thống Scopus.
Bảng xếp hạng đối sánh, gắn sao QS Star đã
đề cập đến hạ tầng công nghệ thông tin và dạy
học trực tuyến với các tiêu chí:
- Hạ tầng công nghệ thông tin: Trung bình 1
trên máy tính cho 5 sinh viên hoặc truy cập
internet ở nơi cư trú của sinh viên hoặc truy cập
WIFI đạt từ 60-90% diện tích khuôn viên
(không bao gồm công viên và sân thể thao).
- Công nghệ: Sử dụng công nghệ mới nhất
trong dạy - học.
- Quản lý quá trình: Tổng thời gian các
khóa học trực tuyến đã được thực hiện.
- Học tập có tương tác: tần suất tương tác
giữa sinh viên và giảng viên môn học.
- Bài giảng điện tử: Số lượng các chương
trình, bài giảng trực tuyến.
- Uy tín: Số lượng các cơ sở giáo dục đại học
khác sử dụng bài giảng điện tử, tài nguyên số của
đơn vị.
Bảng 2. Mười tiêu chí trong tiêu chuẩn công nghệ thông tin và tài nguyên số
của Bộ công cụ UPM đối sánh chất lượng đại học thông minh [8].
N.H. Duc et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-16
14
H
Hình 9. Kết quả đối sánh các tiêu chí công nghệ thông tin và tài nguyên số theo Bộ tiêu chuẩn UPM
do nhóm nghiên cứu thực hiện cho Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN. Nguồn upm.vn [8].v8
Ở Việt Nam, đã có một số nghiên cứu về
trường học thông minh, nhưng chủ yếu tập
trung vào định nghĩa và đặc điểm của các
trường phổ thông [9, 10]. Mới đây, Nguyễn
Hữu Thành Chung và đồng nghiệp [8] đã đề
xuất bộ tiêu chí UPM đánh giá mức độ đáp ứng
mô hình đại học thông minh định hướng đổi
mới sáng tạo. UPM có 8 nhóm tiêu chuẩn và 53
tiêu chí, trong đó có 1 nhóm tiêu chuẩn với 10
tiêu chí về công nghệ thông tin và tài nguyên
số. Mặc dù UPM có mong muốn đối sánh cho
đại học thông minh, nhưng đối với tình hình
phát triển hiện nay của các cơ sở giáo dục đại
học Việt Nam, nên bắt đầu từ ba yếu tố cốt lõi
của là hạ tầng ứng dụng số (thu thập, quản lý dữ
liệu và dạy-học trực tuyến) và hạ tầng dữ liệu
(số hóa, đặc biệt là phát triển học liệu số) Do
đó, theo bảng 2, trong tiêu chuẩn 6 của UPM
các tiêu chí này không tiếp cận đến hạ tầng
pháp lý số, hạ tầng nhân lực và hạ tầng công
nghệ kỹ thuật số (thuộc các tiêu chuẩn khác
trong UPM) của thành phố thông minh và đại
học thông minh mà chỉ tập trung đo lường,
đánh giá mức độ thu nhận và xử lý thông tin
phục vụ quản lý chất lượng, mức độ phát triển
tài nguyên số và bài giảng điện tử, mức độ sử
dụng tài nguyên số và tương tác trong lớp môn
học. Đặc biệt, để phù hợp với xu thế phát triển
của Cách mạng công nghiệp 4.0, UPM bắt đầu
kiểm đếm mức độ ứng dụng của các hệ thống
CPS vào giảng dạy và nghiên cứu. Hơn thế nữa,
trong thời kỳ bùng nổ thông tin số, vấn đề bản
quyền và đạo đức khoa học cũng đã được đề
cập. Chỉ số xếp hạng Webometrics không chỉ
hỗ trợ cho việc đánh giá tài nguyên số mà còn
phản ánh năng suất và chất lượng nghiên cứu
khoa học trong thời đại số.
N.H. Duc et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-16
15
Đối chiếu với các vấn đề đã được khái quát
ở trên về đại học thông minh, tiêu chí 1 của
UPM thực chất là mức thông minh cơ bản C1.
Các mức độ thông minh C2-C5 đối với hoạt
động quản lý chất lượng đã được tích hợp vào
tiêu chí 2. Tiêu chí 3 và 6 hoàn toàn tương đồng
với yếu tố S (tài nguyên số) trong mô hình
V-SMARTH. Còn tiêu chí 7 có liên quan đến
yếu tố A (ảo). Trong bộ tiêu chuẩn UPM, mức
độ sẵn sàng được đánh giá thông qua chỉ số tần
suất và số lượng của các hoạt động.
0.0
0.2
0.4
0.6
0.8
1.0
Kết nối thông tin
Quản trị chất
lượng
Tài nguyên số
Sử dụng tài nguyên
số
Tương tác học
thuật
Bài giảng điện tử
Ứng dụng hệ thống
CPS
Mạng không dây
Kiểm tra trùng lặp
thông tin
Chỉ số Webometrics
Hình 10. Biểu đồ mạng lưới đối sánh chất lượng ứng
dụng công nghệ thông tin và Tài nguyên số của
Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN.
Triển khai áp dụng bộ tiêu chí UPM cho
một số cơ sở giáo dục đại học Việt Nam, có thể
nhận xét rằng, đối với các tiêu chuẩn về quản trị
chiến lược, đào tạo, nghiên cứu, thậm chí cả
tiêu chuẩn về đổi mới sáng tạo, một số cơ sở đã
có thể đạt đến mức 4 hoặc 5 sao, nhưng tiêu
chuẩn về công nghệ thông tin và tài nguyên số
mới chủ yếu đạt mức 3 hoặc 4 sao, trong đó bất
cập lớn nhất không chỉ là do các cơ sở giáo dục
đại học mới triển khai bước đầu mà còn là vấn
đề thói quen quản lý theo hiện tượng, không
quản lý định lượng.
Hình 9 và 10, minh họa kết quả đối sánh
tiêu chuẩn công nghệ thông tin và tài nguyên số
của UMP cho Trường Đại học Công nghệ,
ĐHQGHN. Đây là trường đại học có tài nguyên
số trên websie của trường và thư viện dùng
chung của ĐHQGHN rất phong phú về số
lượng, có chỉ số xếp hạng Webometrics cao.
Trường đã chủ động xây dựng bộ công cụ để
quản lý mức độ truy cập tài nguyên số và mức
độ tương tác của nhóm môn học trên website
môn học. Về mức độ tin học hóa, trường là hình
mẫu về dịch vụ sinh viên một cửa của
ĐHQGHN. Tuy nhiên, Trường Đại học Công
nghệ, ĐHQGHN vẫn còn hạn chế về số lượng
bài giảng điện tử (ở mức cao), tần suất tương
tác giữa giảng viên và sinh viên trong nhóm
môn học và mức độ ứng dụng các hệ thống thực
ảo còn khiêm tốn.
5. Kết luận
Mô hình khái niệm về đại học thông minh
đã được tổng quan và khái quát hóa với mô
hình V-SMARTH, bao gồm 6 thành tố và hoạt
động cơ bản (tài nguyên số, học liệu truy cập
mở, môi trường dạy - học ảo, đáp ứng nhu cầu
học tập riêng, phương pháp dạy - học có tương
tác và hạ tầng số) qui tụ trong ba trụ cột: Số
hóa, đổi mới mô hình dạy-học dựa trên công
nghệ số và chuyển đổi số toàn diện từ tư duy
đến văn hóa, lãnh đạo, quản lý và điều hành.
Nghiên cứu này cũng đã tiếp cận đến khái niệm
về mức độ thông minh và mức độ sẵn sàng của
đại học thông minh. Đặc biệt, vấn đề đo lường và
đối sánh chất lượng của đại học thông minh đã
được thử nghiệm với bộ tiêu chuẩn UPM. Các đề
xuất trong nghiên cứu này có tính cơ bản và hệ
thống, có thể áp dụng để triển khai thực hiện đồng
thời quản trị quá trình chuyển đổi số nói chung và
xây dựng đại học thông minh cho các cơ sở giáo
dục đại học ở Việt Nam.
Lời cảm ơn
Công trình nghiên cứu này được tài trợ bởi
Chương trình KH&CN về Khoa học Giáo dục
cấp quốc gia với đề tài: Nghiên cứu mô hình
trường đại học đáp ứng Cách mạng công nghiệp
4.0 (“Đại học 4.0”) mã số KHGD/16-
20.ĐT.007.
N.H. Duc et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-16
16
Tài liệu tham khảo
[1] Vladimir L. Uskov, Jeffrey P. Bakken,
Robert J. Howlett, Lakhmi C. Jain, Smart
Universities: Concepts, Systems and
Technologies, Springer, 2018.
[2] Smarter education with IBM. https://www-
935.ibm.com/services/multimedia/Framework-
Smarter-Education-With-IBM.pdf/, 2020
(accessed 15th March 2020).
[3] T. Roth-Berghofer, "Smart university, the
university as a platform", Disponível em.
https://smartuniversity.uwl.ac.uk/blog/?p=100/,
2013 (accessed 15th March 2020).
[4] Mauro Coccoli, Angela Guercio, Paolo Maresca,
Lidia Stanganelli, Smarter universities, A vision
for the fast changing digital era, Journal of Visual
Languages and Computing 25 (2014) 1003-1011.
[5] UNESCO-Education Sector, Classroom
revolution through SMART education in the
Republic of Korea - Case study by the UNESCO-
Fazheng project on best practices in mobile
learning, UNESCO, 2019.
[6] Nguyen Huu Duc, Nguyen Huu Thanh Chung,
Nghiem Xuan Huy, Mai Thi Quynh Lan, Tran
Bich Lieu, Ha Quang Thuy, Nguyen Loc,
Towards the Higher Education 4.0 -
Characteristics and Criteria, VNU Journal of
Science: Policy and Management Studies 34(4)
(2018) 1-28. https://doi.org/10.25073/2588-
1116/vnupam.4160 (in Vietnamese).
[7] Nguyen Quy Thanh và Ton Quang Cuong, New
technology trends in education,
cua-cong-nghe-trong-giao-
duc.html?fbclid=IwAR1yN12vlNBk8d4TyQw1D6_
fgIXmwiqjPVKeiMHRqGz-NaUTygw61brfo3s/,
2019 (accessed 11th March, 2020).
[8] Nguyen Huu Thanh Chung, Tran Van Hai, Vu Thi
Mai Anh, Nghiem Xuan Huy, Ta Thi Thu Hien,
Nguyen Huu Duc, SMARTI University Model
and Performance Benchmarking System UPM,
VNU Journal of Science: Policy and Management
Studies 36(1) (2020) 28-43 (in Vietnamese).
[9] Vu Thi Thuy Hang, Smart school: Origin,
definition and proposals for Vietnam, Journal of
Education 432 (2018) 6-10 (in Vietnamese).
[10] Nguyen Manh Hung, Tran Khanh Duc Eds, 4.0
Smart School Governance and QS University
Rangking, Vietnam National Unievrsity Press,
2020 (in Vietnamese).
[11] Smart City, https://forbesvietnam.com.vn/cong-
nghe/khai-niem-thanh-pho-thong-minh-o-viet-
nam-co-gi-khac-so-voi-the-gioi-4747.html/, 2020
(accessed 15th March 2020).
[12] Smart University, 2019
(accessed 15th December, 2019).
[13] Ho Tu Bao, Basic concepts of the digital
transformation.
so.pdf?fbclid=IwAR0Cy01uJllYqn90Kw93IRVJYz
uYJOOc9VqzUym5E3O7NKV-wJD1EYMgp4k/,
2020 (accessed 15th March 2020).
[14] S. Chun, Korea’s smart education initiative and its
pedagogical implications, CNU J. Educ. Stud.
34(2) (2013)1-18.
[15] Vladimir L. Uskov, Robert J. Howlett, Lakhmi C.
Jain, Smart Education and e-Learning 2016,
Springer, 2016.
[16] Behrad Bagheri, Big future for cyber-physical
manufacturing systems, Design World, September
23, 2015.
[17] Kuo-Ming Chao, Cyber Physical Systems for
Future Higher Education, Coventry University,
UK, private communication, 2018.
[18] CMMI (Capability Maturity Model Integration),
https://sultanalmasoud.files.wordpress.com/2014/
05/cmmi-pyramid.gif/, 2014 (accessed 11th
December 2019).
[19] Colleen Heinemann and Vladimir L. Uskov,
Smart University: Literature Review and Creative
Analysis, 2018, pp.11-46.
[20] Sahar Yassine, Seifedine Kadry, Miguel-Ángel
Sicilia, Measuring learning outcomes effectively
in smart learning environments, Published in
Smart Solutions for Future Cities, 2016.
https://doi.org/10.1109/SSFC.2016.7447877.
[21] Fehmida Hussain, E-learning 3.0 = E-learning 2.0
+ Web.3.0, IADIS International Conference on
Cognition and Exploratory Learning in Digital
Age (CELDA 2012), 2012.
U
p
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mo_hinh_khai_niem_va_xep_hang_doi_sanh_dai_hoc_thong_minh_v.pdf