Kết luận:
Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa là một
công việc lâu dài, thể hiện chức năng kinh tế
của Nhà nước, do đó, Nhà nước cần phải đặc
biệt quan tâm. Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ
và vừa có thể được xây dựng theo nhiều mô
hình khác nhau. Có mô hình luật chung, có mô
hình luật cụ thể. Việc lựa chọn mô hình nào
không phải là tùy tiện mà phụ thuộc vào điều
kiện kinh tế-xã hội cụ thể của mỗi quốc gia tại
mỗi thời kỳ lịch sử và nhiều yếu tố khách quan,
chủ quan khác, trong đó có mô hình của luật về
việc hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (luật
chung hay luật cụ thể). Việc ban hành Luật Hỗ
trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa theo mô hình luật
chung là một quyết định đúng đắn, phù hợp với
điều kiện kinh tế-xã hội cũng như trình độ lập
pháp của Nhà nước ta hiện nay. Với tư cách là
luật chung, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và
vừa chỉ quy định những vấn đề cơ bản nhất, tạo
cơ sở pháp lý vững chắc, ổn định cho việc triển
khai trên thực tế công tác hỗ trợ cho doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. Luật Hỗ trợ
DNNVV đã chứa đựng nhiều quy định thể hiện
được đây là luật chung chứ không phải là luật
cụ thể. Tuy nhiên, vẫn còn một vài hạn chế cần
được khắc phục như đã trình bày ở trên./
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 188 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô hình luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
22
MÔ HÌNH LUẬT HỖ TRỢ
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM
Dương Đăng Huệ1
Tóm tắtt: Tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa 14 đã thông qua Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ
và vừa. Bên cạnh nhiều ý kiến đồng tình cao với nội dung của Luật thì vẫn còn không ít ý kiến
cho rằng, Luật còn có nhiều quy định có nội dung chung chung, mang tính nguyên tắc, nặng về
đường lối, chính sách mà không có các biện pháp hỗ trợ cụ thể về những vấn đề mà doanh
nghiệp quan tâm như hỗ trợ về thuế, về tín dụng, về mặt bằng sản xuất, kinh doanh... Chính vì
vậy, có người, đặc biệt là các doanh nhân còn cho rằng họ không cần đến Luật Hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa2. Vậy tại sao Quốc hội lại quyết định ban hành một đạo luật trong đó không
ghi nhận những hình thức, mức độ hỗ trợ cụ thể, đầy đủ như giới DNNVVmong muốn ? mà lại
chỉ ghi nhận những vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và
vừa? Bài viết này nhằm góp phần đưa ra câu trả lời cho các câu hỏi nêu trên.
Từ khóa: Mô hình Luật; Luật chung; Luật cụ thể; Chính sách hỗ trợ, đối tượng hỗ trợ; Nội
dung hỗ trợ; Chương trình hỗ trợ; các yếu tố ảnh hưởng.
Nhận bài: 01/08/2017; Hoàn thành biên tập: 15/8/2017; Duyệt đăng: 05/9/2017
Abstract: In the 3rd session, the XIV National Assembly has approved the Law on Supporting
SMEs. Besides many opinions highly ageeing with content of the Law, there have been some
opposing opinions stating that the Law has many regulations with general contents, principle
characteristics, focusing on guideline, policy without specific supporting method on issues which
enterprises are interested such as tax, fund, producing place, doing business.. Therefore, there
are persons especially businesspersons think that they don’t need the Law on supporting SMEs.
So, why the National Assembly decides to issue a law that does not recognize what the SMES
expect including forms, certain and comprehensivelevel of supporting?while recoginize basic
isssues with principle characteristics on supporting policy for the SMEs ? This article aims to
provide answers to those above questions.
Keywords: Model of Law; general Law; specific Law, Supporting policy, objects of
supporting; content of supporting; Supporting program; governing factors.
Date of receiving: 01/08/2017; Date of editing: 15/8/2017; Date of publish approval:
05/9/2017
1. Các yếu tố ảnh hưởng đến nội dung
của một đạo luật
Pháp luật từ cuộc sống mà ra, là cái phản
ánh hiện thực khách quan của một xã hội, một
Nhà nước cụ thể. Do đó, yếu tố đầu tiên, quan
trọng nhất, tác động đến nội dung của pháp luật
nói chung và một đạo luật cụ thể nói riêng
chính là trình độ phát triển kinh tế - xã hội
trong một giai đoạn lịch sử cụ thể của một quốc
gia cụ thể. Điều này giải thích tại sao các nước
có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau thì có
các quy định pháp luật khác nhau về cùng một
vấn đề; tại sao trong cùng một quốc gia nhưng
ở các giai đoạn phát triển khác nhau thì quy
định pháp luật về cùng một vấn đề cũng không
thể giống nhau.
1 Phó Giáo sư - Tiến sĩ, Giám đốc Trung tâm Thông tin, Tư vấn pháp luật và Bồi dưỡng nghiệp vụ thuộc Câu lạc
bộ Pháp chế doanh nghiệp, Bộ Tư Pháp.
2 Ví dụ: ngày 10 tháng 3 năm 2017, Câu lạc bộ Pháp chế doanh nghiệp Bộ Tư pháp phối hợp với Công ty Luật
Vietthink tổ chức 01 Hội thảo khoa học để các doanh nghiệp góp ý về Dự thảo Luật này.
Soá chuyeân ñeà thaùng 9/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
23
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội là yếu tố
cơ bản nhưng không phải là yếu tố duy nhất
quyết định nội dung của pháp luật. Ngoài yếu tố
này còn có nhiều yếu tố khác mà trước hết phải
kể đến là vị trí của đạo luật đó trong một lĩnh
vực pháp luật nhất định (là luật chung hay luật
chuyên ngành). Nói cách khác, việc xây dựng
nội dung cụ thể, chi tiết hay một cách chung
nhất của một đạo luật không phải là việc làm
tùy tiện, nhà lập pháp không phải muốn thế nào
cũng được mà phải xuất phát từ vị trí, vai trò
của đạo luật đó. Nếu Nhà nước muốn xây dựng
một đạo luật nào đó là luật chung, luật mẹ, luật
gốc thì chắc chắn nội dung của nó sẽ không thể
cụ thể, chi tiết được và ngược lại, nếu Nhà nước
muốn xây dựng một đạo luật chuyên ngành thì
chắc chắn nội dung của nó không thể chung
chung, mang tính nguyên tắc được.
2. Xác định mô hình Luật Hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa theo hướng đây là luật
chung, luật gốc, luật cơ bản là một quyết
định đúng đắn, phù hợp với điều kiện kinh
tế - xã hội hiện nay của Nhà nước ta
Xây dựng Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và
vừa không phải là công việc riêng có của Nhà
nước ta. Các nước tư bản đã thực hiện công việc
này từ hơn 60 năm nay và Hoa Kỳ là quốc gia
đi tiên phong trong lĩnh vực này từ năm 19533.
Trên thế giới đã có nhiều mô hình về Luật
Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Có nhiều
nước xây dựng Luật này như một luật chung,
luật gốc, luật cơ bản, trong đó quy định những
vấn đề cơ bản nhất liên quan đến chính sách hỗ
trợ của Nhà nước cho doanh nghiệp nhỏ và
vừa. Trên cơ sở các quy định nền tảng của Luật
này, các luật chuyên ngành sẽ lần lượt được
ban hành để quy định những hình thức, biện
pháp hỗ trợ của Nhà nước trong từng lĩnh vực
hoạt động cụ thể như Luật hỗ trợ tài chính,
Luật bảo lãnh tín dụng, Luật thúc đẩy hợp tác
liên kết giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa và
các doanh nghiệp lớn, Luật khuyến khích đầu
tư Ví dụ: Ở Hàn Quốc, ngoài luật chung về
hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa còn có 18
luật khác có liên quan về vấn đề này. Ngoài
luật cơ bản, Nhật Bản có gần 20 luật khác có
liên quan đến việc hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ
và vừa. Ngày 25/7/2007, Cộng hòa Liên bang
Nga cũng đã ban hành Luật số 209 có tên gọi
là “Luật về phát triển kinh doanh nhỏ và vừa ở
Cộng hòa Liên bang Nga”.
Cũng có nước ban hành luật chi tiết, trong
đó quy định chính sách, biện pháp cụ thể để hỗ
trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (Hoa Kỳ, các
nước trong EU).
Vậy Việt Nam nên xây dựng Luật Hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ và vừa theo mô hình nào? Đây
là vấn đề đầu tiên mà nhà lập pháp Việt Nam
(Quốc hội) phải xác định vì mô hình của đạo luật
(luật chung hay luật cụ thể) sẽ quyết định nội
dung và nhiều vấn đề khác có liên quan đến
chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Qua nghiên cứu Luật Hỗ trợ DNNVV cho
thấy, Luật này đã được xây dựng trên quan
điểm, đây không phải là luật chi tiết (luật quy
định cụ thể các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước
cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa) mà là luật
chung, luật cơ bản, luật gốc (luật quy định về
những vấn đề cơ bản liên quan đến chính sách
hỗ trợ để tạo cơ sở pháp lý vững chắc và ổn
định cho việc tiếp tục ghi nhận và triển khai
các biện pháp hỗ trợ cụ thể cho doanh nghiệp
nhỏ và vừa).
Theo tôi, quan điểm này của Quốc hội là
đúng vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, quan điểm (cách làm) này là phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay của
Nhà nước ta. Đây là lần đầu tiên Nhà nước ta
3 Năm 1963, Nhật Bản đã ban hành Luật cơ bản về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; năm 1966, Hàn Quốc
thông qua luật khung về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; năm 1995, Indonesia ban hành Luật Doanh nghiệp nhỏ
và vừa; năm 1995, Malaysia ban hành Luật Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; năm 2000, Thái Lan ban hành Luật
Xúc tiến doanh nghiệp nhỏ và vừa; năm 1995, Myanmar ban hành Luật Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; năm
2003, Trung Quốc ban hành Luật Xúc tiến doanh nghiệp nhỏ và vừa; năm 2007, Cộng hòa Liên bang Nga ban
hành Luật Phát triển kinh doanh nhỏ và vừa
24
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
ban hành Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và
vừa, vì vậy, hiện nay, chúng ta có rất ít kinh
nghiệm trong việc xử lý các vấn đề phát sinh.
Nhiều vấn đề liên quan đến nội dung, hình
thức, biện pháp hỗ trợ chưa được nghiên cứu
một cách thấu đáo, có cơ sở khoa học và thực
tiễn vững chắc, do đó, nếu đưa ngay vào luật
thì các quy định về các vấn đề đó sẽ khó bảo
đảm được tính hợp lý, tính khả thi. Ví dụ như
vấn đề hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa
trong lĩnh vực tư vấn pháp luật. Tại Dự thảo
trình Quốc hội trong kỳ họp thứ 2, đã có quy
định, theo đó Nhà nước sẽ giảm tối đa 50% phí
tư vấn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nay,
Quốc Hội đã bỏ quy định này với lý do chúng
ta chưa có cơ sở để tính toán là Nhà nước sẽ
phải chi ra bao nhiêu tiền cho việc triển khai
thi hành biện pháp hỗ trợ. Vì vậy, cách tốt nhất
hiện nay là không nên quy định cụ thể mức
giảm là bao nhiêu trong Luật mà nên để các
luật chuyên ngành sau này quy định trên cơ sở
đã tính toán một cách khoa học các hệ quả về
mặt tài chính của quy định này.
Vấn đề về hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực
cũng vậy. Nếu như trước đây có Dự thảo Luật
đã từng quy định: “Nhà nước hỗ trợ tối đa
50% kinh phí đào tạo khởi sự doanh nghiệp,
quản trị doanh nghiệp, đào tạo chuyên sâu và
các nội dung khác theo nhu cầu của doanh
nghiệp nhỏ và vừa do các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Hiệp hội đề
xuất trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn”
(khoản 2 Điều 17 Dự thảo 8). Nay quy định cụ
thể này cũng không còn nữa. Điều 15 Luật Hỗ
trợ DNNVV chỉ quy định về những lĩnh vực
đào tạo được Nhà nước hỗ trợ cho doanh
nghiệp nhỏ và vừa mà không quy định cụ thể
mức hỗ trợ là bao nhiêu như trong các Dự thảo
trước. Đây là cách làm hoàn toàn phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội - pháp lý của chúng
ta hiện nay vì nếu chưa tính toán kỹ hệ quả về
mặt tài chính của các quy định nêu trên mà đã
quy định ngay trong Luật thì chắc chắn sẽ làm
thâm hụt Ngân sách Nhà nước, qua đó sẽ tác
động xấu đến việc giải quyết các vấn đề quốc
kế, dân sinh bức xúc khác mà Nhà nước ta
đang phải đối mặt.
Tóm lại, luật này phải là luật chung, luật cơ
bản vì mục tiêu của nó là xác lập cơ sở pháp lý
lâu dài, cơ bản, ổn định, có tính nguyên tắc để
triển khai chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp
nhỏ và vừa; chưa có các điều kiện kinh tế - xã
hội - pháp lý cần thiết để Nhà nước ta có thể
ban hành ngay từ bây giờ một luật chi tiết về hỗ
trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thứ hai, việc hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và
vừa là chính sách lâu dài, có nội dung đa dạng,
được thay đổi tùy thuộc vào điều kiện kinh tế -
xã hội cụ thể của đất nước trong từng thời kỳ, do
đó không nên cho rằng, Luật Hỗ trợ DNNVV là
văn bản quy phạm pháp luật duy nhất quy định
về chính sách, biện pháp hỗ trợ của Nhà nước
đối với doanh nghiệp. Trên thực tế, chúng ta đã
có rất nhiều luật liên quan đến hoạt động sản
xuất, kinh doanh của DNNVV, vì vậy khi ban
hành, sửa đổi, bổ sung các luật này thì Quốc hội
có thể ghi nhận các cơ chế, chính sách, biện
pháp hỗ trợ ngay trong các luật chuyên ngành
đó. Các luật này không chỉ quy định các biện
pháp hỗ trợ cụ thể mà còn xác định đầy đủ, cụ
thể quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ
quan liên quan trong việc triển khai thực hiện
các biện pháp hỗ trợ, cũng như cách thức, trình
tự, thủ tục thực hiện chúng trong thực tiễn. Điều
quan trọng là các quy định cụ thể về hỗ trợ trong
các luật chuyên ngành phải phù hợp, không
được trái với những nguyên tắc hỗ trợ đã được
ghi nhận trong luật gốc, luật chung là Luật Hỗ
trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Với tư cách là luật chung, luật cơ bản thì
Luật Hỗ trợ DNNVV đã giải quyết được những
vấn đề gì? Theo tác giả, Luật này phải giải
quyết được các vấn đề sau đây:
Một là, ghi nhận việc hỗ trợ doanh nghiệp
nhỏ và vừa là chính sách lớn, lâu dài, là công
việc thuộc chức năng kinh tế không chỉ của
Nhà nước Trung ương mà còn của chính quyền
địa phương cấp tỉnh. Việc ban hành một văn
bản quy phạm pháp luật dưới hình thức Luật
để thay thế Nghị định số 56/2009/NĐ-CP đã
Soá chuyeân ñeà thaùng 9/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
25
thể hiện tầm quan trọng của công tác hỗ trợ cho
DNNVV cũng như sự quan tâm to lớn của Nhà
nước ta đối với sự tồn tại và phát triển của các
doanh nghiệp này.
Hai là, làm rõ doanh nghiệp nào được
hưởng chính sách hỗ trợ của Nhà nước, tức là
quy định các điều kiện mà một doanh nghiệp
cần đáp ứng để được coi là đối tượng áp dụng
của Luật Hỗ trợ DNNVV (Điều 2);
Ba là, xác định rõ nội dung, hình thức, biện
pháp hỗ trợ. Luật này đã xác định 7 nhóm hỗ
trợ bao gồm: hỗ trợ tiếp cận tín dụng; hỗ trợ
thuế, kế toán; hỗ trợ mặt bằng sản xuất; hỗ trợ
công nghệ, hỗ trợ cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ
thuật, khu làm việc chung; hỗ trợ mở rộng thị
trường; hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp lý; hỗ
trợ phát triển nguồn nhân lực.
Bốn là, tạo cơ sở pháp lý để triển khai các
công cụ hỗ trợ khác, trong đó có các chương
trình hỗ trợ theo mục tiêu.
Năm là, phân định trách nhiệm, quyền hạn
và cơ chế phối hợp của các cơ quan Nhà nước
có liên quan ở Trung ương và địa phương cũng
như của các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp
nhỏ và vừa trong việc thực hiện các biện pháp
hỗ trợ của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ
và vừa.
Việc coi Luật Hỗ trợ DNNVV là luật chung
nhưng điều đó không có nghĩa là mọi vấn đề
trong luật này đều được quy định một cách
chung chung. Trong Luật cũng có không ít quy
định cụ thể. Chỉ có điều, do Luật này phải giải
quyết những vấn đề lớn liên quan đến chính
sách hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa nên
nhiều người có cảm giác rằng, các quy định
trong luật là chung chung mà không có tính cụ
thể. Ngược lại, Luật này vẫn có nhiều quy định
mang tính cụ thể nhưng cụ thể ở tầm chính
sách, quan điểm lớn, tầm vĩ mô. Tính cụ thể
của luật được thể hiện ở việc luật này đã quy
định về các vấn đề sau đây:
Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa là chính
sách lớn, lâu dài của Nhà nước ta;
Phải có ngân sách riêng dành cho việc hỗ
trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (Điều 6);
Những nguyên tắc cơ bản mà công tác hỗ
trợ phải tuân thủ (Điều 5);
Các đối tượng được Nhà nước hỗ trợ (Điều 2);
Nội dung hỗ trợ;
Các công cụ thực hiện việc hỗ trợ (pháp
luật, các chương trình hỗ trợ theo mục tiêu).
3. Một số hạn chế của Luật Hỗ trợ
DNNVV với tư cách là luật chung
Như đã trình bày ở trên, Luật Hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa của nước ta phải là luật
chung, luật cơ bản mà không phải là luật chi
tiết về các biện pháp hỗ trợ. Hỗ trợ cái gì và hỗ
trợ như thế nào là công việc của các luật
chuyên ngành và các chương trình hỗ trợ mà
không thể là công việc của luật này. Đó là quan
điểm đúng mà Quốc Hội đã lựa chọn và quán
triệt một cách nhất quán trong quá trình xem
xét, thông qua Luật. Tuy nhiên, theo tôi, Luật
Hỗ trự DNNVV vẫn chưa thể hiện được một
cách đầy đủ vai trò là luật chung của mình vì
còn có một số hạn chế sau đây:
Thứ nhất, Luật chưa quy định về chương
trình hỗ trợ với tư cách là một công cụ (hình
thức) thực hiện chính sách hỗ trợ rất hữu hiệu,
vốn không chỉ rất phổ biến ở các nước mà còn
đã và đang tồn tại và phát huy hiệu quả ở nước
ta trong thời gian qua.
Như đã trình bày ở trên, có 3 công cụ phổ
biến được sử dụng để ghi nhận và triển khai
thực hiện các biện pháp hỗ trợ cho doanh
nghiệp nhỏ và vừa đó là: (1) Luật Hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa; (2) Các luật chuyên ngành
và các văn bản dưới luật; (3) Các chương trình
hỗ trợ theo mục tiêu.
Đối với công cụ thứ nhất và thứ hai thì Luật
đã làm rõ, nhưng đối với công cụ thứ ba thì hầu
như chưa có quy định cụ thể nào. Vậy thử hỏi,
khi muốn hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa thông
qua (bằng) các chương trình hỗ trợ cụ thể thì các
cơ quan nhà nước có liên quan sẽ dựa vào quy
định pháp luật nào để thực hiện? Trong Luật
không có quy định nào về các vấn đề liên quan
đến công cụhỗ trợ này như: Thế nào là chương
trình hỗ trợ? Cơ quan nào có quyền đưa ra sáng
kiến xây dựng và thực hiện chương trình hỗ trợ?
26
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
Nội dung của một chương trình hỗ trợ là gì?
Chương trình cần phải được xin ý kiến của cơ
quan nào? Cơ quan nào có quyền quyết định
(phê duyệt) chương trình đó? Việc kiểm tra,
đánh giá kết quả chương trình được thực hiện ra
sao? Và nhiều vấn đề khác có liên quan.
Tóm lại, với tư cách là luật chung thì luật
này phải quy định về cơ chế hình thành, thực
hiện và đánh giá kết quả thực hiện một chương
trình hỗ trợ cụ thể. Đây là cơ sở pháp lý không
thể thiếu để thực hiện công cụ quan trọng thứ
3 mà tôi vừa nêu ở trên. Rất tiếc là, cơ chế pháp
lý này đã từng có trong Dự thảo Luật trình
Quốc hội tại kỳ họp thứ 2 (Điều 19 và Điều 20)
nhưng sau đó đã bị loại bỏ.
Thứ hai, còn có một số quy định không phù
hợp với mục đích ban hành Luật này. Cụ thể là
tại khoản 5 Điều 5 Luật Hỗ trợ DNNVV đã có
quy định: “Trường hợp DNNVV cùng đáp ứng
điều kiện hỗ trợ theo quy định của Luật này thì
ưu tiên chọn DNNVV do phụ nữ làm chủ,
DNNVV sử dụng nhiều lao động nữ hơn”.
Hạn chế của quy định này thể hiện ở chỗ:
Một là, quy định như vậy là trái với mục
đích, chức năng của Luật này. Luật này quy
định về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa dựa
trên một căn cứ duy nhất là quy mô kinh doanh
(quy mô vốn, lao động, doanh thu) chứ không
phải căn cứ vào các yếu tố khác như giới tính
của người làm chủ doanh nghiệp, địa bàn hoạt
động, ngành, nghề kinh doanh.
Hai là, đưa yếu tố nữ giới vào Luật thì sẽ
gây nên sự bất bình đẳng không đáng có. Sẽ có
câu hỏi đặt ra là tại sao ưu tiên về giới mà lại
không ưu tiên cho các đối tượng khác cũng là
các đối tượng rất đáng được tôn trọng và
khuyến khích kinh doanh hiện nay như: người
tàn tật, người cao tuổi, người dân tộc thiểu số
Thứ ba, thiếu định nghĩa về một khái niệm
rất cơ bản, then chốt, đặc trưng của Luật Hỗ
trợ DNNVV là khái niệm “hỗ trợ”.
Cũng như các Luật mới khác, Luật Hỗ trợ
DNNVV đã có một điều định nghĩa các khái
niệm (Điều 3). Đây là việc làm rất cần thiết vì
khoa học pháp lý và các khoa học chuyên
ngành khác của nước ta chưa phát triển, dẫn
đến hiện tượng là, về cùng một khái niệm,
thuật ngữ nhưng có thể được hiểu theo nhiều
nghĩa khác nhau: Do đó, trong Luật cần có
định nghĩa để chính thức hóa, nhà nước hóa
cách hiểu về khái niệm đó. Nhiều khái niệm,
thuật ngữ có tính chất chuyên ngành đặc trưng
cho công tác hỗ trợ DNNVV đã được định
nghĩa tại Điều 3. Tuy nhiên, có một khái niệm
rất cơ bản, đó là khái niệm hỗ trợ thì lại không
được định nghĩa. Ở các nước, ví dụ như Cộng
hòa Liên bang Nga trong Luật phát triển kinh
doanh nhỏ và vừa ban hành năm 2007 đã dành
một điều luật để định nghĩa các khái niệm và
khái niệm đầu tiên được định nghĩa chính là
khái niệm “hỗ trợ”. Vì vậy, sự thiếu vắng định
nghĩa về khái niệm này có thể được coi là một
hạn chế của Luật Hỗ trợ DNNVV của nước ta.
Kết luận:
Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa là một
công việc lâu dài, thể hiện chức năng kinh tế
của Nhà nước, do đó, Nhà nước cần phải đặc
biệt quan tâm. Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ
và vừa có thể được xây dựng theo nhiều mô
hình khác nhau. Có mô hình luật chung, có mô
hình luật cụ thể. Việc lựa chọn mô hình nào
không phải là tùy tiện mà phụ thuộc vào điều
kiện kinh tế-xã hội cụ thể của mỗi quốc gia tại
mỗi thời kỳ lịch sử và nhiều yếu tố khách quan,
chủ quan khác, trong đó có mô hình của luật về
việc hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (luật
chung hay luật cụ thể). Việc ban hành Luật Hỗ
trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa theo mô hình luật
chung là một quyết định đúng đắn, phù hợp với
điều kiện kinh tế-xã hội cũng như trình độ lập
pháp của Nhà nước ta hiện nay. Với tư cách là
luật chung, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và
vừa chỉ quy định những vấn đề cơ bản nhất, tạo
cơ sở pháp lý vững chắc, ổn định cho việc triển
khai trên thực tế công tác hỗ trợ cho doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. Luật Hỗ trợ
DNNVV đã chứa đựng nhiều quy định thể hiện
được đây là luật chung chứ không phải là luật
cụ thể. Tuy nhiên, vẫn còn một vài hạn chế cần
được khắc phục như đã trình bày ở trên./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mo_hinh_luat_ho_tro_doanh_nghiep_nho_va_vua_cua_viet_nam.pdf