Kết quả điều tra tại 2 thành phố lớn nhất của
cả nớc đã cho thấy sự áp đảo của các bệnh
không lây truyền trong mô hình tử vong ở tất cả
các lứa tuổi ở cả 2 giới. Về tổng thể, u thế của
các bệnh không lây trong mô hình tử vong phù
hợp với thực trạng ở các nớc đang phát triển
trong giai đoạn chuyển đổi dịch tễ học [6] và
tơng tự nh kết quả một số nghiên cứu trớc
đây [3-5]. Điều đó cho thấy tỷ lệ tử vong do
bệnh nhiễm trùng ở nớc ta đã giảm đi đáng kể
nhờ sự cải thiện của điều kiện kinh tế xã hội và
sự thành công của các chơng trình y tế dự
phòng. Mặt khác, chúng ta cũng đang phải đối
phó với những thách thức mới đến từ các bệnh
không lây truyền [1].
Tuy nhiên xét về cơ cấu bệnh tật cụ thể, tỷ
trọng nguyên nhân tử vong do bệnh nhiễm trùng
trong các nghiên cứu khác trớc đây ở Việt Nam
cùng áp dụng phơng pháp VA đều lớn hơn so
với nghiên cứu của chúng tôi [2-5]. Trong
nghiên cứu này, hai bệnh nhiễm trùng đóng vai
trò chủ yếu trong mô hình tử vong hiện nay là
HIV/AIDS và lao cũng chỉ chiếm tỷ trọng đáng
kể trong nhóm tuổi 15-59. Tính chung cho tất cả
các lứa tuổi, HIV/AIDS và các bệnh nhiễm
trùng, KST khác chỉ chiếm vị trí thứ 2 và thứ 9
trong số 10 nguyên nhân tử vong hàng đầu ở
nam nhng thậm chí còn không có mặt trong số
10 nguyên nhân tử vong hay gặp ở nữ giới. Khác
biệt này có thể do nghiên cứu của chúng tôi thực
hiện tại khu vực thành phố trong khi các nghiên
cứu trớc đây hoặc thực hiện trên toàn quốc
hoặc chỉ tập trung ở nông thôn. Với sự phát triển
nhanh hơn về kinh tế xã hội và dịch vụ y tế thì
việc chuyển đổi dịch tễ học ở các thành phố lớn
cũng diễn ra sớm hơn và gánh nặng bệnh không
lây truyền cũng lớn hơn.
Mặc dù tử vong do bệnh lây truyền đã giảm
song điều đáng quan tâm là tỷ lệ tử vong do
HIV/AIDS lại chiếm tỷ trọng khá cao trong
nhóm nam lứa tuổi lao động 15-59 (19,3%), cao
hơn so với các nghiên cứu trớc đây [4,5]. Điều
đó đòi hỏi phải có những giải pháp tích cực cho
công tác phòng chống HIV/AIDS ở các thành
phố lớn để giảm thiểu tác hại về kinh tế - xã hội
do căn bệnh này gây ra. Mặt khác gánh nặng
bệnh tật kép vẫn hiện hữu với việc dị tật bẩm
sinh, bệnh lý chu sinh cùng với chết đuối và
bệnh lý nhiễm trùng là những nguyên nhân tử
vong chính ở trẻ em dới 14 tuổi.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 33 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô hình nguyên nhân tử vong tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh năm 2008, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
24
Nghiên cứu chính sách
MÔ HìNH NGUYÊN NHÂN Tử VONG
TạI Hà NộI Và THàNH PHố Hồ CHí MINH NĂM 2008
ThS. Trần Khánh Toàn, TS. Nguyễn Phương Hoa,
1
TS. Nguyễn Ngọc Linh
Đặt vấn đề
Việt Nam hiện đang trong giai đoạn chuyển
đổi dịch tễ học với “gánh nặng bệnh tật kép” của
cả các bệnh lây truyền và bệnh không lây truyền
[1,4]. Một trong những bằng chứng cho việc xây
dựng chính sách ứng phó với sự chuyển đổi này
chính là thông tin về nguyên nhân tử vong. Tuy
nhiên việc xác định nguyên nhân tử vong qua
khám nghiệm tử thi hoặc theo kết luận của bác sĩ
điều trị rất khó thực hiện được do phần lớn các
trường hợp tử vong xảy ra tại cộng đồng. Từ
trước đến nay các báo cáo thống kê, nghiên cứu
về nguyên nhân tử vong ở Việt Nam chủ yếu dựa
vào thông tin từ các cơ sở y tế nên thường không
đầy đủ và không mang tính đại diện [4].
Trong bối cảnh đó, phương pháp điều tra
nguyên nhân tử vong qua phỏng vấn (verbal
autopsy - VA) đã ra đời từ những năm 1970 và
được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) chuẩn hóa và
khuyến cáo á p dụng ở các nước có hệ thống khai
báo tử vong chưa hoàn thiện [3,6]. Nguyên lý
của phương pháp này là sử dụng những thông tin
thu được từ họ hàng, người thân của người đã
mất về những dấu hiệu, triệu chứng và hoàn
cảnh dẫn đến tử vong để hướng tới chẩn đoán
nguyên nhân có thể nhất gây tử vong. Bộ câu hỏi
VA của WHO cũng đã được dịch, hiệu chỉnh,
thử nghiệm và áp dụng tại cơ sở thực địa
FilaBavi (Ba Vì, Hà Nội) từ năm 1999 và sử
dụng trong một số nghiên cứu gần đây về mô
hình tử vong tại cộng đồng, chủ yếu ở khu vực
nông thôn [2-5].
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát mô hình
nguyên nhân tử vong qua điều tra phỏng vấn tại
2 thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh, qua đó
góp phần đánh giá khả năng áp dụng rộng rãi
phương pháp điều tra nguyên nhân tử vong qua
phỏng vấn.
1
Bộ môn Y Học Gia đình - Trường Đại học Y Hà Nội
Mô hình nguyên nhân tử vong phản ánh gánh nặng bệnh tật trong cộng đồng và là thông tin quan trọng
cho xây dựng chính sách y tế dựa vào bằng chứng. Mục tiêu: Xác định mô hình nguyên nhân tử vong tại Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh bằng phương pháp phỏng vấn. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 1925
trường hợp tử vong trong năm 2008 ở 24 xã phường được điều tra bằng bộ câu hỏi chuẩn của WHO. Kết quả:
Chỉ 14,1% không xác định được nguyên nhân. Bệnh không lây chiếm hầu hết các nguyên nhân tử vong hàng
đầu, cao nhất là bệnh mạch máu não (15,7% ở nam và 16,4% ở nữ) và bệnh đường hô hấp dưới mạn tính
(7,2% và 6,3%). HIV/AIDS và lao là hai bệnh nhiễm khuẩn gây tử vong nhiều nhất với tỷ trọng thấp hơn ở
nam, tập trung vào độ tuổi lao động. Bệnh lý chu sinh đứng hàng thứ 2 trong các nguyên nhân tử vong ở trẻ
em. Có sự khác biệt về trật tự của các nguyên nhân tử vong hàng đầu ở mỗi nhóm tuổi. Kết luận: Bệnh không
lây truyền đang chiếm ưu thế áp đảo trong mô hình nguyên nhân tử vong ở 2 thành phố này cho thấy gánh
nặng bệnh tật kép diễn ra sớm và nhanh hơn ở khu vực thành phố.
Từ khóa: Xác định nguyên nhân tử vong qua phỏng vấn, thành thị.
25
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện
tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, 2 trong số
16 tỉnh/thành phố thuộc 8 vùng sinh thái trên
toàn quốc tham gia dự án điều tra nguyên nhân
tử vong thông qua phỏng vấn của Bộ Y tế năm
2008. Mỗi tỉnh, thành phố sẽ chọn ngẫu nhiên
12 xã, phường dựa trên khung mẫu của Tổng
cục thống kê. Đối tượng của nghiên cứu là tất cả
các trường hợp tử vong trong thời gian từ 01/01-
31/12/2008 được ghi nhận tại 24 xã phường
thuộc 2 thành phố này. Danh sách tử vong được
lập từ các nguồn: sổ theo dõi tử vong (A6) của
Trạm y tế, sổ đăng ký tử vong của tư pháp, sổ
đăng ký theo dõi biến động dân số của công an
xã, phường......
Bộ câu hỏi xác định nguyên nhân tử vong của
WHO được hiệu chỉnh và á p dụng để phỏng vấn
người trực tiếp chăm sóc người chết hoặc người
nắm vững nhất các thông tin trong hộ gia đình.
Nội dung bộ câu hỏi bao gồm các thông tin cá
nhân và hộ gia đình của người chết (tuổi, giới,
học vấn, nghề nghiệp, điều kiện kinh tế); tiền sử
và diễn biến bệnh tật, ốm đau, tai nạn trước khi
qua đời (4). Các cán bộ y tế xã/phường đã được
tập huấn kỹ lưỡng cả về nội dung bộ câu hỏi và
các kỹ năng phỏng vấn tiến hành việc điều tra
với sự giám sát của các nghiên cứu viên và các
cán bộ ở phòng nghiệp vụ y của các Sở Y tế.
Tổng cộng có 1925 trường hợp tử vong đã được
điều tra phỏng vấn, chiếm tỷ lệ 96,3% ở Hà Nội
và 94,6% ở thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyên nhân tử vong, bao gồm nguyên nhân
chính gây tử vong, nguyên nhân trực tiếp và các
nguyên nhân phối hợp được chẩn đoán bởi các
bác sĩ lâm sàng có kinh nghiệm và được các
chuyên gia mã hóa theo hệ thống phân loại bệnh
quốc tế ICD-10. Số liệu được phân tích dựa trên
phần mềm Stata 11.0 với các test thống kê mô tả
thông thường. Kết quả nghiên cứu được trình
bày dưới dạng cơ cấu nguyên nhân tử vong theo
giới, nhóm tuổi.
Bảng 1. Phân bố tuổi và giới của đối tượng nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu
Nam Nữ Chung
Nhóm tuổi
n % % %n n
0 - 14 23 2,1 19 2,3 42 2,2
15 - 59 491 44,5 147 17,9 638 33,1
60+ 589 53,4 656 79,8 1245 64,6
Cộng 1103 57,3 822 42,7 1925 42,7
Trong số 1925 trường
hợp tử vong được điều tra ở
2 thành phố, nam chiếm
57%; gần 2/3 nằm trong độ
tuổi từ 60 trở lên trong khi
trẻ em chỉ chiếm 2,2%; lứa
tuổi lao động từ 15-59 ở
nam chiếm tỷ lệ cao hơn so
với nữ và ngược lại từ 60
tuổi trở lên nữ chiếm tỷ lệ
lớn hơn nam. Biểu đồ 1. Nguyên nhân tử vong chính của trẻ dưới 15 tuổi ở cả 2 giới
Các nguyên nhân
khác 31%
Không xác định
nguyên nhân 7%
Bệnh nhiễm khuẩn
và ký sinh trùng 7%
NN ngoại sinh
khác 7%
Chết đuối 7%
Bệnh lý chu sinh
10%
Dị tật bẩm sinh,
bất thường về NST 31%
Chính sách - Số 9/2012 Y tế
Tạp chí
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Xỏc
định
/đỏn
h gi
ỏ vấ
n đề
Xỏc
định
vấn
đề v
à cỏc
chủ
đề c
hớnh
Tổ c
hức
in tư
vấn
của
cỏc b
ờn li
ờn
quan
- Chu
ẩn b
ị RIA
sơ b
ộ
Chu
ẩn b
ị RI
A
mộ
t ph
ần
Chu
ẩn b
ị cỏ
c v
ăn b
ản th
am v
ấn (b
ao
gồm
RIA
một
phầ
n) v
à ph
ổ biế
n
Tha
m v
ấn c
ủa c
ỏc b
ờn li
ờn q
uan
T
iến h
ành
chớn
h thứ
c xin
tham
vấn
,
và/h
oặc
thu t
hập
cỏc t
ờ trỡn
h viế
t
tay
T
iến h
ành
điều
tra n
ếu c
ần th
iết
Thu
thậ
p số
liệu
và p
hõn
tớch
Túm
tắt c
ỏc th
am v
ấn, t
hu th
ập v
à
phõn
tớch
số l
iệu.
Xỏc
định
cỏc
vấn
đề tồ
n tại
Chu
ẩn b
ị bỏ
o cỏ
o RI
A
đầy
đủ
Chu
ẩn b
ị RIA
đầy
đủ, b
ao g
ồm
túm
tắt cỏ
c tha
m vấ
n
Thụ
ng q
ua b
ỏo c
ỏo R
IA
Đệ t
rỡnh
lấy
chữ
ký c
ủa th
ủ trư
ởng
cỏc c
ơ qu
an n
hà n
ước
cú tr
ỏch
nhiệ
m
Cú c
ần p
hải t
ham
vấn
và/h
oặc c
ần
thờm
số
liệu
sõu
hơn
khụn
g?
Cú Khụ
ng
Nhữ
ng k
ết qu
ả ban
đầu
cú g
iỳp ớ
ch ch
o RI
A
một
phần
khụ
ng?
Cú Khụ
ng
26
Nghiên cứu chính sách
Tính chung cả 2 giới, các dị tật bẩm sinh, bất
thường nhiễm sắc thể (31%) và bệnh lý chu sinh
(10%) là 2 nguyên nhân tử vong hàng đầu ở trẻ
em dưới 15 tuổi. Chết đuối, nguyên nhân ngoại
Bảng 2. Các nguyên nhân tử vong chính ở lứa tuổi 15-59
Nam
N %Nguyên nhânTT
1 HIV/AIDS
2 Nguyên nhân ngoại sinh khác
3 Ung thư gan
4 Bệnh về mạch máu não
5 Các u ác tính khác
6 Tai nạn giao thông
7 Bệnh về gan
8 Ung thư phổi
9 Lao
10 Ung thư dạ dày
Không xác định nguyên nhân
Nguyên nhân khác
Cộng
95 19,3
47 9,6
40 8,1
40 8,1
40 8,1
39 7,9
38 7,7
22 4,5
21 4,3
15
28
66
491
3,1
5,7
13,4
Nữ
N %Nguyên nhânTT
1 Các u ác tính khác
2 Tai nạn giao thông
3 Bệnh về mạch máu não
4 Ung thư phổi
5 Lao
6 Ung thư vú
7 HIV/AIDS
8 Ung thư dạ dày
9 Nguyên nhân ngoại sinh khác
10 Thiếu máu cơ tim
Không xác định nguyên nhân
Nguyên nhân khác
Cộng
18 12,2
17 11,6
13 8,8
10 6,8
10 6,8
8 5,4
7 4,8
7 4,8
7 4,8
6
8
36
147
4,1
5,4
24,5
Trong độ tuổi 15-59, các bệnh không lây
chiếm tỷ trọng chính trong mô hình tử vong ở cả
2 giới. Hai bệnh nhiễm trùng đóng vai trò chính
là HIV/AIDS (là nguyên nhân gây tử vong cao
nhất ở nam và cao thứ 7 ở nữ) và lao (thứ 5 ở nữ
Bảng 3. Các nguyên nhân tử vong chính ở lứa tuổi 60 trở lên
Nam
N %Nguyên nhânTT
1 Bệnh về mạch máu não
2 Hô hấp dưới mạn tính
3 Các u ác tính khác
4 Ung thư phổi
5 Thiếu máu cơ tim
6 Ung thư gan
133 22,6
66 11,2
39 6,6
35 5,9
28 4,8
24 4,1
Nữ
N %Nguyên nhânTT
1 Bệnh về mạch máu não
2 Đái tháo đường
3 Hô hấp dưới mạn tính
4 Các u ác tính khác
5 Các bệnh về hệ thần kinh
6 Ngã
122 18,6
53 8,1
49 7,5
34 5,2
23 3,5
20 3,0
sinh khác, các bệnh nhiễm trùng ký sinh trùng
đều chiếm tỷ lệ 7%. Có 7% không xác định
được nguyên nhân
và thứ 9 ở nam). Tỷ trọng nguyên nhân tử vong
do HIV/AIDS ở nam cao hơn nữ (p<0,05) và có
sự khác biệt về trật tự các nguyên nhân tử vong
hàng đầu giữa 2 giới. Tỷ lệ không xác định được
nguyên nhân là 5,7% ở nam và 5,4% ở nữ.
27
Nam
N %Nguyên nhânTT
Nữ
N %Nguyên nhânTT
7 Đái tháo đường
8 Lao
9 Tăng huyết áp
10 Viêm phổi
Không xác định nguyên nhân
Các nguyên nhân khác
Cộng
24 4,1
19 3,2
18 3,1
13
80
110
589
2,2
13,6
18,7
7 Ung thư phổi
8 Thiếu máu cơ tim
9 Ung thư gan
10 Tăng huyết áp
Không xác định nguyên nhân
Các nguyên nhân khác
Cộng
18 2,7
17 2,6
16 2,4
16
152
136
656
2,4
23,2
20,7
Các bệnh không lây truyền á p đảo hoàn toàn
trong mô hình nguyên nhân tử vong của người
cao tuổi ở cả 2 giới với 2 bệnh hàng đầu là bệnh
mạch máu não và bệnh hô hấp dưới mạn tính.
Viêm phổi là bệnh nhiễm khuẩn duy nhất nằm
trong danh mục các nguyên nhân tử vong chính,
Bảng 4. Các nguyên nhân tử vong chính chung cho tất cả các nhóm tuổi
Nam
N %Nguyên nhânTT
1 Bệnh về mạch máu não
2 HIV/AIDS
3 Hô hấp dưới mạn tính
4 Ung thư gan
5 Ung thư phổi
6 Tai nạn giao thông
7 Bệnh về gan
8 Thiếu máu cơ tim
9 Bệnh nhiễm khuẩn và KST
10 Đái tháo đường
Không xác định nguyên nhân
Các nguyên nhân khác
Cộng
173 15,7
95 8,6
79 7,2
64 5,8
57 5,2
47 4,3
45 4,1
41 3,7
40 3,6
25
109
328
1103
2,3
9,9
29,7
Nữ
N %Nguyên nhânTT
1 Bệnh về mạch máu não
2 Đái tháo đường
3 Hô hấp dưới mạn tính
4 Các u ác tính khác
5 Ung thư phổi
6 Các bệnh về hệ thần kinh
7 Thiếu máu cơ tim
8 Tai nạn giao thông
9 Ngã
10 Ung thư gan
Không xác định nguyên nhân
Các nguyên nhân khác
Cộng
135 12,2
57 5,2
52 4,7
36 3,3
28 2,5
25 2,3
23 2,1
22 2,0
22 2,0
21
162
239
822
1,9
14,7
21,7
Bệnh không lây truyền chiếm hầu hết các
vị trí hàng đầu trong mô hình tử vong chung
cho các độ tuổi ở cả 2 giới. Bệnh mạch máu
não và bệnh đường hô hấp dưới vẫn là 2
nguyên nhân hay gặp nhất. Các bệnh nhiễm
khuẩn chỉ xuất hiện 2 lần ở vị trí thứ 2 và thứ 9
Chính sách - Số 9/2012 Y tế
Tạp chí
gặp ở nam giới. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê về trật tự và tỷ trọng nguyên nhân tử vong
giữa 2 giới đối với một số bệnh như đái tháo
đường, bệnh đường hô hấp dưới mạn tính. Tỷ lệ
không xác định được nguyên nhân là 13,6% ở
nam và 23,2% ở nữ.
28
Nghiên cứu chính sách
Kết quả điều tra tại 2 thành phố lớn nhất của
cả nước đã cho thấy sự áp đảo của các bệnh
không lây truyền trong mô hình tử vong ở tất cả
các lứa tuổi ở cả 2 giới. Về tổng thể, ưu thế của
các bệnh không lây trong mô hình tử vong phù
hợp với thực trạng ở các nước đang phát triển
trong giai đoạn chuyển đổi dịch tễ học [6] và
tương tự như kết quả một số nghiên cứu trước
đây [3-5]. Điều đó cho thấy tỷ lệ tử vong do
bệnh nhiễm trùng ở nước ta đã giảm đi đáng kể
nhờ sự cải thiện của điều kiện kinh tế xã hội và
sự thành công của các chương trình y tế dự
phòng. Mặt khác, chúng ta cũng đang phải đối
phó với những thách thức mới đến từ các bệnh
không lây truyền [1].
Tuy nhiên xét về cơ cấu bệnh tật cụ thể, tỷ
trọng nguyên nhân tử vong do bệnh nhiễm trùng
trong các nghiên cứu khác trước đây ở Việt Nam
cùng áp dụng phương pháp VA đều lớn hơn so
với nghiên cứu của chúng tôi [2-5]. Trong
nghiên cứu này, hai bệnh nhiễm trùng đóng vai
trò chủ yếu trong mô hình tử vong hiện nay là
HIV/AIDS và lao cũng chỉ chiếm tỷ trọng đáng
kể trong nhóm tuổi 15-59. Tính chung cho tất cả
các lứa tuổi, HIV/AIDS và các bệnh nhiễm
trùng, KST khác chỉ chiếm vị trí thứ 2 và thứ 9
trong số 10 nguyên nhân tử vong hàng đầu ở
nam nhưng thậm chí còn không có mặt trong số
10 nguyên nhân tử vong hay gặp ở nữ giới. Khác
biệt này có thể do nghiên cứu của chúng tôi thực
hiện tại khu vực thành phố trong khi các nghiên
cứu trước đây hoặc thực hiện trên toàn quốc
hoặc chỉ tập trung ở nông thôn. Với sự phát triển
nhanh hơn về kinh tế xã hội và dịch vụ y tế thì
việc chuyển đổi dịch tễ học ở các thành phố lớn
cũng diễn ra sớm hơn và gánh nặng bệnh không
lây truyền cũng lớn hơn.
Mặc dù tử vong do bệnh lây truyền đã giảm
song điều đáng quan tâm là tỷ lệ tử vong do
HIV/AIDS lại chiếm tỷ trọng khá cao trong
nhóm nam lứa tuổi lao động 15-59 (19,3%), cao
hơn so với các nghiên cứu trước đây [4,5]. Điều
đó đòi hỏi phải có những giải pháp tích cực cho
công tác phòng chống HIV/AIDS ở các thành
phố lớn để giảm thiểu tác hại về kinh tế - xã hội
do căn bệnh này gây ra. Mặt khác gánh nặng
bệnh tật kép vẫn hiện hữu với việc dị tật bẩm
sinh, bệnh lý chu sinh cùng với chết đuối và
bệnh lý nhiễm trùng là những nguyên nhân tử
vong chính ở trẻ em dưới 14 tuổi.
Phương pháp VA được WHO khuyến cáo là
một phương pháp hữu hiệu để xác định nguyên
nhân tử vong trong cộng đồng ở các nước đang
phát triển, nơi hệ thống thu thập thông tin tử
vong chưa đầy đủ. Việc áp dụng phương pháp
tại cơ sở thực địa FilaBavi, nơi có hệ thống theo
dõi dọc thường quy về nhân khẩu và sức khỏe,
cũng đã cho kết quả với độ tin cậy cao [4]. Trong
nghiên cứu này, tỷ lệ được điều tra phỏng vấn
chiếm đến trên 95% các trường hợp tử vong ghi
nhận được trong cộng đồng tại 24 xã phường
thuộc 2 thành phố. Trong số 1925 trường hợp
được phỏng vấn cũng chỉ có 271 trường hợp
không xác định được nguyên nhân tử vong
(14,1%). Tỷ lệ không xác định được nguyên
nhân cao nhất là ở độ tuổi từ 60 trở lên có lẽ vì ở
độ tuổi này, các triệu chứng bệnh tật thường
nhiều và không đặc trưng nên có thể gây khó
khăn cho việc đưa ra kết luận cuối cùng về
nguyên nhân tử vong. Tỷ lệ được điều tra cao và
tỷ lệ không xác định được nguyên nhân thấp gợi
ý rằng phương pháp VA có thể á p dụng với độ tin
cậy cao cho cả các cuộc điều tra cắt ngang tại
cộng đồng, kể cả ở khu vực thành thị [6]. Tuy
nhiên, một nghiên cứu so sánh đối chiếu dựa
trên các trường hợp tử vong tại bệnh viện là hết
sức cần thiết để đánh giá đầy đủ hơn về tính
chính xác của phương pháp VA áp dụng trong
cộng đồng.
trong số các nguyên nhân tử vong hay gặp ở
nam giới. Sự khác nhau giữa 2 giới chủ yếu là
về trật tự của các nguyên nhân tử vong chính.
Tỷ trọng của đái tháo đường nữ cao hơn nam
và ngược lại tỷ trọng của HIV/AIDS ở nam lớn
hơn nữ (p<0,05). Có 9,9% ở nam và 14,7% ở
nữ không xác định được nguyên nhân.
Bàn luận
29
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Y tế và Tổng cục Thống kê (2003): Báo cáo kết quả điều tra y tế quốc gia 2001-2002, Nhà xuất
bản Y học, trang 73-82.
2. Trương Việt Dũng, Ngọc Hùng, Vũ Thị Vựng, Lê Trần Ngoan và cộng sự (2006): Thực trạng tử vong
của cộng đồng huyện Lâm Thao Tỉnh Phú Thọ, Tạp chí nghiên cứu y học, số 43(4) 59-63.
3. Nguyễn Phương Hoa, Nguyễn Thị Kim Chúc (2009): Các nguyên nhân gây tử vong chính tại huyện
Ba Vì, Hà Tây: kết quả từ một nghiên cứu theo dõi dọc trong 3 năm 2005-2007, Tạp chí nghiên cứu y
học, số 61(2), 88-93.
4. Huong DL (2005): Mortality in Transitional Vietnam, PhD thesis at Umea University, Sweden.
5. Anh D Ngo, Chalapati Rao, Nguyen Phuong Hoa et al (2010): Mortality patterns in Vietnam, 2006:
Findings from a national verbal autopsy survey, BMC Research Note, 3:78
6. Rao C, Yang G, Hu J et al (2007): Validation of cause-of-death statistics in urban China. Int J
Epidemiol, Vol 36(3), 342-51.
Mô hình tử vong ở Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh là sự áp đảo của các bệnh không lây
truyền, với 2 nhóm bệnh hàng đầu là bệnh lý về
mạch máu não và bệnh đường hô hấp dưới mạn
tính. Bệnh lây truyền chỉ chiếm một tỷ trọng
thấp trong mô hình nguyên nhân tử vong với sự
gia tăng của HIV/AIDS trong nhóm nam ở lứa
tuổi lao động. Khác biệt giữa nam và nữ chủ
yếu là về trật tự của các nguyên nhân tử vong
hàng đầu và tỷ trọng của một số bệnh hay gặp
nhất. Phương pháp phỏng vấn có tính khả thi
cao trong việc áp dụng để xác định nguyên
nhân tử vong tại cộng đồng ở thành phố cũng
như nông thôn.
Kết luận
Chính sách - Số 9/2012 Y tế
Tạp chí
Các file đính kèm theo tài liệu này:
mo_hinh_nguyen_nhan_tu_vong_tai_ha_noi_va_thanh_pho_ho_chi_m.pdf