Mô hình PEST trong nghiên cứu môi trường vĩ mô, ứng dụng trong nghiên cứu marketing
Mô hình PEST trong nghiên cứu môi trường vĩ mô, ứng
dụng trong nghiên cứu marketing
Trong khi mô hình 5 áp lực lượng của M-Porter đi sâu
vào việc phân tích các yếu tố trong môi trường ngành
kinh doanh thì P.E.S.T lại nghiên cứu các tác động
của các yếu tố trong môi trường vĩ mô. Các yếu tố đó
là
- Political (Thể chế- Luật pháp)
- Economics (Kinh tế)
- Sociocultrural (Văn hóa- Xã Hội)
- Technological (Công nghệ)
John nhận xét: Các bạn nên tham khảo, theo
tôi mô hình năm lực lượng vẫn là nhất đến bây
giờ cùng với danh tiếng của M. porter tai đại học
Harvard USA.
11 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2342 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô hình PEST trong nghiên cứu môi trường vĩ mô, ứng dụng trong nghiên cứu marketing, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mô hình PEST trong nghiên cứu môi trường vĩ mô, ứng
dụng trong nghiên cứu marketing
Trong khi mô hình 5 áp lực lượng của M-Porter đi sâu
vào việc phân tích các yếu tố trong môi trường ngành
kinh doanh thì P.E.S.T lại nghiên cứu các tác động
của các yếu tố trong môi trường vĩ mô. Các yếu tố đó
là
- Political (Thể chế- Luật pháp)
- Economics (Kinh tế)
- Sociocultrural (Văn hóa- Xã Hội)
- Technological (Công nghệ)
John nhận xét: Các bạn nên tham khảo, theo
tôi mô hình năm lực lượng vẫn là nhất đến bây
giờ cùng với danh tiếng của M. porter tai đại học
Harvard USA.
Đây là bốn yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến các
ngành kinh tế, các yếu tố này là các yếu tố bên ngoài
của của doanh nghiệp và ngành, và ngành phải chịu
các tác động của nó đem lại như một yếu tố khách
quan. Các doanh nghiệp dựa trên các tác động sẽ
đưa ra những chính sách, hoạt động kinh doanh phù
hợp.
1. Các yếu tố Thể chế- Luật pháp. Đây là yếu tố có
tầm ảnh hưởng tới tất cả các ngành kinh doanh trên
một lãnh thổ, các yếu tố thể chế, luật pháp có thể uy
hiếp đến khả năng tồn tại và phát triển của bất cứ
ngành nào. Khi kinh doanh trên một đơn vị hành
chính, các doanh nghiệp sẽ phải bắt buộc tuân theo
các yếu tố thể chế luật pháp tại khu vực đó.
+ Sự bình ổn: Chúng ta sẽ xem xét sự bình ổn trong
các yếu tố xung đột chính trị, ngoại giao của thể chế
luật pháp. Thể chế nào có sự bình ổn cao sẽ có thể
tạo điều kiện tốt cho việc hoạt động kinh doanh và
ngược lại các thể chế không ổn định, xảy ra xung đột
sẽ tác động xấu tới hoạt động kinh doanh trên lãnh
thổ của nó.
+ Chính sách thuế: Chính sách thuế xuất khẩu, nhập
khẩu, các thuế tiêu thụ, thuế thu nhập... sẽ ảnh
hưởng tới doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp.
+ Các đạo luật liên quan: Luật đầu tư, luật doanh
nghiệp,luật lao động, luật chống độc quyền, chống
bán phá giá ...
+ Chính sách: Các chính sách của nhà nước sẽ có ảnh
hưởng tới doanh nghiệp, nó có thể tạo ra lợi nhuận
hoặc thách thức với doanh nghiệp. Như các chính
sách thương mại, chính sách phát triển ngành, phát
triển kinh tế, thuế, các chính sách điều tiết cạnh
tranh, bảo vệ người tiêu dùng...
2. Các yếu tố Kinh tế
Các doanh nghiệp cần chú ý đến các yếu tố kinh tế cả
trong ngắn hạn, dài hạn và sự can thiệp của chính
phủ tới nền kinh tế.
Thông thường các doanh nghiệp sẽ dựa trên yếu tố
kinh tế để quyết định đầu tư vào các ngành, các khu
vực.
+ Tình trạng của nền kinh tế: Bất cứ nền kinh tế nào
cũng có chu kỳ, trong mỗi giai đoạn nhất định của
chu kỳ nền kinh tế, doanh nghiệp sẽ có những quyết
định phù hợp cho riêng mình.
+ Các yếu tố tác động đến nền kinh tế: Lãi suất, lạm
phát,
+ Các chính sách kinh tế của chính phủ: Luật tiền
lương cơ bản, các chiến lược phát triển kinh tế của
chính phủ, các chính sách ưu đãi cho các ngành:
Giảm thuế, trợ cấp....
+Triển vọng kinh tế trong tương lai:Tốc độ tăng
trưởng, mức gia tăng GDP, tỉ suất GDP trên vốn đầu
tư...
Trong giai đoạn những năm đầu thập niên 90 thế kỷ
trước, khi nền kinh tế Anh đang ở trong tình trạng
khủng hoảng và các doanh nghiệp lại tạo ra một cuộc
chiến về giá cả, họ cắt giảm chi phí từ lao động, tăng
gấp đôi chi phí quảng cáo kích thích tiêu dùng. Tuy
nhiên họ đã mắc phải sai lầm vì đã tác động xấu đến
tâm lý người tiêu dùng, trong khi nguồn thu nhập bị
giảm sút, không ai sẽ đầu tư vào các hàng hóa thứ
cấp xa xỉ như thiết bị an ninh.
3. Các yếu tố văn hóa xã hội
Mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đều có những giá trị văn
hóa và các yếu tố xã hội đặc trưng, và những yếu tố
này là đặc điểm của người tiêu dùng tại các khu vực
đó.
Những giá trị văn hóa là những giá trị làm lên một xã
hội, có thể vun đắp cho xã hội đó tồn tại và phát
triển. Chính vì thế các yếu tố văn hóa thông thường
được bảo vệ hết sức quy mô và chặt chẽ, đặc biệt là
các văn hóa tinh thần. Rõ ràng chúng ta không thể
humbeger tại các nước Hồi Giáo được. Tuy vậy chúng
ta cũng không thể phủ nhận những giao thoa văn hóa
của các nền văn hóa khác vào các quốc gia. Sự giao
thoa này sẽ thay đổi tâm lý tiêu dùng, lối sống, và tạo
ra triển vọng phát triển với các ngành.
Ngay tại Việt Nam chúng ta có thể nhận ra ngay sự
giao thoa của các nền văn hóa đặc biệt thời gian gần
đây là văn hóa Hàn Quốc. Ra đường thấy một nửa
thế giới thay phiên nhau đi ép tóc, giày hàn quốc, son
môi Hàn Quốc, xe máy hàn Quốc, ca nhạc Hàn Quốc
tất cả đều xuất phát từ những bộ phim Hàn Quốc.
Bên cạnh văn hóa , các đặc điểm về xã hội cũng
khiến các doanh nghiệp quan tâm khi nghiên cứu thị
trường, những yếu tố xã hội sẽ chia cộng đồng thành
các nhóm khách hàng, mỗi nhóm có những đặc điểm,
tâm lý, thu nhập ... khác nhau:
+ Tuổi thọ trung bình, tình trạng sức khỏe, chế độ
dinh dưỡng, ăn uống
+ Thu nhập trung bình, phân phối thu nhập
+ Lối sống, học thức,các quan điểm về thẩm mỹ, tâm
lý sống
+ Điều kiện sống
Ở Đức trong giai đoạn hiện nay có rất nhiều người có
thu nhập cao, điều kiện sống tốt, có khả năng trình
độ và làm tại những vị trí ổn định của xã hội nhưng
họ thích sống độc thân, không muốn phải có trách
nhiệm về gia đình, công việc sinh con đẻ cái... Những
yếu tố này đã khiến các doanh nghiệp của Đức nảy
sinh các dịch vụ, các câu lạc bộ, các hàng hóa cho
người độc thân.
4. Yếu tố công nghệ. Cả thế giới vẫn đang trong cuộc
cách mạng của công nghệ, hàng loạt các công nghệ
mới được ra đời và được tích hợp vào các sản phẩm,
dịch vụ. Nếu cách đây 30 năm máy vi tính chỉ là một
công cụ dùng để tính toán thì ngày nay nó đã có đủ
chức năng thay thế một con người làm việc hoàn toàn
độc lập. Trước đây chúng ta sử dụng các máy ảnh
chụp bằng phim thì hiện nay không còn hãng nào sản
xuất phim cho máy ảnh.
Đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công
nghệ truyền thông hiện đại đã giúp các khoảng cách
về địa lý,phương tiện truyền tải.
+ Đầu tư của chính phủ, doanh nghiệp vào công tác
R&D: Trong thập niên 60-70 của thế kỷ trước. Nhật
Bản đã khiến các nước trên thế giới phải thán phục
với bước nhảy vọt về kinh tế trong đó chủ yếu là
nhân tố con người và công nghệ mới. Hiện nay Nhật
vẫn là một nước có đầu tư vào nghiên cứu trên GDP
lớn nhất thế giới. Việc kết hợp giữa các doanh nghiệp
và chính phủ nhằm nghiên cứu đưa ra các công nghệ
mới, vật liệu mới... sẽ có tác dụng tích cực đến nền
kinh tế.
+ Tốc độ, chu kỳ của công nghệ, tỷ lệ công nghệ lạc
hậu: nếu trước đây các hãng sản xuất phải mất rất
nhiều thời gian để tăng tốc độ bộ vi xử lý lên gấp đôi
thì hiện nay tốc độ này chỉ mất khoảng 2-4 năm. Xuất
phát từ các máy tính Pen II, Pen III, chưa đầy 10
năm hiện nay tốc độ bộ vi xử lý đã tăng với chip set
thông dụng hiện nay là Core Dual tốc độ 2.8 GB/s.
Một bộ máy tính mới tinh chỉ sau nửa năm đã trở nên
lạc hậu với công nghệ và các phần mềm ứng dụng.
+ Ảnh hưởng của công nghệ thông tin, internet đến
hoạt động kinh doanh.
Ngoài các yếu tố cơ bản trên, hiện nay khi nghiên cứu
thị trường, các doanh nghiệp phải đưa yếu tố toàn
cầu hóa trở thành một yếu tố vĩ mô tác động đến
ngành.
5. Yếu tố hội nhập
Không ai phủ nhận toàn cầu hóa đang là xu thế, và
xu thế này không tạo cơ hội cho các doanh nghiệp,
các quốc gia trong việc phát triển sản xuất, kinh
doanh.
+ Toàn cầu hóa tạo ra các sức ép cạnh tranh, các đối
thủ đến từ mọi khu vực. Quá trình hội nhập sẽ khiến
các doanh nghiệp phải điều chỉnh phù hợp với các lợi
thế so sánh.,phân công lao động của khu vực và của
thế giới
+ Điều quan trọng là khi hội nhập, các rào cản về
thương mại sẽ dần dần được gỡ bỏ, các doanh
nghiệp có cơ hội buôn bán với các đối tác ở cách xa
khu vực địa lý, khách hàng của các doanh nghiệp lúc
này không chỉ là thị trường nội địa nơi doanh nghiệp
đang kinh doanh mà còn các khách hàng đến từ khắp
nơi.
Mô hình P.E.S.T hiện nay đã được mở rộng thành các
ma trận P.E.S.L.T ( Bao gồm yếu tố Legal - pháp luật
) và S.T.E.E.P.L.E ( Socical/Demographic-Nhân khẩu
học, Techonogical, Economics,Envirnomental,Policy,
Legal, Ethical- Đạo đức ) và càng ngày càng hoàn
thiện trở thành một chuẩn mực không thể thiếu khi
nghiên cứu môi trường bên ngoài của doanh nghiệp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33_9474.pdf