Để giãi thích kết quả dự báo TSG sớm triển
vọng hơn so với dự báo TSG muộn và tăng HA thai
nghén, trong các yếu tố dự báo được triển vọng
được nghiên cứu cho dự báo TSG trong quý I thai
kỳ, cả TSG sớm và TSG muộn (không bao gồm tăng
HA thai nghén) đều có sự khác biệt rõ ràng so với
nhóm thai phụ bình thường. Và chính các yếu tố dự
báo như chỉ số xung – PI, PAPP-A có sự khác biệt ở
nhóm TSG sớm so với các nhóm rối loạn tăng HA
trong thai kỳ khác. Cơ chế cơ bản của TSG được cho
là sự xâm nhập không hoàn toàn của các tế bào
nuôi vào các động mạch xoắn tử cung làm cho khẩu
kính các mạch máu vẫn còn lớp cơ trở nên hẹp hơn
so với các mạch máu có khẩu kính rộng khi lớp cơ
được thay thế. TSG sớm và muộn có thể đơn giãn là
phán ánh sự biểu hiện các khiếm khuyết tại đơn vị
rau thai dẫn đến hậu quả là các biểu hiện lâm sàng
của bệnh [10], [17]. Sự phát triển sớm của bệnh có
khả năng liên quan đến bất thường đơn vị rau thai
và hình thái mạch máu. Sự thay đổi những chất chỉ
điểm sinh hóa có chứng năng phản ánh tình trạng
rau thai thể hiện trong trính trình thay đổi bệnh
sinh TSG giai đoạn sớm trong thai kỳ là nền tảng
để nghiên cứu giá trị dự báo đối với sự xuất hiện
TSG sớm. Các thay đổi tưới máu tại đơn vị gai rau
cho thấy theo hướng tăng mức độ trở kháng phản
ánh qua chỉ số xung động mạch tử cung – PI tăng.
Vì vậy khi phối hợp các yếu tố này đều cho thấy cả
thiện rõ ràng kết quả dự báo TSG sớm và là cơ sở để
xây dựng mô hình dự báo TSG.
Tóm lại, các nghiên cứu đồng quan điểm rằng
mô hình phối hợp dự báo TSG sớm triễn vọng khi
phối hợp các yếu tố nguy cơ mẹ, các chất chỉ điểm
sinh hóa, HATB và siêu âm doppler động mạch tử
cung chỉ số xung – PI. Cách thức tiếp cận bệnh lý
TSG cũng đần dần được thay đổi dựa trên các bằng
chứng lâm sàng thu nhận được, các thuật toán
phối hợp nhiều yếu tố cho phép xác định nguy cơ
phát triển bệnh lý TSG đầy hứa hẹn. Sự khác nhau
ở các nghiên cứu có chăng về tỷ lệ phát hiện và có
thể giải thích bởi sự khác nhau của cở mẫu nghiên
cứu, cũng có thể khác nhau về các đặc điểm trong
cộng đồng nghiên cứu như yếu tố nguy cơ mẹ,
chủng tộc ảnh hưỡng vào kết quả nghiên cứu. Với
tỷ lệ phát hiện cao trong những mô hình dự báo
này là cơ sở để có thể thực hiện sàng lọc TSG sớm
ngay ở quý I thai kỳ. Và một trong những đóng góp
của các mô hình dự báo TSG sớm là giai đoạn đầu
để tiếp tục sàng lọc ở quý II, quý III thai kỳ cũng
như áp dụng các can thiệp dự phòng sớm ngay ở
quý I thai kỳ.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 17 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô hình sàng lọc bệnh lý tiền sản giật tại thời điểm 11 tuần đến 13 tuần 6 ngày thai kỳ dựa vào các yếu tố nguy cơ mẹ, huyết áp động mạch trung bình, Papp - A và siêu âm doppler động mạch tử cung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CAO NGỌC THÀNH, VÕ VĂN ĐỨC, NGUYỄN VU QUỐC HUY, TRƯƠNG QUANG VINH,
NGUYỄN VIẾT NHÂN, HÀ THỊ MINH THI, NGUYỄN TRẦN THẢO NGUYÊN, TRẦN MẠNH LINHSẢN KHOA VÀ SƠ SINH
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
38
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Cao Ngọc Thành, email: thanhykhue@yahoo.com
Ngày nhận bài (received): 18/07/2015. Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 01/08/2015. Ngày bài báo được chấp nhận đăng (accepted): 01/08/2015
Cao Ngọc Thành, Võ Văn Đức, Nguyễn Vu Quốc Huy, Trương Quang Vinh, Nguyễn Viết Nhân, Hà Thị Minh Thi, Nguyễn Trần Thảo Nguyên, Trần Mạnh Linh
Trường Đại học Y Dược Huế
MÔ HÌNH SÀNG LỌC BỆNH LÝ TIỀN SẢN GIẬT
TẠI THỜI ĐIỂM 11 TUẦN ĐẾN 13 TUẦN 6 NGÀY THAI KỲ
DỰA VÀO CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ MẸ, HUYẾT ÁP
ĐỘNG MẠCH TRUNG BÌNH, PAPP - A VÀ SIÊU ÂM
DOPPLER ĐỘNG MẠCH TỬ CUNG
Tóm tắt
Mục tiêu: Khảo sát vai trò sàng lọc bệnh lý TSG tại
thời điểm 11 tuần đến 13 tuần 6 ngày thai kỳ bằng các
yếu tố nguy cơ mẹ, huyết áp động mạch, xét nghiệm
PAPP-A và chỉ số xung PI động mạch tử cung.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 2.998 thai phụ tại thời
điểm thai 11 tuần đến 13 tuần 6 ngày đến khám sàng
lọc quý I và theo dõi thai nghén tại Khoa Phụ Sản,
Bệnh viện Đại học Y dược Huế từ 09/2012 đến 03/2015
Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ các rối loạn tăng HA trong
thai kỳ chiếm 3,74% so với toàn bộ thai nghén, trong đó
TSG có tỷ lệ 2,84%. Dự báo TSG bằng dựa vào duy nhất
yếu tố nguy cơ mẹ cho kết quả không cao. Mô hình phối
hợp yếu tố nguy cơ mẹ, HATB và chỉ số PI thấp nhất có diện
tích dưới đường cong ROC dự báo tăng HA thai nghén là
0,743, tỷ lệ phát hiện 18,2% và 45,5% tương ứng với tỷ lệ
dương tính giả 5% và 10%. Đối với TSG muộn, diện tích
dưới đường cong ROC dự báo tốt nhất, 0,811, tỷ lệ phát
hiện 45,6% và 57,9% tương ứng với tỷ lệ dương tính giả
5% và 10%. Mô hình phối hợp hợp nguy cơ mẹ với HATB,
PAPP-A và chỉ số xung PI thấp nhất cho kết quả dự báo
TSG sớm tốt nhất, diện tích dưới đường cong ROC 0,935,
tỷ lệ phát hiện TSG sớm 81,8% và 90,9% tương ứng tỷ lệ
dương tính giả 5% và 10%.
Kết luận: Có thể tiếp cận sàng lọc TSG sớm cùng
với thời điểm sàng lọc dị tật bẩm sinh ngay từ thời
điểm 11 tuần đến 13 tuần 6 ngày thai kỳ bằng phối
hợp yếu tố nguy cơ mẹ, HATB, xét nghiệm PAPP-A và
siêu âm doppler động mạch tử cung chỉ số xung thấp
nhất để có chiến lược can thiệp dự phòng sớm ngay
cuối quí I thai kỳ và có chế độ quản lý thai kỳ hợp lý.
Abstract
THE MODEL SCREENING PREECLAMPSIA AT 11+0 TO
13+6 WEEKS OF GESTATION
Objective: Screening preeclampsia at 11+0-13+6
gestational by combine maternal characteristics,
MAP, PAPP-A and UtAPI.
Materials and methods: Prospective screening
study for preeclampsia in pregnant attending their
first hospital visit at 11-13 weeks 6 of gestation.
The performance of screening for PE and GH by
combinations of maternal characteristics, uterine
artery with the lowest pulsatility index (L-PI), mean
arterial pressure (MAP) and serum PAPP-A was
determined.
Results: Of 2,998 patients with complete
outcome data, there were 3.74% of hypertension
disorder, and 2.84% cases of pre-eclampsia. The
study show a poor results screening for PE by
maternal factors only. In screening for PE by combine
maternal factors, MAP and L-PI, the estimated
detection rates were 18,2% and 45,5% for HG, 45,6%
and 57,9% for late PE at a fixed false positive rate of
5% and 10%, respectively. For early PE, in screening
by combine maternal characteristics, L-PI, MAP and
serum PAPP-A, the the estimated detection rates
were 81,8% and 90,9% at at a fixed false positive rate
of 5% and 10%, respectively.
Conclusion: Effective prediction of early PE can
be achieved at 11–13+6 weeks’ gestation by combine
maternal characteristics, L-PI, MAP and serum PAPP-A.
Key word: preeclampsia; gestational hypertension;
screening; PAPP-A, PI, MAP
1. Đặt vấn đề
Rối loạn tăng huyết áp trong thai kỳ nói chung
và Tiền sản giật – Sản giật (TSG-SG) nói riêng là một
trong những biến chứng thai sản thường gặp, có tỷ
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
39
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(3), 38-46, 2015
lệ khoảng 5 – 10%, và là một trong những nguyên
nhân phổ biến gây tử vong mẹ. Tỷ lệ tăng huyết áp
đã tăng đáng kể trong vòng 10 năm qua, ước tính
tăng khoảng 40 – 50% do song hành cùng với sự gia
tăng tỷ lệ béo phì, đái đường, các can thiệp hỗ trợ
sinh sản [4]. Tuy nhiên những con số trên có thể vẫn
chưa phản ánh đầy đủ thực tế vấn đề vì vẫn còn tồn
tại bị bỏ sót chẩn đoán cũng như tử vong có thể liên
quan đến bệnh lý tiền sản giật. Định nghĩa TSG hiện
nay cũng đã được thay đổi, là sự phát triển của tăng
huyết áp sau tuần thứ 20 thai kỳ ở những phụ nữ có
huyết áp trước đó bình thường, kèm theo xuất hiện
protein niệu hoặc xuất hiện các triệu chứng bao gồm
các dấu hiệu về thần kinh trung ương/thị giác, đau
tăng liên tục hạ sườn phải, thượng vị không đáp ứng
với điều trị và phù phổi và các kết quả xét nghiệm bất
thường bao gồm giảm tiểu cầu, suy thận, và tăng các
men gan trên mức gấp đôi ngưỡng trên giá trị bình
thường [3]. Cho đến hiện này, TSG-SG vẫn còn là một
trong ba nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong
thai sản tại Hoa Kỳ liên quan đến các biến chứng ở
thai nhi bao gồm thai chậm phát triển trong tử cung
nặng, thiểu ối, sinh non, thai suy, các sang chấn thần
kinh và tử vong. Biến chứng ở thai phụ gồm rau bong
non, rối loạn đông máu trong lòng mạch, sản giật, suy
thận cấp, xuất huyết gan hoặc suy gan, xuất huyết
não, bệnh lý não do tăng huyết áp, phù phổi và có
thể đẫn đến tử vong. Ngoài ra dư hậu còn còn liên
quan đến xơ vữa động mạch, các bệnh lý tim mạch,
bệnh thận, đột quỵ, bệnh lý võng mạc. Ngoài ra, dư
hậu quả của TSG – SG còn kéo dài dai dẳng sau khi
sinh, ở các lần sinh tiếp theo và là yếu tố nguy cơ liên
quan đến các bệnh lý tim mạch.
Trong thập kỷ qua, cách thức tiếp cận quản lý
bệnh lý TSG cũng đần dần được thay đổi dựa trên
các bằng chứng trong thực lâm sàng thu nhận được.
Các thay đổi trong tiêu chuẩn chẩn đoán, các hướng
tiếp cận, các khuyến cáo cụ thể riêng cho từng loại
rối loạn tăng huyết áp trong thai kỳ, ngăn chặn tiến
triễn nặng cũng như sự xuất hiện và khống chế các
biến chứng đã góp phần quản lý tốt hơn bệnh lý này.
Ngoài ra, cùng với sự hiểu rõ hơn về bệnh nguyên, cơ
chế bệnh sinh, các thay đổi bệnh lý ngay từ giai đoạn
sớm đã tạo điều kiện xây dựng các mô hình dự báo
TSG và tiếp cận điều trị dự phòng sớm ngay từ trong
quý I thai kỳ. Nguy cơ xuất hiện TSG và tuổi mẹ, BMI,
chủng tộc, yếu tố tiền sử, phương pháp thụ thai, các
bệnh hệ thống, huyết áp động mạch đã được nghiên
cứu. Các yếu tố di truyền chi phối đáng kể đến tính
dễ mắc bệnh lý TSG – SG, một số các yếu tố khác làm
tăng nguy cơ phát triển TSG bao gồm tăng huyết áp,
giảm chức năng thận, béo phì, đề kháng insulin và đái
đường. Sự thay đổi các chất chỉ điểm sinh hóa phản
ánh các thay đổi trong bệnh sinh TSG giai đoạn sớm
trong thai kỳ là nền tảng để nghiên cứu giá trị dự báo
đối với sự xuất hiện TSG. Các thay đổi tưới máu tại
đơn vị gai rau cho thấy, ở tuổi thai 11-13 tuần, những
sản phụ có nguy cơ rối loạn cao huyết áp trong thai
kỳ có chỉ số áp lực động mạch trung bình và chỉ số
xung động mạch tử cung (PI) tăng là những cơ sở để
xây dựng mô hình dự báo TSG [20].
Mặc dù vậy, việc tìm ra một xét nghiệm lý tưởng
có khả năng dự báo tiền sản giật hiện nay còn nhiều
hạn chế, tuy nhiên, xác định chính xác những trường
hợp có nguy cơ cao phát triển TSG dựa vào mô hình
phối hợp nhiều yếu tố, dự đoán TSG nhẹ hay nặng,
hoặc sớm hay muộn là hướng đi mang lại nhiều triển
vọng. Phân nhóm đối tượng nguy cơ, can thiệp dự
phòng, chẩn đoán sớm, quản lí nhanh chóng và kịp
thời có thể làm cải thiện kết quả của mẹ, cũng như là
tình trạng của trẻ khi sinh ra. Để góp phần vào công
tác chăm sóc sức khỏe sinh sản nói chung quản lý
bệnh lý TSG, chúng tôi thực hiện đề tai: “Mô hình sàng
lọc bệnh lý Tiền sản giật tại thời điểm 11 tuần đến 13
tuần 6 ngày thai kỳ dựa vào các yếu tố nguy cơ mẹ,
huyết áp động mạch trung bình, PAPP-A và siêu âm
doppler động mạch tử cung” với mục tiêu khảo sát
vai trò sàng lọc bệnh lý TSG tại thời điểm 11 tuần đến
13 tuần 6 ngày thai kỳ bằng phối hợp các yếu tố nguy
cơ mẹ, huyết áp động mạch, xét nghiệm PAPP-A và
chỉ số xung PI động mạch tử cung.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tất cả thai phụ đơn thai
có tuổi thai từ 11 tuần đến 13 tuần 6 ngày đến khám
sàng lọc và quản lý thai ngén tại Khoa Phụ Sản - Bệnh
viện Trường Đại học Y Dược Huế từ tháng 11 năm
2011 đến tháng 03 năm 2015. Loại trừ các trường hợp
đa thai, các trường hợp thai dị tật được phát hiện qua
sàng lọc quý I có chỉ định chấm dứt thai kỳ, sẩy thai,
thai chết trong tử cung mà nguyên nhân không phải
do bệnh lý hoặc các biến chứng của TSG – SG và mất
dấu trong quá trình nghiên cứu
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả, tiến cứu trên lâm sàng trên
3.317 thai phụ có tuổi thai từ 11 đến 13 tuần 6 ngày
đến khám, sàng lọc quý I thai kỳ.
Thu thập thông tin tiền sử và bệnh sử.
− Số lần mang thai gồm: Thai con so nếu chưa có
CAO NGỌC THÀNH, VÕ VĂN ĐỨC, NGUYỄN VU QUỐC HUY, TRƯƠNG QUANG VINH,
NGUYỄN VIẾT NHÂN, HÀ THỊ MINH THI, NGUYỄN TRẦN THẢO NGUYÊN, TRẦN MẠNH LINHSẢN KHOA VÀ SƠ SINH
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
40
lần sinh thai trên 22 tuần. Thai con rạ có hoặc không
có tiền sử mang thai bị TSG.
− Phương pháp thụ thai gồm: có thai tự nhiên, sử
dụng thuốc kích thích rụng trứng.
− Tiền sử sản khoa, tiếp xúc với thuốc lá trong quá
trình mang thai.
− Tiền sử bệnh lý: tăng HA mãn tính, đái tháo
đường, hội chứng kháng phospholipid, rối loạn đông
máu, suy giảm miễn dịch, bệnh hồng cầu lưỡi liềm,
tiền sử bệnh lý tim mạch, bệnh thận.
− Tiền sử gia đình mẹ, chị em gái mang thai TSG,
gia đình có người tăng HA.
Khám lâm sàng.
− Tuổi mẹ, dân tộc, tuổi thai, khám các dấu hiệu
thai nghén bất thường trong 3 tháng đầu. Tính chỉ số
khối cơ thể (BMI).
− Đo HA, thai phụ sau khi nghĩ tại chổ 5 phút, tư
thế ngồi hoặc nằm ngửa, vị trí của cánh tay được điều
chỉnh sao cho băng quấn ngang ở mức của tâm nhĩ
phải ở cả hai vị trí. Quấn băng vào cánh tay với kích
cở băng quấn dành cho người lớn, đo HA hai tay, đo
hai lần cách nhau 5 phút và xả hết khí trong dải băng
quấn trước mỗi lần đo. Ghi kết quả hiển thị HATT,
HATr mỗi lần đo và kết quả HATB, HATB tính dựa trên
kết quả trung bình của bốn lần đo [28].
Siêu âm sàng lọc quí I thai kỳ.
− Đo chiều dài đầu – mông, độ dày khoảng mờ da
gáy, tìm các dị tật thai nhi.
− Siêu âm Doppler động mạch tử cung, đo chỉ số
xung – PI 2 bên. Xác định giá trị PI lớn nhất, PI nhỏ
nhất và giá trị PI trung bình [13].
Xét nghiệm.
− PAPP-A: sử dụng kit PAPP-A (A098-201) và hệ thống
DELFIA XPRESS analyzer (PerkinElmer Life and Analytical
Sciences, Wallac Oy, Mustionkatu 6, Turku, Finland).
Theo dõi.
Dữ liệu kết quả thai kỳ được theo dõi từ thời điểm
sàng lọc quý I cho đến hết khi chuyển dạ và đến thời
gian hậu sản, 6 tuần sau sinh. Các thai phụ được lên
lịch theo dõi và gọi điện thoại hẹn thăm khám ở các
lần khám tiếp theo.
− Dựa vào thông tin thai phụ đã lưu trữ từ lần
khám sàng lọc quý I thai kỳ, dự tính thời điểm khám
tiếp theo, sàng lọc quý II lúc 22 tuần, khám quý III lúc
32 – 34 tuần và thời điểm kết thúc thai kỳ.
− Các thai phụ được theo dõi tại Bệnh viện Trường
Đại học Y Dược Huế, kết quả thai kỳ được thu thập
thông qua hồ sơ bệnh án.
Kết quả thai kỳ.
Phân loại rối loại tăng HA trong thai kỳ tiếp tục sử
dụng phân loại truyền thống vẫn còn được sự dụng
cho đến hiện tại gồm 4 nhóm: tăng HA thai nghén,
TSG-SG, tăng HA mãn tính, TSG chồng chất trên nền
tăng HA mãn tính.
TSG được định nghĩa xác định theo tiêu chuẩn
chẩn đoán của Hiêp hội quốc tế nghiên cứu về tăng
HA trong thai kỳ - International Society for the Study
of Hypertension in Pregnancy [4]:
− Tăng HA ≥ 20 tuần và protein niệu.
− HATT ≥ 140 mmHg hoặc HATr ≥ 90 mmHg tại 2
thời điểm đo cách 4 giờ và;
− Protein niệu ≥ 300mg/24giờ hoặc có 2 lần
dương tính (++) trên thử nghiệm dipstick với nước
tiểu giữa dòng hoặc lấy qua ống thông tiểu.
Phân loại TSG – SG theo thời gian xuất hiện
được chia thành 2 nhóm dựa vào thời điểm phát
triển TSG [4]: TSG sớm: trước 34 tuần và TSG muộn
từ sau 34 tuần.
2.3. Xữ lý số liệu
Sự xuất hiện các triệu chứng của TSG là biến số
phụ thuộc của nghiên cứu và cũng là tiêu chuẩn đánh
giá các giá trị các biến số trong vai trò dự báo TSG.
Nguy cơ TSG dựa vào các yếu tố nguy cơ mẹ
được tính theo công thức Odds/(1+ odds); Odds =
eY. Giá trị Y dựa trên phân tích hồi quy đa biến các
yếu tố nguy cơ mẹ, yếu tố tiền sử, bệnh lý áp dụng
theo công thức [29]:
− TSG sớm: Y = -5,674 + (1,267 nếu người da đen,
0 nếu các chủng tộc khác) + (2,193 nếu có tiền sử
tăng HA, 0 nếu không) + (-1,184 nếu con rạ không có
tiền sử bị TSG, 1,362 nếu con rạ có tiền sử mang thai
TSG, 0 nếu con so) + (1,537 nếu có sử dụng thuốc
kích thích rụng trứng, 0 nếu có thai tự nhiên); R2 =
0,129, P < 0,0001.
− TSG muộn: Y = -7,860 + 0,034 × tuổi mẹ theo
năm + 0,096 × BMI + (1,089 nếu da đen, 0,980 nếu
người Ấn Độ hoặc Pakistani, 1,196 nếu người hổn
hợp, 0 nếu các chủng tộc khác) + (1,070 nếu mẹ thai
phụ bị TSG, 0 nếu không có tiền sử gia đình TSG) + (-1
nếu con rạ không có tiền sử TSG, 0,780 nếu con rạ có
tiền sử TSG, 0 nếu con so); R2 = 0,126, P < 0,0001.
Các yếu tố dự báo TSG gồm HATB, PAPP-A, PI nhỏ
nhất được biểu diễn thông qua bội số trung vị MoM
sau khi được hiệu chỉnh các yếu tố liên quan. Nguy cơ
mẹ được sử dụng như nguy cơ tiền định để phối hợp
các yếu tố dự báo [23], [24], [26], [27], [29]. Kết quả
dự báo được đánh giá dựa vào diện tích dưới đường
cong ROC, tính và so sánh tỷ lệ phát hiện tương ứng
với tỷ lệ dương tính giả.
Xử lý số liệu theo phần mềm Medcalc 13.3.3.0.
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
41
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(3), 38-46, 2015
3. Kết quả
Trong thời gian nghiên cứu, 3.317 trường hợp đã được
tiến hành sàng lọc bệnh lý TSG tại thời điểm 11 tuần đến
13 tuần 6 ngày cùng với thời điểm sàng lọc quý I thai kỳ.
Có 2.998 trường hợp (90,38%) đã được theo dõi đến kết
thúc thai kỳ. Chúng tôi loại bỏ khỏi đối tượng nghiên cứu
319 trường hợp (9,62%) mất dấu trong quá trình nghiên
cứu gồm: 259 trường hợp (7,81%) mất liên lạc, 13 trường
hợp (0,39%) thai dị dạng phát hiện muộn, có chỉ định
chấm dứt thai kỳ, Có 34 trường hợp (1,03%) thai chết lưu
trước 22 tuần, 13 trường hợp (0,39%) thai chết lưu muộn
sau 22 tuần không liên quan đến bệnh lý TSG – SG
3.1. Đặc điểm chung của nghiên cứu
* Các bệnh liên quan đến nguy cơ TSG: Đái tháo
đường type I, II, các bệnh hệ thống như Lupus ban đỏ,
hội chứng kháng Phospholipid, bệnh thện mãn tính,
bệnh tim mạch
Có sự khác biệt giữa trung bình tuổi mẹ, BMI giữa
nhóm không có các rối loạn tăng HA và nhóm có rối
loạn tăng HA. Tuổi mẹ trung bình trong nhóm không
có các rối loạn tăng HA là 28,0 (25,0 – 31,0), so với
nhóm phát triển các rối loạn tăng HA là 32,16 (27,0 –
37,0), p < 0,0001. Chỉ số BMI trong nhóm không có các
rối loạn tăng HA là 19,5 (18,2 – 21,0) và trong nhóm
phát triển các rối loạn tăng HA là 21,1 (19,8 – 23,1), p
< 0,0001. Tỷ lệ mang thai con rạ có tiền sử mang thai
bị TSG trong nhóm có các rối loạn tăng HA (19,64%)
cao hơn có ý nghĩa so với nhóm có thai kỳ không bị
các rối loại tăng HA (0,66%), p < 0,0001.
Các đặc điểm Thai kỳ bình thường Có rối loạn tăng HA p
Tuổi mẹ trung bình (năm, trung vị) 28,0 (25,0–31,0) 32,2 (27,0–37,0) <0,0001
BMI (kg/m2, trung vị) 19,5 (18,2–21,0) 21,1 (19,8–23,1) <0,0001
CRL (mm, trung vị) 61,0 (55,0–68,0) 58,8 (53,7–65,0) -
Độ mờ da gáy (mm, trung vị) 1,6 (1,3–1,9) 1,5 (1,3–1,9) -
Tuổi thai (ngày, trung vị) 88 (85–91) 87 (84–91) -
Số lần mang thai:
− Con so (n,%)
− Con rạ mang thai bị TSG (n,%)
− Con rạ mang thai không bị TSG (n,%)
1.610 (55,79)
19 (0,66)
1.257 (43,56)
49 (43,75)
22 (19,64)
41 (36,61)
0,0156
<0,0001
-
Tiền sử sản khoa:
− Tiền sử sẩy thai (n,%)
− Tiền sử sinh non (n,%)
− Tiền sử mang thai dị dạng (n,%)
− Tiền sử thai chậm phát triển (n,%)
344 (11,92)
30 (1,04)
21 (0,73)
17 (0,59)
18 (16,08)
2 (1,79)
1 (0,89)
2 (1,79)
-
-
-
-
Phương pháp có thai:
− Mang thai tự nhiên (n,%)
− Dùng thuốc kích thích rụng trứng (n,%)
2.872 (99,51)
12 (0,42)
108 (96,43)
4 (3,57)
0,0005
0,0001
Có tiếp xúc thuốc lá trong thai kỳ (n,%) 72 (2,49) 7 (6,25) 0,0325
Các bệnh lý liên quan* (n,%) 13 (0,45) 2 (1,79) -
Tiền sử gia đình:
− Mẹ, chị có mang thai bị TSG (n,%)
− Gia đình có người bị THA (n,%)
66 (2,29)
103 (3,57)
23 (20,54)
13 (11,61)
<0,0001
<0,0001
Bảng 3. Một số đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Tỷ lệ mang thai có sử dụng thuốc kích thích
rụng trứng trong nhóm phát có các rối loạn tăng HA
(3,57%) cao hơn so với nhóm có thai kỳ bình thường
(0,42%), p = 0,0001. Cũng có sự khác biệt về tỷ lệ
gia đình có mẹ, chị em gái có tiền sử mang thai bị
TSG (20,54% và 2,29%), gia đình có người bị tăng HA
(11,61% và 3,57%), có tiếp xúc với thuốc là trong thai
kỳ giữa hai nhóm (6,25% và 2,49%). Tuy nhiên, không
có sự khác biệt về một số yếu tố tiền sử sản khoa như
sẩy thai, sinh non, tiền sử mang thai chậm phát triển.
3.2. Các rối loạn tăng huyết áp trong thai kỳ.
Có 112 trường hợp xuất hiện các rối loạn tăng
HA trong thai kỳ, chiếm tỷ lệ 3,74%. Trong đó, có 85
trường hợp phát triển TSG, chiếm tỷ lệ 2,84%, tỷ lệ
tăng HA thai nghén 0,5%.
3.3. Dự báo TSG bằng yếu tố nguy cơ mẹ
Diện tích dưới đường cong ROC trong dự báo TSG
sớm, TSG muộn và tăng HA thai nghén dựa vào duy
nhất yếu tố nguy cơ mẹ tương ứng là 0,716 (0,698–
0,732), 0,610 (0,592–0,628) và 0,627 (0,608–0,645).
3.4. Dự báo tăng huyết áp thai nghén.
Diện tích dưới đường cong ROC khi phối hợp gồm
yếu tố nguy cơ mẹ, HATB và chỉ số xung – PI thấp nhất
có giá trị dự báo tăng HA thai nghén khá tốt, 0,743
(0,726 – 0,759). Tỷ lệ phát hiện tăng HA thai nghén
của mô hình này là 18,2% và 45,5% tương ứng với tỷ
lệ dương tính giả 5% và 10%.
Các rối loạn tăng HA trong thai kỳ Số lượng Tỷ lệ (%)
Không có rối loạn HA trong thai kỳ 2.886 96,26
Rối loạn tăng HA trong thai kỳ:
- Tăng HA thai nghén
- TSG
- Tăng HA mãn
- TSG chồng chất
112
15
85
5
7
3,74
0,50
2,84
0,17
0,23
Tổng 2.998 100,00
Bảng 2. Các rối loạn tăng HA trong thai kỳ
Diện tích dưới đường cong ROC (KTC 95%)
ROC Điểm cắt SE SP +LR -LR
TSG sớm 0,716 (0,698–0,732) >0,0010 90,91 43,1 1,60 0,21
TSG muộn 0,610 (0,592–0,628) >0,0085 47.37 79,01 2,26 0,47
Tăng HA thai nghén 0,627 (0,608–0,645) >0,0062 90,91 40,59 1,52 0,23
Bảng 3. Diện tích dưới đường cong ROC trong dự báo TSG bằng yếu tố nguy cơ mẹ
Diện tích dưới đường cong ROC (KTC 95%) Tỷ lệ phát hiện (%), tỷ lệ dương tính giả
ROC Điểm cắt 5% 10%
Yếu tố nguy cơ mẹ 0,627 (0,608–0,645) >0,0062 - -
Yếu tố nguy cơ me và:
HATB
PI thấp nhất
HATB, PI thấp nhất
0,673 (0,655–0,690)
0,678 (0,661–0,696)
0,743 (0,726–0,759)
>0,0040
>0,0066
>0,0071
18,2 (2,8–51,8)
18,2 (2,8–51,8)
18,2 (2,8–51,8)
27,3 (6,3–60,9)
27,3 (6,3–60,9)
45,5 (16,9–76,5)
Bảng 4. Mô hình phối hợp dự báo tăng HA thai nghén
CAO NGỌC THÀNH, VÕ VĂN ĐỨC, NGUYỄN VU QUỐC HUY, TRƯƠNG QUANG VINH,
NGUYỄN VIẾT NHÂN, HÀ THỊ MINH THI, NGUYỄN TRẦN THẢO NGUYÊN, TRẦN MẠNH LINHSẢN KHOA VÀ SƠ SINH
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
42
3.5. Dự báo Tiền sản giật muộn.
Phối hợp yếu tố nguy cơ mẹ, HATB, chỉ số xung PI
thấp nhất có diện tích dưới đường cong ROC dự báo
TSG muộn tốt nhất 0,811 (0,796 – 0,825). Tỷ lệ phát
hiện TSG muộn là 45,6% (32,4 – 59,3) và 57,9% (44,1
– 70,9) tương ứng với tỷ lệ dương tính giả 5% và 10%.
Mô hình phối hợp nguy cơ mẹ và HATB cho diện
tích dưới đường cong ROC dự báo TSG muộn khá
tốt 0,746 (0,729 – 0,762). Tỷ lệ phát hiện từ 14% đến
35,7% với tỷ lệ dương tính giả 5% và từ 24,6% đến
38,6% với tỷ lệ dương tính giả 10%.
3.6. Dự báo Tiền sản giật sớm.
Mô hình phối hợp yếu tố nguy cơ mẹ, HATB và chỉ
số xung PI hoặc phối hợp yếu tố nguy cơ mẹ, PAPP-A
và chỉ số xung PI hoặc mô hình phối hợp yếu tố nguy
cơ mẹ, HATB, PAPP-A và chỉ số xung PI thấp nhất có
diện tích dưới đường cong ROC dự báo TSG sớm rất
tốt, tương ứng ROC là 0,909 (0,898 – 0,920), 0,915
(0,904 – 0,925) và 0,935 (0,925 – 0,944).
Phối hợp yếu tố nguy cơ mẹ với HATB hoặc với chỉ
số xung – PI thấp nhất hoặc với HATB và PAPP-A hoặc
với PAPP-A và chỉ số xung – PI thấp nhất hoặc với HATB
và PI thấp nhất đều có diện tích dưới đường cong ROC
dự báo TSG sớm tốt (từ 0,811 đến 0,915), tỷ lệ phát
hiện TSG sớm từ 36,2% đến 72,7% và 54,6% đến 81,8%
tương ứng với tỷ lệ dương tính giả 5% và 10%.
4. Bàn luận
4.1. Tỷ lệ Tiền sản giật
Trong nghiên cứu, 112 trường hợp xuất hiện
Diện tích dưới đường cong ROC (KTC 95%) Tỷ lệ phát hiện (%), tỷ lệ dương tính giả
ROC Điểm cắt 5% 10%
Yếu tố nguy cơ mẹ 0,610 (0,592–0,628) >0,0085 - -
Yếu tố nguy cơ me và:
HATB
PAPP-A
PI thấp nhất
HATB, PAPP-A
HATB, PI thấp nhất
0,712 (0,695–0,729)
0,686 (0,668–0,703)
0,683 (0,665–0,700)
0,746 (0,729–0,762)
0,811 (0,796–0,825)
>0,0119
>0,0070
>0,0085
>0,0094
>0,0162
24,6 (14,2–37,8)
14,0 (06,3–25,8)
35,7 (19,9–45,2)
28,1 (17,0–41,5)
45,6 (32,4–59,3)
35,1 (22,9–48,9)
24,6 (14,1–37,8)
38,6 (26,0–52,0)
36,8 (24,5–50,7)
57,9 (44,1–70,9)
Bảng 5. Mô hình phối hợp dự báo TSG muộn
Diện tích dưới đường cong ROC (KTC 95%) Tỷ lệ phát hiện (%), tỷ lệ dương tính giả
ROC Điểm cắt 5% 10%
Yếu tố nguy cơ mẹ 0,716 (0,698–0,732) >0,001 - -
Yếu tố nguy cơ me và:
HATB
PAPP-A
PI thấp nhất
HATB, PAPP-A
PAPP-A, PI thấp nhất
HATB, PI thấp nhất
HATB, PAPP-A, PI thấp nhất
0,811 (0,796–0,825)
0,836 (0,822–0,850)
0,875 (0,862–0,887)
0,876 (0,863–0,888)
0,909 (0,898–0,920)
0,915 (0,904–0,925)
0,935 (0,925–0,944)
>0,0085
>0,0043
>0,0039
>0,0064
>0,0026
>0,0072
>0,0164
45,5 (16,9–76,5)
36,3 (11,2–69,1)
45,5 (16,9–76,5)
45,5 (16,9–76,5)
45,5 (16,9–76,5)
72,7 (39,1–93,7)
81,8 (48,2–97,2)
63,6 (30,9–88,8)
54,6 (23,5–83,1)
63,6 (30,9–88,8)
63,6 (30,9–88,8)
72,7 (39,1–93,7)
81,8 (48,2–97,2)
90,9 (58,7–98,5)
Bảng 6. Mô hình phối hợp dự báo TSG sớm
các rối loạn tăng HA trong thai kỳ, chiếm tỷ lệ
3,74%. Trong đó, có 85 trường hợp phát triển TSG,
chiếm tỷ lệ 2,84%, tỷ lệ tăng HA thai nghén là 0,5%,
tăng HA mãn tính 0,17% và TSG chồng chất trên
nền tăng HA mãn tính là 0,23%. Nhìn chung tỷ lệ
TSG trong nghiên cứu tương đương với tỷ lệ chung
của bệnh lý TSG, khoảng 2-10%. Một số nghiên cứu
trong nước đã công bố tỷ lệ TSG như: tác giả Bạch
Ngõ (1994); 8,35% [23], Ngô Văn Tài (2001); 4%
[34], Lê Thị Mai (2004); 3,96% [19], Nguyễn Thành
Vinh (2013); 5,5% [36]. Nhìn chung tỷ lệ TSG trong
các nghiên cứu này hầu hết dựa trên các nghiên
cứu về lâm sàng và cận lâm sàng, được thực hiên
tại bệnh viện, và không phải là những nghiên cứu
có cở mẫu lớn. Đối với các nghiên cứu nước ngoài,
chúng tôi lựa chọn các nghiên cứu trên mẫu rất
lớn, thì tỷ lệ TSG cũng cho kết quả tương tự như:
khoảng 2,0% theo tác giả Yu và cộng sự (2005),
cỡ mẫu 32.157 trường hợp [39], 2,2% theo tác giả
Ranjit Akolekar và cộng sự (2011), cỡ mẫu 33.602
trường hợp [1], 2,4% theo tác giả Leona Poon và
cộng sự (2012) cỡ mẫu 22.900 trường hợp [26].
4.2. Dự báo TSG bằng yếu tố nguy cơ mẹ
Kết quả nghiên cứu chúng tôi cho thấy diện
tích dưới đường cong ROC trong dự báo TSG sớm,
TSG muộn và tăng HA thai nghén chỉ dựa vào duy
nhất yếu tố nguy cơ mẹ tương ứng là 0,716 (0,698-
0,732), 0,610 (0,592-0,628) và 0,627 (0,608-0,645).
Dựa vào yếu tố nguy cơ mẹ, diện tích dước đường
cong ROC dự báo TSG sớm cho kết quả khá tốt,
tuy nhiên không có sự khác biệt về diện tích dước
đường cong ROC dự báo TSG sớm, muộn và tăng
HA thai nghén.
Mặc dù các Hiệp hội chuyên ngành trên Thế Giới
đã đưa ra các hướng dẫn chăm sóc tiền sản trong
đó có hướng dẫn về quản lý TSG. Khuyến cáo cho
lần khám thai đều tiên, những trường hợp nguy cơ
cao TSG dựa trên các yếu tố tiền sử mẹ, nên được
xếp vào nhóm nguy cơ cao và cần can thiệp dự
phòng sớm bằng Aspirin [4], [18], [19], [30]. Tuy
nhiên, đánh giá hiệu quả sàng lọc bằng các yếu
tố nguy cơ mẹ vẫn còn nhiều hạn chế. Phần lớn
các nghiên cứu báo cáo về các yếu tố nguy cơ mẹ
đối với sự phát triển TSG, mặc dù một số nghiên
cứu có đưa ra tương quan nhưng không đưa ra chỉ
số nguy cơ cụ thể [25]. Các yếu tố nguy cơ mẹ đã
được chứng minh gồm nhiều đặc điểm về tiền sử
sản khoa, tiền sử bệnh lý. Khả quan nhất cho sàng
lọc TSG dựa vào các yếu tố nguy cơ mẹ là phối hợp
các yếu tố khác nhau theo thuật toán phân tích
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
43
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(3), 38-46, 2015
đa biến [29]. Với cách tiếp cận như vậy, tác động
ảnh hưởng của các biến được thể hiện qua tương
quan nguy cơ cho phát triển TSG sớm, TSG muộn
và TSG chung mọi thời điểm. Tuy nhiên hầu hết kết
quả dự báo không cao. Một cách tiếp cận mới là
sàng lọc TSG bằng phối hợp đa biến các các yếu tố
nguy cơ mẹ dựa trên mô hình cạnh tranh nguy cơ.
Dựa vào mô hình này tỷ lệ phát hiện TSG sớm trước
34 tuần, TSG trước 37 tuần và TSG trước 42 tuần
khoảng 36%, 33% và 29%, với tỷ lệ dương tính giả
5%, và tỷ lệ phát hiện là 51%, 43% và 40% với tỷ lệ
dương tính giả 10% [2].
Sàng lọc TSG dựa vào các yếu tố nguy cơ mẹ
cho kết quả dự báo nhiều hạn chế. Do đo, tiếp cận
sàng lọc các rối loạn tăng HA trong thai kỳ có thể
tương đồng với càng lọc trisomy 21 ở quý đầu thai
kỳ. Trong sàng lọc TSG sớm, TSG muộn và tăng HA
thai nghén, nguy cơ cụ thể trên từng đối tượng sẽ
được tính bằng cách kết hợp nguy cơ tiền định mẹ
(a priori risk) với các yếu tố dự báo khác như HATB
PI, PAPP-A, PlGF... qua các thuật toán. Các yếu tố dự
báo có ý nghĩa của nguy cơ tiền định mẹ cho TSG
sớm là chủng tộc da đen, tăng HA mãn tính, tiền sử
mang thai TSG, sử dụng thuốc kích trứng. Đối với
các yếu tố dự báo TSG muộn và tăng HA trong thai
kỳ là tăng tuổi mẹ, BMI và tiền sử gia đình hoặc
bản thân đã mang thai bị TSG [29].
4.3. Mô hình dự báo tăng HA thai kỳ
Trong nghiên cứu chúng tôi mô hình phối hợp
gồm yếu tố nguy cơ mẹ cho tăng HA thai nghén,
HATB và chỉ số xung – PI thấp nhất có giá trị dự
báo tăng HA thai nghén khá tốt, 0,743 (0,726 –
0,759). Tỷ lệ phát hiện tăng HA thai nghén là 18,2%
(2,8 – 51,8) và 45,5% (16,9 – 76,5) tương ứng với
tỷ lệ dương tính giả 5% và 10%. Kết quả nghiên
cứu chúng tôi cho thấy PAPP-A không có giá trị dự
báo tăng HA thai nghén. Kết quả tương tự, dựa vào
các yếu tố nguy cơ mẹ, diện tích dưới đường cong
ROC dự báo tăng HA thai nghén là 0,721 (0,667 –
0,765), tỷ lệ phát hiện là 20,7% (14,3 – 28,4) với tỷ
lệ dương tính giả 5%, sàng lọc dựa vào khuyến cáo
của NICE theo các yếu tố nguy cơ gồm con so, tuổi
≥ 40, tiền sử gia đình có người mang thai bị TSG,
tiền sử mang thai bị TSG, BMI ≥ 30 kg/m2, bệnh lý
mạch máu, cho tỷ lệ phát hiện tăng HA thai nghén
lên đến 85%, tuy nhiên tỷ lệ dương tính giả rất cao
64,1% [19], [29]. Trong nghiên cứu của Felicity J
Park và cộng sự, mô hình dự báo dựa vào kết hợp
các yếu tố nguy cơ mẹ, HATB, PAPP-A, chỉ số xung
– PI thấp nhất, tỷ lệ phát hiện tăng HA thai nghén
dao động từ 16,0 – 27,7% và 27,7 – 36,1% ứng với
tỷ lệ dương tính giả 5% và 10% [9]. Cùng mô hình
phối hợp các yếu tố tương tự tác giả Felicity J Park,
nghiên cứu của Leona Y Poon và cộng sự cho kết
qua sàng lọc tăng HA thai nghén khoảng từ 20,7 –
35,7% và 30,7 – 50,0%, ứng với tỷ lệ dương tính giả
5% và 10% [29].
Nhìn chung, hầu như các nghiên cứu không tập
trung vào dự báo tăng HA thai nghén do đặc điểm
bệnh lý không rõ ràng, diễn tiến thoáng qua, các
yếu tố dự báo không đặc hiệu ở nhóm bệnh lý này.
Ảnh hưởng của tăng HA thai nghén là không đáng
kể đối với thai phụ, giai đoạn chu sinh và tỷ lệ tử
vong nếu như phát triển sau 37 tuần. Điều trị cụ
thể cũng không bắt buộc vì thông thường HA chỉ
tăng nhẹ [3].
4.4. Mô hình dự báo TSG muộn
Trong nghiên cứu chúng tôi, TSG muộn được
xác định khi phát triển từ sau tuần 34 thai kỳ, bao
gồm TSG trung gian và TAG muộn theo phân loại
truyền thống từ trước vẫn còn được sử dụng đến
hiện tại [3], nhằm phù hợp với thuật toán tính nguy
cơ. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy mô
hình phối hợp nguy cơ mẹ và HATB cho kết quả dự
báo TSG muộn khá tốt, diện tích dưới đường cong
ROC là 0,712 (0,695-0,729), tỷ lệ phát hiện 24,6%
(14,2-37,8) và 35,1% (22,9-48,9) với tỷ lệ dương
tính giả 5% và 10%, khi phối hợp thêm PAPP-A có
cải thiện diện tích dưới đường cong ROC (0,746;
0,729 – 0,762) tuy nhiên không làm thay đổi đáng
kể tỷ lệ phát hiện bệnh (24,6% và 38,6%, tỷ lệ
dương tính giả 5% và 10% tương ứng). Chúng tôi
nhận thấy, mô hình phối hợp yếu tố nguy cơ mẹ,
HATB, chỉ số xung – PI thấp nhất có diện tích dưới
đường cong ROC dự báo TSG muộn tốt nhất, 0,811
(0,796-0,825), tỷ lệ phát hiện TSG muộn là 45,6%
(32,4-59,3) và 57,9% (44,1-70,9) tương ứng với tỷ
lệ dương tính giả 5% và 10%. Kết quả nghiên cứu
cũng cho thấy, vai trò của PAPP-A là không đáng
kể trong dự báo TSG muộn.
Chúng tôi tìm thấy một số nghiên cứu tiến cứu
trên cở mẫu lớn, cùng thời điểm sàng lọc, xây dựng
các mô hình dự báo TSG,cũng đều cho kết quả phù
hợp như vậy, theo nghiên cứu của Felicity J. Park
và cộng sự (n =3.099), mô hình dự báo TSG muộn
dựa phối hợp nguy cơ mẹ và PAPP-A hoặc chỉ số
xung – PI thấp nhất, hoặc HATB cho tỷ lệ phát hiện
từ 8,5-21,1% và 22,5-31,5% tương ứng tỷ lệ dương
tính giả 5% và 10%, khi phối hợp thêm nguy cơ
mẹ và HATB, PI hoặc nguy cơ mẹ và HATB, PAPP-A
CAO NGỌC THÀNH, VÕ VĂN ĐỨC, NGUYỄN VU QUỐC HUY, TRƯƠNG QUANG VINH,
NGUYỄN VIẾT NHÂN, HÀ THỊ MINH THI, NGUYỄN TRẦN THẢO NGUYÊN, TRẦN MẠNH LINHSẢN KHOA VÀ SƠ SINH
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
44
cũng không cải thiện tỷ lệ phát hiện bệnh [9]. Một
nghiên cứu khác trên mẫu rất lớn (n = 32.850) tác
giả Ranjit Akolekar và cộng sự dự báo TSG dự trên
nguy cơ mẹ và các đặc điểm sinh lý và xét nghiệm
các chất chỉ điểm sinh hóa, phối hợp nguy cơ mẹ
và PAPP-A, hoặc PI hoặc HATB cũng chỉ cho tỷ lệ
phát hiện TSG muộn chỉ 31,4-41,1% và 43,2-53,7%,
tỷ lệ dương tính giả tương ứng 5% và 10%. Trong
nghiên cứu, tác giả có đánh giá các chất chỉ điểm
sinh hóa khác như PlGF, PP13, PTX3, P-Selectin,
Activin-A, Inhibin-A, sEndogin, kết quả cho thấy
nếu đánh giá riêng lẽ từng yếu tố cho kết quả dự
báo TSG khác biệt không đáng kể so với PAPP-A
hoặc PI và thậm chí thấp hơn so với HATB. Phối
hợp tất cả các yếu tố trên cho tỷ lệ phát hiện TSG
muộn lên đến 79,4% và 88,3% tỷ lệ dương tính giả
tương ứng 5% và 10% [1]. Tuy nhiên, áp dụng một
mô hình phối hợp quá nhiều yếu tố như vậy và
trong đó không phải xét nghiệm nào cũng sẵn có
là điều rất khó khả thi.
Như vậy, đối với sàng lọc TSG muộn, phát triển
từ sau 34 tuần vẫn còn nhiều thách thức. Các yếu tố
dự báo TSG muộn tại thời điểm 11 – 13 tuần 6 ngày
riêng lẽ hoặc được kết hợp đều cho kết quả dự báo
còn nhiều hạn chế. Mặc dù các ảnh hưởng của TSG
muộn là không trầm trọng đối với thai phụ, giai
đoạn chu sinh và tỷ lệ tử vong so với TSG sớm. Tuy
nhiên, tỷ lệ TSG phát triển trong thời điểm này lại
chiếm đa số, điều đó đòi hỏi cần có các chiến lược
tiếp cận khác cho nhóm bệnh lý này.
4.5. Mô hình dự báo TSG sớm
Chúng tôi nhận thấy, các mô hình sàng lọc cho
TSG sớm cho kết quả tốt hơn so với TSG muộn
và tăng HA thai nghén. Cụ thể trong nghiên cứu
chúng tôi, khi đánh giá kết quả dự báo bằng riêng
lẽ từng yếu tố phối hợp với nguy cơ mẹ cho kết quả
khá khả quan. Mô hình phối hợp yếu tố nguy cơ mẹ
với HATB hoặc với chỉ số xung – PI thấp nhất hoặc
với HATB và PAPP-A hoặc với PAPP-A và chỉ số xung
– PI thấp nhất hoặc với HATB và PI thấp nhất đều
có diện tích dưới đường cong ROC dự báo TSG sớm
tốt (từ 0,811 đến 0,915), tỷ lệ phát hiện TSG sớm từ
45,5% đến 72,7% và 63,6% đến 81,8% tương ứng
với tỷ lệ dương tính giả 5% và 10%. Các mô hình
phối hợp yếu tố nguy cơ mẹ, HATB và chỉ số xung
PI hoặc phối hợp yếu tố nguy cơ mẹ, PAPP-A và chỉ
số xung PI hoặc hình phối hợp yếu tố nguy cơ mẹ,
HATB, PAPP-A và chỉ số xung PI thấp nhất có diện
tích dưới đường cong ROC dự báo TSG sớm rất
tốt, tương ứng ROC là 0,909 (0,898-0,920), 0,915
(0,904-0,925) và 0,935 (0,925-0,944). Trong đó mô
hình phối hợp hợp yếu tố nguy cơ mẹ với HATB,
PAPP-A và chỉ số xung PI thấp nhất cho kết quả dự
báo TSG sớm tốt nhất, diện tích dưới đường cong
ROC 0,935 (0,925-0,944), tỷ lệ phát hiện TSG sớm
lên đến 81,8% và 90,9% tương ứng tỷ lệ dương
tính giả 5% và 10%.
Nghiên cứu chúng tôi cũng phù hợp với các
nghiên cứu khác về kết quả dự báo TSG sớm. Nếu
chỉ sàng lọc dựa vào duy nhất yếu tố nguy cơ mẹ
cho, kết quả dự báo không nhìn chung không cao.
Tuy nhiên, khi phối hợp nguy cơ mẹ và PAPP-A
hoặc PI hoặc HATB, hoặc mô hình phối hợp nguy
cơ mẹ với PAPP-A và PI hoặc phối hợp với PI và
HATB hoặc mô hình phối hợp nguy cơ mẹ và cả PI,
PAPP-A, HATB đồi cho tỷ lệ phát hiện TSG sớm vào
khoảng 45,9 – 83,8% và 59,5 – 94,6% tương ứng tỷ
lệ dương tính giả 5% và 10% [26], [27]. Một nghiên
cứu công bố năm 2013 trong mô hình cạnh tranh
các yếu tố nguy cơ sàng lọc TSG ở giai đoạn sớm
của thai kỳ, kết quả dự báo TSG sớm trước 34 tuần
dựa vào phối hợp nguy cơ mẹ và PAPP-A, hoặc
và HATB, hoặc và PI cho tỷ lệ phát hiện tương
ứng 43,6%, 58,4%, 59,3% và thứ tự 54,7%, 72,9%,
75,2% tương ứng tỷ lệ dương tính giả 5% và 10%.
Phối hợp nguy cơ mẹ và HATB, PI và PAPP-A cho
tỷ lệ phát hiện TSG sớm lên đến 81,8% và 92,5%
tương ứng tỷ lệ dương tính giả 5% và 10%, nếu
phối hợp thêm PlGF cho tỷ lệ phát hiện tốt nhất,
93,4% và 96,3%, tỷ lệ dương tính giả là 5% và 10%
[2]. Tương tự, đối với các nghiên cứu với cở mẫu
khác nhau cũng cho kết quả tương tự [6], [16],
[21], [31], [33], [34].
Để giãi thích kết quả dự báo TSG sớm triển
vọng hơn so với dự báo TSG muộn và tăng HA thai
nghén, trong các yếu tố dự báo được triển vọng
được nghiên cứu cho dự báo TSG trong quý I thai
kỳ, cả TSG sớm và TSG muộn (không bao gồm tăng
HA thai nghén) đều có sự khác biệt rõ ràng so với
nhóm thai phụ bình thường. Và chính các yếu tố dự
báo như chỉ số xung – PI, PAPP-A có sự khác biệt ở
nhóm TSG sớm so với các nhóm rối loạn tăng HA
trong thai kỳ khác. Cơ chế cơ bản của TSG được cho
là sự xâm nhập không hoàn toàn của các tế bào
nuôi vào các động mạch xoắn tử cung làm cho khẩu
kính các mạch máu vẫn còn lớp cơ trở nên hẹp hơn
so với các mạch máu có khẩu kính rộng khi lớp cơ
được thay thế. TSG sớm và muộn có thể đơn giãn là
phán ánh sự biểu hiện các khiếm khuyết tại đơn vị
rau thai dẫn đến hậu quả là các biểu hiện lâm sàng
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
45
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(3), 38-46, 2015
của bệnh [10], [17]. Sự phát triển sớm của bệnh có
khả năng liên quan đến bất thường đơn vị rau thai
và hình thái mạch máu. Sự thay đổi những chất chỉ
điểm sinh hóa có chứng năng phản ánh tình trạng
rau thai thể hiện trong trính trình thay đổi bệnh
sinh TSG giai đoạn sớm trong thai kỳ là nền tảng
để nghiên cứu giá trị dự báo đối với sự xuất hiện
TSG sớm. Các thay đổi tưới máu tại đơn vị gai rau
cho thấy theo hướng tăng mức độ trở kháng phản
ánh qua chỉ số xung động mạch tử cung – PI tăng.
Vì vậy khi phối hợp các yếu tố này đều cho thấy cả
thiện rõ ràng kết quả dự báo TSG sớm và là cơ sở để
xây dựng mô hình dự báo TSG.
Tóm lại, các nghiên cứu đồng quan điểm rằng
mô hình phối hợp dự báo TSG sớm triễn vọng khi
phối hợp các yếu tố nguy cơ mẹ, các chất chỉ điểm
sinh hóa, HATB và siêu âm doppler động mạch tử
cung chỉ số xung – PI. Cách thức tiếp cận bệnh lý
TSG cũng đần dần được thay đổi dựa trên các bằng
chứng lâm sàng thu nhận được, các thuật toán
phối hợp nhiều yếu tố cho phép xác định nguy cơ
phát triển bệnh lý TSG đầy hứa hẹn. Sự khác nhau
ở các nghiên cứu có chăng về tỷ lệ phát hiện và có
thể giải thích bởi sự khác nhau của cở mẫu nghiên
cứu, cũng có thể khác nhau về các đặc điểm trong
cộng đồng nghiên cứu như yếu tố nguy cơ mẹ,
chủng tộc ảnh hưỡng vào kết quả nghiên cứu. Với
tỷ lệ phát hiện cao trong những mô hình dự báo
này là cơ sở để có thể thực hiện sàng lọc TSG sớm
ngay ở quý I thai kỳ. Và một trong những đóng góp
của các mô hình dự báo TSG sớm là giai đoạn đầu
để tiếp tục sàng lọc ở quý II, quý III thai kỳ cũng
như áp dụng các can thiệp dự phòng sớm ngay ở
quý I thai kỳ.
5. Kết luận
Có thể tiếp cận sàng lọc bệnh lý TSG thường
quy cùng với thời điểm sàng lọc dị tật bẩm sinh
ngay từ thời điểm 11 tuần đến 13 tuần 6 ngày thai
kỳ bằng phối hợp các yếu tố nguy cơ mẹ, huyết
áp động mạch trung bình, xét nghiệm PAPP-A và
siêu âm doppler động mạch tử cung chỉ số xung –
PI thấp nhất. Đặc biệt dự báo nhóm đối tượng có
nguy cơ cao phát triển TSG sớm trước 34 tuần để
có chiến lược can thiệp dự phòng sớm ngay cuối
quí I thai kỳ và có chế độ quản lý thai kỳ hợp lý.
Khả năng dự báo Tiền sản giật phát triển sau 34
tuần tại thời điểm 11 tuần đến 13 tuần 6 ngày thai
kỳ còn hạn chế, vì vậy sàng lọc TSG ở qúi II và quí III
cần được thực hiện tiếp tục sau lần sàng lọc ở thời
điểm 11 tuần đến 13 tuần 6 ngày thai kỳ như giai
đoạn sàng lọc tiếp theo.
Tài liệu tham khảo
1. Akolekar Ranjit, Argyro Syngelaki, Rita Sarquis, Mona
Zvanca, Kypros H. Nicolaides (2011), “Prediction of early,
intermediate and late pre-eclampsia from maternal factors,
biophysical and biochemical markers at 11–13 weeks”,
Prenat Diagn 2011, 31: p. 66-74.
2. Akolekar Ranjit, Syngelaki A., Poon L., Wright D.,
Nicolaides K.H. (2013), “Competing risks model in early
screening for preeclampsia by biophysical and biochemical
markers”. Fetal Diagn Ther 2013, 33(1): p. 8-15.
3. American College of Obstetricians and Gynecologists
(2013), “Chapter 3: Prediction of Preeclampsia”,
Hypertension in Pregnancy, p. 21-27. 70.
4. American College of Obstetricians and Gynecologists
(2013), “Chapter 1: Classification of Hypertensive
Disorders”, Hypertension in Pregnancy, p. 13-17.
5. Anna Yliniemi, Kaarin Makikallio, Teemu Korpimaki,
Heikki Kouru, Jaana Marttala, Markku Ryynanen (2015),
“Combination of PAPPA, fhCGβ, AFP, PlGF, sTNFR1, and
Maternal Characteristics in Prediction of Early-onset
Preeclampsia”. Clin Med Insights Reprod Health 2015, 9: p.
13-20.
6. Caradeux J., Ramón Serra, Jyh-Kae Nien, Alejandra
Pérez-Sepulveda, Manuel Schepeler, Francisco Guerra,
Jorge Gutiérrez, Jaime Martínez, Cristián Cabrera, Horacio
Figueroa-Diesel, Peter Soothill, Sebastián E. Illanes. (2013),
“First trimester prediction of early onset preeclampsia
using demographic, clinical, and sonographic data: a cohort
study”, Prenatal Diagnosis, 33(8): p. 732-736.
7. David James, Philip J. Steer, Carl P. Weiner, Bernard
Gonik, Caroline A. Crowther, Stephen C. Robson (2011),
“Chapter 35: Hypertension”, High Risk Pregnancy:
Management Options fourth Edition, P. 599-562.
8. Di Lorenzo G., Ceccarello M., Cecotti V., Ronfani L.,
Monasta L., Vecchi Brumatti L., Monticob M., D’Ottavio G.
(2012), “First trimester maternal serum PIGF, freeb-hCG,
PAPP-A, PP-13, uterine artery Doppler and maternal history
for the prediction of preeclampsia”. Placenta 33 (2012): p.
495-501.
9. Felicity J. Park, Constance H.Y. Leung, Leona C.Y. Poon,
Paul F. Williams, Samantha J. Rothwell, Jon A. Hyett (2013),
“Clinical evaluation of a first trimester algorithm predicting
the risk of hypertensive disease of pregnancy”, Australian
and New Zealand Journal of Obstetrics and Gynaecology.
DOI: 10.1111/ajo.12126.
10. Gary Cunningham F., Kenneth J. Leveno, Steven L.
Bloom, Catherine Y. Spong, Jodi S. Dashe, Barbara L. Hoffman,
Brian M. Casey, Jeanne S. Sheffield (2014), “Hypertensive
Disorders” Williams Obstetrics 24th. P. 1507-1612.
CAO NGỌC THÀNH, VÕ VĂN ĐỨC, NGUYỄN VU QUỐC HUY, TRƯƠNG QUANG VINH,
NGUYỄN VIẾT NHÂN, HÀ THỊ MINH THI, NGUYỄN TRẦN THẢO NGUYÊN, TRẦN MẠNH LINHSẢN KHOA VÀ SƠ SINH
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
46
11. Hind N. Moussa, Sara E. Arian Mehr, Baha M.
Sibai (2014), “Management of Hypertensive Disorders in
Pregnancy”, Women’s Health, 10(4): p. 385-404.
12. International Society for the Study of Hypertension
in Pregnancy (2014), “The classification, diagnosis and
management of the hypertensive disorders of pregnancy:
A revised statement from the ISSHP”. An International
Journal of Women’s Cardiovascular Health 4: p. 97-104.
13. International Society of Ultrasound in Obstetrics
and Gynecology (2013), “ISUOG Practice Guidelines: use of
Doppler ultrasonography in obstetrics”, Ultrasound Obstet
Gynecol, 41: p. 233-239.
14. Irgens H.U., Reisaeter L., Irgens L.M., Lie R.T. (2001),
“Long term mortality of mothers and fathers after pre-
eclampsia: population based cohort study”. BMJ 2001, 323:
p. 1213–1217.
15. Journal of Obstetrics and Gynaecology Canada
(2008), “Diagnosis, Evaluation, and Management of the
Hypertensive Disorders of Pregnancy”, SOGC Clinical
practice guideline, March JOGC Mars 2008.
16. Khaw A., Kametas N.A., Turan O.M., Bamfo J.E.,
Nicolaides K.H. (2008), “Maternal cardiac function and
uterine artery Doppler at 11–14 weeks in the prediction of pre-
eclampsia in nulliparous women”, BJOG 2008, 115: p. 369-376.
17. Lim K.H., Zhou Y., Janatpour M., McMaster M., Bass
K., Chun S.H., Fisher S.J. (1997), “Human cytotrophoblast
differentiation/invasion is abnormal in pre-eclampsia”, Am
J Pathol, 151(6): p.1809-1818.
18. National Heart Foundation of Australia (2008),
“Guide to management of hypertension 2008”,
heartfoundation.org.au.
19. National Institute for Health and Clinical Excellence
(2010), “Hypertension in pregnancy: The management of
hypertensive disorders during pregnancy”, NICE clinical
guideline 107. www.nice.org.uk/guidance/CG107.
20. Nicolaides Kypros H. (2011), “A model for a new
pyramid of prenatal care based on the 11 to 13 weeks’
assessment”, Prenat Diagn, 31: p. 3-6.
21. Plasencia W., Maiz N., Poon L., Yu C., Nicolaides K.H.
(2008), “Uterine artery Doppler at 11+0 to13+6 weeks and
21+0 to 24+6 weeks in the prediction of pre-eclampsia”,
Ultrasound Obstet Gynecol, 32: p. 138-146.
22. Plasencia W., Maiz N., Bonino S., Kaihura C.,
Nicolaides K.H. (2007), “Uterine artery Doppler at 11+0 to
13+ 6 weeks in the prediction of pre-eclampsia”, Ultrasound
Obstet Gynecol, 30(5): p.742-749.
23. Poon L.C.Y., Kametas N.A., Valencia V., Chelemen T.,
Nicolaides Nicolaides K.H. (2011), “Hypertensive Disorders
in Pregnancy: Screening by Systolic Diastolic and Mean
Arterial Pressure at 11–13 Weeks”, Hypertension in
Pregnancy, 30: p. 93-107.
24. Poon L.C.Y., Karagiannis G., Leal A., Romero
X.C., Nicolaides K.H. (2009), “Hypertensive disorders in
pregnancy: screening by uterine artery Doppler imaging
and blood pressure at 11–13 weeks”, Ultrasound Obstet
Gynecol, 34: p. 497-502.
25. Poon L.C.Y., Kypros H. Nicolaides. (2014), “Early
Prediction of Preeclampsia”, Obstetrics and Gynecology
International, Volume 2014, Article ID 297397.
26. Poon L.C.Y., Staboulidou I., Maiz N., Plasencia
W., Nicolaides K.H. (2009), “Hypertensive disorders in
pregnancy: screening by uterine artery Doppler at 11–13
weeks”, Ultrasound Obstet Gynecol, 34: p. 142-148.
27. Poon L.C.Y., Violeta Stratieva, Silvia Piras, Solmaz Piri
and Kypros H. Nicolaides. (2012), “Hypertensive disorders in
pregnancy: combined screening by uterine artery Doppler,
blood pressure and serum PAPP-A at 11–13 weeks”, Prenat
Diagn, 30: p. 216-223.
28. Poon L.C.Y., Zymeri N.A., Zamprakou A., Syngelaki A.,
Nicolaides K.H. (2012), “Protocol for measurement of mean
arterial pressure at 11-13 weeks’ estation”, Fetal Diagnosis
and Therapy, 31(1): pp. 42-48.
29. Poon L.C.Y., Kametas N.A., Chelemen T., Leal
A., Nicolaides K.H. (2010), “Maternal risk factors for
hypertensive disorders in pregnancy: a corvariate
approach”. J Hum Hypertens 2010 Feb, 24 (2): p. 104-110.
30. World Health Organization (2011), “WHO
recommendations for Prevention and treatment of pre-
eclampsia and eclampsia”, World Health Organization 2011.
31. Wright D., Akolekar R., Syngelaki A., Poon L.C.,
Nicolaides K.H. (2012), “A competing risks model in early
screening for preeclampsia”. Fetal Diagn Ther 2012, 32(3):
p. 171-178.
32. Youssef A., Righetti F., Morano D., Rizzo N., Farina A.
(2011), “Uterine artery Doppler and biochemical markers
(PAPP-A, PIGF, sFlt-1, P-selectin, NGAL) at 11+0 to 13+6
weeks in the prediction of late (> 34 weeks) pre-eclampsia”,
Prenat Diagn, 31(12): p. 1141-1146.
33. Yu C.K.H., Khouri O., Onwudiwe N., Spiliopoulos
Y., Nicolaides K.H. (2008), “Prediction of pre-eclampsia by
uterine artery Doppler imaging: relationship to gestational
age at delivery and small for gestational age”, Ultrasound
Obstet Gynecol, 31: p. 310-313.
34. Yu C.K.H., Smith G.C., Papageorghiou A.T., Cacho
A.M., Nicolaides K.H. (2005), “An integrated model for the
prediction of preeclampsia using maternal factors and
uterine artery Doppler velocimetry in unselected low-risk
women”, Am J Obstet Gynecol 2005 Aug;193(2): p. 429-436.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
mo_hinh_sang_loc_benh_ly_tien_san_giat_tai_thoi_diem_11_tuan.pdf