1). Sinh trưởng của cá mú chấm đen (dưới
dạng WG) được thể hiện bằng phương trình:
WG (g/cá/ngày) = (0,000179*T3 – 0,01714*T2
+ 0,522468*T – 5,00525)*BW0,56 trong đó T là
nhiệt độ nước.
2). Lượng thức ăn cá sử dụng thể hiện qua
phương trình: FI (g/cá/ngày) = (-0,00021*T3 +
0,014847*T2 – 0,33092*T + 2,411174)*BW0,7
rong đó T là nhiệt độ nước.
3). Thành phần của mức tăng khối lượng ở
á mú chấm đen như sau:
- Các hàm lượng protein và tro không thay
đổi lắm khi kích cỡ cá tăng lên và lần lượt có
 giá trị trung bình là 169,4 ± 7,4 mg/g và 41,5 ±
6,9 mg/g.
- Độ ẩm, hàm lượng lipid và năng lượng
thay đổi khi khối lượng cơ thể cá tăng lên và
có thể được thể hiện bằng các phương trình:
Độ ẩm (mg/g) = 845,5 x BW-0,03; Lipid (mg/g)
= 9,288 x BW0,291; Năng lượng (kJ/g) = 3,51 x
BW0,102.
4). Sự thất thoát năng lượng và protein
(n = 42) được thể hiện bằng các phương trình:
Thất thoát năng lượng (kJ/cá/ngày) = 0,111 x
BW0,827; Thất thoát protein (g/cá/ngày) = 0,003
x BW0,701. Qua đó, số mũ (kg)0,8 và (kg)0,7 lần
lượt mô tả các thể trọng chuyển hóa cho năng
 lượng và protein ở cá mú chấm đe
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 9 trang
9 trang | 
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 769 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô hình sinh năng lượng học cho cá mú chấm đen (epinephelus malabaricus): dự báo sinh trưởng, lượng thức ăn cá sử dụng, thành phần của mức tăng khối lượng và thể trọng chuyển hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 47
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
Lê Anh Tuấn1, Trương Hà Phương2 
Ngày nhận bài: 9/3/2018; Ngày phản biện thông qua: 27/3/2018; Ngày duyệt đăng: 27/4/2018
TÓM TẮT
Cá mú chấm đen, một đối tượng nuôi biển quan trọng, đã được nuôi ở Việt Nam từ năm 1988. Nhằm 
phát triển thức ăn hiệu quả và thân thiện với môi trường, các nhu cầu của cá mú đối với các dưỡng chất quan 
trọng đã được lượng hóa. Dựa vào 15 bộ số liệu thu được từ các trang trại nuôi cá mú và các thí nghiệm ở Việt 
Nam từ năm 2005 đến năm 2017, mức tăng khối lượng hàng ngày dưới dạng một hàm số của khối lượng cơ thể 
(g) và nhiệt độ nước (oC) đã được dự báo qua phương trình: WG (g/cá/ngày) = (0,000179*T3 – 0,01714*T2 
+ 0,522468*T – 5,00525)*BW0,56. Tương tự, lượng thức ăn cá sử dụng hàng ngày được dự báo bằng phương 
trình: FI (g/cá/ngày) = (-0,00021*T3 + 0,014847*T2 – 0,33092*T + 2,411174)*BW0,7, trong đó T là nhiệt độ 
nước (24-31oC). Thành phần của mức tăng khối lượng được xác định thông qua phân tích toàn bộ cơ thể cá 
có kích cỡ từ 5 đến 700g. Trong khi hàm lượng protein không thay đổi và ở mức 169,4 mg/g, thì hàm lượng 
năng lượng lại phụ thuộc và khối lượng cá và tăng lên từ 4,4 đến 7,0 kJ/g thể trọng và có thể được biểu thị 
bằng phương trình: y (kJ/g) = 3,51*BW0,102. Tỷ lệ chuyển hóa phụ thuộc lớn vào kích cỡ cá và tỷ lệ với thể 
trọng chuyển hóa dưới dạng a*BW(kg)b. Để xác định số mũ b của thể trọng chuyển hóa, các mối quan hệ giữa 
năng lượng và thất thoát protein lúc cá bị bỏ đói với cá có khối lượng khác nhau đã được xác định. Sự thất 
thoát năng lượng và protein hàng ngày được thể hiện bằng phương trình: Thất thoát năng lượng (kJ/cá/ngày) 
= 0,111 × BW0,827; và Thất thoát protein (g/cá/ngày) = 0,003 × BW0,701. Số mũ của (kg)0,8 và (kg)0,7 vì thế có 
thể được dùng để mô tả cho cá mú chấm đen dưới dạng các thể trọng chuyển hóa lần lượt cho năng lượng và 
protein. Dựa trên các kết quả này, một Mô hình sinh năng lượng học có thể bước đầu được xây dựng để phát 
triển các công thức thức ăn cho cá mú chấm đen. 
Từ khóa: Mức tăng khối lượng; Lượng thức ăn sử dụng; Dự báo sinh trưởng; Thất thoát năng lượng; Thất 
thoát protein. 
ABSTRACT
Malabar grouper, which is a commercially important candidate for mariculture, has been farmed in 
Vietnam since 1988. In order to develop effective and environmentally friendly feeds, the grouper’s requirements 
for key nutrients have been quantifi ed. Based on 15 data sets collected from grouper farms and experiments in 
Viet Nam between 2005 and 2017, the daily weight gain as a function of body weight (g) and water temperature 
(oC) was predicted by the equation: WG (g) = (0.000179*T3 – 0.01714*T2 + 0.522468*T – 5.00525)*BW0.56. 
Similarly, the daily feed intake was predicted by the equation: FI (g) = (-0.00021*T3+0.014847*T2 
-0.33092*T+2.411174)*BW0.7, in which T is water temperature (24-31oC). The composition of the gain was 
measured by analyzing whole fi sh ranging from 5 to 700g. While the protein content remained constant at 
169.4 mg g-1, the energy content was dependent upon fi sh weight and increased from 4.4 to 7.0 kJ g-1 body 
1 Viện Nuôi trồng Thủy sản, Trường Đại học Nha Trang 
2 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III
AND METABOLIC BODY WEIGHT.
MÔ HÌNH SINH NĂNG LƯỢNG HỌC CHO CÁ MÚ CHẤM ĐEN (EPINEPHELUS 
MALABARICUS): DỰ BÁO SINH TRƯỞNG, LƯỢNG THỨC ĂN CÁ SỬ DỤNG, 
THÀNH PHẦN CỦA MỨC TĂNG KHỐI LƯỢNG VÀ THỂ TRỌNG CHUYỂN HÓA.
BIOENERGETIC MODEL FOR MALABAR GROUPER (EPINEPHELUS MALABARICUS): 
GROWTH PREDICTION, FEED INTAKE, COMPOSITION OF WEIGHT GAIN,
48 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2018
I. MỞ ĐẦU
Nhu cầu dinh dưỡng của cá đã từng được 
nghiên cứu thực nghiệm theo cách truyền 
thống thông qua việc áp dụng cách tiếp cận 
liều lượng – phản ứng. Cách tiếp cận này mặc 
dù đưa đến kết quả chính xác nhưng rất tốn 
kém hoặc rất khó áp dụng trong thực tế. Mô 
hình toán trong dinh dưỡng động vật cung cấp 
một công cụ rất hữu ích trong việc xây dựng 
các hệ thống đánh giá thức ăn thực tế nhằm 
mô tả và dự báo các nhu cầu dinh dưỡng, 
thành phần hóa học của cơ thể và sinh trưởng 
của động vật (Cho, 1992). Sinh năng lượng 
học (Bioenergetics) là nghiên cứu định lượng 
về những thu nhận, thất thoát và chuyển đổi 
năng lượng bên trong toàn bộ sinh vật dựa 
trên các nguyên tắc nhiệt động học (Jobbling, 
1994) và đã từng được áp dụng rộng rãi vào 
dinh dưỡng động vật cũng như phát triển các 
hệ thống đánh giá thức ăn trong nhiều thập kỷ 
qua (Cho et al., 1982).Các hệ thống sinh năng 
lượng học truyền thống là đa nhân tố; cụ thể 
là, tổng nhu cầu năng lượng được xem là tổng 
năng lượng cần cho duy trì, hoạt động, sinh 
trưởng, sinh sản (Baldwin and Sainz, 1995). 
Mặc dù có những hạn chế (như giả định về 
tính cộng thêm của các nhân tố mà không có 
tác động tương hỗ giữa chúng), cách tiếp 
cận đa nhân tố vẫn là phương pháp hữu ích, 
mang tính ứng dụng cao. Nhiều mô hình đã 
được xây dựng thành công để dự báo sinh 
trưởng, các nhu cầu thức ăn và hiệu quả sử 
dụng thức ăn cho nhiều loài cá thông qua áp 
dụng các nguyên lý này (Cho and Bureau, 
1998; Lupatsch et al., 1998; Lupatsch et al., 
2001a & b; Lupatsch and Kissil, 2005; Glen-
cross, 2008). 
Mục tiêu của nghiên cứu này là sử dụng 
phương pháp đa nhân tố để đánh giá sinh 
trưởng, lượng thức ăn cá sử dụng, thành phần 
của mức tăng khối lượng và thể trọng chuyển 
hóa ở cá múa chấm đen và thể hiện mối quan 
hệ giữa các nhân tố này với khối lượng cá và 
nhiệt độ nước dưới dạng các phương trình hồi 
quy. Qua đó, góp phần xây dựng Mô hình sinh 
năng lượng học nhằm phát triển thức ăn cho 
cá mú chấm đen. 
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp nghiên cứu cho từng nội 
dung
1.1. Đánh giá sinh trưởng và lượng thức ăn cá 
sử dụng
Để mô tả mức tăng khối lượng tiềm năng 
hàng ngày của cá mú,15 bộ số liệu được thu 
thập từ việc theo dõi số liệu ở các trang trại 
và thu được từ các thí nghiệm sinh trưởng 
được tiến hành tại phòng thí nghiệm của Trại 
thực nghiệm thủy sản Lê Đình Ba (Bãi Tiên) 
và phòng thí nghiệm của Trung tâm giống Hải 
sản Quốc gia miền Trung (Viện Nghiên cứu 
thủy sản III) và các lồng nuôi thuộc vịnh Nha 
Trang,trong khoảng thời gian 2005-2017 trên 
cá có kích cỡ khoảng 1-1800g (số liệu cụ thể 
có trong Báo cáo Tổng kết Đề tài cấp Trường: 
Xây dựng công thức thức ăn nuôi cá mú chấm 
đen, Epinephelus malabaricus, trên cơ sở tích 
hợp những kết quả nghiên cứu theo 
mass and can be expressed by the equation: y (kJ g-1) = 3.51*BW0.102. Metabolic rate depends largely on 
the size of the fi sh and is proportional to the metabolic body weight in the form of a*BW(kg)b. To defi ne the 
exponent b of the metabolic body weight the relationships between energy and protein loss at starvation for fi sh 
at increasing weights were determined. The daily loss of energy and protein was presented by the equations: 
Energy loss (kJ fi sh-1 day-1) = 0.111× BW0.827; and Protein loss (g fi sh-1 day-1) = 0.003×BW0.701. The exponents 
of (kg)0.8 and (kg)0.7 can thus be described for malabar grouper as the metabolic body weights for energy and 
protein, respectively. Based on those results, a bioenergetic model can be built preliminarily to develop feed 
formulations for malabar grouper.
Keywords: Weight gain; Feed intake; Growth prediction; Energy loss; Protein loss. 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 49
phương pháp truyền thống và những nghiên 
cứu bổ sung theo phương pháp mô hình năng 
lượng sinh học). Tùy theo kích cỡ cá mà các bể 
hoặc lồng nuôi có kích cỡ 0.150 – 64m3 được 
bố trí với mật độ trong khoảng 0,25 – 10kg cá/
m3. Cá mú được cho ăn đến thỏa mãn (biểu 
kiến) bằng thức ăn cá tươi hoặc thức ăn viên. 
Việc tính toán lượng thức ăn được quy về chất 
khô. Khối lượng cá được cân định kỳ, thường 
cách khoảng 14 ngày. Mức tăng khối lượng 
hàng ngày (WG) và lượng thức ăn cá tiêu thụ 
hàng ngày (FI) giữa hai lần cân liền nhau được 
tính toán. Khối lượng cơ thể cá tương ứng 
được sử dụng trong các tính toán này là khối 
lượng trung bình hình học của cá trong suốt 
giai đoạn đó. Hai bộ số liệu gồm mức tăng khối 
lượng hàng ngày và lượng thức ăn cá ăn vào 
hàng ngày. Mỗi bộ chứa 130 mục số liệu ở các 
kích cỡ cá và nhiệt độ nước khác nhau. 
Tất cả các phương trình liên quan sinh 
trưởng được rút ra từ việc áp dụng phân tích 
hồi quy tuyến tính đối với số liệu chuyển dạng 
logarithm theo phương trình: ln y = ln a + b ln x
Đối logarithm của phương trình này tạo ra 
phương trình cuối cùng là: y = axb. 
Với nhiệt độ nước (T) là biến phụ, phương 
trình có dạng: ln y = ln a + b*ln x + c*T
Và phương trình cuối sẽ là: 
 y = a xb * ec*T 
Trong đó, y mô tả mức tăng khối lượng và 
x là khối lượng cơ thể hay thể trọng (BW) của 
cá(Lustpatch, 2003).
1.3. Thể trọng chuyển hóa 
Cá cần có năng lượng để duy trì các quá 
trình sống bình thường như tuần hoàn máu, 
điều hòa áp suất thẩm thấu, bài tiết và vận động 
bất kể nó có được ăn hay không. Tùy thuộc 
vào hoạt động, nhiều mức độ chuyển hóa có 
thể được phân biệt như: sự chuyển hóa cơ sở, 
1.2. Thành phần của mức tăng khối lượng 
Để xác định thành phần sinh hóa của cá 
mú ở các kích cỡ khác nhau, cá được thu 
mẫu có phạm vi kích cỡ 5-1000g (Bảng 1). 
Cá được thu từ các thí nghiệm liên quan đến 
dự báo sinh trưởng và lượng thức ăn tiêu thụ. 
Do thành phần sinh hóa và hàm lượng năng 
lượng của cá nuôi có thể bị ảnh hưởng bởi 
tình trạng dinh dưỡng cũng như thành phần 
thức ăn, nên việc xác định thành phần sinh 
hóa cơ thể cá phụ thuộc vào số liệu thu được 
với cá được cho ăn cùng loại thức ăn. Ngoài 
ra, các mẫu cá bắt từ tự nhiên tương ứng với 
từng nhóm kích cỡ cũng được phân tích thành 
phần sinh hóa để so sánh. Cá sắp thành thục 
bị loại ra. Số lượng cá cho mỗi nhóm kích cỡ 
như được trình bày ở Bảng 1. Cá cùng nhóm 
kích cỡ được gộp lại, cấp đông (-20oC) để 
bảo quản chờ phân tích. thành phần hóa học 
(chất khô, tro, CP, TL) của cá mú chấm đen tự 
nhiên và nuôi theo 7 nhóm kích cỡ (5-10g, 20-
30g, 50-60g, 100-120g, 200-250g, 400-500g, 
700-1000g). Phương pháp: AOAC (2005). Mỗi 
nhóm kích cỡ 3 lần lặp.Hàm lượng năng lượng 
(EV) được tính dựa vào các hệ số chuyển hoá 
năng lượng 23,4; 39,2 và 17,2 kJ/g cho protein 
(P), lipid (L) và carbohydrate (CHO), theo thức 
tự tương ứng (Cho và cộng sự, 1982). Car-
bohydrate được tính bằng tổng chung trừ cho 
tổng của độ ẩm, protein, tro và lipid. Theo đó, 
ta có công thức: EV (kJ/g) = 23,4 x P + 39,2 x 
L + 17,2 x CHO, trong đó: CHO = Tổng chung 
– (Độ ẩm + P + L + Tro). 
sự chuyển hóa bình thường và sự chuyển hóa 
tích cực (Fry 1957; Brett 1962). Tốc độ chuyển 
hóa, ở tất cả các mức độ hoạt động lại phụ 
thuộc chủ yếu vào kích cỡ cá và nó tỷ lệ với 
thể trọng chuyển hóa (metabolic body weight) 
dưới dạng a*BW(kg)b. Hai phương pháp chính 
từng được sử dụng để xác định các nhu cầu 
50 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2018
năng lượng ở động vật: phương pháp xác định 
năng lượng trực tiếp và gián tiếp. Tuy nhiên, 
hầu hết các nhà nghiên cứu sử dụng phương 
pháp gián tiếp ở cá. Phương pháp này ước 
tính nhu cầu năng lượng của cá gián tiếp thông 
qua các số đo về tiêu thụ oxy, nhưng cũng có 
thể bao gồm phân tích so sánh cơ thể. Kỹ thuật 
giải phẫu so sánh được áp dụng trong nghiên 
cứu này nhằm xác định giá trị năng lượng của 
các mô được sử dụng trong suốt quá trình cá 
bị bỏ đói. Phương pháp này được chọn vì đó 
là phương pháp khả thi và mang tính ứng dụng 
nhất: cá có thể được lưu giữ thành từng nhóm 
trong một bể, di chuyển tự do và thời gian của 
mỗi kỳ kiểm tra là đủ dài. Sự thất thoát năng 
lượng và protein hàng ngày vì thế có thể được 
tính toán dễ dàng. Để xác định sự thất thoát 
năng lượng và protein sau khi bị bỏ đói, 3 con 
cá cho mỗi một nhóm trong 7 nhóm cá cần 
nghiên cứu (Bảng 1) được lưu giữ trong bể 
150 L trong 11-40 ngày tùy theo kích cỡ cá và 
cá không được cấp thức ăn. Sau thời gian bỏ 
đói, cá được xử lý và bảo quản ở -20°C cho 
đến khi phân tích. Trong việc tính toán thất 
thoát năng lượng và protein do bỏ đói, mẫu cá 
của mỗi nhóm kích cỡ, được phân tích ban đầu 
được xem là đại diện về hàm lượng các chất 
trong cơ thể để từ đó tính toán sự thất thoát 
theo thời gian bỏ đói. 
2. Các phương pháp phân tích
2.1. Phân tích hoá học 
Việc phân tích được tiến hành tại Viện 
Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ Nha Trang 
và Trung tâm Thí nghiệm – Thực hành, Trường 
Đại học Nha Trang. Các mẫu nguyên liệu thức 
ăn, thức ăn, cá mú chủ yếu được phân tích 
theo Hệ thống phân tích thô (Proximate 
Analysis System) hay còn gọi là Phương pháp 
Weende (AOAC, 2005). Phân tích proteindùng 
phương pháp Kjeldahl. Phân tích lipid tổng số 
dùng phương pháp Folch (Folch et al., 1957). 
2.2 Phân tích thống kê
Số liệu được xử lý thống kê trên các phần 
mềm SPSS (phiên bản 16.0) và Excel. 
Phép kiểm định Duncan’s Multiple Range 
được sử dụng để kiểm tra sự khác nhau giữa 
các trung bình nghiệm thức. Các sai khác 
được đánh giá có ý nghĩa ở mức P < 0,05.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Sinh trưởng của cá mú nuôi và lượng 
thức ăn cá ăn vào
Để thiết lập mô hình dự báo tiềm năng sinh 
trưởng của cá mú chấm đen trong suốt quá 
trình tăng trưởng, số liệu về sinh trưởng của cá 
và lượng thức ăn cá ăn thu từ nhiều thí nghiệm 
khác nhau đã được mô tả bởi các hàm toán 
học. Mối quan hệ giữa mức tăng khối lượng (g) 
dưới dạng biến phụ thuộc và thể trọng (g) dưới 
dạng biến độc lập là phi tuyến và số liệu có thể 
được mô tả thích hợp nhất với hàm logarithm 
tự nhiên. Đối logarithm của hàm này là hàm 
mũ thường được áp dụng để mô tả mối quan 
hệ tăng trưởng phổ biến trong sinh học:
Trong đó, BW = thể trọng (g) của cá có kích 
cỡ trong khoảng 5-1800g. 
T = nhiệt độ, trong khoảng 20 – 32°C
n = kích cỡ mẫu, 130.
Mức tăng khối lượng: WG (g/cá/ngày) = 
0,056 * BW(g)0.684 (1)
Với r2 = 0,976 (Hình 1). 
Hoặc bao gồm tác động nhiệt độ như một 
biến phụ, qua phân tích hồi quy, ta có mức 
tăng khối lượng (WG): 
WG (g/cá/ngày) = (0.000179*T3 – 
0,01714*T2 + 0,522468*T – 5,00525)*BW0,56 
(2)
Với r2 = 0,816 (Hình 3A). 
Từ đó, tá có thể dự báo khối lượng cá thu 
được sau t ngày nuôi (BWt) từ khối lượng cá 
ban đầu (BWo) như sau: BWt = BWo + WG*t ↔
BWt = BWo + [(0,000179*T3 – 0,01714*T2 + 
0,522468*T – 5,00525)* BWo0,56]*t (3)
Lượng thức ăn cá ăn vào cũng có thể được 
mô tả theo cách tương tự. 
Lượng thức ăn cá ăn vào: FI (g/cá/ngày) = 
0,062*BW0,75 (4)
Với r2 = 0,978 (Hình 1). 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 51
Và khi bao gồm tác động của nhiệt độ nước, qua phân tích hồi quy, ta có: 
Lượng thức ăn cá ăn vào: FI (g/cá/ngày) = (-0,00021*T3 + 0,014847*T2 – 0,33092*T + 
2,411174)*BW0,7 (5)
Với r2 = 0,923 (Hình 3B). 
 Hình 1 thể hiện mối liên hệ giữa mức tăng 
khối lượng cá (g) và lượng thức ăn cá ăn vào 
(g) hàng ngày và thể trọng của cá mú chấm 
đen (g). Các đường cong mô tả mối quan hệ 
ở nhiệt độ nước trung bình 28oC cho cả lượng 
thức ăn cá ăn vào và mức tăng khối lượng cá. 
Từ Hình 1 có thể thấy: mức tăng khối lượng 
tuyệt đối cũng như lượng thức ăn được cá ăn 
tăng lên cũng với sự gia tăng của thể trọng cá. 
Lượng thức ăn cá ăn vào đã tăng ở mức độ 
cao hơn so với mức tăng khối lượng. 
Hình 2 (A và B) thể hiện mối liên hệ giữa 
mức tăng khối lượng cá (g) và lượng thức ăn 
cá ăn vào (g) hàng ngày và thể trọng của cá 
mú chấm đen (g) với tác động bổ sung của 
Hình 1. Mức tăng khối lượng cá (g) và lượng thức ăn cá ăn vào hàng ngày (g) 
trong mối liên hệ với thể trọng tăng lên ở cá mú chấm đen được cho ăn đến thỏa mãn.
nhiệt độ nước. Hình này cho thấy, khi nhiệt độ 
nước nằm trong khoảng 25-30oC, lượng thức 
ăn cá ăn vào và mức tăng khối lượng tuyệt đối 
của cá tăng lên khi kích cỡ cá tăng lên. 
Điều kiện tiên quyết của việc ước tính các 
nhu cầu thức ăn của một đối tượng nuôi mới là 
phải xác định được tiềm năng sinh trưởng tối 
đa của nó. Mô hình này đòi hỏi phải có số liệu 
sinh trưởng của cá từ các thí nghiệm mà ở đó 
nguồn cung cấp thức ăn ở góc độ năng lượng 
và các dưỡng chất là không chịu giới hạn và 
các điều kiện cho sinh trưởng tối ưu phải được 
thỏa mãn. 
Vì vậy, một trong những bước đầu tiên để 
xác định nhu cầu năng lượng và protein là phải 
Hình 2. Biểu đồ thể hiện Mức tăng khối lượng (A) và lượng thức ăn cá sử dụng 
(B) ở cá mú chấm đen có kích cỡ khác nhau trong mối liên hệ với nhiệt độ nước
52 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2018
thiết lập một Mô hình sinh trưởng ở các mức 
nhiệt độ khác nhau cùng với một sự đánh giá 
về lượng thức ăn cá chủ động ăn vào (Hình 1). 
Do năng lượng và lượng protein thu vào là một 
hàm số của lượng thức ăn cá ăn vào cũng như 
chất lượng thức ăn, nên việc dự báo lượng 
thức ăn mà cá có thể tiêu thụ là cần thiết. Điều 
này cần có để điều chỉnh hàm lượng năng 
lượng và protein của thức ăn tiềm năng. 
Cá mú chấm đen được nuôi bằng thức ăn 
tổng hợp tự sản xuất đã cho thấy kết quả khả 
quan. Theo dự báo tăng trưởng, cá mú chấm 
đen sẽ tăng trưởng từ 1 g đến khoảng 1 kg 
trong thời gian nuôi khoảng 1 năm ở nhiệt độ 
nước là 27ºC (Phương trình (3)). Sinh trưởng 
này tương tự với sinh trưởng của cá mú chấm 
cam E. coioides và cá mú mỡ E. tauvina được 
nuôi trong ao và đăng lưới và cá mú trắng 
E. aeneus được nuôi trong bể ngoài trời và 
những đối tượng cá mú này đều là những loài 
cá biển có tốc độ sinh trưởng nhanh (Chou and 
Wong, 1985; Bombeo-Tuburan et al., 2001; 
Lupatsch and Kissil, 2005). Trong khi đó một 
loài cá mú có giá trị kinh tế khác ở Địa Trung 
Hải E. guaza, lại có tốc độ sinh trưởng thấp hơn 
trong điều kiện nuôi, thậm chí khi cho ăn bằng 
thức ăn sống (Castello-Orvay et al., 1992).
2. Thành phần của mức tăng khối lượng
Thành phần sinh hóa của toàn bộ cơ thể cá 
mú chấm đen từ 5-700 g được thể hiện trong 
Hình 3. Các hàm lượng protein và tro không 
thay đổi lắm khi kích cỡ cá tăng lên và lần lượt 
có giá trị trung bình là 169,4 ± 7,4 mg/g và 41,5 
± 6,9 mg/g (hàm lượng tro không được thể 
hiện trong Hình 3A). Trong khi đó, độ ẩm, hàm 
lượng lipid và năng lượng đã thay đổi đáng kể 
khi khối lượng cơ thể cá tăng lên và có thể 
được thể hiện tốt bằng các phương trình hồi 
quy sau (n = 21). Năng lượng (kJ/g) = 3,51 x 
BW0,102 với r2 = 0,937 (6); 
Lipid (mg/g) = 9,288 x BW0,291 với r2 = 
0,951 (7); Độ ẩm (mg/g) = 845,5 x BW-0,03 với 
r2 = 0,936 (8). 
Do phần lớn năng lượng và protein cá tiêu 
thụ được tích lũy dưới dạng tăng trưởng, nên 
thành phần sinh hóa cơ thể cá được xem là 
một nhân tố quan trọng khác bên cạnh tăng 
trưởng, cùng xác định nhu cầu năng lượng và 
protein của cá. Ở cá mú chấm đen, hàm lượng 
năng lượng tăng lên khi khối lượng cá tăng lên 
và chỉ tăng nhẹ từ 4,4 đến 7,0 kJ (Hình 3B) 
Hình 3. Thành phần(A) và hàm lượng năng lượng (B) của cá mú chấm đen theo khối lượng cá
cho cá có kích cỡ từ 4,6 đến 700,5 g. Điều 
này tương phản với cá chẽm châu Âu và cá 
hanh đầu vàng có kích cỡ 400 g, nhưng chúng 
có các hàm lượng năng lượng đạt 10 kJ hoặc 
thậm chí 11,5 kJ/g khối lượng cá sống, theo 
thứ tự tương ứng (Lupatsch et al., 2003a). Các 
giá trị từ kết quả nghiên cứu hơi thấp một ít 
so với với các giá trị của cá mú trắng 
E. aeneus (4,8 – 7,5 kJ/g), tuy nhiên các mú 
trắng lại có phạm vi kích cỡ lớn hơn (1 – 1600 
g) (Lupatsch and Kissil, 2005). 
Hàm lượng protein nhìn chung hầu như 
không thay đổi nhiều ở cá mú chấm đen với 
các kích cỡ cá nghiên cứu và giá trị trung bình 
là 169,4 mg/g. Diễn biến hàm lượng protein 
theo kích cỡ và giá trị trung bình này gần với 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 53
nhau. Chẳng hạn, cá chẽm châu Âu, cá hanh 
đầu vàng và cá hồi Đại Tây Dương có mật độ 
năng lượng tương đối dày nên chúng đòi hỏi 
năng lượng thức ăn trên đơn vị thể trọng sống 
nhiều hơn so với các loài cá ít béo hơn như cá 
mú. Dù sao cũng cần lưu ý rằng nhu cầu protein 
thức ăn trên đơn vị mức tăng khối lượng cá là 
như nhau ở các loài cá (Lupatsch et al., 2003a).
3. Thể trọng chuyển hóa (Metabolic Body 
Weight – MBW)
kết quả nghiên cứu trên cá mú trắng (Lupatsch 
and Kissil, 2005). Việc hàm lượng protein hầu 
như ổn định còn hàm lượng năng lượng tăng 
lên khi kích cỡ cá tăng lên mang tính đặc thù 
cho hầu hết các loài cá như đã được mô tả 
trước đây (Lupatsch et al., 2003a). 
Vì vậy, trong việc ước tính các nhu cầu 
đối với tích lũy mô và tăng trưởng, những biến 
động lớn giữa các loài ở khía cạnh năng lượng 
đều được kỳ vọng dựa trên thành phần mô khác 
Hình 4. Thất thoát năng lượng (kJ) và protein (g) hàng ngày của cá mú chấm đen trong thí nghiệm bỏ đói 
theo mức tăng khối lượng cá (ở nhiệt độ nước 28,0 ± 1,79ºC)
Những mối quan hệ giữa thất thoát năng 
lượng (kJ) và protein (g) hàng ngày với khối 
lượng cá (g) ở cá mú chấm đen được thể hiện 
trong Hình 4 (A & B). Do các thí nghiệm được 
tiến hành trong môi trường nước biển có nhiệt 
độ dao động trong phạm vi 24 – 31oC, nên tỷ 
lệ chuyển hóa chỉ có thể được mô tả cho phạm 
vi nhiệt độ này. 
 Ngoài ra, tác động của nhiệt độ là không 
lớn so với tác động của khối lượng cá vì khi 
đưa nhân tố nhiệt độ vào phương trình dưới 
dạng hàm mũ thì đã không có thêm sự cải 
thiện đáng kể về hệ số tương quan. Như vậy, 
sự thất thoát năng lượng và protein (n = 42) có 
thể được thể hiện bằng các phương trình sau:
Thất thoát năng lượng (kJ/cá/ngày) = 0,111 
x BW0,827 với r2 = 0,909 (9); 
Thất thoát protein (g/cá/ngày) = 0,003 x 
BW0,701 với r2 = 0,822 (10).
Qua đó, ta thấy: số mũ (kg)0,8 và (kg)0,7 
đã lần lượt mô tả các thể trọng chuyển hóa 
cho năng lượng và protein ở cá mú chấm đen. 
Những giá trị này gần với các kết quả nghiên 
cứu trước đây trên cá hanh đầu vàng, cá chẽm 
châu Âu và cá mú trắng (Lupatsch et al, 2003a 
& b và 2005). 
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
1). Sinh trưởng của cá mú chấm đen (dưới 
dạng WG) được thể hiện bằng phương trình: 
WG (g/cá/ngày) = (0,000179*T3 – 0,01714*T2 
+ 0,522468*T – 5,00525)*BW0,56 trong đó T là 
nhiệt độ nước. 
2). Lượng thức ăn cá sử dụng thể hiện qua 
phương trình: FI (g/cá/ngày) = (-0,00021*T3 + 
0,014847*T2 – 0,33092*T + 2,411174)*BW0,7 
trong đó T là nhiệt độ nước.
3). Thành phần của mức tăng khối lượng ở 
cá mú chấm đen như sau: 
- Các hàm lượng protein và tro không thay 
đổi lắm khi kích cỡ cá tăng lên và lần lượt có 
54 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2018
giá trị trung bình là 169,4 ± 7,4 mg/g và 41,5 ± 
6,9 mg/g. 
- Độ ẩm, hàm lượng lipid và năng lượng 
thay đổi khi khối lượng cơ thể cá tăng lên và 
có thể được thể hiện bằng các phương trình: 
Độ ẩm (mg/g) = 845,5 x BW-0,03; Lipid (mg/g) 
= 9,288 x BW0,291; Năng lượng (kJ/g) = 3,51 x 
BW0,102. 
4). Sự thất thoát năng lượng và protein 
(n = 42) được thể hiện bằng các phương trình: 
Thất thoát năng lượng (kJ/cá/ngày) = 0,111 x 
BW0,827; Thất thoát protein (g/cá/ngày) = 0,003 
x BW0,701. Qua đó, số mũ (kg)0,8 và (kg)0,7 lần 
lượt mô tả các thể trọng chuyển hóa cho năng 
lượng và protein ở cá mú chấm đen.
2. Kiến nghị
Nên triển khai thực nghiệm nuôi thịt trọn 
chu kỳ để kiểm chứng các thông số kỹ thuật 
và hiệu chỉnh các thông số (nếu có) để hoàn 
thiện Mô hình sinh năng lượng học cho cá mú 
chấm đen. 
LỜI CẢM ƠN
Chúng tôi cảm ơn sự hỗ trợ của dự án Aus-
tralian Centre for International Agricultural Re-
search (ACIAR) Project FIS-2006-141 và Đề 
tài cấp Trường TR2017-13-04.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Baldwin and Sainz, 1995. Energy partitioning and modeling in animal nutrition. Annu. Rev. Nutr. 1995, 15: 
191-211. 
2. Bombeo-Tuburan, I., Coniza, E.B., Rodriguez, E.M., Agbayani, R.F., 2001. Culture and economics of wild 
grouper (Epinephelus coioides) using three feed types in ponds. Aquaculture, 201, 229–240.
3. Brett, J.R., 1962. Some considerations in the study of respiratory metabolism in fi sh, particularly salmon. 
J. Fisheries Research Board Canada 19: 1025-1038.
4. Castello-Orvay, F., Fernandez-Vilar, A., Llaurado, F., Vinas, R., 1992. Effect of different types of food on 
growth in captive grouper (Epinephelus guaza, L.). Mar. Life, 1, 57– 62.
5. Cho, C.Y., 1992. Feeding systems for rainbow trout and other salmonids with reference to current estimates 
of energy and protein requirements. Aquaculture 100: 107-123.
6. Cho, C.Y. & Bureau, D.P., 1998. Development of bioenergetic models and the Fish-PrFEQ software to 
estimate production, feeding ration and waste output in aquaculture. Aquat. Living Resour., 11, 199–210.
7. Cho, C.Y., Slinger, S.J. and Bayley, M.S., 1982. “Bioenergertics of salmonid fi shes: energy intake, expen-
diture and productivity”, Com. Biochem. Physiol. 73B, pp 25-41.
8. Chou, R., Wong, F.J., 1985. Preliminary observations on the growth and dietary performance of grouper, 
Epinephelus tauvina, in fl oating netcages and fed dry pelleted diet from autofeeders. Singap. J. Prim. Ind., 13, 
84– 91.
9. Folch, J., Lees, M., Sloane-Stanley, G.H., 1957. Simple method for isolation and purifi cation of total lipids 
from animal tissues. J. Biol. Chem., 226, 497– 507.
10. Fry, F.E.J., 1957. The aquatic respiration of fi sh. In: The Physiology of Fishes. (Brown, M.E. ed) Vol I. 
Academic Press, New York, pp. 1-63.
11. Glencross, B.D., 2008. A factorial growth and feed utilisation model for barramundi, Lates calcarifer 
based on Australian production conditions. Aquac. Nutr., 14, 360–373.
12. Jobbling, M., 1994. Fish Bioenergetics. Chapman & Hall. 2-6 Boundary Row, London SE1 8HN, UK, 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 55
310 p.
13. Lupatsch, I., Kissil, G.W., Sklan, D., Pfeffer, E., 1998. Energy and protein requirements for maintenance 
and growth in gilthead seabream (Sparus aurata L.). Aquac. Nutr. 4, 165–173.
14. Lupatsch, I., Kissil, G.Wm., Sklan, D., 2001a. Optimization of feeding regimes for European seabass 
Dicentrarchus labrax: a factorial approach. Aquaculture, 202, 289– 302.
15. Lupatsch, I., Kissil, G.Wm., Sklan, D., Pfeffer, E., 2001b. Effects of varying dietary protein and energy 
supply on growth, body composition and protein utilization in gilthead seabream (Sparus aurata L.). Aquac. 
Nutr., 7, 71– 80.
16. Lupatsch, 2003. Factorial Approach to Determining Energy and Protein Requirements of Gilthead 
seabream (Sparus aurata) for Optimal Effi ciency of Production. PhD thesis, Institut für Tierernährung, Rhein-
ische Friedrich-Wilhelms-Universität.
17. Lupatsch, I., Kissil, G.Wm., Sklan, D., 2003a. Comparison of energy and protein effi ciency among three 
fi sh species: gilthead seabream (Sparus aurata), European seabass (Dicentrarchus labrax) and white grouper 
(Epinephelus aeneus): energy expenditure for protein and lipid deposition. Aquaculture, 225, 175– 189.
18. Lupatsch, I., Kissil, G.Wm., Sklan, D., 2003b. Defi ning energy and protein requirements of gilthead 
seabream (Sparus aurata) to optimize feeds and feeding regimes. Isr. J. Aquac.-Bamidgeh, 55, 243– 257.
19. LupatschT. I., Kissil, G.W., 2005. Feed formulations based on energy and protein demands in white grou-
per (Epinephelus aeneus). Aquaculture 248, 83– 95.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 mo_hinh_sinh_nang_luong_hoc_cho_ca_mu_cham_den_epinephelus_m.pdf mo_hinh_sinh_nang_luong_hoc_cho_ca_mu_cham_den_epinephelus_m.pdf