2.1. Vai trũ, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán nhà nước Việt Nam. 14
2.1.1. Sự cần thiết phải thành lập Kiểm toán nhà nước tại Việt Nam.
2.1.2. Cơ sở pháp lý cho việc tổ chức, hoạt động của Kiểm toán nhà nước Việt Nam.
2.1.3. Vai trũ và vị trớ của Kiểm toỏn nhà nước Việt Nam
2.1.4. Chức năng của Kiểm toán nhà nước Việt Nam.
2.1.5. Nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán nhà nước Việt Nam
2.2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Kiểm toán nhà nước Việt Nam.
2.2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Kiểm toán nhà nước Việt Nam.
2.2.2. Hoạt động của Kiểm toán nhà nước Việt Nam.
2.2.3. Các giai đoạn phát triển của Kiểm toán nhà nước ở Việt Nam.
Phần 3: MỘT SỐ NHẬN XẫT VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Những tồn tại của Kiểm toán nhà nước Việt Nam.
3.2. Một số nhận xột và kiến nghị
KẾT LUẬN
42 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1660 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mô hình tổ chức Kiểm toán nhà nước ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
báo cáo quyết toán tài chính giảm đáng kể. Bước đầu KTNN đã khẳng định được uy tín và vị thế của mình, hoạt động kiểm toán của KTNN được Đảng, Nhà nước và Quốc hội quan tâm đánh giá cao và khuyến khích phát triển; nhiều nghành nhiều địa phương, doanh nghiệp chủ đầu tư có văn bản đề nghị KTNN kiểm toán giúp; nghành toà án cũng đã có lần đề nghị KTNN giám định giúp khía cạnh tài chính của một vụ án kinh tế. Chỉ tính riêng KTNN khu vực IV qua tám năm hoạt động đã thực hiện 74 cuộc kiểm toán lớn với hơn 2000 lượt đơn vị được kiểm toán, qua kiểm toán đã kiến nghị tăng thu, giảm chi, đưa vào quản lý NSNN hơn 3.150 tỷ đồng, phát hiện một vụ tham nhũng lớn đề nghị Bộ Công an điều tra…
Như vậy, sự ra đời của KTNN tại Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với tiến trình đổi mới đất nước và thông lệ quốc tế; nó là một tất yếu khách quan là sản phẩm trí tuệ của quá trình đổi mới, đáp ứng sự đòi hỏi cấp bách của thực tiễn, nhằm tăng cường kiểm soát của Nhà nước trong việc quản lý và sử dụng Ngân sách Nhà nước và tài sản quốc gia.
2.1.2. Cơ sở pháp lý cho việc tổ chức, hoạt động của Kiểm toán nhà nước Việt Nam.
KTNN Việt Nam được thành lập ngày 11/7/1994 theo Nghị định số 70/CP của Chính phủ.
Ngày 24/01/1995, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 61/TTg quy định về điều lệ tổ chức, hoạt động; cơ cấu tổ chức; nhiệm vụ và quyền hạn và những vấn đề liên quan khác của KTNN khi mới thành lập. Ngày 13/8/2003, Chính phủ ban hành Nghị định 93/2003/NĐ-CP, có bổ sung và sửa đổi, thay thế Nghị định 70/CP, ngày 11/7/1994, đã quy định rõ hơn về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của KTNN.
Nhằm hoàn thiện hơn nữa KTNN tại Việt Nam, nâng cao hiệu quả hoạt động của KTNN, đáp ứng những đòi hỏi mới, Luật KTNN đã được Quốc hội khoá XI nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 7, ngày 14/6/2005, và sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2006. Địa vị pháp lý của KTNN Việt Nam ngày càng được nâng cao và hoàn thiện.
2.1.3. Vai trò và vị trí của Kiểm toán nhà nước Việt Nam
Là một cơ quan nằm trong tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam, KTNN một công cụ mạnh của quản lý nhà nước, cung cấp phương tiện, căn cứ thực tiễn để Nhà nước thực hiện việc quản lý vĩ mô nền kinh tế nói chung và quản lý việc sử dụng Ngân sách nhà nước và nguồn tài sản quốc gia nói riêng.
Tuy cơ quan Kiểm toán nhà nước Việt Nam không có một tổ chức tiền thân, không có tiền lệ trong cơ cấu tổ chức nhà nước, nhưng nó vẫn có chức năng kiểm tra tài chính công cao nhất. Hoạt động của Kiểm toán nhà nước có tác động mạnh đến quá trình ra quyết định của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các nhà đầu tư, các nhà quản lý, các nhà tài trợ và các tổ chức, cá nhân khác quan tâm đến tình hình hoạt động của các đơn vị thuộc khu vực công.
2.1.4. Chức năng của Kiểm toán nhà nước Việt Nam.
Nghị định số 70/CP ngày 11/7/1994 và Nghị định số 93/2003/NĐ-CP, ngày 13/8/2003 của Chính phủ khẳng định: Kiểm toán nhà nước là cơ quan thuộc Chính Phủ, thực hiện chức năng kiểm toán, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của báo cáo quyết toán Ngân sách Nhà nước các cấp, báo cáo tài chính của các cơ quan, đơn vị, tổ chức có sử dụng Ngân sách Nhà nước; kiểm toán tính tuân thủ pháp luật, tính kinh tế trong việc quản lý, sử dụng Ngân sách Nhà nước và tài sản công theo kế hoạch kiểm toán hàng năm được Thủ tướng Chính phủ giao hoặc các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền yêu cầu. Cụ thể:
- Kiểm toán báo cáo tài chính, ngân sách của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trước khi trình ra Hội đồng nhân dân;
- Kiểm toán tổng quyết toán Ngân sách Nhà nước của Chính phủ trước khi trình ra Quốc hội;
- Kiểm toán báo cáo quyết toán của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan thuộc Quốc hội, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các đơn vị sự nghiệp công, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội có sự dụng kinh phí Nhà nước;
- Kiểm toán báo cáo quyết toán các chương trình, dự án, các công trình đầu tư của nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước... theo kế hoạch kiểm toán hàng năm được Chính phủ phê duyệt và các nhiệm vụ đột xuất do Thủ tướng Chính phủ giao hoặc do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.
Luật Kiểm toán nhà nước, được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, cũng kế thừa quan điểm trên. Điều 14, Luật Kiểm toán nhà nước, chức năng của Kiểm toán nhà nước, nêu rõ: “Kiểm toán nhà nước có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với các cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước”.
2.1.5. Nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán nhà nước Việt Nam
Theo quy định tại Nghị định số 30/2003/NĐ-CP ngày 01/4/2003, đồng thời căn cứ Nghị định số 93/2003/NĐ-CP ngày 13/8/2003 của Chính phủ, đ ã quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm tóan nhà nước ở Việt Nam .
Kể từ ngày 01/01/2006, Khi Luật Kiểm toán nhà nước có hiệu lực, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán nhà nước Việt Nam được quy định cụ thể trong Điều 15 và Điều 16 của Luật này, về cơ bản là sự kế thừa những tư tưởng được thể hiện trong các Nghị định nêu trên của Chính phủ, trong đó có những thay đổi phù hợp với điều kiện mới khi Kiểm toán nhà nước trực thuộc Quốc hội.
2.2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Kiểm toán nhà nước Việt Nam.
2.2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Kiểm toán nhà nước Việt Nam.
Kiểm toán nhà nước Việt Nam được thành lập và tổ chức theo Nghị định 70/CP ngày 11/7/1994 của Chính phủ, và điều lệ tổ chức hoạt động của Kiểm toán nhà nước. Nghị định số 93/2003/NĐ-CP ngày 23/8/2003 của Chính phủ ban hành đã tăng cường, hoàn thiện thêm một bước cơ cấu tổ chức của Kiểm toán nhà nước.
Kiểm toán nhà nước Việt Nam là cơ quan trực thuộc Chính phủ, là công cụ kiểm tra tài chính công cao nhất của Nhà nước.
Kiểm toán nhà nước có 16 tổ chức giúp Tổng kiểm toán thực hiện chức năng, nhiệm vụ, 11 kiểm toán nhà nước ở trung ương và 5 kiểm toán nhà nước khu vực, cùng với 3 tổ chức sự nghiệp, với 680 cán bộ, công chức, kiểm toán viên trong biên chế.
Mô hình tổ chức bộ máy Kiểm toán nhà nước Việt Nam (trước năm 2006) được thể hiện trong sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.1. Mô hình tổ chức Kiểm toán nhà nước Việt Nam (trước năm 2006)
CHÍNH PHỦ
TỔNG KIỂM TOÁN
Vụ
giám định, kiểm tra chất lượng
Kiểm toán
Tạp chí Kiểm toán
Trung tâm khoa học và bồi dưỡng cán bộ
Kiểm toán
đầu tư
dự án II
CÁC TỔ CHỨC SỰ NGHIỆP TRỰC THUỘC
Trung tâm tin học
Vụ pháp chế
Vụ
tổ chức cán bộ
Văn phòng
Kiểm toán các chương trình đặc biệt
KTNN
các khu vực
Kiểm toán các
tổ chức tài chính, ngân hàng
Kiểm toán DNNN
Kiểm toán đầu tư
dự án II
Kiểm toán NSNN II
Kiểm toán NSNN I
Tổng kiểm toán nhà nước Việt Nam do Thủ tướng bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về hoạt động của Kiểm toán nhà nước. Tổng kiểm toán có nhiệm vụ và quyền hạn:
Lãnh đạo, quyết định và chịu trách nhiệm về công việc của KTNN, được tham dự những phiên họp của Chính phủ về xem xét, phân bổ, quyết toán NSNN và về những vấn đề có liên quan đến hoạt động của KTNN;
Chịu trách nhiệm về chất lượng, nội dung các văn bản pháp quy do KTNN soạn thảo trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển Kiểm toán nhà nước sau khi được phê duyệt;
- Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể giải thể các tổ chức thuộc cơ cấu tổ chức của Kiểm toán Nhà nước; quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các tổ chức đó;
- Quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp cụ thể để tăng cường kỉ cương, kỉ luật hành chính trong hoạt động Kiểm toán Nhà nước, chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền của cán bộ, công chức, viên chức thuộc Kiểm toán Nhà nước;
- Thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn khác theo quy định của pháp luật;
Giúp việc cho Tổng kiểm toán có các Phó tổng kiểm toán. Phó tổng kiểm toán do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Tổng kiểm toán. Phó tổng kiểm toán được Tổng kiểm toán phân công phụ trách một số mặt công tác, chịu trách nhiệm trước Tổng kiểm toán về nhiệm vụ mình được phân công. Khi Tổng kiểm toán vắng mặt, một Phó tổng kiểm toán được Tổng kiểm toán uỷ nhiệm lãnh đạo công tác của Kiểm toán nhà nước.
Các bộ phận trong Kiểm toán nhà nước Việt Nam được thành lập, quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức theo các quyết định của Tổng kiểm toán. Theo quyết định của Tổng kiểm toán Nhà nước ngày 01/3/2004, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ phận trong Kiểm toán nhà nước Việt Nam được quy định như sau:
● Vụ Tổ chức cán bộ.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Tổ chức cán bộ hiện nay được quy định trong Quyết định số 98/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán; theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn của Vụ Tổ chức cán bộ là:
- Trong công tác tổ chức bộ máy, Vụ Tổ chức cán bộ chủ trì nghiên cứu xây dựng các đề án, chuẩn bị các văn bản qui định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Kiểm toán Nhà nước cùng các bộ phận trình Tổng Kiểm toán Nhà nước để trình cấp có thẩm quyền ban hành; đưa ra phương án thành lập, sáp nhập, giải thể các tổ chức trong cơ cấu; hướng dẫn các đơn vị thuộc và trực thuộc Kiểm toán Nhà nước thực hiện các qui định của Nhà nước và của Kiểm toán Nhà nước trong phạm vi lĩnh vực tổ chức cán bộ;
- Trong công tác biên chế và tiền lương, Vụ Tổ chức cán bộ quản lí thống nhất biên chế cán bộ, công chức trong cơ cấu; tổ chức thực hiện công tác báo cáo thống kê về biên chế, tiền lương theo qui định của Nhà nước; chuẩn bị các văn bản qui định về tiêu chuẩn nghiệp vụ của các loại chức danh lãnh đạo, công chức chuyên môn nghiệp Vụ Kiểm toán theo qui định về phân cấp quản lí của Nhà nước, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt ban hành;
- Trong công tác quản lí nhân sự, Vụ Tổ chức cán bộ xây dựng kế hoạch tuyển dụng, bố trí, sử dụng, thôi việc và giải quyết chính sách đối với nhân sự; xây dựng các qui định về quản lí và phân cấp trách nhiệm quản lí nhân sự phù hợp với qui định của Nhà nước; quản lí thống nhất hồ sơ nhân sự và các tài liệu có liên quan đến quá trình công tác và học tập của nhân sự;
- Trong công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, Vụ Tổ chức cán bộ xây dựng và tổng hợp quy hoạch đào tạo cán bộ, công chức trình Tổng Kiểm toán Nhà nước phê duyệt; phối hợp với Trung tâm Khoa học và bồi dưỡng cán bộ thực hiện nhiệm vụ; thực hiện công tác thống kê, tổng hợp về công tác đào tạo, bồi dưỡng; chủ trì lập và phân bổ kinh phí do Ngân sách Nhà nước cấp;
- Vụ Tổ chức cán bộ kiểm tra đối với công tác tổ chức cán bộ và đào tạo; phối hợp với Ban Bảo vệ chính trị nội bộ trong việc giúp Ban cán sự Đảng Kiểm toán Nhà nước xây dựng, quản lí về tiêu chuẩn chính trị đối với cán bộ, xây dựng các qui chế quản lí cán bộ, giữ gìn chính trị nội bộ;
- Vụ Tổ chức cán bộ thực hiện các nhiệm vụ về công tác thi đua, khen thưởng, kỷ luật, tuyên truyền, nghiên cứu khoa học và một số nhiệm vụ khác do Tổng Kiểm toán Nhà nước giao và uỷ quyền;
● Văn phòng Kiểm toán Nhà nước.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng Kiểm toán Nhà nước hiện nay được quy định trong Quyết định số 99/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán; theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn của Văn phòng là:
- Trong công tác tổng hợp, hành chính, Văn phòng xây dựng chương trình kế hoạch công tác, theo dõi tình hình thực hiện các mặt công tác của Kiểm toán Nhà nước; sắp xếp, bố trí chương trình làm việc của Lãnh đạo Kiểm toán Nhà nước Kiểm toán Nhà nước; tham mưu cho Lãnh đạo Kiểm toán Nhà nước trong việc quản lí, điều hành trong nội bộ Kiểm toán Nhà nước; hướng dẫn, kiểm tra, tổng hợp công tác của các đơn vị trong cơ cấu; tổ chức thực hiện công tác hành chính, văn thư, lưu trữ, thư viện của cơ quan;
- Trong công tác hợp tác quốc tế, Văn phòng nghiên cứu trình Tổng Kiểm toán Nhà nước các đề án hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế; quản lí thống nhất các vấn đề về hợp tác quốc tế của ngành; đầu mối tiếp xúc với khách nước ngoài đến làm việc với cơ quan, quản lí thống nhất mọi mặt đoàn ra, đoàn vào;
- Trong công tác thi đua, thông tin tuyên truyền, Văn phòng nghiên cứu trình Tổng Kiểm toán Nhà nước phương án, hình thức khen thưởng đối với cán bộ; quản lí thống nhất công tác thi đua, khen thưởng trong của Kiểm toán Nhà nước; nghiên cứu trình Tổng Kiểm toán Nhà nước về tổ chức và hoạt động đối với công tác thông tin tuyên truyền;
- Trong công tác tài chính - kế toán, quản trị, Văn phòng giúp Tổng Kiểm toán Nhà nước xây dựng, trình Chính phủ dự toán ngân sách hàng năm của Kiểm toán Nhà nước; quản lí tài chính, đầu tư xây dựng cơ bản, chế độ kế toán, sử dụng kinh phí được cấp trong toàn cơ cấu Kiểm toán Nhà nước; tổ chức quản lí tài sản và công tác thư ký, công đoàn trong bộ máy;
- Văn phòng còn thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng Kiểm toán Nhà nước giao.
● Vụ giám định và kiểm tra chất lượng kiểm toán.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Giám định và kiểm tra chất lượng kiểm toán hiện nay được quy định trong Quyết định số 100/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán:
- Trong công tác lập kế hoạch kiểm toán, quản lí hoạt động kiểm toán, tổng hợp và lập báo cáo kết quả kiểm toán, Vụ Giám định giúp Tổng KTNN tổng hợp và xây dựng kế hoạch kiểm toán hàng năm của KTNN trình Thủ tướng Chính phủ, từ đó tham mưu cho Tổng KTNN phân giao kế hoạch kiểm toán cho các đơn vị kiểm toán; quản lí, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm toán, từ đó đề ra phương án điều chỉnh việc thực hiện kế hoạch kiểm toán; làm đầu mối cung cấp kết quả kiểm toán cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và quản lí việc công khai, phát hành báo cáo kết quả kiểm toán; tổng hợp kết quả thực hiện kiến nghị kiểm toán, từ đó tham mưu trong việc sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách quản lí tài chính cho phù hợp;
- Trong công tác kiểm tra, kiểm soát chất lượng kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên, Vụ Giám định kiểm tra các đơn vị kiểm toán, đoàn kiểm toán, kiểm toán viên trong việc chấp hành quy chế tổ chức và hoạt động, việc quản lí hồ sơ, tài liệu kiểm toán; thẩm định báo cáo kết quả kiểm toán của các đơn vị kiểm toán và tham mưu cho Tổng Kiểm toán Nhà nước thành lập Hội đồng kiểm toán; đề nghị Tổng Kiểm toán Nhà nước quyết định tạm đình chỉ công tác đối với đoàn kiểm toán hoặc tổ kiểm toán hoặc kiểm toán viên nếu xét thấy trong hoạt động kiểm toán có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc có hành động cản trở công tác kiểm toán; thông qua kết quả giám định và kiểm tra chất lượng kiểm toán đề xuất xây dựng và hoàn thiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán viên, nâng cao chất lượng công tác kiểm toán; tham gia xây dựng và đề xuất ý kiến bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện quy trình, phương pháp chuyên môn nghiệp Vụ Kiểm toán trong từng lĩnh vực;
- Trong công tác thanh tra, kiểm tra các công tác của KTNN, Vụ Giám định kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao đối với các đơn vị, cá nhân thuộc Kiểm toán Nhà nước; tiếp dân và giải quyết khiếu nại tố cáo, đề xuất biện pháp xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật được làm rõ;
- Vụ Giám định còn thực hiện một số nhiệm vụ và quyền hạn khác do Tổng KTNN giao và uỷ quyền; định kỳ hoặc đột xuất báo cáo kết quả công tác cho Tổng KTNN.
● Vụ Pháp chế.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Pháp chế hiện nay được quy định trong Quyết định số 101/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán.
Vụ pháp chế đóng vai trò trong công tác xây dựng pháp luật; tổ chức thực hiện công tác rà soát hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động KTNN; trực tiếp hoặc phối hợp với các đơn vị có liên quan tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức của Kiểm toán Nhà nước; theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện pháp luật, tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật và đề xuất giải pháp tăng cường pháp chế trong hoạt động của Kiểm toán Nhà nước; Báo cáo kết quả công tác và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn khác do Tổng Kiểm toán Nhà nước giao và uỷ quyền.
● Kiểm toán Ngân sách Nhà nước I và II.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Kiểm toán Ngân sách Nhà nước hiện nay được quy định trong Quyết định số 102/QĐ-KTNN và 103/QĐ-KTNN ngày 01/3/2004 của Tổng Kiểm toán:
- Kiểm toán các báo cáo quyết toán ngân sách của các đối tượng kiểm toán nhà nước; xây dựng, tổ chức thực hiện, báo cáo thực hiện kế hoạch kiểm toán; tổng hợp kết quả kiểm toán thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách, trên cơ sơ đó phối hợp, góp ý kiến với nhau về kiểm toán báo cáo quyết toán Ngân sách Nhà nước;
- Có những quyền căn bản của cơ quan kiểm toán khi thực hiện nhiệm Vụ Kiểm toán;
- Thông qua hoạt động kiểm toán, kiến nghị với đơn vị được kiểm toán sửa chữa những sai phạm, chấn chỉnh và hoàn thiện công tác quản lí kinh tế, tài chính; đề nghị Tổng Kiểm toán Nhà nước kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và cơ quan nhà nước sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách và pháp luật cho phù hợp; chuyển hồ sơ sang cơ quan bảo vệ pháp luật xử lý những vi phạm;
- Chủ trì soạn thảo quy trình và phương pháp chuyên môn nghiệp Vụ Kiểm toán đối với lĩnh vực được phân công; tham mưu hoặc được uỷ quyền ký văn bản trả lời về vấn đề có liên quan đến công tác kiểm toán do đơn vị thực hiện;
● Kiểm toán Đầu tư - Dự án I và II.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Kiểm toán Đầu tư - Dự án hiện nay được quy định trong Quyết định số 104/QĐ-KTNN và 105/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán:
- Kiểm toán báo cáo tài chính và báo cáo quyết toán vốn đầu tư của các công trình dự án đầu tư xây dựng cơ bản; xây dựng, tổ chức thực hiện, báo cáo thực hiện kế hoạch kiểm toán; tổng hợp kết quả kiểm toán thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách, trên cơ sơ đó phối hợp, góp ý kiến với nhau về kiểm toán báo cáo quyết toán Ngân sách Nhà nước;
- Các Vụ này cũng có những nhiệm vụ và quyền hạn được quy định giống như các Vụ Kiểm toán Ngân sách Nhà nước;
● Kiểm toán Doanh nghiệp Nhà nước.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Kiểm toán Doanh nghiệp Nhà nước hiện nay được quy định trong Quyết định số 106/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán:
- Kiểm toán báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nhà nước, kiểm toán tính tuân thủ pháp luật, tính kinh tế trong quản lí, sử dụng vốn của Nhà nước và tài sản công của các đối tượng kiểm toán;
- Vụ này cũng có những nhiệm vụ và quyền hạn được quy định giống như các Vụ Kiểm toán Ngân sách Nhà nước.
● Kiểm toán Các tổ chức tài chính - ngân hàng.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Kiểm toán Các tổ chức tài chính - ngân hàng hiện nay được quy định trong Quyết định số 107/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán:
- Kiểm toán các báo cáo quyết toán ngân sách, báo cáo tài chính của các tổ chức tài chính - ngân hàng, kiểm toán tính tuân thủ pháp luật, tính kinh tế trong quản lí, sử dụng vốn của Nhà nước và tài sản công của các đối tượng kiểm toán;
- Vụ này cũng có những nhiệm vụ và quyền hạn được quy định giống như các Vụ Kiểm toán Ngân sách Nhà nước.
● Kiểm toán Chương trình đặc biệt.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Kiểm toán Chương trình đặc biệt hiện nay được quy định trong Quyết định số 108/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán:
- Kiểm toán các báo cáo quyết toán Ngân sách Nhà nước, báo cáo tài chính của các cơ quan đơn vị, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt, kiểm toán tính tuân thủ pháp luật, tính kinh tế trong quản lí, sử dụng vốn của Nhà nước và tài sản công của các đối tượng kiểm toán;
- Vụ này cũng có những nhiệm vụ và quyền hạn được quy định giống như các Vụ Kiểm toán Ngân sách Nhà nước.
● Các Kiểm toán Nhà nước khu vực I, II, III, IV và V.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Vụ Kiểm toán Nhà nước khu vực hiện nay được quy định trong các Quyết định số 109/QĐ-KTNN, 110/QĐ-KTNN, 111/QĐ-KTNN, 112/QĐ-KTNN và 113/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán:
- Tổ chức thực hiện nhiệm Vụ Kiểm toán đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên địa bàn khu vực theo sự phân công của Tổng KTNN về tất cả các mặt KTNN.
- Các Vụ này cũng có những nhiệm vụ và quyền hạn được quy định giống như các Vụ Kiểm toán Ngân sách Nhà nước.
Phạm vi địa bàn được phân công của các Vụ Kiểm toán Nhà nước khu vực được quy định tại Quyết định số 114/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán, theo đó phạm vi địa bàn của các Vụ Kiểm toán Nhà nước khu vực là:
- Kiểm toán Nhà nước khu vực I có trụ sở tại Thành phố Hà Nội, kiểm toán trên địa bàn các tỉnh, thành phố phía Bắc.
- Kiểm toán Nhà nước khu vực II có trụ sở tại Thành phố Vinh, kiểm toán trên địa bàn các tỉnh, thành phố miền Trung.
- Kiểm toán Nhà nước khu vực III có trụ sở tại Thành phố Đà Nẵng, kiểm toán trên địa bàn các tỉnh, thành phố thuộc duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
- Kiểm toán Nhà nước khu vực IV có trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh, kiểm toán trên địa bàn các tỉnh, thành phố thuộc Đông Nam Bộ.
- Kiểm toán Nhà nước khu vực V có trụ sở tại Thành phố Cần Thơ, kiểm toán trên địa bàn các tỉnh, thành phố thuộc Tây Nam Bộ.
Kiểm toán Nhà nước khu vực là đơn vị có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản và trụ sở riêng. Số lượng các Kiểm toán Nhà nước khu vực trong từng thời kì được xác định trên cơ sở yêu cầu nhiệm vụ, do Tổng Kiểm toán trình Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
● Trung tâm Khoa học và Bồi dưỡng cán bộ.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Trung tâm Khoa học và Bồi dưỡng cán bộ hiện nay được quy định trong Quyết định số 115/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán: Trong công tác quản lí và tổ chức công tác nghiên cứu khoa học; xây dựng kế hoạch và thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; thực hiện các thử nghiệm cần thiết cho công tác nghiên cứu khoa học, mở rộng cung cấp các dịch vụ tư vấn kế toán, kiểm toán; sử dụng kinh phí được cấp hợp lí, theo chế độ…
Trung tâm khoa học là đơn vị sự nghiệp có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng tại các ngân hàng và Kho bạc Nhà nước.
● Trung tâm Tin học.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Trung tâm Tin học hiện nay được quy định trong Quyết định số 116/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán:
- Quản lí thống nhất các hoạt động công nghệ thông tin và tuyên truyền của Kiểm toán Nhà nước; nghiên cứu triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lí và chuyên môn của Kiểm toán Nhà nước;
- Phối hợp với Trung tâm Khoa học tổ chức đào tạo và bồi dưỡng kiến thức tin học cần thiết; chỉ đạo chuyên môn tin học đối với các trạm công nghệ thông tin tại các đơn vị trực thuộc Kiểm toán Nhà nước; tổ chức, quản lí và tham gia thực hiện các đề án, dự án tin học trong Kiểm toán Nhà nước; nghiên cứu trợ giúp các đơn vị kiểm toán, triển khai các hoạt động dịch vụ công; ký hợp đồng các mặt trong lĩnh vực tin học.
● Tạp chí Kiểm toán.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tạp chí Kiểm toán hiện nay được quy định trong Quyết định số 117/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán:
- Thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về những lĩnh vực liên quan đến Kiểm toán Nhà nước; là diễn đàn khoa học, trao đổi kinh nghiệm thực tiễn, lý luận nghiệp vụ chuyên môn và các hoạt động khác liên quan đến Kiểm toán Nhà nước phục vụ nhiệm vụ chính trị của Kiểm toán Nhà nước;
- Tổ chức phát hành Tạp chí Kiểm toán theo quy định cùng các ấn phẩm tài liệu phục vụ công tác kiểm toán theo quy định;
- Phối hợp với các đơn vị thuộc Kiểm toán Nhà nước và các kênh thông tin liên lạc khác trong việc thực hiện nhiệm vụ; nghiên cứu các chuyên đề, các đề tài khoa học, đề án phục vụ công tác của Tạp chí và nhiệm vụ công tác của Kiểm toán Nhà nước; xây dựng, sử dụng đội ngũ cộng tác viên, thông tin viên trong và ngoài ngành trong thực hiện nhiệm vụ; thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực được giao; tham dự và tổ chức các cuộc họp, hội thảo, toạ đàm về chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ công tác thông tin, tuyên truyền.
Tạp chí Kiểm toán là đơn vị hoạt động sự nghiệp có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, được mở tài khoản tại các ngân hàng và Kho bạc Nhà nước.
Các Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành, Kiểm toán Nhà nước khu vực có Kiểm toán trưởng, Phó Kiểm toán trưởng, cơ cấu tổ chức không quá 5 phòng. Các Kiểm toán trưởng (Vụ trưởng) và các Phó Kiểm toán trưởng (Phó Vụ trưởng) do Tổng Kiểm toán bổ nhiệm, miễn nhiệm.
Ngoài các bộ phận trên trong Kiểm toán nhà nước, khi cần thiết (ví dụ khi cần thẩm định các báo cáo kiểm toán quan trọng, phức tạp, hoặc tái thẩm định các báo cáo kiểm toán bị khiếu nại), để tư vấn cho Tổng kiểm toán, Hội đồng kiểm toán có thể được thành lập. Việc thành lập, tổ chức, các thành viên và quy chế làm việc của Hội đồng kiểm toán do Tổng kiểm toán quyết định tuỳ theo yêu cầu của tình huống cụ thể. Khi kết thúc vụ việc, Tổng kiểm toán giải tán Hội đồng kiểm toán.
2.2.2. Hoạt động của Kiểm toán nhà nước Việt Nam.
Từ khi thành lập, Kiểm toán nhà nước Việt Nam đã nhanh chóng ổn định, kiện toàn tổ chức, tuyển dụng và đào tạo kiểm toán viên... thực hiện các nhiệm vụ kiểm toán hàng năm do Chính phủ giao hay thực hiện các nhiệm vụ kiểm toán khác theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ, Quốc hội.
Sau hơn mười năm hoạt động, Kiểm toán nhà nước Việt Nam đã đạt được những kết quả rất khả quan. Thông qua hoạt động kiểm toán của mình đối với những đơn vị có sử dụng ngân sách, tài sản quốc gia, Kiểm toán nhà nước đã góp phần tăng thu, tiết kiệm chi cho Ngân sách Nhà nước trên mười ngàn tỉ đồng.
Cụ thể, hoạt động của Kiểm toán nhà nước trên một số mặt chủ yếu: Kiểm toán Ngân sách Nhà nước; Kiểm toán doanh nghiệp nhà nước; Những hoạt động phát triển nghiệp vụ kiểm toán.
2.2.3. Các giai đoạn phát triển của Kiểm toán nhà nước ở Việt Nam.
2.2.3.1. Giai đoạn Kiểm toán nhà nước trực thuộc Chính phủ.
Ngày 11/7/1994, Kiểm toán nhà nước Việt Nam được thành lập theo Nghị định số 70/CP của Chính phủ. Với quyết định số 61/TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 24/01/1995, và Nghị định số 93/2003/NĐ-CP của Chính phủ, tổ chức và hoạt động của Kiểm toán nhà nước Việt Nam được kiện toàn và hoàn thiện.
Trong hơn mười năm qua, Kiểm toán nhà nước đã chủ động vươn lên và khẳng định sự cần thiết hình thành và phát triển Kiểm toán nhà nước ở Việt Nam; đáp ứng yêu cầu không thể thiếu được của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thông qua hoạt động thực tiễn, Kiểm toán nhà nước đã xứng đáng là công cụ bảo vệ sự minh bạch của nền tài chính quốc gia, góp phần quan trọng vào quá trình quản lý, điều hành và sử dụng Ngân sách Nhà nước; đặc biệt là vai trò phòng ngừa và răn đe những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng trong đời sống kinh tế - xã hội.
2.2.3.2. Kiểm toán nhà nước Việt Nam khi Luật Kiểm toán Nhà nước có hiệu lực.
● Sự cần thiết chuyển Kiểm toán nhà nước sang thuộc Quốc hội.
Điều 84, Hiến pháp năm 1992 nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nêu rõ: “Quốc hội là cơ quan quyết định những chính sách cơ bản của quốc gia trong đó có quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, quyết định dự toán Ngân sách Nhà nước và phân bổ Ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán Ngân sách Nhà nước”. Chức năng và nhiệm vụ của Quốc hội trong lĩnh vực Ngân sách Nhà nước đã được quy định rõ ràng và chi tiết trong Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, từ nhiều năm nay, các cơ quan của Quốc hội vẫn còn thiếu một lượng thông tin cần thiết từ cơ quan Kiểm toán nhà nước, một cơ quan có nghiệp vụ chuyên môn, có khả năng phân tích, đánh giá việc quản lý và sử dụng Ngân sách Nhà nước nói riêng và nguồn tài sản công nói chung, để có thể đưa ra những quyết định về Ngân sách Nhà nước. Do thiếu mối liên hệ chặt chẽ với Kiểm toán Nhà nước nên các Uỷ ban của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội thực hiện quyền hạn trong lĩnh vực tài chính, Ngân sách Nhà nước từ trước tới nay chỉ mang tính hình thức. Thực tế hoạt động của Quốc hội trong thời gian qua, số đại biểu Quốc hội có chuyên môn trong lĩnh vực tài chính là rất ít, đa số các đại biểu Quốc hội đều không có khả năng, hoặc không có điều kiện, thời gian để phân tích, đánh giá các tài liệu về tài chính và Ngân sách Nhà nước một cách toàn diện và đầy đủ.
Xét về địa vị pháp lý, KTNN cần được xác định trong hiến pháp trong Luật phù hợp với chức năng, vị trí của KTNN trong quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính quốc gia. Hoạt động phải dựa trên cơ sở nguyên tắc chỉ tuân thủ pháp luật, chuẩn mực, được đảm bảo trung thực, khách quan trong đánh giá và đưa ra ý kiến, không bị chi phối can thiệp hoặc cản trở từ bên ngoài. Và hơn nữa để đảm bảo sự độc lập khách quan trong thực thi nhiệm vụ thì lẽ tất nhiên người được giao nhiệm vụ kiểm toán không có mối liên hệ, có lợi ích kinh tế trực tiếp hoặc gián tiếp đến cá nhân, đơn vị được kiểm toán. Do đó việc KTNN trực thuộc Chính phủ là không phù hợp với tính độc lập và khách quan của KTNN. Theo kinh nghiệm nhiều nước có hoạt động kiểm toán hàng chục năm thậm chí cả trăm năm thì Quốc hội bầu ( hoặc bổ nhiệm), miễn nhiệm Tổng kiểm toán trưởng, kiểm toán trưởng có quyền bất khả xâm phạm trong một số trường hợp và có quyền tham dự trình bày ý kiến độc lập tại kỳ họp quốc hội, hội đồng nhân dân…
Vì những lý do như trên, việc tổ chức cơ quan Kiểm toán nhà nước làm nhiệm vụ chuyên môn giúp Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các Uỷ ban khác của Quốc hội trong việc thẩm tra, quyết định dự toán Ngân sách Nhà nước và phê chuẩn tổng quyết toán Ngân sách Nhà nước là hết sức cần thiết. Việc chuyển cơ quan Kiểm toán nhà nước sang thuộc Quốc hội là phù hợp với yêu cầu thực tế. KTNN sẽ có địa vị pháp lý xứng đáng với chức năng mang tính chất của Kiểm toán.
Ngày 14/6/2005, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XI nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Kiểm toán nhà nước. Điều 13, Địa vị pháp lý của Kiểm toán nhà nước, tại luật này quy định: “Kiểm toán nhà nước là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân thủ pháp luật”.
● Mô hình Kiểm toán nhà nước trực thuộc Quốc hội.
Theo Nghị quyết số 916/2005/NQ-UBTVQH, ngày 15/9/2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, quy định về cơ cấu tổ chức của Kiểm toán nhà nước, mô hình Kiểm toán nhà nước Việt Nam có thể được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.2. Mô hình tổ chức Kiểm toán nhà nước Việt Nam trực thuộc Quốc hội
QUỐC HỘI
TỔNG KIỂM TOÁN
Các đơn vị tham mưu thuộc bộ máy điều hành
Văn phòng Kiểm toán nhà nước
Vụ chế độ và kiểm soát chất lượng kiểm toán
Tạp chí kiểm toán
Trung tâm khoa học và bồi dưỡng cán bộ
Các đơn vị
Kiểm toán nhà nước chuyên ngành
Các đơn vị
Kiểm toán nhà nước khu vực
Các đơn vị sự nghiệp
Vụ tổng họp
Vụ
tổ chức cán
bộ
Vụ pháp chế
Trung tâm tin học
Vụ quan hệ quốc tế
Theo Nghị quyết trên, Kiểm toán nhà nước gồm 21 vụ và các đơn vị tương đương cấp vụ, trong đó có 6 đơn vị tham mưu thuộc bộ máy điều hành, 7 Kiểm toán nhà nước chuyên ngành, 5 Kiểm toán nhà nước khu vực và 3 đơn vị sự nghiệp. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các đơn vị do Tổng kiểm toán Nhà nước quy định cụ thể.
Việc chuyển cơ quan Kiểm toán nhà nước từ trực thuộc Chính phủ (cơ quan hành pháp, trực tiếp điều hành việc thu - chi Ngân sách, quản lý và sử dụng nguồn tài sản công) sang thuộc Quốc hội (cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước) đã đảm bảo tính độc lập tương đối của Kiểm toán nhà nước trong việc thực hiện chức năng là cơ quan kiểm tra tài chính công cao nhất. Đồng thời, được tổ chức là một cơ quan thuộc Quốc hội, những thông tin qua kiểm toán mà Kiểm toán nhà nước cung cấp sẽ giúp Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các Uỷ ban khác có liên quan nắm bắt chính xác và kịp thời hơn tình hình quản lý và sử dụng Ngân sách, từ đó đề ra được những quyết định, những chính sách đúng đắn trong công việc thẩm tra, quyết định dự toán Ngân sách và phê chuẩn tổng quyết toán Ngân sách Nhà nước.
● So sánh mô hình Kiểm toán nhà nước trực thuộc Chính phủ và mô hình Kiểm toán nhà nước trực thuộc Quốc hội.
- Địa vị pháp lý.
Ngay từ khi mới thành lập KTNN Việt Nam đã xây dựng theo mô hình KTNN trực thuộc cơ quan hành pháp(Chính phủ) đã đảm bảo cho việc điều hành nhanh nhạy quá trình thực hiện ngân sách và các hoạt động khác. Với địa vị pháp lý là một cơ quan thuộc Chính phủ, giúp Chính phủ kiểm tra xác nhận tính đúng đắn hợp pháp của các tài liệu và số liệu kế toán của cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do NSNN cấp. Tổng KTNN chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về toàn bộ công tác của KTNN. Với chức năng, nhiệm vụ của KTNN thì mô hình này không hoàn thiện được địa vị pháp lý của một cơ quan KTNN.
Luật KTNN được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 14/6/2005 tại kỳ họp thứ 7 và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2006 khẳng định: KTNN là cơ quan chyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây là mô hình KTNN trực thuộc Quốc hội là công cụ giúp Quốc hội có thêm căn cứ đánh giá thông tin, có thông tin tin cậy cho thảo luận, quyết định. Trong mô hình này địa vị pháp lý của KTNN xứng đáng với chức năng mang tính bản chất của kiểm toán. KTNN trợ giúp đắc lực cho nhà nước không chỉ ở kiểm tra thực hiện pháp luật mà còn cả trong việc soạn thảo và xây dựng các sắc luật liên quan đến ngân sách, tài chính kế toán…
-Tính độc lập của kiểm toán nhà nước.
Việc tổ chức cơ quan KTNN trực thuộc chính phủ nó đã hạn chế phần nào tính độc lập của KTNN khi thực hiện các chức năng kiểm toán, xây dựng cơ cấu tổ chức, việc soạn thảo và xây dựng sắc luật, thực hiện chức năng phản biện của Chính phủ… Hoạt động kiểm toán dưới sự quản lý của Chính phủ không đảm bảo được tính trung thực, độc lập và khách quan trong đánh giá đưa ra ý kiến, nó đã bị chi phối can thiệp từ bên ngoài. Lẽ tất nhiên, người được giao nhiệm vụ kiểm toán không được có mối liên hệ đến cá nhân, đơn vị được kiểm toán,nên việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng KTNN và có thể các thành viên trong ban lãnh đạo KTNN do Thủ tướng chính phủ quyết … là không đảm bảo được tính độc lập kểm toán.
Khi KTNN Việt Nam trực thuộc Quốc hội hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đã đảm bảo được tiếng nói của KTNN rõ ràng, đầy đủ, trung thực và khách quan. Trong mô hình này Quốc hội bầu, miễn nhiệm Tổng KTNN, quy định mức lương cho Tổng KTNN… từ đó KTNN có quyền tham dự, trình bày ý kiến độc lập tại kỳ họp quốc hội. Như vậy, mặc dù KTNN không có chức năng lập pháp hành pháp, nhưng thông qua các kiến nghị của mình với các cơ quan này, KTNN góp phầp hoàn thiện pháp luật và chấp hành pháp luật, đảm bảo thực hiện đồng bộ các giải pháp trong phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng lãng phí.
Trong trường hợp, KTNN Việt Nam được tổ chức độc lập với cả cơ quan hành pháp và cơ quan lập pháp, tuy nhiên vẫn làm nhiệm vụ hỗ trợ Quốc hội trong việc tăng cường năng lực giám sát tài chính- ngân sách Nhà nước. Mô hình này sẽ phù hợp hơn với một KTNN có một cơ cấu tổ chức hoạt động lâu dài và thật sự vững mạnh. Trong điều kiện nước ta hiện nay thì cơ quan KTNN mới hình thành được gần mười hai năm đang được ngày càng quan tâm và phát triển nên cũng chưa thật sự đủ tiềm và lực để có thể đi lên ngay theo mô hình này. Không trực thuộc Quốc hội thì KTNN sẽ khó khăn hơn trong việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình tuy nhiên tính khách quan và độc lập của KTNN được đảm bảo xứng đáng hơn với bản chất của kiểm toán.
Phần 3.
MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Những tồn tại của Kiểm toán nhà nước Việt Nam.
Kiểm toán nói chung và Kiểm toán nhà nước nói riêng còn là một lĩnh vực tương đối mới mẻ ở nước ta. Cơ quan Kiểm toán nhà nước mới ra đời được hơn một thập kỉ và còn non trẻ, tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng trong quá trình tổ chức, Kiểm toán nhà nước vẫn còn những tồn tại và hạn chế.
- Về tổ chức:
Thứ nhất, tổ chức của KTNN chưa đảm bảo tính độc lập tương đối cần thiết (điều kiện quan trọng để một cơ quan kiểm toán nhà nước hoạt động hiệu quả). Hiện nay, vai trò và địa vị pháp lý của KTNN chưa tương xứng để đảm bảo tính độc lập và khách quan trong hoạt động kiểm toán việc thu - chi Ngân sách Nhà nước, quản lý và sử dụng nguồn tài sản quốc gia. Chức năng của KTNN chỉ mới được giới hạn trong kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ, hiệu lực thực hiện các kết luận và kiến nghị kiểm toán vẫn còn hạn chế.
Thứ hai, trong tổ chức của KTNN nảy sinh tình trạng chồng chéo và không rõ thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ giữa Kiểm toán nhà nước trung ương và khu vực, giữa Vụ Kiểm toán Ngân sách Nhà nước và các bộ phận khác trong Kiểm toán nhà nước. Và đặc biệt là tình trạng chồng chéo, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ giữa KTNN với các cơ quan thanh tra, kiểm tra tài chính nhà nước. Cho đến thời điểm này ngoài KTNN còn bao gồm các cơ quan có chức năng quản lý tài chính như: Thanh tra của nghành Tài chính; Thanh tra Nhà nước; Viện Kiểm sát; Công an.
Các cơ quan này có nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra theo từng chuyên đề hoặc các vụ việc phát sinh trong quản lý kinh tế tài chính. Trong khi hạch toán kế toán, với tư cách là một công cụ quan trọng trong quản lý kinh tế, có chức năng tổ chức và cung cấp thông tin phục vụ công tác quản lý kinh tế, tài chính cho các cơ quan chức năng của Nhà nước. Để thông tin kế toán thực sự hữu ích cho các nhà quản lý ra qyết định đúng đắn thì các thông tin này phải thực sự tin cậy, trung thực và hợp pháp. Theo thông lệ quốc tế thì các thông tin này đều do kiểm toán chứng thực. Đối với nước ta trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế trong điều kiện vẫn giữ nguyên thể chế chính trị, do đó còn tồn tại các thiết chế về quản lý và bộ máy quản lý hành chính công của cơ chế cũ đồng thời lại phát sinh thêm các cơ quan hành chính mới của Nhà nước.
Thực tế hiện nay các cơ quan thanh tra, kiểm tra tài chính, tuy mỗi cơ quan đều có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng nội dung hoạt động kiểm tra tài chính lại có nhiều điểm trùng lặp, dẫn đến có những đơn vị trong một năm phải tiếp và làm việc với nhiều đoàn thanh tra, kiểm tra tài chính, nội dung làm việc giống nhau nhưng kết quả đưa ra lại có nhiều nội dung không thống nhất dẫn đến khó kết luận. Đây là một hạn chế mà dư luận xã hội đang rất quan tâm và mong muốn giải quyết để giảm bớt những khó khăn cho các đơn vị cơ sở.
Thứ ba, bộ máy kiểm toán nhà nước còn chưa hoàn chỉnh, đặc biệt các đơn vị chức năng ở trung ương và các kiểm toán nhà nước khu vực còn rất thiếu (chỉ có 5 kiểm toán nhà nước khu vực trong khi cả nước có đến 64 tỉnh, thành phố).
Thứ tư, quy mô và năng lực của đội ngũ kiểm toán viên còn chưa tương xứng với yêu cầu công việc, chức năng và nhiệm vụ được giao. Hiện Kiểm toán nhà nước chỉ có chưa đến 700 cán bộ, kiểm toán viên trên quy mô dân số trên 80 triệu người, còn quá khiêm tốn so với các nước trong khu vực và trên thế giới (Trung Quốc có trên 80.000 kiểm toán viên, Malaysia là 3.500 và Thái Lan là 2.300...). Các cán bộ, kiểm toán viên cũng chưa hoàn toàn được đào tạo đầy đủ về chuyên môn, ngoại ngữ, tin học, quản lý nhà nước...
Thứ năm, cơ sở trang thiết bị vật chất vẫn còn thiếu và chưa hiện đại.
Những khó khăn và tồn tại trên đây trong tổ chức của Kiểm toán nhà nước, nhất là những tồn tại phát sinh từ địa vị pháp lý của Kiểm toán nhà nước một phần đã được giải quyết trong Luật Kiểm toán Nhà nước, có hiệu lực vào ngày 01/01/2006.
- Về hoạt động:
Thứ nhất, kết quả hoạt động kiểm toán nói chung còn chưa ngang tầm với chức năng và nhiệm vụ của Kiểm toán nhà nước. Hiện tại, những kết quả đạt được thông qua hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước vẫn còn hạn chế và chưa hoàn toàn thuyết phục đối với các cơ quan, tổ chức được kiểm toán và quần chúng nhân dân.
Thứ hai, với cách thức kiểm toán “cổ điển”, một đoàn kiểm toán kiểm tra trong khoảng thời gian vài ba tháng đối với một tỉnh hoặc một bộ, kiểm toán theo kiểu kiểm tra từ xã lên huyện, tỉnh theo kiểu cuốn chiếu, kiểm tra chi tiết từng chứng từ... thì không thể thực hiện được nhiệm vụ chiến lược đề ra. Hàng năm, Kiểm toán nhà nước mới thực hiện kiểm toán được khoảng 1/3 số đơn vị sử dụng Ngân sách Nhà nước.
Thứ ba, các kiểm toán chuyên ngành và kiểm toán nhà nước các khu vực chưa có sự phối kết hợp tốt; các Vụ kiểm toán chuyên ngành cũng chưa thực sự phát huy vai trò tham mưu, chỉ đạo chuyên môn toàn ngành.
Thứ tư, trong quan điểm công tác, vẫn còn những biểu hiện lệch lạc như “nâng cao, đánh khẽ”, hoặc “cố lờ” đi những sai sót, khuyết điểm của đơn vị được kiểm toán để thu lợi cá nhân, tranh thủ tình cảm trong đội ngũ cán bộ, kiểm toán viên.
Thứ năm, còn có sự trùng lặp về quy mô công việc chồng chéo chức năng giữa Thanh tra nhà nước, Kiểm toán nhà nước và Ban thanh tra tài chính của Bộ Tài chính trong các lĩnh vực thanh tra và kiểm toán khu vực nhà nước. Kiểm toán nhà nước hiện báo cáo định kỳ cho Thủ tướng và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khi có yêu cầu; các báo cáo kiểm toán của Kiểm toán nhà nước hiện nay chưa được công bố công khai. Phạm vi công việc của Kiểm toán nhà nước chủ yếu tập trung vào các vấn đề tuân thủ và tài chính, chưa chú ý đầy đủ tới hiệu quả và hiệu suất của việc sử dụng các nguồn lực nhà nước do khả năng và nguồn lực có hạn.
Thứ sáu, mức độ hội nhập quốc tế của Kiểm toán nhà nước Việt Nam vẫn còn ở mức thấp, chúng ta có quan hệ với chưa nhiều các cơ quan kiểm toán tối cao trên thế giới, chưa tham gia tích cực và có hiệu quả vào các hoạt động của INTOSAI, ASSOSAI...
3.2. Một số nhận xét và kiến nghị
Kiểm toán nhà nước sau hơn mười năm thành lập và hoạt động, với phương châm: “Vừa xây dựng tổ chức bộ máy, vừa phát triển lực lượng kiểm toán viên, vừa đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, vừa triển khai kế hoạch kiểm toán hàng năm được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt”, đã chủ động vươn lên và khẳng định sự cần thiết hình thành và phát triển Kiểm toán nhà nước ở Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu không thể thiếu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Là một cơ quan non trẻ trong hệ thống các cơ quan nhà nước, Kiểm toán nhà nước Việt Nam đã không ngừng phát triển cả về quy mô và chất lượng hoạt động. Kết quả những hoạt động của Kiểm toán nhà nước trong những năm qua rất đáng ghi nhận, đã đóng góp được những thông tin, những kiến nghị hữu ích, thiết thực, trợ giúp đắc lực cho Quốc hội, Chính phủ trong việc quản lý và điều hành nền tài chính quốc gia. Đồng thời, khung pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Kiểm toán nhà nước cũng ngày càng được đồng bộ và hoàn thiện. Sự ra đời của Luật Kiểm toán Nhà nước “không chỉ là sự quan tâm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ mà còn là sự thừa nhận vai trò, vị trí của Kiểm toán nhà nước trong cơ cấu tổ chức của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Bên cạnh những thành tựu quan trọng trong hơn mười năm hình thành và phát triển, trong tổ chức và hoạt động của Kiểm toán nhà nước vẫn còn tồn tại những hạn chế. Trên con đường phát triển của Kiểm toán nhà nước, cần từng bước khắc phục những hạn chế đó để Kiểm toán nhà nước ngày càng hoàn thiện và thực hiện tốt những chức năng, nhiệm vụ của mình.
Thứ nhất, hoạt động của Kiểm toán nhà nước nên được quy định trong Hiến pháp và hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động của Kiểm toán nhà nước.
Với sự ra đời của Luật Kiểm toán Nhà nước, địa vị pháp lý của Kiểm toán nhà nước đã được nâng cao thêm một bước, hành lang pháp lý cho hoạt động của Kiểm toán nhà nước đã ngày càng được hoàn thiện, tuy nhiên, với vị trí là cơ quan kiểm tra tài chính công tối cao của quốc gia, cần bổ sung vào Hiến pháp một số điều, khoản, quy định rõ ràng địa vị pháp lý, đồng thời quy định một số nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản của cơ quan Kiểm toán nhà nước. Việc có một số điều, khoản quy định về Kiểm toán nhà nước là phù hợp với hiến chương của INTOSAI và thông lệ quốc tế. Ví dụ, Điều 91, Hiến pháp nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa có quy định:
“Quốc vụ viện lập một cơ quan Kiểm toán nhà nước để kiểm toán và kiểm tra các khoản thu, chi của các cơ quan thuộc Quốc vụ viện, chính quyền địa phương các cấp, các tổ chức tài chính và tiền tệ của Nhà nước, các cơ quan, xí nghiệp.
Dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng, cơ quan Kiểm toán nhà nước thực hiện nhiệm vụ kiểm toán và giám sát một cách độc lập theo các văn bản quy phạm pháp luật, không có sự can thiệp của các tổ chức hay cá nhân nào”.
Hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động của Kiểm toán nhà nước là điều hết sức cần thiết. Đó không chỉ là sự khẳng định vai trò, vị trí của Kiểm toán nhà nước trong hệ thống các cơ quan nhà nước mà nó cũng giúp tránh tình trạng chồng chéo giữa Kiểm toán nhà nước với các cơ quan nhà nước cũng có chức năng thanh tra, kiểm tra các đơn vị sử dụng nguồn Ngân sách Nhà nước như Thanh tra Nhà nước, Ban Thanh tra tài chính của Bộ Tài chính.
Thứ hai, mở rộng quy mô tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, kiểm toán viên nhà nước với chất lượng cao.
Hiện nay, quy mô của Kiểm toán nhà nước vẫn còn quá khiêm tốn, số lượng cán bộ, kiểm toán viên nhà nước vẫn còn rất ít (chưa đến 700 người, trên tổng dân số hơn 80 triệu; chỉ có 5 kiểm toán nhà nước khu vực, trên 64 tỉnh, thành trong cả nước). Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, đáp ứng yêu cầu của thực tế, trong thời gian tới, Kiểm toán nhà nước cần mở rộng quy mô, như tổ chức thêm các kiểm toán nhà nước khu vực, tuyển dụng và đào tạo thêm lực lượng cán bộ, kiểm toán viên nhà nước.
Song song với việc tăng quy mô, Kiểm toán nhà nước cũng cần có biện pháp xây dựng đội ngũ kiểm toán viên với chất lượng cao thông qua việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, sát hạch để nâng cao năng lực chuyên môn của các kiểm toán viên, gắn với việc giáo dục về tư tưởng, lập trường chính trị và xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ chất lượng kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên.
Thứ ba, thành lập Tiểu ban kiểm toán trợ giúp cho Hội đồng nhân dân.
Để nâng cao hiệu quả trong việc kiểm toán quyết toán ngân sách các địa phương của Kiểm toán nhà nước, tại Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nên thành lập Tiểu ban kiểm toán. Tiểu ban này sẽ chịu sự lãnh đạo, quản lý của Kiểm toán nhà nước và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố và giúp cho Hội đồng nhân dân trong việc xây dựng dự toán ngân sách, duyệt quyết toán ngân sách, đồng thời thực hiện kiểm toán với cấp hành chính trực thuộc tỉnh, thành phố. Đây sẽ là cơ quan sẽ trợ giúp hữu hiệu cho Hội đồng nhân dân và Kiểm toán nhà nước. Mô hình này đã được áp dụng thành công ở Trung Quốc. Kiểm toán nhà nước Trung Quốc tổ chức các Văn phòng Kiểm toán Nhà nước ở tất cả các tỉnh, ngoài ra, ở các huyện, thành phố trực thuộc tỉnh, đều có thành lập các Tỉểu ban kiểm toán. Với điều kiện cụ thể của nước ta, cùng với việc tổ chức các kiểm toán nhà nước khu vực, việc tổ chức Tiểu ban kiểm toán thuộc Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố là cần thiết.
Thứ tư, đầu tư trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm hiện đại hoá Kiểm toán nhà nước.
Với điều kiện hiện nay, hiện đại hoá công tác kiểm toán của Kiểm toán nhà nước là một yêu cầu cấp thiết. Việc đầu tư mua sắm trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại xứng tầm với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan kiểm toán tối cao là điều hết sức cần thiết; đặc biệt cần tin học hoá các hoạt động quản lý, nâng cấp hệ thống thông tin điện tử, xây dựng và đưa vào sử dụng các phần mềm trợ giúp công việc kiểm toán tại Kiểm toán nhà nước trung ương và Kiểm toán nhà nước các khu vực. Đây là một trong những tác nhân quan trọng giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm toán của Kiểm toán nhà nước.
Thứ năm, đẩy mạnh hội nhập và hợp tác quốc tế.
Trong thời đại toàn cầu hoá, việc hợp tác và hội nhập quốc tế là một tất yếu khách quan cho tất cả các lĩnh vực nói chung và kiểm toán nhà nước nói riêng. Chúng ta cần tiếp tục duy trì và củng cố các mối quan hệ hợp tác quốc tế đã có; mở rộng, đa dạng hoá và nâng cao hiệu quả các mối quan hệ, các hình thức hợp tác song phương, đa phương với các tổ chức INTOSAI, ASSOSAI và với các cơ quan kiểm toán nhà nước các nước trong khu vực và trên thế giới .
KẾT LUẬN
Tóm lại, là một cơ quan thành lập trong hệ thống các cơ quan nhà nước, Kiểm toán nhà nước Việt Nam đã phát triển nhanh chóng và khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong hệ thống tổ chức Nhà nước, địa vị pháp lý của đơn vị cũng ngày càng được củng cố và nâng cao. Nhưng đồng thời, địa vị pháp lý càng được nâng cao thì trách nhiệm của đơn vị cũng ngày càng lớn.
Để hoàn thành được những trách nhiệm đó và để phát triển, Kiểm toán nhà nước phải liên tục hoàn thiện, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng hoạt động của mình.
Đề án đã giới thiệu khái quát về Kiểm toán nhà nước, các loại hình tổ chức bộ máy Kiểm toán nhà nước trên thế giới. Sau đó là đi vào tìm hiểu Kiểm toán nhà nước của Việt Nam đặc biệt là về mô hình tổ chức qua đó đã đưa ra một vài ý kiến nhận xét giải pháp góp phần nâng cao vai trò Kiểm toán nhà nước ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường.
Trong điều kiện thực tế hiện nay, với vai trò của Kiểm toán nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính công cao nhất của đất nước, chúng ta có thể khẳng định, để có được thành công trong công cuộc cải cách hành chính và làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, cần có sự tham gia tích cực của Kiểm toán nhà nước ở mọi lúc, mọi nơi. Và việc nâng cao cải thiện cơ cấu tổ chức là vô cùng cần thiết.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo THS. Tạ Thu Trang đã giúp đỡ hướng dẫn em hoàn thành đề án.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lý thuyết Kiểm toán, NXB Tài chính, Hà Nội, 1/2005-ĐH Kinh tế Quốc dân.
2. Vai trò Kiểm toán Nhà nước trong công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia- Hà Nội- 2003. Hà Ngọc Sơn; PGS.TS. Nguy ễn Đình Hựu; TS. Mai Vinh
3. Luật Kiểm toán Nhà nước, năm 2005.
4. Luật Ngân sách Nhà nước, năm 2002.
5. Luật Tổ chức Quốc hội, năm 2001.
6. Các văn bản pháp luật về Kiểm toán. Của Bộ Tài chính.
7. Nghị định số 70/CP, ngày 11/7/1994 của Chính phủ.
8. Nghị định số 86/2002/NĐ-CP, ngày 01/11/2002 của Chính phủ.
9. Nghị định số 30/2003/NĐ-CP, ngày 01/4/2003 của Chính phủ.
10. Nghị định số 93/2003/NĐ-CP, ngày 13/8/2003 của Chính phủ.
11. Tạp chí Kiểm toán.
12. Một số tài liệu khác.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 74163.DOC