Nhược điểm của mô hình tố tụng
tranh tụng
Bên cạnh những ưu điểm cơ bản trên,
mô hình tố tụng tranh tụng cũng có một số
nhược điểm lớn:
Thứ nhất, người có nhiệm vụ xét xử
tham gia một cách thụ động vào phiên tòa và
là người không chuyên nghiệp, đó chính là
thành viên đoàn bồi thẩm. Điều này vô hình
chung gây ra phản tác dụng đối với chính ưu
điểm thứ nhất của mô hình này.
Thứ hai, việc quá đề cao sự đối tụng
giữa các lợi ích cá nhân làm cho mô hình
tranh tụng không phản ánh được hết tầm
quan trọng của việc bảo vệ lợi ích công cộng
trong các vụ án hình sự. Chính điều này dẫn
đến việc áp dụng tràn lan hình thức đàm
phán nhận tội dẫn tới khả năng bỏ lọt những
tội phạm nghiêm trọng có tác động lớn tới
trật tự xã hội hoặc việc xét xử chúng có tính
giáo dục cao.
Thứ ba, trong mô hình này, năng lực
của luật sư có vai trò quyết định tới phán
quyết của đoàn bồi thẩm. Điều này dẫn đến
tình trạng các luật sư giỏi sẽ được nhiều
người muốn thuê và gây nên bất công cho
những người nghèo không có điều kiện để
thuê luật sư giỏi, vốn nổi tiếng là có chi phí
cao, điều này gây nên sự bất công cho người
nghèo so với người giàu24.
Thứ tư, không kiểm soát được thời
gian xét xử. Trong mô hình tranh tụng, thẩm
phán và đoàn bồi thẩm không biết về vụ án
từ trước và cũng không kiểm soát một cách
toàn diện đối với thời gian xét xử. Người
quyết định thời gian xét xử bao lâu lại chính
là các bên đối tụng, những người thường
tận dụng thời gian tối đa tại phiên xét xử
để thuyết phục đoàn bồi thẩm nghe theo lập
luận của mình.
Thứ năm, việc quy định một khung
pháp lý chặt chẽ cho việc sử dụng chứng
cứ tại tòa nhằm đưa đến cho đoàn bồi thẩm
những chứng cứ “sạch” nhất để ra phán
quyết đúng đắn nhất. Song, điều này cũng có
thể gây nên phản tác dụng là những chứng
cứ tuy có giá trị sử dụng cao cho việc xác
định sự thật khách quan nhưng lại có thể bị
loại bỏ do vi phạm thủ tục, ví dụ lời khai
của các nhân chứng gián tiếp hay chứng
cứ thu thập được nhưng có thủ tục vi phạm
quyền cơ bản công dân. Việc không sử dụng
những chứng cứ như vậy có thể dẫn tới khó
khăn trong việc đấu tranh chống một số
loại tội phạm, đặc biệt là các tội phạm có
tổ chức vốn có cách thức hoạt động tinh vi,
phức tạp
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 307 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và những ưu, nhược điểm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Mô hình tố tụng hình sự tranh tụng là một trong số các mô hình tố
tụng hình sự phổ biến trên thế giới. Những quốc gia nổi bật theo
mô hình này là Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Singapore, Úc Mô
hình này cũng được đánh giá có nhiều ưu điểm riêng trong việc
giải quyết các vụ án hình sự, đặc biệt là bảo đảm sự công bằng,
minh bạch trong các hoạt động tố tụng hình sự. Ở nước ta, Nghị
quyết số 49 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp1 đã
đặt ra yêu cầu học hỏi kinh nghiệm, đưa những yếu tố tích cực
của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng vào áp dụng nhằm nâng
cao chất lượng xét xử nói riêng và chất lượng tố tụng hình sự nói
chung. Để thực hiện được điều đó, trước tiên, chúng ta cần hiểu
rõ và chi tiết về lịch sử, nội dung, cách thức vận hành, ưu điểm,
nhược điểm của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng.
1 Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Tô Văn Hoà*
Vũ Thị Linh**
* PGS. TS. Trường Đại học Luật Hà Nội.
** ThS. Trường Đại học Luật Hà Nội.
Abstract
Model of adversarial procedure is one of the most common criminal
procedure models in the world. The United Kingdom, the United
States, Singapore, Australia, etc. are the prominent countries
pursuing this model. This model is also considered to have several
particular advantages in dealing with the criminal cases, especially
the assuarance of equality, transparency in criminal proceedings.
In our country, the Resolution No. 49 of the Politburo on Strategy
on Judicial Reform has set out the requirements of lessons
learnt, taking the advantages of the criminal litigation model into
application to improve the quality of the trial in particular and the
quality of the criminal proceedings in general. For this purpose,
it is firstly requested to fully understand the history, contents,
operation method, advantages and disadvantages of the adversarial
procedure model.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: mô hình tố tụng hình sự,
tố tụng hình sự, tranh tụng, mô hình
tranh tụng, mô hình tố tụng tranh tụng,
mô hình thẩm cứu, mô hình thẩm vấn,
cải cách tư pháp.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 02/05/2018
Biên tập : 09/05/2018
Duyệt bài : 14/05/2018
Article Infomation:
Keywords: Model of criminal
procedure; criminal procedures;
litigation; model of adversarial
procedure; adversarial model;
inquisitorial model, inquisitorial
model, judicial reform.
Article History:
Received : 02 May 2018
Edited : 09 May 2018
Approved : 14 May 2018
MÔ HÌNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRANH TỤNG
VÀ NHỮNG ƯU, NHƯỢC ĐIỂM
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 10(362) T5/2018
Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đã đặt ra mục
tiêu “hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp,
bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai,
minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con
người”. Để đạt được mục tiêu này, nhiều
nhiệm vụ đã được đặt ra đối với công tác
cải cách tư pháp, trong đó có nhiệm vụ đổi
mới phiên tòa xét xử và nâng cao chất lượng
tranh tụng tại các phiên tòa xét xử. Đây được
coi là khâu đột phá của hoạt động tư pháp2.
Với chủ trương như vậy, có thể hiểu rằng,
việc đưa các yếu tố tranh tụng vào mô hình
tố tụng hình sự (TTHS) cũng sẽ là khâu đột
phá nhằm nâng cao chất lượng của TTHS
Việt Nam.
Khái niệm “Mô hình TTHS” được hiểu
là quá trình diễn ra các hoạt động TTHS được
xem xét theo hai khía cạnh: khía cạnh thứ
nhất liên quan đến việc phân chia quá trình
đó theo các giai đoạn như thế nào và mối
quan hệ giữa các giai đoạn đó; khía cạnh thứ
hai liên quan đến việc xác định những chủ
thể nào tham gia vào từng giai đoạn tố tụng,
nhiệm vụ quyền hạn, vai trò của từng chủ thể
và mối quan hệ giữa chúng trong từng giai
đoạn. Dựa vào sự khác biệt ở từng khía cạnh,
người ta phân chia các mô hình TTHS thành
các loại khác nhau. Hiện tại trên thế giới có
ba mô hình TTHS phổ biến là mô hình tố
tụng “tranh tụng” (adversarial procedure),
mô hình “thẩm vấn” (inquisitorial model),
hay còn gọi là mô hình “thẩm cứu”, và mô
hình “pha trộn” (mixed model)3. Trong đó,
các ưu điểm và yếu tố tích cực của mô hình
TTHS tranh tụng đã được giới học giả pháp
lý nghiên cứu nhiều và là nguồn cảm hứng
cho quá trình cải cách, nâng cao chất lượng
TTHS của nhiều quốc gia không có truyền
2 Mục 2.2, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
3 Theo Robert Strang, “More adversarial, but not completely adversarial”: Reformasi of the Indonesian criminal proce-
dure code (“Thêm tranh tụng, nhưng không hoàn toàn tranh tụng”: cải cách bộ luật TTHS Indonesia), 32 Fodham Int’l
L.R. 188, trang 129.
4 Richard Vogler, A world view of criminal justice (Cái nhìn về tư pháp hình sự trên toàn thế giới), Ashgate 2005, trang 19.
5 Vogler, Chú dẫn 4, trang 131.
6 Vogler, Chú dẫn 4, trang 146.
thống tố tụng tranh tụng trên thế giới.
1. Lịch sử hình thành, mục đích và đặc
điểm của mô hình tố tụng tranh tụng
1.1 Lịch sử hình thành của mô hình tố
tụng tranh tụng
Về mặt lịch sử, nếu như mô hình tố
tụng thẩm vấn đã tồn tại được hơn tám thế
kỷ4 thì mô hình tố tụng tranh tụng là mô hình
khá mới. Theo các nghiên cứu khoa học
pháp lý, sự kiện đem lại sự ra đời của yếu
tố tranh tụng đầu tiên trong mô hình TTHS
là sự ra đời của Đạo luật về phiên tòa xét
xử tội phản nghịch (Treason Trials Act) của
Vương quốc Anh năm 1696. Đạo luật này
lần đầu tiên trao một số quyền tố tụng, trong
đó quan trọng nhất là quyền được có luật
sư bào chữa cho bị cáo là các chính trị gia
cao cấp. Có thể nói, đây là kết quả của quá
trình đấu tranh giữa giai cấp tư sản đang lên
và Vương triều phong kiến Anh lúc bấy giờ.
Đến năm 1730, các quyền tố tụng này được
mở rộng ra tới đối tượng thứ dân trong xã
hội. Đặc trưng của các phiên xử lúc này là
có sự tham gia của các luật sư bào chữa cho
bị cáo (tuy còn ở mức độ khiêm tốn). Đến
cuối thế kỷ 18, dựa trên học thuyết của John
Locke, các luật sư đại diện cho tầng lớp thứ
dân của Anh lúc đó đã phát triển việc luật
sư tham gia phiên tòa xét xử và tranh luận
để tìm công lý thành một quan điểm lý luận
chính trị trong số những quan điểm mang
tính cách mạng thời kỳ bấy giờ5. Kể từ đó,
quyền được có luật sư bào chữa của bị cáo
ngày càng được tôn trọng, vai trò của luật sư
trong các phiên tòa xét xử ngày càng cao với
tư cách là người bảo vệ một cách tích cực
quyền lợi cho bị cáo. Đến khoảng giữa thế
kỷ 19, mô hình phiên tòa xét xử tranh tụng
đã bắt đầu được hình thành6.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Số 10(362) T5/2018
Trong nửa cuối thế kỷ 19, một loạt
các quyền tố tụng khác của bị cáo và luật
sư bào chữa tiếp tục được bổ sung vào mô
hình TTHS của Anh và các nước thuộc địa.
Năm 1848, pháp luật Vương quốc Anh quy
định người bị bắt hay tạm giữ có quyền im
lặng. Năm 1865, Đạo luật TTHS (Criminal
Procedure Act) được ban hành và trao cho
luật sư bào chữa quyền có lời tranh luận
cuối cùng tại phiên tòa xét xử mà trước đó
không cần phải trình bằng chứng bào chữa.
Đến cuối thế kỷ 19, Đạo luật về chứng cứ
của người bị tạm giam, tạm giữ (Prisoners’
Evidence Act) được ban hành và lần đầu tiên
trao cho bị cáo quyền, nhưng không phải là
nghĩa vụ, khai trong các phiên tòa xử mình.
Đến lúc này, mô hình TTHS tranh tụng đã
được định hình ở các quốc gia thuộc khối
thông luật (common law), song mới tập
trung vào giai đoạn xét xử tại tòa án. Giai
đoạn tiền xét xử khi đó vẫn mang nặng tính
điều tra, xét hỏi của mô hình thẩm vấn7.
Thập kỷ 60 của thế kỷ 20 là giai đoạn
chứng kiến sự phát triển mới trong mô hình
tranh tụng, cụ thể là tại Hoa Kỳ, lần này với
sự bùng nổ các quyền tố tụng của luật sư
trong giai đoạn tiền xét xử. Với hàng loạt án
lệ, Tòa án tối cao liên bang Hoa Kỳ đã trao
cho luật sư những quyền tố tụng quan trọng
ở cả cấp bang và liên bang như: quyền được
tiếp cận luật sư trong giai đoạn tiền xét xử
(vụ Powell v.Alabama năm 1932, vụ Brown
v. Mississippi năm 1936 và được mở rộng
phạm vi áp dụng tới cấp bang trong giai
đoạn giữa thế kỷ 20); quyền tiếp cận luật
sư của bị can, bị cáo nghèo (vụ Gideon v.
Wainwright năm 1963); quyền tiếp cận luật
sư của bị can, bị cáo nghèo trong giai đoạn
tiền truy tố (vụ Escobedo v. Illinois năm
1964); việc mở rộng áp dụng tới cấp bang
quy định không sử dụng một số bằng chứng
vi phạm thủ tục tố tụng (vụ Mapp v. Ohio
năm 1961); và nghĩa vụ của cảnh sát phải
thông báo cho bị can đầy đủ các quyền tố
tụng khi bắt họ (vụ Miranda v Arizona năm
7 Vogler, Chú dẫn 4, trang 147.
8 Vogler, Chú dẫn 4, trang 152-154.
1966). Cho đến thập kỷ 80 và 90 của thế kỷ
20, các quyền này được du nhập ngược trở
lại để áp dụng cho giai đoạn tiền xét xử ở
Vương quốc Anh. Có thể nói, kể từ đó, mô
hình tố tụng tranh tụng đã được hình thành
đầy đủ ở các nước thuộc hệ thống thông luật
với đầy đủ các đặc điểm như hiện nay8.
1.2 Mục đích và những đặc điểm cơ
bản của mô hình tố tụng tranh tụng
Bất kỳ một mô hình TTHS nào cũng
đều có mục đích là tìm ra được sự thật khách
quan của các vụ án hình sự. Mục đích này
không đồng nghĩa với việc phải tìm ra tội
phạm mà là tìm xem thực chất trong vụ án
hình sự đó sự việc xảy ra như thế nào. Có thể
sự thật là không có hành vi phạm tội nào đã
được thực hiện hoặc cũng có thể đã có hành
vi phạm tội. Đối với một vụ án hình sự cụ
thể thì mục đích của mô hình tố tụng hay nói
cách khác là mục đích của các chủ thể tham
gia là tìm xem sự thật có phải là bị cáo trong
vụ án đó đã phạm tội hay không.
Các học giả pháp lý từ các nước thuộc
hệ thống thông luật (common law) cho rằng,
đối với mô hình tố tụng tranh tụng, ngoài
mục đích tìm ra sự thật khách quan còn
một mục đích khác nữa đó là bảo đảm sự
công bằng (fairness) trong thủ tục tố tụng.
Thực chất, “công bằng” vừa có thể được coi
là một mục đích của mô hình tố tụng tranh
tụng vừa có thể được coi là cách thức mà
mô hình tố tụng này sử dụng để đạt được
mục đích cuối cùng là tìm ra sự thật khách
quan. Để so sánh, có thể thấy rằng, mô hình
tố tụng thẩm vấn cũng có mục đích tìm ra sự
thật khách quan của vụ án hình sự và cách
thức mà họ áp dụng để đạt được mục đích
đó là huy động các cơ quan tố tụng của nhà
nước đi tìm tất cả các bằng chứng có thể để
xác định sự thật khách quan; trong khi đó,
mô hình tranh tụng chủ trương tìm ra sự thật
khách quan bằng cách tạo ra quy trình thủ
tục thật công bằng để các chủ thể đi tìm sự
thật theo cách của mình, từ đó, một người
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 10(362) T5/2018
xét xử độc lập, tức là tòa án mà trực tiếp
là bồi thẩm đoàn, xác định ra sự thật chân
chính của vụ án. Chính vì vậy, mô hình tranh
tụng thường được coi là dựa trên thuyết “đối
kháng” (fight theory), còn mô hình tố tụng
thẩm vấn được coi là dựa trên thuyết “sự
thật” (truth theory). Nếu mô hình tranh tụng
dựa vào sự va chạm của hai phiên bản sự thật
(của luật sư và của công tố viên) để tìm sự
thật đích thực thì mô hình thẩm vấn dựa vào
trí tuệ của những người chuyên nghiệp, gồm
điều tra viên, công tố viên và thẩm phán để
tìm ra sự thật khách quan của vụ án9.
Chính quan niệm về mục đích và cách
thức đi đến mục đích của mô hình tố tụng
tranh tụng đã làm cho mô hình này có một
số đặc điểm cơ bản khác như sau:
Thứ nhất, tinh thần cốt lõi của mô hình
tố tụng tranh tụng luôn luôn là thủ tục công
bằng (fair procedures), trong đó bắt buộc
có các yếu tố như: xét xử bằng lời nói (oral
hearing), thẩm tra chéo nhân chứng (cross-
examination) và nguyên tắc đối tụng công
bằng (equality of arms).
Thứ hai, vì quá đề cao yếu tố công
bằng trong thủ tục tố tụng nên mô hình tranh
tụng dường như thiên về bảo vệ các lợi ích
cá nhân trong các vụ án hình sự. Trong mô
hình này, một hành vi phạm tội được xem là
xâm hại lợi ích cá nhân của các bên trong vụ
án hình sự và việc trừng trị tội phạm là để
bảo vệ lợi ích cá nhân của bên bị thiệt hại.
Trong khi đó, mô hình tố tụng thẩm vấn luôn
coi một tội phạm hình sự ngoài việc xâm hại
tới lợi ích cá nhân còn xâm hại tới lợi ích của
cộng đồng, vì thế trừng trị tội phạm ngoài
9 James Diehm, The introduction of jury trials and adversarial elements into the former Soviet Union and other inquisi-
torial countries (Áp dụng các phiên tòa xét xử bằng bồi thẩm đoàn và các yếu tố tranh tụng ở Liên bang Xô viết trước
đây và các nước có mô hình thẩm vấn khác), 11 J. Transnat’l L. & Pol’y 1 2001-2002, trang 6; Reter Leask (rapporteur),
The relative merits and present day suitability of the adversary (or accusatorial), inquisitorial, mediatorial and other
systems of trial for breaches of the criminal law and for the resolution of disputes (Những ưu điểm tương đối và sự phù
hợp của các hệ thống xét xử tranh tụng (hay buộc tội), thẩm vấn, hòa giải và các hệ thống khác áp dụng đối với vi phạm
pháp luật hình sự và giải quyết tranh chấp), 5 Int’l B. J. 87 1974, trang 89; Sharon Finegan, Pro se criminal trials and
the merging of inquisitorial and adversarial systems of justice (Các phiên tòa xét xử có bị can tự bào chữa và sự gặp
nhau giữa hệ thống tư pháp tranh tụng và thẩm vấn), 58 Cath. U. L. Rev. 445, trang 9.
10 Phil Fennell, Christopher Harding, Nico Jörg, Ber Swart, Criminal Justice in Europe: a comparative study (Tư pháp
hình sự ở Châu Âu: nghiên cứu so sánh), Clarendon Press, 1995, trang 52.
11 Mirjan Damaska, Evidentiary barriers to conviction and two models of criminal procedure: a comparative study (Rào
cản chứng cứ đối với việc kết tội và hai mô hình TTHS: nghiên cứu so sánh), 121 U. Pa. L. Rev. 506, trang 517.
việc bảo vệ lợi ích cá nhân của đương sự
trong vụ việc còn nhằm bảo vệ lợi ích cộng
đồng10. Chính vì quan điểm “lợi ích cá nhân”
mà mô hình tố tụng tranh tụng luôn coi việc
nhận tội của bị can, bị cáo là lý do để chấm
dứt giải quyết vụ việc. Việc cho phép đàm
phán nhận tội (plea bargaining) có thể được
coi là một ví dụ minh họa điển hình.
Thứ ba, trong mô hình tố tụng tranh
tụng không tồn tại một “hồ sơ hình sự” theo
nghĩa sử dụng trong mô hình tố tụng thẩm
vấn. Trong giai đoạn tố tụng trước xét xử,
bên buộc tội và bên bào chữa đều có quyền
lập hồ sơ bao gồm các chứng cứ bản thân
họ thu thập được về vụ việc. Với lợi thế tự
nhiên trong hoạt động điều tra của mình, hồ
sơ do bên buộc tội lập thường là hồ sơ chính
và có nhiều chứng cứ nhất. Mặc dù vậy, tất
cả các bộ hồ sơ này đều chỉ phục vụ mục
đích sử dụng cá nhân. Khi ra phiên tòa xét
xử, cả hai bộ hồ sơ đều không đương nhiên
có giá trị chứng cứ bởi vì chỉ có chứng cứ
nào được trình bày và thẩm tra tại tòa bằng
lời nói mới được sử dụng để định tội11.
Thứ tư, trong mô hình tố tụng tranh
tụng, quyền được im lặng của bị cáo được
tuyệt đối tôn trọng. Đối với mô hình này, bên
buộc tội là bên có trách nhiệm chứng minh
bị cáo có tội, còn bản thân bị cáo không có
trách nhiệm phải chứng minh mình vô tội.
Chính vì thế, lẽ đương nhiên là bị cáo không
phải trình bày hay thanh minh trước tòa.
Việc bị cáo không thanh minh cho bản thân
không phải là dấu hiệu của việc bị cáo có thể
đã phạm tội.
Thứ năm, mô hình tố tụng tranh tụng
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 10(362) T5/2018
có các quy định rất phức tạp và chặt chẽ về
các chứng cứ có thể được sử dụng tại phiên
tòa xét xử. Trong đó có các quy định như
không được sử dụng các chứng cứ gián tiếp
(hearsay), chứng cứ nhằm kích động bôi
xấu bị cáo, đương sự hay người làm chứng
(inflamatory), hoặc chứng cứ nhằm đánh
vào tình cảm của bồi thẩm đoàn (gruesome).
Các chứng cứ được thu thập mà vi phạm
thủ tục tố tụng, ví dụ khám nhà khi chưa có
lệnh, xét hỏi khi chưa thông báo quyền v.v..
cũng không được sử dụng theo thuyết “cây
của quả độc” (fruit of poison tree)12. Sở dĩ
mô hình tranh tụng có quy định chặt chẽ về
chứng cứ như vậy là bởi vì người thực tế đưa
ra phán quyết định tội, tức là đoàn bồi thẩm,
là những người không có kiến thức pháp luật
và cũng không có nghiệp vụ xét xử, trong
khi đó luật sư bào chữa và công tố viên là
những người chuyên nghiệp luôn tìm cách
chi phối đoàn bồi thẩm. Các quy định chặt
chẽ về chứng cứ sẽ giúp cung cấp cho thành
viên đoàn bồi thẩm những chứng cứ “sạch”
để có thể căn cứ vào đó đưa ra phán quyết
định tội một cách chính xác.
2. Quy trình tố tụng trong mô hình tố
tụng tranh tụng
Thông thường, các nghiên cứu chia
quy trình tố tụng trong mô hình tố tụng tranh
tụng thành hai giai đoạn: giai đoạn tiền xét
xử và giai đoạn xét xử. Khác với mô hình
thẩm vấn, hai giai đoạn này của mô hình
tranh tụng khá tách biệt với nhau do không
có sự hiện diện của một hồ sơ hình sự thống
nhất làm cầu nối giữa hai giai đoạn.
1.1. Giai đoạn tiền xét xử
Giai đoạn tiền xét xử trong mô hình tố
tụng tranh tụng thường bắt đầu ngay sau khi
khởi tố bị can hay bắt tạm giam, tạm giữ cho
12 Damaska, Chú dẫn 11, trang 513, 515; Ennio Amodio và Eugenio Selvaggi, An accusatorial system in a civil law coun-
try: the 1988 Italian code of criminal procedure (Hệ thống buộc tội ở các nước dân luật: Bộ luật TTHS 1988 của Ý), 62
Temp. L. Rev. 1211 1989, trang 1223.
13 Nói chung trong các mô hình tố tụng tranh tụng, điển hình là mô hình của Anh và Mỹ, chỉ có luật sư đã được đăng ký
hành nghề mới có quyền tham gia quá trình tố tụng và đại diện cho bị can trước tòa án.
14 Finegan, Chú dẫn 9, trang 10.
15 Fennell, Chú dẫn 10, trang 243.
16 Fennell, Chú dẫn 10, trang 47, 48.
đến trước khi vụ việc được đưa ra xét xử tại
tòa án. Các chủ thể tham gia giai đoạn này
bao gồm: tòa án, cơ quan điều tra, cơ quan
công tố và luật sư bào chữa13.
Cơ quan điều tra thường là cơ quan
đầu tiên biết về việc phạm tội, tiến hành điều
tra ban đầu và ra quyết định khởi tố. Một khi
bị khởi tố thì bị can đã có quyền mời luật sư
và luật sư đã có thể tham gia ngay vào quá
trình tố tụng. Khi bắt bị can, cơ quan điều tra
cũng phải thông báo cho bị can toàn bộ các
quyền tố tụng của họ. Việc thẩm tra bởi cơ
quan điều tra cũng không thể tiến hành đối
với bị can nếu như không có sự hiện diện
của luật sư14. Như vậy là sự tham gia của
luật sư vào quá trình tố tụng trong mô hình
tranh tụng là khá sớm, có thể nói muộn nhất
là cùng lúc với công tố viên15.
Điểm đặc trưng nhất của giai đoạn tiền
xét xử là cả bên bào chữa và bên công tố đều
có quyền điều tra như nhau. Cả hai bên đều
tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ,
phỏng vấn nhân chứng và tự lập hồ sơ hình
sự riêng phục vụ mục đích của mình và theo
cách mình lựa chọn. Ngoại trừ các quy định
liên quan tới việc bảo vệ quyền công dân,
pháp luật về quy trình điều tra trong mô hình
tố tụng tranh tụng khá lỏng lẻo. Các bên đều
có thể tiến hành thu thập chứng cứ theo cách
thức riêng của mình16.
Trong quá trình điều tra và cũng là
trong suốt quá trình tố tụng nói chung, luật
sư bào chữa và công tố viên đại diện cho
những lợi ích khác nhau và có mục tiêu khác
nhau. Bên bào chữa bảo vệ lợi ích của bị can
và chỉ chuyên tìm những chứng cứ nhằm gỡ
tội cho bị can; bên công tố có nhiệm vụ buộc
tội nên chỉ chú trọng tới các bằng chứng buộc
tội. Bên công tố không có nghĩa vụ phải xem
xét các bằng chứng gỡ tội; cũng như bên luật
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21Số 10(362) T5/2018
sư có quyền lờ đi các bằng chứng buộc tội
thân chủ của mình. Nhưng trong mô hình
tranh tụng, công tố và luật sư cũng thường
có nghĩa vụ trao đổi thông tin về chứng cứ
của mình cho nhau. Đặc biệt là do có lợi thế
nghề nghiệp hơn trong việc thu thập chứng
cứ, công tố viên có nghĩa vụ phải trao đổi
thông tin và hồ sơ hình sự của mình cho luật
sư bào chữa17.
Trong quá trình tiền xét xử, bên bào
chữa và bên công tố cũng có thể đàm phán
nhận tội. Đây là thủ tục cho phép công tố
viên đàm phán với bên bào chữa để bị can
nhận một tội nào đó và qua đó đình chỉ thủ
tục tố tụng đối với vụ án hình sự đang diễn
ra. Thủ tục này được coi là có lợi cho cả hai
bên trong quá trình tố tụng. Bên bào chữa
thường sẽ nhận một tội nhẹ hơn tội đang bị
cáo buộc và do đó không phải chịu rủi ro bị
kết án tội đó; còn bên công tố thì có thể đóng
lại một vụ việc phức tạp mà chưa chắc mình
có thể thắng tại tòa án. Sau khi đàm phán,
các bên sẽ cùng nhau tới tòa án để công nhận
kết quả đàm phán.
Có thể thấy, nhân vật chính trong quá
trình tố tụng tiền xét xử của mô hình tố tụng
tranh tụng là công tố viên và luật sư bào
chữa, một người đại diện cho nhà nước với
mục đích buộc tội và người kia đại diện cho
lợi ích của bị can và có mục đích gỡ tội.
Sự tham gia của thẩm phán, hay chính
xác hơn là tòa án, trong quá trình tố tụng tiền
xét xử là không nổi bật; mỗi khi tham gia,
vai trò của tòa án thường là bảo vệ quyền cơ
bản của công dân hoặc là để bảo đảm quy
trình tố tụng diễn ra công bằng và trôi chảy.
Ví dụ, trong vòng 48 tiếng kể từ khi bị bắt,
bị cáo phải được đưa ra trước tòa án để xác
nhận lại lệnh bắt; nếu luật sư không được
công tố viên chia sẻ hồ sơ hình sự thì luật sư
có quyền kiện ra tòa án; trong trường hợp có
những nhân chứng quan trọng không chịu
hợp tác thì các bên cũng có thể yêu cầu tòa
17 Fennell, Chú dẫn 10, trang 53.
18 Fennell, Chú dẫn 10, trang 52; Leonard Cavise, Essay: the transition from the inquisitorial to the accusatorial system of
trial procedure: why some Latin American lawyers hesitate (Tiểu luận: chuyển đổi thủ tục xét xử từ hệ thống thẩm vấn
sang tranh tụng: Tại sao luật sư một số nước Mỹ Latinh còn e ngại), 53 Wayne L. Rev. 785, trang 5.
án triệu tập nhân chứng đó tới để lấy lời khai
trước một Đại bồi thẩm đoàn (Grand jury).
1.2. Giai đoạn xét xử
Trong giai đoạn xét xử, tòa án không
đọc hay nghiên cứu trước hồ sơ của vụ án do
các bên lập. Trước khi diễn ra phiên tòa xét
xử, tất cả những người ngồi xét xử, bao gồm
cả thẩm phán và bồi thẩm đoàn, đều chưa
biết về nội dung vụ án. Các bên sẽ phải trình
bày bằng lời nói chứng cứ của mình và trực
tiếp kiểm chứng chúng trước tòa18. Như vậy,
trong mô hình tố tụng tranh tụng, giai đoạn
xét xử gần như tách biệt hoàn toàn khỏi giai
đoạn tiền xét xử.
Các chủ thể chính tham gia vào giai
đoạn xét xử gồm có tòa án (bao gồm thẩm
phán và/hoặc đoàn bồi thẩm), cơ quan công
tố và luật sư. Cơ quan điều tra có thể tham
dự vào phiên tòa xét xử; song khi đó họ sẽ
tham gia với tư cách là nhân chứng và phải
tuyên thệ trước lời khai của mình.
Trong mô hình tranh tụng điển hình,
thẩm phán cũng không phải là người quyết
định về sự thật khách quan của vụ việc, tức
là quyết định có tội hay không có tội, mà chỉ
quyết định về hình phạt sau khi bị cáo đã bị
kết tội. Vì vậy, trong phiên tòa xét xử, thẩm
phán im lặng và hầu như không hỏi những
câu hỏi liên quan tới nội dung vụ án hay xét
hỏi nhân chứng. Thẩm phán chỉ can thiệp
vào việc xử án trong các trường hợp sau:
- Khi thẩm phán cần phải hướng dẫn
đoàn bồi thẩm về một vấn đề thủ tục, ví dụ
như bỏ qua một chứng cứ không hợp lệ hay
yêu cầu đoàn bồi thẩm vào nghị án v.v..
- Khi phải quyết định về một vấn đề
liên quan tới tính hợp lệ của chứng cứ, ví dụ
như nếu một bên phản đối lời xét hỏi đối với
nhân chứng, cho rằng lời xét hỏi đó đã vi
phạm các quy định về tính hợp lệ của bằng
chứng (evidenciary rules).
- Quyết định cho phép hay không cho
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 10(362) T5/2018
phép tố quyền của một bên nào đó, ví dụ một
bên yêu cầu tòa án triệu tập một nhân chứng
nào đó phát sinh tại tòa.
- Quyết định các vấn đề pháp lý khác.
Như vậy có thể thấy rằng, trong mô
hình tranh tụng, thẩm phán là người nắm
giữ luật lệ, bảo đảm môi trường công bằng
cho cạnh tranh giữa bên buộc tội và bên bào
chữa, bảo đảm cho “cuộc đấu” giữa hai bên
được diễn ra một cách công bằng19.
Trong mô hình tranh tụng, phiên tòa
xét xử hình sự luôn có sự hiện diện của đoàn
bồi thẩm bên cạnh thẩm phán chủ tọa. Đoàn
bồi thẩm bao gồm mười hai thành viên là
những người chọn trong cộng đồng và
không bắt buộc phải hiểu biết về pháp luật.
Thông thường, họ là những người không có
kiến thức pháp luật. Tại phiên xét xử, chính
đoàn bồi thẩm là người quyết định bị cáo có
tội hay không, tức là quyết định về sự thật
khách quan của vụ việc; còn thẩm phán là
người quyết định về hình phạt nếu bị cáo bị
tuyên có tội.
Các thành viên đoàn bồi thẩm cũng
không nghiên cứu hồ sơ vụ án từ trước.
Phiên tòa xét xử là lần đầu tiên họ được nghe
về vụ án và những gì họ nghe là căn cứ duy
nhất để họ ra quyết định về việc bị cáo có tội
hay không20. Chính vì vậy, bồi thẩm đoàn
thường được ví như những tờ giấy trắng mà
nội dung viết trên đó thế nào hoàn toàn do
bên buộc tội và bên gỡ tội quyết định.
Cho dù so với giai đoạn tiền xét xử,
vai trò của tòa án, thông qua thẩm phán, đã
trở nên tích cực hơn trong giai đoạn xét xử,
song diễn viên chính của giai đoạn xét xử
một lần nữa vẫn là các bên đối tụng của vụ
án: công tố và bào chữa.
Một phiên tòa xét xử thường bắt đầu
bằng thủ tục giới thiệu ngắn gọn do thư ký
tòa thực hiện. Sau đó, hai bên đối tụng có
lời mở đầu với nội dung là ý kiến của mình
19 Diehm, Chú dẫn 9, trang 6; Fennell, Chú dẫn 10, trang 51, 52; Finegan, Chú dẫn 9, trang 11.
20 Finegan, Chú dẫn 9, trang 10, 11; Damaska, Chú dẫn 11, trang 536.
21 Strang, Chú dẫn 3, trang 15; Finegan, Chú dẫn 9, trang 11, 13; Diehm, Chú dẫn 9, trang 6.
22 Finegan, Chú dẫn 9, trang 12; Damaska, Chú dẫn 11, trang 527, 528.
về vụ việc. Công tố viên mở đầu trước bằng
việc trình bày ngắn gọn ý định của mình là
sẽ chứng minh bị cáo phạm tội còn người
bào chữa sẽ nói rằng thân chủ mình không
phạm tội. Sau thủ tục này, các bên sẽ lần
lượt gọi từng nhân chứng, bắt đầu bằng bên
buộc tội và sau đó là bên bào chữa. Mỗi
nhân chứng phải tuyên thệ mình chỉ nói sự
thật và nếu nói sai sẽ phải chịu trách nhiệm
hình sự. Việc xét hỏi nhân chứng bắt đầu bởi
người gọi nhân chứng, sau đó là thủ tục xét
hỏi chéo (cross-examination), tức là phía đối
tụng sẽ xét hỏi nhân chứng đó. Sau phần xét
hỏi là phần tranh luận của các bên, bắt đầu
từ bên công tố. Lúc này, các bên sẽ hướng về
đoàn bồi thẩm và đưa ra lập luận cho quan
điểm của mình.
Trong một phiên tòa, công tố viên và
người bào chữa, mà thường là luật sư, là
những người trình diễn chính và quyết định
diễn biến tại phiên tòa. Chính công tố viên
và người bào chữa chứ không phải thẩm
phán là người quyết định những vấn đề như:
nhân chứng cần triệu tập ra tòa, kể cả giám
định viên; trình tự xét hỏi nhân chứng; vấn
đề cần hỏi nhân chứng; xác định vấn đề cần
làm rõ của vụ án với tòa án; đưa ra tranh
luận của mình về vụ án21.
Trong mô hình tranh tụng, vai trò của
bị cáo là hết sức mờ nhạt. Quyền im lặng
của bị cáo được tuyệt đối tôn trọng, vì vậy,
bị cáo thường không phát biểu gì trong suốt
phiên xử, kể cả nói lời cuối cùng trước khi
đoàn bồi thẩm nghị án. Khả năng duy nhất
để bị cáo trình bày tại phiên tòa là với tư
cách nhân chứng tự nguyện, lúc đó bị cáo sẽ
phải tuyên thệ là nói sự thật và có thể phải
chịu trách nhiệm hình sự nếu bị phát hiện
nói dối22.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 10(362) T5/2018
3. Ưu điểm và nhược điểm của mô hình tố
tụng tranh tụng
3.1 Ưu điểm của mô hình tố tụng
tranh tụng
Mô hình tố tụng tranh tụng có hai ưu
điểm lớn sau đây:
Thứ nhất, mô hình tranh tụng có một
quy trình tố tụng, đặc biệt là trong giai đoạn
xét xử, thể hiện tính công bằng cao. Điều
này được thể hiện qua vai trò bình đẳng giữa
bên buộc tội và bên gỡ tội, giữa công tố viên
và luật sư. Cả hai chủ thể này đều có quyền
và nghĩa vụ như nhau trong suốt quá trình tố
tụng. Thông qua đối tụng giữa công tố viên
và luật sư mà tòa án, gồm đoàn bồi thẩm và
thẩm phán chủ tọa, phán quyết về sự thật
khách quan và định hình phạt.
Sự công bằng mà mô hình tranh tụng
mang lại, ngoài tính ưu việt tự nhiên của nó,
còn có thể đem lại những tác động tích cực
tới chất lượng của quá trình tố tụng. Luật sư
có thể tham gia đầy đủ vào quá trình tố tụng
nên tòa án có thêm được một nguồn thông
tin giá trị để khám phá sự thật khách quan
của vụ án. Thay vì chỉ xem xét các chứng cứ
có trong hồ sơ hình sự của mô hình thẩm vấn
thì đoàn bồi thẩm của mô hình tranh tụng
được tiếp cận chứng cứ của cả bên buộc tội
và bên gỡ tội. Sự va đập hai phiên bản sự
thật, mặc dù qua lăng kính chủ quan của bên
công tố và bên bào chữa cũng có thể giúp
tìm ra sự thật khách quan một cách chính
xác hơn. Chất lượng tố tụng vì thế cũng có
thể được nâng cao hơn.
Trong một mô hình tố tụng tranh tụng
có tính công bằng cao, người bào chữa và bị
cáo cũng dễ cảm thấy rằng mình đã có một
cơ hội tốt và công bằng để đi tìm công lý.
Vì vậy, họ sẽ ít có xu hướng kháng cáo hơn.
Thứ hai, với sự công bằng của quy
trình tố tụng, mô hình tranh tụng thể hiện ở
mức độ cao hơn sự tôn trọng quyền cơ bản
của công dân. Vai trò của luật sư giúp giảm
đi sự lạm quyền của các cơ quan tiến hành tố
tụng. Điều này hết sức quan trọng bởi vì quá
23 Finegan, Chú dẫn 9, trang 12.
24 Xem Doran và Jackson, Chú dẫn 26, trang 175.
trình TTHS là một quá trình hết sức nhạy
cảm mà ở trong đó quyền cơ bản của công
dân rất dễ bị vi phạm. Cũng chính vì vậy,
giới nghiên cứu thường có nhận định chung
là ở trong mô hình tranh tụng, quyền được
suy đoán vô tội của người dân được tôn
trọng hơn so với các mô hình TTHS khác23.
3.2 Nhược điểm của mô hình tố tụng
tranh tụng
Bên cạnh những ưu điểm cơ bản trên,
mô hình tố tụng tranh tụng cũng có một số
nhược điểm lớn:
Thứ nhất, người có nhiệm vụ xét xử
tham gia một cách thụ động vào phiên tòa và
là người không chuyên nghiệp, đó chính là
thành viên đoàn bồi thẩm. Điều này vô hình
chung gây ra phản tác dụng đối với chính ưu
điểm thứ nhất của mô hình này.
Thứ hai, việc quá đề cao sự đối tụng
giữa các lợi ích cá nhân làm cho mô hình
tranh tụng không phản ánh được hết tầm
quan trọng của việc bảo vệ lợi ích công cộng
trong các vụ án hình sự. Chính điều này dẫn
đến việc áp dụng tràn lan hình thức đàm
phán nhận tội dẫn tới khả năng bỏ lọt những
tội phạm nghiêm trọng có tác động lớn tới
trật tự xã hội hoặc việc xét xử chúng có tính
giáo dục cao.
Thứ ba, trong mô hình này, năng lực
của luật sư có vai trò quyết định tới phán
quyết của đoàn bồi thẩm. Điều này dẫn đến
tình trạng các luật sư giỏi sẽ được nhiều
người muốn thuê và gây nên bất công cho
những người nghèo không có điều kiện để
thuê luật sư giỏi, vốn nổi tiếng là có chi phí
cao, điều này gây nên sự bất công cho người
nghèo so với người giàu24.
Thứ tư, không kiểm soát được thời
gian xét xử. Trong mô hình tranh tụng, thẩm
phán và đoàn bồi thẩm không biết về vụ án
từ trước và cũng không kiểm soát một cách
toàn diện đối với thời gian xét xử. Người
quyết định thời gian xét xử bao lâu lại chính
là các bên đối tụng, những người thường
tận dụng thời gian tối đa tại phiên xét xử
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 10(362) T5/2018
để thuyết phục đoàn bồi thẩm nghe theo lập
luận của mình.
Thứ năm, việc quy định một khung
pháp lý chặt chẽ cho việc sử dụng chứng
cứ tại tòa nhằm đưa đến cho đoàn bồi thẩm
những chứng cứ “sạch” nhất để ra phán
quyết đúng đắn nhất. Song, điều này cũng có
thể gây nên phản tác dụng là những chứng
cứ tuy có giá trị sử dụng cao cho việc xác
định sự thật khách quan nhưng lại có thể bị
loại bỏ do vi phạm thủ tục, ví dụ lời khai
của các nhân chứng gián tiếp hay chứng
cứ thu thập được nhưng có thủ tục vi phạm
quyền cơ bản công dân. Việc không sử dụng
những chứng cứ như vậy có thể dẫn tới khó
khăn trong việc đấu tranh chống một số
loại tội phạm, đặc biệt là các tội phạm có
tổ chức vốn có cách thức hoạt động tinh vi,
phức tạp25.
Kết luận
Những phân tích trên đây cho thấy, mô
25 Diehm, Chú dẫn 9, trang 10.
26 Xem Strang, Chú dẫn 3; Vogler, Chú dẫn 4 về việc áp dụng một số yếu tố tranh tụng vào mô hình tố tụng Indonesia
và Trung Quốc; Diehm, Chú dẫn 9; Carlos Rodringo de la Barra Cousino, Adversarial vs. inquisitorial systems: the
rule of law and prospects for criminal procedure reform in Chile (Hệ thống thẩm vấn tương phản với hệ thống tranh
tụng: nguyên tắc pháp quyền và triển vọng cải cách thủ tục TTHS ở Chi lê), 5 Sw. J. L. & Trade Am. 323 1998, Ennio
Amodio, The accusatorial system lost and regained: reforming criminal procedure in Italy (Hệ thống buộc tội suy tàn và
khôi phục: cải cách thủ tục TTHS ở Ý), 5 Am. J. Comp. L. 189 2004, Michele Panzavolta, Reforms and counter-reforms
in the Italian struggle for an accusatorial criminal law system (Cải cách và phản cải cách vì hệ thống pháp luật hình sự
buộc tội ở Ý), 30 N.C.J. Int’l L. & Com. Reg. 577 2004-2005, Amodio và Selvaggi, Chú dẫn 12, về việc áp dụng ở Italy,
Nga và các nước XHCN ở Đông Âu cũ; Cavise, Chú dẫn 18 về việc áp dụng ở các nước Mỹ Latinh.
hình tố tụng tranh tụng có những ưu điểm
và nhược điểm nhất định. Những ưu điểm
của mô hình này là rất cơ bản và hữu ích để
nâng cao chất lượng công tác tố tụng của các
mô hình tố tụng không theo mô hình tranh
tụng. Điều này đã được xác nhận bởi xu
hướng đưa vào áp dụng một số yếu tố tranh
tụng trong một số mô hình tố tụng thẩm vấn
truyền thống từ châu Á, châu Âu và cả châu
Mỹ Latinh trong những năm gần đây26.
Tuy nhiên, các yếu tố tranh tụng khi
được áp dụng ở các nước khác nhau thường
có sự đa dạng lớn và đều được lựa chọn phù
hợp với mô hình tố tụng truyền thống của
những nước đó. Vì vậy, để có thể đưa ra
những đề xuất phù hợp cho Việt Nam, điều
cần thiết trước tiên là xác định rõ những
nét đặc thù của mô hình TTHS hiện tại của
Việt Nam, trên cơ sở đó xác định quan điểm
hoàn thiện mô hình tố tụng này với các yếu
tố tranh tụng thích hợp■
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 ban hành theo Nghị quyết số 49/NQ-TƯ ngày
2/6/2005.
2. Robert Strang, “More adversarial, but not completely adversarial”: Reformasi of the Indonesian
criminal procedure code (“Thêm tranh tụng, nhưng không hoàn toàn tranh tụng”: cải cách bộ luật TTHS
Indonesia), 32 Fodham Int’l L.R. 188.
3. Richard Vogler, A world view of criminal justice (Cái nhìn về tư pháp hình sự trên toàn thế giới),
Ashgate 2005.
4. James Diehm, The introduction of jury trials and adversarial elements into the former Soviet Union
and other inquisitorial countries (Áp dụng các phiên tòa xét xử bằng bồi thẩm đoàn và các yếu tố tranh tụng ở
Liên bang Xô viết trước đây và các nước có mô hình thẩm vấn khác), 11 J. Transnat’l L. & Pol’y 1 2001-2002.
5. Reter Leask (rapporteur), The relative merits and present day suitability of the adversary (or
accusatorial), inquisitorial, mediatorial and other systems of trial for breaches of the criminal law and for the
resolution of disputes (Những ưu điểm tương đối và sự phù hợp của các hệ thống xét xử tranh tụng (hay buộc
tội), thẩm vấn, hòa giải và các hệ thống khác áp dụng đối với vi phạm pháp luật hình sự và giải quyết tranh
chấp), 5 Int’l B. J. 87 1974.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
25Số 10(362) T5/2018
6. Sharon Finegan, Pro se criminal trials and the merging of inquisitorial and adversarial systems of
justice (Các phiên tòa xét xử có bị can tự bào chữa và sự gặp nhau giữa hệ thống tư pháp tranh tụng và thẩm
vấn), 58 Cath. U. L. Rev. 445.
7. Phil Fennell, Christopher Harding, Nico Jörg, Ber Swart, Criminal Justice in Europe: a comparative
study (Tư pháp hình sự ở Châu Âu: nghiên cứu so sánh), Clarendon Press, 1995.
8. Mirjan Damaska, Evidentiary barriers to conviction and two models of criminal procedure: a
comparative study (Rào cản chứng cứ đối với việc kết tội và hai mô hình TTHS: nghiên cứu so sánh), 121 U.
Pa. L. Rev. 506.
9. Damaska, Chú dẫn 11, trang 513, 515; Ennio Amodio và Eugenio Selvaggi, An accusatorial system in
a civil law country: the 1988 Italian code of criminal procedure (Hệ thống buộc tội ở các nước dân luật: Bộ luật
TTHS 1988 của Ý), 62 Temp. L. Rev. 1211 1989.
10. Nói chung trong các mô hình tố tụng tranh tụng, điển hình là mô hình của Anh và Mỹ, chỉ có luật sư đã
được đăng ký hành nghề mới có quyền tham gia quá trình tố tụng và đại diện cho bị can trước tòa án.
11. Leonard Cavise, Essay: the transition from the inquisitorial to the accusatorial system of trial procedure:
why some Latin American lawyers hesitate (Tiểu luận: chuyển đổi thủ tục xét xử từ hệ thống thẩm vấn sang
tranh tụng: tại sao luật sư một số nước Mỹ Latinh còn e ngại), 53 Wayne L. Rev. 785.
12. Dean Doran và John Jackson, The judicial role in criminal proceedings (Vai trò của tòa án trong
TTHS), Oxford-Portland Oregon, 2000, trang 177, 180.
13. Carlos Rodringo de la Barra Cousino, Adversarial vs. inquisitorial systems: the rule of law and
prospects for criminal procedure reform in Chile (Hệ thống thẩm vấn tương phản với hệ thống tranh tụng:
nguyên tắc pháp quyền và triển vọng cải cách thủ tục TTHS ở Chi Lê), 5 Sw. J. L. & Trade Am. 323 1998.
14. Ennio Amodio, The accusatorial system lost and regained: reforming criminal procedure in Italy (Hệ
thống buộc tội suy tàn và khôi phục: cải cách thủ tục TTHS ở Ý), 5 Am. J. Comp. L. 189 2004.
15. Michele Panzavolta, Reforms and counter-reforms in the Italian struggle for an accusatorial criminal
law system (Cải cách và phản cải cách vì hệ thống pháp luật hình sự buộc tội ở Ý), 30 N.C.J. Int’l L. & Com.
Reg. 577 2004-2005.
động giám sát của mình; đồng thời, quy định
rõ quy trình, thủ tục và trách nhiệm tiếp nhận
kết quả kiểm soát quyền lực của các chủ thể
kiểm soát bên ngoài Nhà nước và phải có
những biện pháp theo dõi quá trình thực
hiện những kiến nghị giám sát, có những
“chế tài” đối với những chủ thể không thực
hiện, hoặc thực hiện không đúng các kiến
nghị về kết quả kiểm soát quyền lực từ bên
ngoài Nhà nước.
- Nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung
những quy định về thực hiện dân chủ ở cơ sở
cấp xã, và cơ quan nhà nước bảo đảm thực
hiện hiệu quả quyền giám sát trực tiếp của
Nhân dân đối với cơ quan HCNN:
- Nghiên cứu ban hành Luật Giám sát
của Nhân dân; mục tiêu của Luật Giám sát
của Nhân dân sẽ bảo đảm có hiệu quả quyền
giám sát của Nhân dân với hình thức giám
sát trực tiếp hay giám sát thông qua các tổ
chức của Nhân dân như MTTQ Việt Nam
các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội, các
tổ chức xã hội, báo chí, phương tiện truyền
thông và tập thể lao động; đồng thời, Luật sẽ
xác định cơ chế phối hợp giữa các hình thức
giám sát khác với giám sát của Nhân dân,
từ đó bảo đảm hiệu quả pháp lý trong hoạt
động giám sát của Nhân dân đối với cơ quan
nhà nước trong đó có các cơ quan HCNN■
(Tiếp theo trang 16)
THỂ CHẾ PHÁP LÝ GIÁM SÁT CỦA...
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
26 Số 10(362) T5/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mo_hinh_to_tung_hinh_su_tranh_tung_va_nhung_uu_nhuoc_diem.pdf