Bài báo trình bày kết quả mô phỏng dòng rip
và dòng chảy ven bờ do sóng theo ba phương
pháp thông dụng của bộ mô hình MIKE 21 cho
bài toán sóng phát sinh dòng rip giữa hai cồn
ngầm trên bãi thoải theo điều kiện thí nghiệm
ủa Haller và nnk (1997). Kết quả cho thấy, cả
Bài báo trình bày kết quả mô phỏng dòng rip
và dòng chảy ven bờ do sóng theo ba phương
pháp thông dụng của bộ mô hình MIKE 21 cho
bài toán sóng phát sinh dòng rip giữa hai cồn
ngầm trên bãi thoải theo điều kiện thí nghiệm
ủa Haller và nnk (1997). Kết quả cho thấy, cả
MIKE 21-HD-PMS, trong khi đó, phương pháp
sử dụng MIKE 21-FM HD-SW cho kết quả kém
hơn hai phương pháp trên và ước lượng độ lớn
cũng như độ rộng của dòng rip là thấp hơn
nhiều so với số liệu thí nghiệm. Nguyên nhân có
thể chỉ rõ đó là việc tính trường sóng và ứng
suất sóng theo các mô hình tính sóng EMS,
PMS hay SW còn bỏ sót nhiều yếu tố tác động
trực tiếp đến trường sóng ven bờ dẫn đến tính
toán xác định trường ứng suất sóng chưa đúng,
chính điều này dẫn đến hệ quả là trường dòng
chảy phát sinh do sóng được mô phỏng sai lệch
nhiều so với thực tế. Tuy vậy, đối với ba
phương pháp trên thì sử dụng phương pháp
MIKE 21-HD-EMS là khả quan hơn cả, cho kết
quả phù hợp hơn các phương pháp còn lại.
Tính toán thử nghiệm với mô hình
Boussinesq đã cho thấy tính ưu việt khi sử dụng
mô hình này mô phỏng dòng rip và dòng ven bờ
7 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 508 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô phỏng dòng rip và dòng chảy ven bờ phát sinh do sóng theo các phương pháp khác nhau của phần mềm Mike 21, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 128
BÀI BÁO KHOA HỌC
MÔ PHỎNG DÒNG RIP VÀ DÒNG CHẢY VEN BỜ PHÁT SINH DO SÓNG
THEO CÁC PHƯƠNG PHÁP KHÁC NHAU CỦA PHẦN MỀM MIKE 21
Phùng Đăng Hiếu, Nguyễn Thị Khang, Lê Đức Dũng, Trần Đức Trứ1
Tóm tắt: Bài báo trình bày các kết quả tính toán mô phỏng hệ thống dòng chảy do sóng ven bờ và
dòng rip trong điều kiện bãi biển có các cồn ngầm phía ngoài. Kết quả so sánh với các số liệu thí
nghiệm vật lý trên thế giới cho thấy các phương pháp mô phỏng theo phần mềm MIKE 21 cho các kết
quả khá khác nhau, trong đó phương pháp sử dụng MIKE 21-HD-EMS cho kết quả khả quan nhất khi
so sánh với các số liệu thí nghiệm của Haller và nnk (1997). Từ kết quả nghiên cứu cho thấy để tính
toán tốt dòng chảy sóng ven bờ bao gồm cả dòng rip cần thiết phải sử dụng mô hình toán đủ mạnh
mô phỏng được tốt trường sóng ven bờ làm cơ sở tính toán ứng suất sóng và dòng chảy phát sinh do
sóng. Kết quả tính toán bằng mô hình Boussinesq cho thấy có độ phù hợp tốt hơn cả khi so với số liệu
thí nghiệm vật lý. Phương pháp thường dùng MIKE 21-FM HD -SW cho kết quả tính toán dòng rip
sai nhiều về độ lớn cũng như độ rộng của dòng chảy này.
Từ khoá: Dòng rip; Dòng chảy ven bờ do sóng; Sóng ven bờ
1. GIỚI THIỆU1
Dòng chảy trong khu vực ven bờ rất phức tạp
và có vai trò rất lớn trong việc vận chuyển vật
chất đáy, quyết định đến xu thế vận chuyển bùn
cát ven bờ gây xói lở hay bồi tụ bãi biển, vùng
bờ. Trong đó, dòng chảy phát sinh do sóng đóng
một vai trò rất quan trọng và có ý nghĩa lớn
trong những khu vực có sự tác động ưu thế của
sóng. Dòng chảy phát sinh do sóng gọi tắt là
“dòng chảy sóng” trong khu vực ven bờ thường
được tạo ra do tác động phức tạp của trường
sóng với địa hình và những vật cản (như công
trình, đê, kè, ) ở khu vực ven bờ. Hệ thống
dòng chảy sóng này thông thường bao gồm
dòng chảy ven dọc bờ và dòng theo hướng
ngang bờ, do tác động của dạng địa hình và
hướng sóng tới, đôi khi tồn tại dòng tách bờ ra
khơi trong phạm vi hẹp và có vận tốc lớn (dòng
rip) rất nguy hiểm đối với con người tắm biển
tại các khu vực bãi biển có dòng rip này. Chính
vì vậy, việc mô phỏng, tính toán và đánh giá
được hệ thống dòng chảy sóng ven bờ, bao gồm
cả dòng rip rất có ý nghĩa vừa phục vụ cho tính
toán dự báo xói lở, bồi tụ vùng ven bờ vừa cho
phép cảnh báo sớm các khu vực có dòng rip
nguy hiểm. Thực tế hiện nay, trên thế giới đã
1 Viện Nghiên cứu biển và hải đảo, 125 Trung Kính, Cầu
Giấy, Hà Nội
phát triển rất nhiều mô hình và phương pháp mô
phỏng tính toán dòng chảy sóng ven bờ trong đó
có thể kể ra hai phương pháp chính đó là:
phương pháp thứ nhất, mô phỏng sóng theo mô
hình Boussinesq, sau đó, lấy trung bình dòng
chảy trong chuyển động sóng để thu được dòng
dư do sóng (dòng chảy sóng); phương pháp thứ
hai, sử dụng phương trình nước nông truyền
thống và ứng suất sóng (wave radiation stress)
để mô phỏng hệ thống dòng chảy sóng ven bờ.
Trong phương pháp thứ hai này, ứng suất sóng
có thể được tính từ kết quả mô phỏng sóng bằng
các mô hình khác nhau thí dụ như SWAN (dựa
trên hệ phương trình cân bằng năng lượng phổ
sóng), MILDSLOPE (dựa trên hệ phương trình
elliptic mild slope hay parabolic mild slope).
Ở nước ta, trong thời gian qua, đã có một số
tác giả nghiên cứu và mô phỏng dòng rip cho
một số bãi biển ven bờ sử dụng mô hình thương
mại MIKE 21. Trong đó, chủ yếu các nghiên
cứu sử dụng theo phương pháp thứ hai nêu trên
với mô đun tính sóng dựa trên mô hình SWAN
hay mô đun SW của bộ mô hình MIKE 21. Các
nghiên cứu điển hình có thể kể ra của các tác giả
như Nguyễn Bá Xuân (2009) sử dụng MIKE 21
với mô đun SW để tính toán dòng chảy sóng
ven bờ và dòng rip cho bãi biển khu vực Vũng
Tàu; Tác giả Lê Đình Mầu (2012) cũng sử dụng
MIKE 21-FM HD-SW cho mô phỏng dòng rip
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 129
tại bãi biển Nha Trang; Tác giả Phạm Văn Tiến
và Lê Văn Khoa (2017) cũng sử dụng MIKE
21-FM HD-SW để mô phỏng tính toán dòng
chảy sóng và rip tại bãi biển Mỹ Khê, Đà Nẵng.
Như vậy, trong hai phương pháp kể trên ở
nước ta chủ yếu sử dụng phương pháp thứ hai
và tính sóng theo phương trình cân bằng năng
lượng phổ sóng, còn phương pháp sử dụng
phương trình mild slope chưa được sử dụng.
Câu hỏi đặt ra là phương pháp nào có khả năng
mô phỏng tốt hơn, tính toán phù hợp hơn đối
với mô phỏng dòng chảy sóng ven bờ bao gồm
cả dòng rip? Sử dụng mô hình MIKE 21 thì
dùng mô đun tính sóng nào phù hợp hơn trong
số các lựa chọn MIKE 21-FM HD-SW, MIKE
21-HD-EMS hay MIKE 21-HD-PMS?
Mục tiêu của nghiên cứu này là sử dụng các
phương pháp mô phỏng khác nhau của bộ mô
hình MIKE 21 để mô phỏng dòng rip và dòng
chảy sóng ven bờ, so sánh, đánh giá giữa các
phương pháp với nhau, so sánh với các số liệu
thí nghiệm vật lý đã xuất bản trên thế giới để
thấy được mức độ phù hợp, tính đúng đắn của
những phương pháp nêu trên.
2. CÁC PHƯƠNG PHÁP MÔ PHỎNG
DÒNG PHÁT SINH DO SÓNG
2.1 Phương pháp sử dụng mô đun thủy lực
(hệ phương trình nước nông) và ứng suất
sóng tính từ mô đun SW (hệ phương trình
cân bằng năng lượng phổ sóng)
Đây là phương pháp kết hợp hai mô đun của bộ
MIKE 21 (mô đun thủy lực và mô đun tính sóng
SW). Mô đun SW tính trường sóng theo phương
trình cân bằng năng lượng phổ sóng cho ra phân bố
độ cao sóng và trường ứng suất sóng radiation
stress. Trường ứng suất sóng này được đưa vào mô
đun thủy lực MIKE 21 FM HD để tính toán dòng
chảy phát sinh do sóng bao gồm cả dòng rip. Đặc
điểm của phương pháp này là trường sóng và ứng
suất sóng được tính toán không bao gồm tác động
của sóng phản xạ, sóng tương tác phi tuyến với
sóng và với trường dòng chảy phát sinh do trường
sóng gây ra. Sóng đổ không được mô phỏng theo
bản chất của quá trình mà được áp đặt theo một
biểu thức bán thực nghiệm. Do đó, độ cao sóng
thường bị giảm đi khi độ sâu giảm.
2.2 Phương pháp sử dụng mô đun thủy
lực (hệ phương trình nước nông) và ứng suất
sóng tính từ mô đun EMS (hệ phương trình
elliptic mild slope)
Khác với phương pháp nêu phần trên, trong
phương pháp này, sóng được tính theo phương
trình elliptic mild slope, đây là hệ phương
trình cho đáy có độ dốc thoải nên việc biến
đổi mạnh của địa hình sẽ dẫn đến sai số lớn.
Tuy nhiên, theo phương pháp này thì mô hình
sóng có thể mô phỏng được sóng phản xạ,
nhiễu xạ, khúc xạ và hiệu ứng nước nông tác
động lên trường sóng. Chính vì vậy, trường
sóng và ứng suất sóng tính theo phương pháp
này sẽ có tính ưu việt hơn phương pháp trên.
Trường ứng suất sóng sẽ được đưa vào mô
đun thủy lực MIKE 21 HD để tính toán mô
phỏng trường dòng chảy phát sinh do sóng
bao gồm cả dòng rip.
2.3 Phương pháp sử dụng mô đun thủy lực
(hệ phương trình nước nông) và ứng suất
sóng tính từ mô đun PMS (hệ phương trình
parabolic mild slope)
Phương pháp tính sóng bằng mô đun PMS
thực chất vẫn dựa theo hệ phương trình mild
slope nhưng đã được đơn giản hóa dưới dạng
xấp xỉ parabolic nên thời gian tính toán nhanh
hơn so với việc sử dụng mô đun EMS mà vẫn
tính được các hiệu ứng nước nông, khúc xạ,
nhiễu xạ. Tuy nhiên, phương pháp này có
điểm yếu là không tính được tương tác với
sóng phản xạ. Trường ứng suất sóng thu được
từ mô đun PMS sẽ được đưa vào mô đun thủy
lực MIKE 21 HD để tính toán mô phỏng
trường dòng chảy phát sinh do sóng bao gồm
cả dòng rip.
3. CÁC MÔ PHỎNG VÀ KẾT QUẢ
3.1 Điều kiện mô phỏng dòng rip và dòng
chảy ven bờ do sóng trên bãi thoải có hai cồn
ngầm theo điều kiện thí nghiệm vật lý của
Haller và nnk (1997)
Bãi biển có các cồn ngầm phía ngoài và tồn
tại các khoảng cách giữa hai cồn ngầm tạo thành
một khe sâu hơn, là dạng địa hình thường gặp
trên vùng bãi biển ven bờ trên thực tế. Để đánh
giá khả năng xuất hiện dòng chảy ngược ra khơi
giữa hai cồn ngầm dưới tác động của sóng tới,
Haller và cộng sự đã thực hiện một thí nghiệm
vật lý trên bể sóng tại Đại học Delaware và xuất
bản công trình nghiên cứu về dòng chảy phát
sinh do sóng vào năm 1997. Thí nghiệm của
Haller và nnk (1997) đã trở nên rất nổi tiếng và
được cộng đồng các nhà khoa học thế giới về
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 130
động lực học ven bờ đón nhận như là một trong
những điều kiện tiêu chuẩn để nghiên cứu, đánh
giá khả năng mô phỏng dòng rip của các mô
hình toán. Thí nghiệm của Haller và cộng sự có
thể được mô tả ngắn gọn như sau: Bãi biển thoải
độ dốc 1/30 được thiết lập trên bể sóng có độ
rộng 18,2m chiều dài bể 19m. Bãi biển thoải nối
với vùng nước có đáy ngang phẳng ở độ sâu
0,373m. Trên bãi thoải có ba cồn ngầm thiết lập
tạo thành hai khoảng cách hở giữa ba cồn ngầm,
mỗi khoảng hở rộng 1,82m. Độ sâu tại chân
phía ngoài của cồn ngầm là 0,1m, độ sâu tại
đỉnh cồn ngầm là 0,048m, độ rộng chân cồn
ngầm là 1,2m. Bảng tạo sóng tại x = 0m (trục x
hướng từ bảng tạo sóng vào bờ, trục y song
song với bờ) , chân cồn ngầm phía ngoài tại x =
11,1m, đỉnh cồn ngầm xấp xỉ tại vị trí x = 12m,
chân cồn ngầm phía bờ xấp xỉ tại x = 12,3m. Từ
đường mép nước đến mép chân ngoài của cồn
ngầm xấp xỉ 3m. Sóng tới được tạo ra có chu kỳ
1,0s, độ cao sóng 0,494m. Các thành phần vận
tốc trung bình độ sâu tại các mặt cắt x = 10m;
11,25m; 12,3m và 13m được đo đạc để đánh giá
vận tốc dòng chảy phía trong cồn ngầm, tại khe
hở và phía ngoài cồn ngầm (chi tiết tham khảo
Haller và nnk (1997)) .
Trong nghiên cứu mô phỏng, điều kiện thí
nghiệm tương tự như thí nghiệm của Haller và
nnk (1997) được thiết lập với tỉ lệ phóng to là
25 lần (do mô hình MIKE 21 không cho phép
thiết lập tính toán với quy mô nhỏ trong phòng
thí nghiệm). Như vậy, theo đồng dạng số Froude
thì có thể lấy độ cao sóng tới xấp xỉ H = 1m,
chu kỳ T = 5s. Địa hình được thiết lập với kích
thước phóng to 25 lần. Tính toán được thiết lập
cho các mô đun MIKE 21-SW, MIKE 21-PMS,
MIKE 21-EMS để thu được trường sóng và
trường ứng suất. Sau đó, mô đun MIKE 21-FM
HD và MIKE 21-HD được sử dụng với nguồn
lực là trường ứng suất sóng tính từ các mô đun
SW, PMS và EMS để tính toán xác định dòng
chảy sóng ven bờ và dòng rip. Các giá trị vận
tốc dòng chảy tại các mặt cắt tương ứng (vị trí
được phóng theo tỉ lệ kích thước 25 lần) với mặt
cắt trong thí nghiệm của Haller và cộng sự được
xuất ra để so sánh, đánh giá giữa các phương
pháp tính toán. Do tỉ lệ kích thước là 1/25 nên tỉ
lệ vận tốc theo đồng dạng số Froude được điều
chỉnh là 1/5. Trong các tính toán mô phỏng sóng
và dòng chảy đối với các mô hình sử dụng lưới
cấu trúc (MIKE 21-EMS, MIKE 21-PMS,
MIKE 21-HD), kích thước ô lưới được sử dụng
thống nhất ; đối với mô
hình sử dụng lưới phi cấu trúc (MIKE 21-SW,
MIKE 21-FM HD) lưới tính được chia chi tiết
hơn dựa trên địa hình của lưới cấu trúc
. Phần dưới đây trình bày
các kết quả thu được.
3.2 Các kết quả mô phỏng dòng chảy ven
bờ do sóng trên bãi thoải có hai cồn ngầm
theo điều kiện thí nghiệm vật lý của Haller và
nnk (1997)
Kết quả mô phỏng tại các mặt cắt tương ứng
với thí nghiệm của Haller và nnk (1997) được
xuất ra. Trong đó, do trục tọa độ theo thí
nghiệm của Haller đặt Ox có hướng từ bảng tạo
sóng vào bờ, ngược với trong mô phỏng nên
các giá trị vận tốc u trong mô phỏng sau khi
xuất ra được đổi dấu để phù hợp với hướng của
thí nghiệm của Haller và nnk (1997). Các mặt
cắt xuất dữ liệu cũng được tính toán sao cho
đúng với vị trí của nó trong thí nghiệm vật lý.
Các kết quả dòng chảy tính theo các phương
pháp khác nhau của bộ mô hình MIKE 21 với
các mô đun tính sóng và ứng suất sóng theo
SW, PMS và EMS được vẽ trên cùng đồ thị tại
4 mặt cắt cùng với số liệu đo đạc trong thí
nghiệm của Haller và nnk (1997) để thuận tiện
so sánh. Hình 1 trình bày phân bố trường dòng
chảy tính bằng bộ MIKE 21-HD-EMS và vị trí
của 4 mặt cắt tương ứng với thí nghiệm vật lý .
Có thể thấy rõ dòng rip xuất hiện tại hai khe
giữa các cồn ngầm.
Hình 1. Phân bố trường dòng chảy tính theo
MIKE 21-HD-EMS
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 131
Hình 2 trình bày phân bố các thành phần vận
tốc dòng chảy ngang bờ và dọc bờ tính theo các
phương pháp khác nhau, so sánh với số liệu của
thí nghiệm vật lý ta thấy, dòng chảy tại mặt cắt
này khá khác biệt giữa số liệu thí nghiệm và kết
quả tính toán. Vị trí x = 10m là mặt cắt song
song với bờ cách cồn ngầm khoảng 2m. Từ số
liệu thí nghiệm cho thấy tại mặt cắt này thành
phần dòng chảy u và v đều nhỏ, dòng chảy
ngang bờ gần như bằng không. Trong khi đó,
các thành phần vận tốc u tính theo mô hình
MIKE 21 với các mô đun sóng EMS và PMS
vẫn cho thấy dòng từ bờ ra khơi còn khá lớn xấp
xỉ 0,2m/s. Kết quả dòng chảy tính theo mô đun
SW cho thấy tại vị trí mặt cắt này dòng khá yếu
mặc dù vẫn tồn tại dòng chảy ra khơi có giá trị
khá khác so với số liệu thí nghiệm vật lý. Đối
với thành phần vận tốc v, các phương pháp tính
theo PMS, EMS hay SW đều cho thấy sự sai
khác khá lớn so với số liệu thí nghiệm, đặc biệt
tại khu vực lân cận khe sâu giữa hai cồn ngầm.
Nhìn chung, dòng rip tính theo mô đun EMS và
PMS có xu thế mạnh hơn tính theo mô đun SW
và có khoảng cách ra khơi cũng lớn hơn.
Tại mặt cắt x = 11,25m, đây là mặt cắt ngay
phía ngoài cửa của khe sâu giữa hai cồn ngầm.
Tại đây tồn tại dòng chảy từ bờ ra khơi (dòng
rip) khá rõ và mạnh. Hình 3 cho thấy, có sự phù
hợp giữa kết quả tính toán bằng các mô đun
của MIKE 21 so với số liệu thí nghiệm. Thấy
rõ tại vị trí y=4,5m là tâm của dòng rip, dòng
chảy ngược ra khơi khá lớn, số liệu thí nghiệm
là cỡ 14cm/s, tính theo EMS và PMS cho giá
trị tương đương nhau cỡ 21cm/s, trong khi đó
tính theo SW cho giá trị nhỏ hơn nhiều cỡ
5cm/s. Thành phần vận tốc v tại mặt cắt này
khá nhỏ và cũng khá phù hợp so với số liệu do
tại đây, dòng chảy chủ yếu tồn tại ở khu vực
khe hở giữa hai cồn ngầm và dòng chủ đạo là
dòng hướng ra khơi của rip. Nhìn chung, tại
mặt cắt này, dòng chảy tính theo phương pháp
sử dụng mô đun EMS và PMS cho kết quả tốt
hơn so với tính dòng rip khi sử dụng mô đun
SW của bộ MIKE 21.
Mặt cắt x=10m
-0.3
-0.2
-0.1
0
0.1
0.2
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9
y (m)
u
(m
/s
)
u (MIKE21-EMS)
u (MIKE21-PMS)
u (MIKE21-SW)
u (Expt)
Mặt cắt x=10m
-0.15
-0.1
-0.05
0
0.05
0.1
0.15
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9
y (m)
v
(m
/s
)
v (MIKE21-EMS)
v (MIKE21-PMS)
v (MIKE21-SW)
v (Expt)
Hình 2. Phân bố các thành phần dòng chảy ngang bờ và dọc bờ tại mặt cắt x=10m
Mặt cắt x=11.25m
-0.3
-0.2
-0.1
0
0.1
0.2
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9
y (m)
u
(m
/s
)
u (MIKE21-EMS)
u (MIKE21-PMS)
u (MIKE21-SW)
u (Expt)
Mặt cắt x=11.25m
-0.15
-0.1
-0.05
0
0.05
0.1
0.15
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9
y (m)
v
(m
/s
)
v (MIKE21-EMS)
v (MIKE21-PMS)
v (MIKE21-SW)
v (Expt)
Hình 3. Phân bố các thành phần dòng chảy ngang bờ và dọc bờ tại mặt cắt x=11,25m
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 132
Mặt cắt x=12.3m
-0.2
-0.15
-0.1
-0.05
0
0.05
0.1
0.15
0.2
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9
y (m)
u
(m
/s
)
u (MIKE21-EMS)
u (MIKE21-PMS)
u (MIKE21-SW)
u (Expt)
Mặt cắt x=12.3m
-0.2
-0.15
-0.1
-0.05
0
0.05
0.1
0.15
0.2
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9
y (m)
v
(m
/s
)
v (MIKE21-EMS)
v (MIKE21-PMS)
v (MIKE21-SW)
v (Expt)
Hình 4. Phân bố các thành phần dòng chảy ngang bờ và dọc bờ tại mặt cắt x=12,3m
Tại mặt cắt x = 12,3m, đây là mặt cắt ngay
phía rìa trong của cồn ngầm, có thể nói đây
chính là chân của dòng rip tại khu vực khe giữa
hai cồn ngầm. Tại mặt cắt này, ta thấy kết quả
mô phỏng theo phương pháp sử dụng mô đun
EMS và PMS cho các giá trị vận tốc u và v khá
phù hợp với kết quả thí nghiệm vật lý (xem hình
4). Trên hình 4 cũng thấy rõ, thành phần vận tốc
v rất khớp giữa tính toán và thí nghiệm cả về xu
thế và độ lớn. Tuy nhiên, đối với kết quả tính
theo phương pháp sử dụng mô đun SW thì có sự
khác biệt giữa tính toán và thí nghiệm lớn hơn.
Đặc biệt, thành phần vận tốc u tính toán theo
SW rất nhỏ và có xu thế ngược với số liệu thí
nghiệm. Giá trị vận tốc dòng chảy tính theo mô
đun SW, nhìn chung nhỏ hơn nhiều so với số
liệu thí nghiệm. Từ kết quả này có thể thấy, do
tại mặt cắt này là vị trí phía sau cồn ngầm (tính
từ khơi vào bờ) nên chịu tác động mạnh mẽ của
các quá trình nhiễu xạ, hiệu ứng nước nông,
phản xạ bờ, sóng đổ và tương tác sóng với dòng
chảy. Chính vì vậy, do hạn chế của mô hình SW
không tính đến phản xạ sóng, không tính đến
hiệu ứng nước nông phi tuyến và tác động của
sóng đổ, cũng như tương tác giữa sóng với sóng
nên đã ước lượng không tốt ứng suất sóng, dẫn
đến kết quả tính dòng chảy phát sinh do sóng có
xu thế nhỏ hơn thực tế.
Trong khi đó, mô hình EMS, PMS giải phương
trình mild slope cho phép mô tả tốt hơn tác động
của phản xạ sóng, nhiễu xạ sóng và hiệu ứng nước
nông nên cho kết quả khả quan hơn. Tuy nhiên,
do EMS và PMS đều không tính được tương tác
phi tuyến sóng với dòng chảy cũng như tương tác
sóng với sóng, hiệu ứng sóng đổ không được mô
phỏng tốt nên dẫn đến còn nhiều sai khác về tính
toán ứng suất sóng, dẫn đến kết quả tính dòng
chảy sóng, tuy có tốt hơn SW, vẫn có sai khác khá
lớn về độ lớn cũng như xu thế của dòng chảy so
với thí nghiệm vật lý.
Mặt cắt x =13m
-0.15
-0.1
-0.05
0
0.05
0.1
0.15
0.2
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9
y (m)
u
(m
/s
)
u (MIKE21-EMS)
u (MIKE21-PMS)
u (MIKE21-SW)
u (Expt)
Mặt cắt x =13m
-0.15
-0.1
-0.05
0
0.05
0.1
0.15
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9
y (m)
v
(m
/s
)
v (MIKE21-EMS)
v (MIKE21-PMS)
v (MIKE21-SW)
v (Expt)
Hình 5. Phân bố các thành phần dòng chảy ngang bờ và dọc bờ tại mặt cắt x=13m
Nhận định trên có thể thấy rất rõ tại mặt cắt x
= 13m. Trên hình 5 cho thấy, cả ba phương
pháp tính toán đều cho kết quả rất sai khác so
với kết quả thí nghiệm vật lý tại mặt cắt x=13m.
Nguyên nhân là do tại mặt cắt này, tính phi
tuyến tăng mạnh và mức độ tương tác giữa các
thành phần tăng lên do độ sâu ở đây nhỏ hơn tại
mặt cắt x=12,3m và nó nằm trong vùng sóng đổ,
nơi chịu tác động mạnh cả của hiệu ứng nước
nông lẫn phản xạ sóng từ bờ cũng như hệ thống
dòng chảy phức tạp ven bờ. Chính vì vậy, do
các mô hình EMS, PMS đều chưa mô tả tốt
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 133
được tác động của sóng đổ, tương tác phi tuyến
sóng với sóng, sóng phản xạ, nhiễu xạ, và tương
tác sóng với dòng chảy, nên kết quả mô phỏng
hệ thống dòng chảy phát sinh do sóng ở khu vực
vày gặp nhiều sai sót do việc tính toán chưa
đúng ứng suất sóng.
3.3 Kết quả mô phỏng bằng mô hình
Boussinesq
Từ các kết quả mô phỏng theo ba phương
pháp của bộ MIKE 21 (SW, EMS, PMS) đối với
dòng chảy phát sinh do sóng cho thấy, nếu
không mô phỏng tốt trường sóng thì đối với các
khu vực có địa hình phức tạp tồn tại tương tác
phi tuyến mạnh, tồn tại công trình và đặc biệt có
hệ thống dòng chảy sóng phức tạp thì việc mô
phỏng dòng rip là rất khó cho kết quả tốt. Để
thấy được những nhận định trên là có cơ sở,
nhóm nghiên cứu đã thực hiện tính toán trường
dòng chảy sóng với việc sử dụng hệ phương
trình Boussinesq và các điều kiện tính toán
giống hệt như đã tính bằng bộ MIKE 21, để mô
phỏng cho điều kiện thí nghiệm của Haller và
nnk (1997). Các kết quả tại hai mặt cắt x = 13m
và x= 11,25m để so sánh với số liệu thí nghiệm
của Haller và nnk (1997).
Từ hình 6 ta thấy, kết quả mô phỏng dòng
chảy sóng theo mô hình Boussinesq khá phù
hợp với số liệu thí nghiệm của Haller và nnk
(1997). Đặc biệt trên hình 6 thấy rõ độ lớn của
dòng rip cũng như độ rộng của nó được mô hình
Boussinesq mô phỏng khá tốt, có thể thấy tốt
hơn hẳn phương pháp mô phỏng bằng EMS hay
PMS ở trên. Mặc dù có sự sai khác về thành
phần vận tốc v nhưng độ sai khác không lớn và
xu thế của thành phần vận tốc này khá phù hợp
với số liệu thí nghiệm. Các kết quả so sánh tại
mặt cắt x=13m (xem hình 7) cho thấy sự phù
hợp rất tốt giữa mô phỏng và thí nghiệm. Cả
thành phần vận tốc u lẫn thành phần v đều cho
xu thế rất phù hợp với kết quả thí nghiệm, độ
lớn của dòng chảy cũng ở cùng bậc đại lượng,
tuy nhiên, còn có sự sai khác nhưng về tổng thể
là phù hợp và tốt hơn rất nhiều so với ba
phương pháp tính toán theo MIKE 21 nêu trên.
Mặt cắt x = 11.25m
-0.2
-0.1
0
0.1
0.2
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9
y (m)
u
(m
/s
)
u (Boussinesq)
u (Expt)
Mặt cắt x = 11.25m
-0.2
-0.1
0
0.1
0.2
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9
y (m)
v
(m
/s
)
v (Boussinesq)
v (Expt)
Hình 6. So sánh kết quả mô hình Boussinesq với thí nghiệm vật lý tại x=11,25m
Mặt cắt x = 13m
-0.2
-0.1
0
0.1
0.2
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9
y (m)
u
(m
/s
)
u (Boussinesq)
u (Expt)
Mặt cắt x = 13m
-0.2
-0.1
0
0.1
0.2
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9
y (m)
v
(m
/s
)
v (Boussinesq)
v (Expt)
Hình 7. So sánh kết quả mô hình Boussinesq với thí nghiệm vật lý tại x=13m
4. KẾT LUẬN
Bài báo trình bày kết quả mô phỏng dòng rip
và dòng chảy ven bờ do sóng theo ba phương
pháp thông dụng của bộ mô hình MIKE 21 cho
bài toán sóng phát sinh dòng rip giữa hai cồn
ngầm trên bãi thoải theo điều kiện thí nghiệm
của Haller và nnk (1997). Kết quả cho thấy, cả
ba phương pháp sử dụng trong bộ MIKE 21
(MIKE 21-FM HD-SW; MIKE 21-HD-EMS;
MIKE 21-HD-PMS) đều ước lượng sai lệch
dòng rip và hệ thống dòng chảy phía trong vùng
sóng đổ. Đặc biệt, độ lớn của dòng rip và độ
rộng của nó được ước lượng thiên lớn đối với
phương pháp sử dụng MIKE 21-HD-EMS và
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 134
MIKE 21-HD-PMS, trong khi đó, phương pháp
sử dụng MIKE 21-FM HD-SW cho kết quả kém
hơn hai phương pháp trên và ước lượng độ lớn
cũng như độ rộng của dòng rip là thấp hơn
nhiều so với số liệu thí nghiệm. Nguyên nhân có
thể chỉ rõ đó là việc tính trường sóng và ứng
suất sóng theo các mô hình tính sóng EMS,
PMS hay SW còn bỏ sót nhiều yếu tố tác động
trực tiếp đến trường sóng ven bờ dẫn đến tính
toán xác định trường ứng suất sóng chưa đúng,
chính điều này dẫn đến hệ quả là trường dòng
chảy phát sinh do sóng được mô phỏng sai lệch
nhiều so với thực tế. Tuy vậy, đối với ba
phương pháp trên thì sử dụng phương pháp
MIKE 21-HD-EMS là khả quan hơn cả, cho kết
quả phù hợp hơn các phương pháp còn lại.
Tính toán thử nghiệm với mô hình
Boussinesq đã cho thấy tính ưu việt khi sử dụng
mô hình này mô phỏng dòng rip và dòng ven bờ
do sóng. Kết quả so sánh với thí nghiệm vật lý
cho thấy có sự phù hợp tốt về xu thế cũng như
độ lớn. Đặc biệt là kết quả mô phỏng độ lớn và
độ rộng của dòng rip.
Qua kết quả nghiên cứu ở đây, khuyến nghị khi
tính toán, mô phỏng dòng rip, hay dòng chảy sóng
ven bờ nên sử dụng mô hình MIKE 21-HD-EMS
thay cho việc sử dụng MIKE 21-FM HD-SW.
Cách tốt nhất hiện nay để mô phỏng, tính toán
dòng chảy phát sinh do sóng khu vực ven bờ bao
gồm cả dòng rip là sử dụng mô hình Boussinesq.
Tuy nhiên, tính toán theo mô hình Boussinesq đòi
hỏi thời gian tính toán lâu hơn nên với bài toán
thực tế, cần cân nhắc những trường hợp sử dụng
được Boussinesq thì cần sử dụng triệt để, để đảm
bảo tính đúng đắn của kết quả tính toán.
Lời cảm ơn: Bài báo được hoàn thành dưới
sự hỗ trợ của đề tài TNMT.2016.06.09. Nhóm
tác giả xin trân trọng cảm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Bá Xuân (2009). Nghiên cứu hiện tượng dòng rút (rip current) khu vực bãi biển Nha Trang
và Cam Ranh, đề xuất giải pháp cảnh báo và phòng tránh phục vụ hoạt động du lịch biển. Báo
cáo tổng kết đề tài cấp Viện KH&CN VN.
Lê Đình Mầu (2012). Điều tra đánh giá hiện tượng dòng rip (rip current) tại các bãi tắm Khánh Hòa,
xác định nguyên nhân và đề xuất các giải pháp phòng tránh. Báo cáo tổng hợp đề tài cấp tỉnh.
Phạm Văn Tiến, Lê Văn Khoa (2017). Nghiên cứu dòng rip ven biển Đà Nẵng bằng mô hình MIKE
couple, Tạp chí KHCN ĐHĐN, số 5(114).2017, Quyển 1, Tr. 52-56.
Haller M.C., R.A. Dalrymple, I.A. Svendsen (1997). Experimental modeling of rip currents system.
In Proceedings of WAVE’97, Virginia Beach, VA, 750-764, ASCE.
Abstract:
SIMULATION OF WAVE INDUCED CURRENTS AND RIP USING VARIOUS
MODULES OF MIKE 21 SOFTWARE
The paper presents the simulated results of wave-induced current in the nearshore areas and rip
currents on a beach with submerged dunes. Simulated results were compared with physical
experiment data. The comparision between the simulated results and physical experiment data of
Haller et al. (1997) showed that the best method among the three methods provided with MIKE 21
in this study, was MIKE 21-HD-EMS. The results also show that it is necessary to use a strong
mathematical model to simulate wave field, which is used to caculate the wave radiation stresses,
for simulation of wave-induced currents including rip currents. Simulated results of the model
using Boussinesq equation were the most suitable in all of methods used in this study and
satisfactory agreement in comparison with the laboratory data given by Haller et al. (1997). The
rip current results caculated by MIKE 21-FM HD-SW which is the most used before, have large
discrepancies of current speed and range in comparison with experimental data.
Keywords: Rip current; Wave induced current; Nearshore waves
Ngày nhận bài: 23/5/2018
Ngày chấp nhận đăng: 28/6/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mo_phong_dong_rip_va_dong_chay_ven_bo_phat_sinh_do_song_theo.pdf