Hiện nay ở Việt Nam tỉ lệ mắc ung thư ngày
càng tăng, đặc biệt ung thư vú, ung thư phổi và
ung thư buồng trứng. Hóa trị liệu pháp với các
dẫn chất platin (cisplatin, carboplatin, oxaliplatin
) là một trong những điều trị căn bản, đôi khi
là đòi hỏi bắt buộc trong những ca bệnh này. Vì
thế, trong nghiên cứu này chúng tôi chọn
carboplatin để nghiên cứu và xây dựng một mô
hình gây suy giảm bạch cầu thích hợp và hướng
đến áp dụng mô hình cho các thử nghiệm sàng
lọc các thuốc có tác dụng phòng ngừa suy giảm
bạch cầu.
Trong nghiên cứu của Thomas và cộng sự
(1995)(3), nhóm tác giả sử dụng liều duy nhất
carboplatin 125 mg/kg, ip, trên chuột nhắt chủng
Balb/c, kết quả cho thấy số lượng bạch cầu trung
tính giảm mạnh vào khoảng ngày 5 đến ngày 8
sau khi tiêm carboplatin. Trong nghiên cứu này,
carboplatin được sử dụng với liều thấp hơn (100
mg/kg tiêm phúc mô), trên chuột nhắt chủng
Swiss albino, kết quả cho thấy sự suy giảm bạch
cầu trung tính cũng giảm thấp nhất vào ngày 5.
Ngoài ra, các loại bạch cầu khác cũng giảm rất
mạnh, kèm theo sự giảm hồng cầu và tiểu cầu.
Điều này chứng tỏ liều lượng carboplatin sử
dụng như trên có thể phù hợp cho việc xây
dựng mô hình gây suy tủy của thuốc hóa trị và
áp dụng trong sàng lọc các thuốc có tác dụng
bảo vệ hay phục hồi chức năng tạo máu.
Filgrastim thường được sử dụng với chế độ
liều 10 mcg/kg hay 30 mcg/kg trong các thực
nghiệm dược lý(1,2). Trong nghiên cứu này,
chúng tôi thực hiện khảo sát với hai liều là 50
mcg/kg tiêm phúc mô liều duy nhất và 20
mcg/kg/ngày tiêm phúc mô trong 5 ngày và kết
quả cho thấy thuốc có đáp ứng một phần. Có thể
do thời gian sử dụng và theo dõi quá ngắn (5
ngày) nên chưa thể theo dõi tác dụng phục hồi
hoàn toàn của filgrastim. Chúng tôi chưa thử
nghiệm filgrastim ở liều 5 mcg/kg, hay 10
mcg/kg (liều sử dụng thực tế trên lâm sàng). Tuy
nhiên giữa thực nghiệm và lâm sàng có nhiều
khác biệt, vì thế một chế độ liều thích hợp trên
người còn tùy thuộc vào mức độ suy giảm bạch
cầu và sự đáp ứng của bệnh nhân.
Carboplatin gây suy giảm mạnh tiểu cầu và
có ảnh hưởng nhẹ trên hồng cầu và các chỉ số
liên quan. Như vậy ngoài các chỉ tiêu về các loại
bạch cầu, mô hình này có thể áp dụng để đánh
giá thêm về sự phục hồi số lượng tiểu cầu, một
chỉ tiêu khá quan trọng khi đề cập đến các biến
chứng trên quá trình đông máu.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 198 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô phỏng mô hình gây giảm bạch cầu thực nghiệm bằng Carboplatin trên chuột nhắt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Dược Khoa 26
MÔ PHỎNG MÔ HÌNH GÂY GIẢM BẠCH CẦU THỰC NGHIỆM
BẰNG CARBOPLATIN TRÊN CHUỘT NHẮT
Trần Mạnh Hùng*, Trương Đình Phước*, Trần Văn Mười*, Huỳnh Thị Ngọc Hạnh*
TÓM TẮT
Mục tiêu: “Mô phỏng mô hình gây suy giảm bạch cầu bằng Carboplatin trên chuột nhắt” để làm công cụ
sàng lọc và đánh giá khả năng khôi phục bạch cầu của các thuốc thử nghiệm, đặc biệt là các thuốc có nguồn gốc
từ dược liệu.
Phương pháp: Suy giảm bạch cầu được tiến hành bằng cách tiêm phúc mạc Carboplatin ở các liều lượng
khác nhau. Sử dụng buồng đếm Neubauer và xét nghiệm công thức máu để xác định mô hình phù hợp.
Kết quả: Carboplatin với liều duy nhất 100 mg/kg, tiêm phúc mô gây giảm bạch cầu mạnh nhất ở thời điểm
5 ngày sau đó. Tác động làm giảm số lượng các loại bạch cầu cũng thể hiện rõ rệt, nhất là trên bạch cầu đa nhân
trung tính và bạch cầu lympho. Tổng lượng bạch cầu có thể phục hồi tự nhiên trở về bình thường sau một đợt
khảo sát (14 ngày sau khi tiêm carboplatin). Vì thế, mô hình chỉ có giá trị áp dụng vào ngày thứ 5.
Kết luận: Mô hình này có thể được áp dụng làm công cụ sàng lọc các thuốc có tác dụng phòng ngừa suy
giảm bạch cầu do thuốc hóa trị ung thư gây ra.
Từ khóa: Carboplatin, Suy giảm bạch cầu, Mô hình thực nghiệm
ABSTRACT
DEVELOPMENT OF A MOUSE MODEL FOR CARBOPLATIN-INDUCED NEUTROPENIA
Tran Manh Hung, Truong Dinh Phuoc, Tran Van Muoi, Huynh Thi Ngoc Hanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 26 - 31
Objective: A mouse model for Carboplatin-induced neutropenia was developed to provide a tool for
screening agents that exert protective effect on anticancer drug-induced neutropenia.
Methods: Neutropenia was induced by intraperitoneal injections of Carboplatin at different doses.
Neubauer cell counter and white blood cell count were applied to determine grade of neutropenia.
Results: Carboplatin at a dose of 100 mg/kg, ip, induced significant neutropenia after 5 days of injection.
However, total white blood cell count returned to baseline 14 days thereafter, thus this model could be of value
when evaluating at day 5.
Conclusion: This mouse model can be applied for screening agents that exert protective effect on
Carboplatin-induced neutropenia..
Key words: Carboplatin, Neutropenia, Mouse model
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bạch cầu có vai trò hết sức quan trọng trong
việc bảo vệ cơ thể chống lại sự xâm nhập của các
mầm bệnh từ bên ngoài như vi khuẩn, nấm,
virus Giảm số lượng bạch cầu sẽ làm tăng
nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội, đây
cũng là nguyên nhân chủ yếu gây tử vong cho
người bệnh. Thuốc điều trị thường là nguyên
nhân chính gây giảm bạch cầu qua nhiều cơ chế
khác nhau; trong đó các thuốc chống ung thư là
một trong những nhóm thuốc có nguy cơ cao
nhất gây mất bạch cầu.
*Khoa Dược, ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Trần Mạnh Hùng ĐT: 093.7746.596 Email: manhung1969@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Khoa 27
Carboplatin tên khoa học cis-diammine
(cyclobutane-1,1-dicarboxylate-O,O') platinum
(II), là một dẫn xuất của kim loại nặng platin.
Carboplatin gắn vào ADN để tạo ra liên kết chéo
bên trong và giữa hai chuỗi ADN, liên kết chéo
này làm thay đổi cấu trúc và ức chế sự tổng hợp
ADN. Carboplatin được chỉ định dùng đơn trị
hoặc phối hợp các thuốc khác chống khối u tân
sinh, điều trị loại u ác tính sau: ung thư biểu mô
buồng trứng, ung thư vú tân sinh, ung thư phế
quản (tế bào nhỏ hoặc không nhỏ), khối u ở đầu
và cổ, ung thư bàng quang, ung thư tinh hoàn.
Trước đây, tình trạng giảm bạch cầu do
thuốc chống ung thư gây ra buộc phải giảm
hoặc ngừng liệu pháp hóa trị, hiện nay, khó
khăn này đã được khắc phục nhờ việc sử dụng
các yếu tố kích thích hệ tạo máu như G-CSF
(Granulocyte - Colony Stimulating Factor: yếu tố
kích thích dòng bạch cầu hạt), GM-CSF
(Granulocyte macrophage – Conoly Stimulating
Factor: yếu tố kích thích dòng bạch cầu hạt - đại
thực bào. Một trong các biệt dược thông dụng là
Neupogen với hoạt chất là filgrastim.
Ngoài các yếu tố trên, hiện nay việc phát
triển các thuốc kích thích hệ tạo máu bằng công
nghệ sinh học, bằng các thuốc các thuốc có
nguồn gốc dược liệu cũng đang được đẩy mạnh.
Vì vậy việc xây dựng các mô hình dược lý phù
hợp để phục vụ cho các nghiên cứu này là cần
thiết.
Với mục đích trên, chúng tôi đặt mục tiêu
mô phỏng mô hình gây suy giảm bạch cầu trên
chuột nhắt bằng một thuốc hóa trị ung thư như
Carboplatin.
VẬT LIỆU - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thú vật thử nghiệm:
Chuột nhắt trắng chủng ddY, khỏe mạnh,
không dị tật, không có biểu hiện bất thường, do
viện Vacin và Sinh phẩm Y tế Nha Trang cung
cấp. Chuột thí nghiệm là chuột đực có trọng
lượng khoảng 20 ± 2 gam lúc bắt đầu tiến hành
thí nghiệm; hàng ngày chuột được cung cấp đủ
thức ăn và nước uống. Chuột thí nghiệm được
phân ra thành các lô thử nghiệm sau:
Lô chứng
Lô gây giảm bạch cầu bằng Carboplatin
Lô sử dụng filgrastim để đánh giá đáp ứng
của mô hình.
Hóa chất và thuốc thử nghiệm:
- Carboplatin 150 mg: do công ty Ebewe
Pharma sản xuất, lô số: VN-4413-10
- Neupogen (filgrastim): do F. Hoffmann-La
Roche sản xuất, số lô: VN-9562-10
Phương pháp thử nghiệm
Thăm dò tác dụng gây giảm tổng lượng bạch
cầu trên buồng đếm Neubauer:
Carboplatin được pha trong glucose với liều
200 mg/kg, 150 mg/kg hay 100 mg/kg và được
tiêm phúc mạc liều duy nhất với thể tích tiêm 0.1
ml/10 g thể trọng vào buổi sáng và được thực
hiện trên 6 chuột. Chuột được lấy máu từ đuôi
và xác định số lượng bạch cầu bằng buồng đếm
Neubauer ở các thời điểm trước khi tiêm và liên
tục 14 ngày sau khi tiêm.
Xác định các chỉ số huyết học của mô hình
trên máy xét nghiệm huyết học
Các mẫu máu được lấy từ tim chuột sau khi
gây mê bằng đá C02 và chứa trong các ống chứa
mẫu có chất chống đông EDTA (do Bệnh viện
ĐH Y Dược cơ sở 4 cung cấp). Mẫu máu được
xét nghiệm trên máy EXCELL-2208, Bệnh viện
ĐH Y Dược cơ sở 4).
Các thông số về số lượng bạch cầu trung
tính, bạch cầu lympho, bạch cầu đơn nhân,
bạch cầu ưa bazơ, bạch cầu ưa acid, hồng cầu,
tiểu cầu đều được ghi nhận và đưa vào kết quả
thực nghiệm.
Phân tích kết quả và thống kê:
Các số liệu được trình bày là giá trị trung
bình ± Sai số chuẩn của giá trị trung bình (Mean
± SEM). Việc thống kê các số liệu được áp dụng
dựa trên phần mềm thống kê Minitab, sử dụng
phép kiểm t-test để so sánh sự khác biệt giữa các
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Dược Khoa 28
lô. Sự khác nhau được xem là có ý nghĩa khi giá
trị p<0.05, p<0.01 hay p<0.001.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Khảo sát tác động làm giảm bạch cầu của
Carboplatin:
Carboplatin tiêm phúc mạc 200 mg/kg liều
duy nhất
Phương pháp khảo sát tiến hành trên 6
chuột, sau khi tiêm carboplatin với liều 200
mg/kg tất cả chuột đều suy yếu, ngày thứ 2 có 3
chuột bị tiêu chảy nặng, ngày thứ 3 có 4 chuột tử
vong và ngày tiếp theo 2 chuột còn lại đã tử
vong. Như vậy, liều 200 mg/kg carboplatin là
quá độc, không thích hợp để khảo sát.
Carboplatin tiêm phúc mạc 150 mg/kg liều
duy nhất
Tiến hành tương tự, khảo sát trên 6 chuột,
sau khi tiêm phúc mô carboplatin 150 mg/kg
liều duy nhất thì vào ngày thứ 3, cả 6 chuột đã bị
tiêu chảy và rất yếu. Ngày hôm sau tất cả chuột
đều tử vong.
Carboplatin tiêm phúc mạc 100 mg/kg liều
duy nhất
Thí nghiệm được tiến hành trên một lô gồm
6 chuột, cân và lấy máu đuôi chuột vào ngày 0
(trước khi tiêm thuốc), sau đó tiêm phúc mô
carboplatin 100 mg/kg liều duy nhất. Tiếp tục
theo dõi thể trọng và tổng lượng bạch cầu trong
14 ngày sau đó (ngày 1 đến ngày 14). Kết quả
được trình bày trong Hình 1.
Hình 1. Tác động của carboplatin 100 mg/kg, ip trên thể trọng và tổng lượng bạch cầu
Trong quá trình thí nghiệm, thể trọng của
chuột bắt đầu giảm vào ngày thứ 2 và giảm
mạnh nhất vào ngày thứ 5. Từ ngày 6 trở đi,
chuột bớt yếu và dần tăng cân trở lại. Đến ngày
9, thể trọng chuột về lại mức bình thường.
Sau khi tiêm carboplatin 100 mg/kg thể
trọng, tổng lượng bạch cầu bắt đầu giảm vào
ngày thứ 1 và tiếp tục giảm thấp nhất vào ngày
thứ 5. Từ ngày 6 tổng lượng bạch cầu bắt đầu
tăng trở lại. Đến ngày 14, có sự phục hồi hoàn
toàn tổng lượng bạch cầu.
Đánh giá mô hình gây suy giảm bạch cầu
của Carboplatin và đáp ứng của Filgrastim
Trong thí nghiệm này, chúng tôi tiến hành
thử nghiệm trên các lô chuột thí nghiệm như
sau:
Lô chứng (glucose 5%, ip).
Lô gây suy giảm bạch cầu bằng carboplatin
(100 mg/kg, ip, liều duy nhất).
Lô gây suy giảm bạch cầu bằng carboplatin
và được điều trị bằng filgrastim (Neupogen) (50
μg/kg, ip liều duy nhất 24 giờ sau khi tiêm
carboplatin).
Lô gây suy giảm bạch cầu bằng carboplatin
và được điều trị bằng filgrastim (20 μg/kg/ngày,
ip từ ngày 1 đến ngày 5).
Do dung môi sử dụng trong pha chế
carboplatin, filgrastim và G-CSF là glucose 5%
nên ở lô chứng chúng tôi sử dụng glucose 5%.
Mặt khác để đánh giá sự đáp ứng của mô hình
với các thuốc có khả năng phục hồi dòng bạch
cầu, sau khi tiêm carboplatin, chuột được điều
trị bằng filgrastim với liều 50 μg/kg, ip liều duy
nhất, hoặc được điều trị bằng liều filgrastim liều
20 μg/kg, ip vào 5 ngày: 1, 2, 3, 4, 5.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Khoa 29
Các chỉ tiêu đánh giá bao gồm: tổng lượng
bạch cầu, bạch cầu trung tính, bạch cầu lympho,
bạch cầu đơn nhân, bạch cầu ưa acid, bạch cầu
ưa bazơ. Ngoài ra các chỉ số huyết học khác như
hồng cầu, hemoglobin (Hb), hematocrit (Hct), và
tiểu cầu , cũng được theo dõi.
Dựa vào kết quả thống kê và biểu đồ thể
hiện số lượng các loại bạch cầu giữa các lô thử
nghiệm, chúng tôi thấy rằng sau khi tiêm liều
duy nhất carboplatin (100 mg/kg, ip) tổng lượng
bạch cầu giảm xuống rất thấp (giảm trên 70% so
với chỉ số bình thường), trong đó bạch cầu trung
tính, bạch cầu lympho và bạch cầu đơn nhân
đều giảm mạnh. Hai loại bạch cầu quan trọng
giúp cơ thể chống nhiễm trùng là bạch cầu
trung tính và bạch cầu lympho cũng giảm trên
70% so với chỉ số bình thường. Đối với bạch cầu
ưa acid, số lượng ở các lô thực nghiệm đều có
giá trị là 0. Như vậy có thể cho rằng, carboplatin
liều 100 mg/kg ip đã gây suy giảm bạch cầu đạt
mức bệnh lý ở thời điểm 5 ngày sau khi tiêm
liều duy nhất.
Hình 2. Tác động của carboplatin và Filgrastim trên các loại bạch cầu
Theo dõi đáp ứng của mô hình với các thuốc
kích thích tạo dòng bạch cầu, chúng tôi nhận
thấy việc sử dụng filgrastim (Neupogen) liều
duy nhất 50 mcg/kg vào thời điểm 24 giờ sau khi
tiêm carboplatin có tác dụng hồi phục một phần
sự suy giảm bạch cầu. Cụ thể, filgrastim phục
hồi một phần số lượng bạch cầu trung tính và
bạch cầu đơn nhân đạt ý nghĩa thống kê so với
lô gây suy giảm bạch cầu.
Với chế độ liều 20 mcg/kg/ngày sử dụng
trong 5 ngày, filgrastim cũng có khả năng phục
hồi một phần tổng lượng bạch cầu, nhưng trên
bạch cầu trung tính thì mức độ phục hồi gần
như hoàn toàn. Tuy nhiên đối với bạch cầu
lympho, tác dụng của filgrastim hầu như chưa
được thể hiện.
Đánh giá trên tiểu cầu, hồng cầu và các chỉ số
liên quan
Ngoài bạch cầu, chúng tôi cũng đánh giá
mức độ tác động của carboplatin trên số lượng
hồng cầu và các chỉ số liên quan như
Haemoglobin (Hb), Hematocrit (Hct) và số
lượng tiểu cầu. Kết quả được trình bày ở bảng 1:
Bảng 1. Số lượng hồng cầu, các thông số liên quan
và số lượng tiểu cầu
Hồng
cầu
Hb Hct Tiểu cầu
Glucose 5%
(n = 10)
9,54 ±
0,38
152,70 ±
6,54
44,68 ±
1,93
931,60 ±
124,73
Carboplatin 100
mg/kg
(n = 14)
7,71 ±
0,28**
123,21 ±
3,96**
36,49 ±
1,40**
601,14 ±
14,27**
Carboplatin 100
mg/kg + Filgrastim
50 mcg/kg
(n = 10)
8,65 ±
0,38#
134,00 ±
5,45
38,25 ±
1,67
536,50 ±
36,24
Carboplatin 100
mg/kg + Filgrastim
20 mcg/kg/ngày x
5
(n = 6)
8,32 ±
0,46
129,50 ±
5,38
37,38 ±
1,60
413,50 ±
47,31
**P < 0.01 so với lô chứng
#P < 0.05 so với lô carboplatin
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Dược Khoa 30
Vào ngày thứ 5 sau khi tiêm carboplatin, số
lượng hồng cầu giảm có ý nghĩa thống kê so với
lô đối chứng. Song song với sự giảm hồng cầu,
hàm lượng Hb và Hct cũng giảm, mặc dù sự suy
giảm này có thể chưa phản ánh rõ rệt tình trạng
thiếu máu có ý nghĩa lâm sàng. Như vậy
carboplatin cũng gây suy giảm sự tạo hồng cầu
nhưng ở mức độ nhẹ hơn so với bạch cầu.
Filgrastim ở liều duy nhất 50 mcg/kg và 20
mcg/kg/ngày x 5 ngày hầu như không có tác
dụng rõ rệt trên chỉ số hồng cầu và các thông số
liên quan, ngoại trừ số lượng hồng cầu có tăng
trở lại ở lô sử dụng filgrastim 50 mcg/kg. Như
vậy, yếu tố kích thích tạo bạch cầu chỉ thể hiện
rõ trên dòng bạch cầu mà không có tác dụng
kích thích rõ rệt trên hồng cầu.
Tương tự, trên tiểu cầu, carboplatin làm
giảm số lượng tiểu cầu khá mạnh vào ngày thứ
5. Tuy nhiên ở các lô sử dụng filgrastim số lượng
tiểu cầu vẫn ở mức suy giảm như khi sử dụng
carboplatin. Điều này chứng tỏ filgrastim không
có khả năng phục hồi tiểu cầu.
BÀN LUẬN
Hiện nay ở Việt Nam tỉ lệ mắc ung thư ngày
càng tăng, đặc biệt ung thư vú, ung thư phổi và
ung thư buồng trứng. Hóa trị liệu pháp với các
dẫn chất platin (cisplatin, carboplatin, oxaliplatin
) là một trong những điều trị căn bản, đôi khi
là đòi hỏi bắt buộc trong những ca bệnh này. Vì
thế, trong nghiên cứu này chúng tôi chọn
carboplatin để nghiên cứu và xây dựng một mô
hình gây suy giảm bạch cầu thích hợp và hướng
đến áp dụng mô hình cho các thử nghiệm sàng
lọc các thuốc có tác dụng phòng ngừa suy giảm
bạch cầu.
Trong nghiên cứu của Thomas và cộng sự
(1995)(3), nhóm tác giả sử dụng liều duy nhất
carboplatin 125 mg/kg, ip, trên chuột nhắt chủng
Balb/c, kết quả cho thấy số lượng bạch cầu trung
tính giảm mạnh vào khoảng ngày 5 đến ngày 8
sau khi tiêm carboplatin. Trong nghiên cứu này,
carboplatin được sử dụng với liều thấp hơn (100
mg/kg tiêm phúc mô), trên chuột nhắt chủng
Swiss albino, kết quả cho thấy sự suy giảm bạch
cầu trung tính cũng giảm thấp nhất vào ngày 5.
Ngoài ra, các loại bạch cầu khác cũng giảm rất
mạnh, kèm theo sự giảm hồng cầu và tiểu cầu.
Điều này chứng tỏ liều lượng carboplatin sử
dụng như trên có thể phù hợp cho việc xây
dựng mô hình gây suy tủy của thuốc hóa trị và
áp dụng trong sàng lọc các thuốc có tác dụng
bảo vệ hay phục hồi chức năng tạo máu.
Filgrastim thường được sử dụng với chế độ
liều 10 mcg/kg hay 30 mcg/kg trong các thực
nghiệm dược lý(1,2). Trong nghiên cứu này,
chúng tôi thực hiện khảo sát với hai liều là 50
mcg/kg tiêm phúc mô liều duy nhất và 20
mcg/kg/ngày tiêm phúc mô trong 5 ngày và kết
quả cho thấy thuốc có đáp ứng một phần. Có thể
do thời gian sử dụng và theo dõi quá ngắn (5
ngày) nên chưa thể theo dõi tác dụng phục hồi
hoàn toàn của filgrastim. Chúng tôi chưa thử
nghiệm filgrastim ở liều 5 mcg/kg, hay 10
mcg/kg (liều sử dụng thực tế trên lâm sàng). Tuy
nhiên giữa thực nghiệm và lâm sàng có nhiều
khác biệt, vì thế một chế độ liều thích hợp trên
người còn tùy thuộc vào mức độ suy giảm bạch
cầu và sự đáp ứng của bệnh nhân.
Carboplatin gây suy giảm mạnh tiểu cầu và
có ảnh hưởng nhẹ trên hồng cầu và các chỉ số
liên quan. Như vậy ngoài các chỉ tiêu về các loại
bạch cầu, mô hình này có thể áp dụng để đánh
giá thêm về sự phục hồi số lượng tiểu cầu, một
chỉ tiêu khá quan trọng khi đề cập đến các biến
chứng trên quá trình đông máu.
KẾT LUẬN
- Carboplatin với liều duy nhất 100 mg/kg,
tiêm phúc mô gây giảm bạch cầu mạnh nhất ở
thời điểm 5 ngày sau đó. Tác động làm giảm số
lượng các loại bạch cầu cũng thể hiện rõ rệt, nhất
là trên bạch cầu đa nhân trung tính và bạch cầu
lympho. Sự suy giảm bạch cầu ưa acid, ưa bazơ
cũng rất đáng chú ý và có thể chỉ mang tính
tham khảo. Tuy nhiên sự suy giảm bạch cầu này
chỉ mang tính tạm thời, tổng lượng bạch cầu có
thể phục hồi tự nhiên trở về bình thường sau
một đợt khảo sát (14 ngày sau khi tiêm
carboplatin) vì thế, mô hình chỉ có giá trị áp
dụng vào ngày thứ 5.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Khoa 31
- Ngoài ra, carboplatin còn có tác động gây
giảm tiểu cầu một cách rõ rệt và giảm hồng cầu
cũng như các chỉ số huyết học khác, đây cũng là
những thông số rất có giá trị khi áp dụng mô
hình để sàng lọc các thuốc hỗ trợ trong hóa trị
ung thư.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Doanell C. et al. (1998), Systemic Effects of Pegylated
Recombinant Human Megakaryocyte Growth and
Developemant Factor in Combination with Recombinant
Murine Granulocyte Colony-Stimulating Fsctor in a Murine
Model of Myelosuppression, Toxicological Sciences, 45, 77-87.
2. Kabaya K., Obuchi M. (1995) “Experimental study on safety
for granulopoiesis in simultaneous therapy with recombinant
human granulocyte conoly – stimulating factor and
chemotherapy”, Oncol Res, 7 (3-4) 165-71.
3. Thomas R.U., Juan D.C., Songmei Y., Susan S.,
Megakaryocyte Growth and Development Factor
Ameliorates Carboplatin-Induced Thrombocytopenia in
Mice, Blood, Vol 86 (August 1), pp 971-976 (1995).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mo_phong_mo_hinh_gay_giam_bach_cau_thuc_nghiem_bang_carbopla.pdf