Tác động gây suy giảm bạch cầu xảy ra khá
nhiều với các thuốc hóa trị như
cyclophosphamid, methotrexat, 5-FU, cytosin
arabinosid, etoposid, vincristin, adriamycin, ,
các thuốc kháng virus như ribavirin, interferon
alfa-2b, lamivudin, zidovudin Trong nghiên
cứu này chúng tôi chọn ribavirin và interferon
alfa-2b để xây dựng mô hình, do hiện nay tần
suất sử dụng của các thuốc này trong điều trị
viêm gan siêu vi B, C là khá phổ biến. Bên cạnh
đó, chúng tôi chưa tìm thấy tài liệu nghiên cứu
thực nghiệm nào sử dụng 2 thuốc này để xây
dựng mô hình gây suy giảm bạch cầu. Qua quá
trình khảo sát sơ bộ về liều lượng sử dụng của
các thuốc để có thể xây dựng mô hình có thể áp
dụng được, chúng tôi nhận thấy:
Interferon alfa-2b sử dụng với liều cao
(2.000.000 UI/kg tiêm phúc mạc 3 lần/tuần)
không gây suy giảm bạch cầu một cách rõ rệt.
Điều này chứng tỏ nếu chỉ sử dụng riêng biệt
interferon thì rất khó áp dụng để xây dựng được
mô hình.
Khi phối hợp interferon alfa-2b với ribavirin,
tác động gây suy giảm bạch cầu của 2 thuốc này
đã thể hiện trong thời gian theo dõi 14 ngày. Tuy
nhiên, ribavirin gây tiêu chảy và làm cho chuột
tử vong khi sử dụng liều cao. Sau khi khảo sát
một số liều, chúng tôi đã chọn ra được sự phối
hợp interferon alfa-2b liều 200.000 UI/kg tiêm
phúc mô 3 lần/tuần và ribavirin 300 mg/kg uống
hàng ngày. Ở tỷ lệ phối hợp này, chuột có biểu
hiện suy giảm bạch cầu rõ rệt và tỷ lệ chuột tử
vong thấp, vì thế có thể áp dụng được trong
thực tế thực nghiệm.
Với việc xác định công thức máu sau khi gây
suy giảm bạch cầu bằng interferon alfa-2b và
ribavirin, chúng tôi nhận thấy tất cả những loại
bạch cầu quan trọng như bạch cầu trung tính,
bạch cầu lympho và bạch cầu đơn nhân đều
giảm mạnh. Mặc dù thuốc chưa tác động trên
hồng cầu, nhưng độc tính của thuốc cũng đã thể
hiện rõ trên tiểu cầu. Vì vậy đây có thể là một
mô hình thích hợp khi áp dụng trên chuột nhắt
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 226 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô phỏng mô hình gây giảm bạch cầu thực nghiệm bằng Ribavirin và Interferon trên chuột nhắt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Dược Khoa 38
MÔ PHỎNG MÔ HÌNH GÂY GIẢM BẠCH CẦU THỰC NGHIỆM
BẰNG RIBAVIRIN VÀ INTERFERON TRÊN CHUỘT NHẮT
Trần Mạnh Hùng*, Ngô Thị Kim Phúc*
TÓM TẮT
Mục tiêu: “Mô phỏng mô hình gây suy giảm bạch cầu bằng Ribavirin và Interferon trên chuột nhắt” để làm
công cụ sàng lọc và đánh giá khả năng khôi phục bạch cầu của các thuốc thử nghiệm, đặc biệt là các thuốc có
nguồn gốc từ dược liệu.
Phương pháp: Suy giảm bạch cầu được tiến hành bằng cách tiêm phúc mạc Interferon và cho uống
Ribavirin ở các liều lượng khác nhau. Sử dụng buồng đếm Neubauer và xét nghiệm công thức máu để xác định
mô hình phù hợp.
Kết quả: Interferon alfa-2b liều 200.000 UI/kg tiêm phúc mạc 3 lần/tuần phối hợp với Ribavirin liều 300
mg/kg uống hàng ngày cho kết quả gây suy giảm bạch cầu rõ rệt, có ý nghĩa về mặt bệnh lý và thực nghiệm.
Kết luận: Về mặt thực nghiệm, các thiết kế trên về chủng thú vật thí nghiệm, liều lượng, thời gian và
đường sử dụng rất thích hợp cho điều kiện phòng thí nghiệm để tiến hành nghiên cứu.
Từ khóa: Interferon alfa-2b, Ribavirin, Suy giảm bạch cầu, Mô hình thực nghiệm
ABSTRACT
DEVELOPMENT OF A MOUSE MODEL FOR INTERFERON AND RIBAVIRIN
INDUCED NEUTROPENIA
Tran Manh Hung, Ngo Thi Kim Phuc
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 38 - 44
Objective: A mouse model for Interferon and Ribavirin-induced neutropenia was developed to provide a tool
for screening agents that exert protective effect on anticancer drug-induced neutropenia.
Methods: Neutropenia was induced by intraperitoneal injections of Interferon and oral administration of
Ribavirin at different doses. Neubauer cell counter and white blood cell count were applied to determine grade of
neutropenia.
Results: Interferon alfa-2b at a dose of 200.000 UI/kg, ip, 3 times/week combined with oral Ribavirin at a
dose of 300 mg/kg/day x 14 days induced pathologically neutropenia.
Conclusion: This mouse model can be applied for screening agents that exert protective effect on
Carboplatin-induced neutropenia..
Key words: Interferon alfa-2b, Ribavirin, Neutropenia, Mouse model
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bạch cầu có vai trò hết sức quan trọng trong
việc bảo vệ cơ thể chống lại sự xâm nhập của các
mầm bệnh từ bên ngoài như vi khuẩn, nấm,
virus Giảm số lượng bạch cầu sẽ làm tăng
nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội, đây
cũng là nguyên nhân chủ yếu gây tử vong cho
người bệnh. Thuốc điều trị thường là nguyên
nhân chính gây giảm bạch cầu qua nhiều cơ chế
khác nhau; trong đó các thuốc kháng ung thư,
kháng virus là một trong những nhóm thuốc có
nguy cơ cao nhất gây mất bạch cầu.
Ribavirin là chất tổng hợp có cấu trúc tương
*Khoa Dược, ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Trần Mạnh Hùng ĐT: 093.7746.596 Email: manhung1969@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Khoa 39
tự nucleosid guanosin, ức chế sự phiên bản của
virus. Ribavirin được chỉ định phối hợp với
interferon alfa-2b tái tổ hợp trong điều trị viêm
gan C mạn tính ở những bệnh nhân từ 3 tuổi trở
lên mà trước đó chưa được điều trị với
interferon alfa hoặc ở những bệnh nhân 18 tuổi
trở lên bị tái phát sau điều trị bằng interferon
alfa. Ribavirin còn được chỉ định điều trị nhiễm
virus herpes, cúm A, cúm B và các bệnh nhiễm
virus khác: sởi, quai bị, thủy đậu, virus hợp bào
đường hô hấp(1,2).
Interferon alfa-2b có đặc tính chống ung thư,
chống tăng sản, điều hòa miễn dịch và chống
siêu vi. Interferon alfa gắn vào receptor bề mặt tế
bào và khởi tạo những những thay đổi phức tạp
bên trong tế bào, bao gồm: sự giảm tổng hợp
một số enzym, kiềm hãm sự tăng sản tế bào,
hoạt động điều hòa miễn dịch như làm tăng
hoạt tính thực bào của đại thực bào và tăng tính
gây độc tế bào đặc thù của lympho bào đối với
các tế bào đích, ức chế sự sao chép virus trong
các tế bào nhiễm siêu vi(3).
Trước đây, tình trạng giảm bạch cầu do
thuốc kháng virus gây ra buộc phải giảm hoặc
ngừng liệu pháp trị liệu, hiện nay, khó khăn này
đã được khắc phục nhờ việc sử dụng các yếu tố
kích thích hệ tạo máu như G-CSF (Granulocyte -
Colony Stimulating Factor: yếu tố kích thích
dòng bạch cầu hạt), GM-CSF (Granulocyte
macrophage – Conoly Stimulating Factor: yếu tố
kích thích dòng bạch cầu hạt - đại thực bào.
Ngoài các yếu tố trên, hiện nay việc phát triển
các thuốc kích thích hệ tạo máu bằng công nghệ
sinh học, bằng các thuốc các thuốc có nguồn gốc
dược liệu cũng đang được đẩy mạnh. Vì vậy
việc xây dựng các mô hình dược lý phù hợp để
phục vụ cho các nghiên cứu này là cần thiết.
Với mục đích trên, chúng tôi đặt mục tiêu
mô phỏng mô hình gây suy giảm bạch cầu trên
chuột nhắt bằng thuốc kháng virus ribavirin và
interferon.
VẬT LIỆU – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thú vật thử nghiệm
Chuột nhắt trắng chủng ddY, khỏe mạnh,
không dị tật, không có biểu hiện bất thường, do
viện Vắcxin và Sinh phẩm Y tế Nha Trang cung
cấp. Chuột thí nghiệm là chuột đực có trọng
lượng khoảng 20 ± 2 gam lúc bắt đầu tiến hành
thí nghiệm; hàng ngày chuột được cung cấp đủ
thức ăn và nước uống. Chuột thí nghiệm được
phân ra thành các lô thử nghiệm sau:
- Lô chứng
- Lô gây giảm bạch cầu bằng interferon alfa-2b
- Lô gây giảm bạch cầu bằng interferon alfa-
2b và ribavirin.
Hóa chất và thuốc thử nghiệm:
- Uniferon (interferon alfa-2b 5MIU): do
công ty Getz Pharma sản xuất, số ĐK: QLSP-
0267-09, hạn sử dụng: 03/2011, dạng bào chế:
thuốc bột pha tiêm.
- Ribazole (Ribavirin 500 mg): do công ty
Getz Pharma sản xuất, số ĐK: VN-1841-06, hạn
sử dụng: 05/2012, dạng bào chế: viên nén.
Phương pháp thử nghiệm
Thăm dò tác dụng gây giảm tổng lượng bạch
cầu trên buồng đếm Neubauer:
Thí nghiệm này nhằm dò tìm liều lượng
thích hợp các thuốc thử nghiệm (interferon,
ribavirin) và thời gian gây giảm bạch cầu, để từ
đó có thể chọn các thông số cho thí nghiệm xác
định nhằm xây dựng mô hình gây giảm bạch
cầu. Trong thí nghiệm này, số lượng chuột sử
dụng hạn chế (từ 4-6 con cho mỗi thí nghiệm).
Xác định các chỉ số huyết học của mô hình
trên máy xét nghiệm huyết học
Các mẫu máu được lấy từ tim chuột sau khi
gây mê bằng đá C02 và chứa trong các ống chứa
mẫu có chất chống đông EDTA (do Bệnh viện
ĐH Y Dược cơ sở 4 cung cấp). Mẫu máu được
xét nghiệm trên máy EXCELL-2208, Bệnh viện
ĐH Y Dược cơ sở 4):
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Dược Khoa 40
Các thông số về số lượng bạch cầu trung
tính, bạch cầu lympho, bạch cầu đơn nhân,
bạch cầu ưa bazơ, bạch cầu ưa acid, hồng cầu,
tiểu cầu đều được ghi nhận và đưa vào kết quả
thực nghiệm.
Phân tích kết quả và thống kê:
Các số liệu được trình bày là giá trị trung
bình ± Sai số chuẩn của giá trị trung bình (Mean
± SEM). Việc thống kê các số liệu được áp dụng
dựa trên phần mềm thống kê Minitab, sử dụng
phép kiểm t-test để so sánh sự khác biệt giữa 2
lô. Sự khác nhau được xem là có ý nghĩa khi giá
trị p<0.05, p<0.01 hay p<0.001.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Chọn liều lượng thử nghiệm interferon
alfa-2b và ribavirin
Interferon alfa-2b: được pha trong dung dịch
NaCl 0,9% pha tiêm với liều 100.000 UI/kg,
200.000 UI/kg, 400.000 UI/kg, 600.000 UI/kg,
1.000.000 UI/kg, 1.500.000 UI/kg, 2.000.000 UI/kg
và được tiêm phúc mô 3 lần/tuần với thể tích
tiêm 0,1 ml/10 g thể trọng.
Ribavirin: được pha trong nước cất với các
liều: 200 mg/kg, 300 mg/kg, 400 mg/kg được
cho uống hàng ngày với thể tích 0,1 ml/10 g
thể trọng.
Chuột thí nghiệm được tiến hành theo các lô
thử nghiệm sau:
Interferon 1.500.000 UI/kg IP 3 lần/tuần (14
ngày).
Interferon 2.000.000 UI/kg IP 3 lần/tuần (14
ngày).
Interferon 100.000 UI/kg IP 3 lần/tuần +
ribavirin 200 mg/kg uống hàng ngày (14 ngày).
Interferon 200.000 UI/kg IP 3 lần/tuần +
ribavirin 400 mg/kg uống hàng ngày (14 ngày).
Interferon 200.000 UI/kg IP 3 lần/tuần +
ribavirin 200 mg/kg uống hàng ngày (21 ngày).
Interferon 400.000 UI/kg IP 3 lần/tuần +
ribavirin 200 mg/kg uống hàng ngày (14 ngày)
Interferon 600.000 UI/kg IP 3 lần/tuần +
ribavirin 200 mg/kg uống hàng ngày (18 ngày).
Interferon 1.000.000 UI/kg IP 3 lần/tuần +
ribavirin 200 mg/kg uống hàng ngày (18 ngày).
Interferon 200.000 UI/kg IP 3 lần/tuần +
ribavirin 300 mg/kg uống hàng ngày (14 ngày).
Kết quả khảo sát các liều thử nghiệm được
trình bày trong Hình 1.
Sau khi tiêm interferon alfa-2b liều 1.500.000
UI/kg (Hình 1A) hay 2.000.000 UI/kg (Hình 1B),
tổng lượng bạch cầu hầu như không thay đổi vì
thế thí nghiệm được tiếp tục bằng cách kết hợp
Ribavirin và Interferon.
Sự kết hợp Ribavirin và Interferon gây giảm
bạch cầu lệ thuộc vào liều lượng sử dụng. Với
liều ribavirin > 300 mg/kg, tỷ lệ chuột tử vong
cao, trong khi đó sự gia tăng liều lượng
interferon không làm tăng thêm mức độ suy
giảm bạch cầu (Hình 1 C, D, E, F, G, H). Ở liều
lượng kết hợp ribavirin 300 mg/kg với interferon
200.000 UI/kg (Hình 1I), tổng lượng bạch cầu
giảm khá rõ và duy trì trong suốt thời gian theo
dõi. Bên cạnh đó, thể trọng của chuột thí nghiệm
cũng giảm rõ rệt (Hình 1 K). Vì thế, chúng tôi
quyết định chọn liều lượng phối hợp này để xây
dựng mô hình.
Đánh giá mô hình gây suy giảm bạch cầu
của Ribavirin và Interferon
Để đánh giá mô hình, chuột thí nghiệm
được chia ra làm các lô như sau:
Lô đối chứng (NaCl 0,9% ip 3 lần/tuần, nước
cất uống hàng ngày)
Lô gây suy giảm bạch cầu bằng interferon
alfa-2b 200.000 UI/kg ip 3 lần/tuần và ribavirin
300 mg/kg uống hàng ngày
Chuột thí nghiệm được lấy máu để tiến
hành xét nghiệm công thức máu vào các ngày 7
và 14. Các chỉ tiêu đánh giá bao gồm: tổng lượng
bạch cầu, bạch cầu trung tính, bạch cầu lympho,
bạch cầu mono, bạch cầu ưa acid, bạch cầu ưa
bazơ, hồng cầu và tiểu cầu.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Khoa 41
Hình 1. Tác động của Interferon alfa-2b và Ribavirin trên tổng lượng bạch cầu
Tổng lượng bạch cầu
Hình 2. Tác động của Interferon alfa-2b 200.000
UI/kg, ip + Ribavirin 300 mg/kg, po trên tổng lượng
bạch cầu
Dựa vào kết quả thống kê và biểu đồ thể
hiện tổng lượng bạch cầu giữa các lô, chúng tôi
nhận thấy rằng:
Sự thay đổi về tổng lượng bạch cầu của các
lô đối chứng (NaCl 0,9%) giữa các thời điểm 7 và
14 ngày so với chỉ số trước thực nghiệm (ngày 0)
dao động không đáng kể. Như vậy trong suốt
quá trình thử nghiệm yếu tố môi trường và điều
kiện nuôi dưỡng không ảnh hưởng đến tổng
lượng bạch cầu.
Vào ngày 7, tổng lượng bạch cầu ở lô tiêm
interferon alfa-2b và uống ribavirin giảm nhiều
và so với lô đối chứng, sự suy giảm bạch cầu
này có khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
Vào ngày 14, tổng lượng bạch cầu ở lô tiêm
interferon alfa-2b và uống ribavirin giảm tương
tự như ở ngày 7 và giảm nhiều so với lô đối
chứng, sự suy giảm bạch cầu này khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p<0,01.
Như vậy sau khi tiêm interferon alfa-2b
liều 200.000 UI/kg và ribavirin liều 300 mg/kg
uống hàng ngày, tổng lượng bạch cầu giảm
vào ngày thứ 7 và duy trì cho đến ngày theo
dõi thứ 14.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Dược Khoa 42
Đánh giá trên các loại bạch cầu
Trong quá trình thực nghiệm, chỉ số các loại
bạch cầu trước thực nghiệm (ngày 0) và của lô
chứng ở các thời điểm ngày 7 và 14 dao động
không đáng kể, ngoại trừ trường hợp bạch cầu
đơn nhân (lô chứng ngày thứ 14 có số lượng
tăng cao) (Hình 3). Như vậy sự thay đổi về tổng
lượng bạch cầu ở lô gây suy giảm bạch cầu bằng
interferon alfa-2b và ribavirin có thể gán cho tác
động của thuốc.
Vào ngày 7, các loại bạch cầu đều giảm so
với lô chứng, trong đó số lượng bạch cầu
lympho, bạch cầu đơn nhân và bạch cầu ưa bazơ
giảm rất mạnh, có ý nghĩa thống kê so với lô
chứng (p<0,01) (Hình 3). Đối với bạch cầu ưa
acid, số lượng hầu như không có biến đổi rõ rệt.
Kết quả về sự suy giảm bạch cầu do interferon
và ribavirin gây ra ở ngày thứ 14 cũng xảy ra
tương tự như ngày 7.
Hình 3. Tác động của Interferon alfa-2b 200.000 UI/kg, ip + Ribavirin 300 mg/kg, po trên từng loại bạch cầu
Ngoài bạch cầu, chúng tôi cũng đánh giá
mức độ tác động của Interferon và Ribavirin trên
số lượng hồng cầu và các chỉ số liên quan như
Haemoglobin (Hb), Hematocrit (Hct) và số
lượng tiểu cầu. Kết quả được trình bày ở Hình 4.
Vào ngày thứ 7 và 14 sau khi tiêm interferon
alfa-2b và uống ribavirin, số lượng hồng cầu
không thay đổi so với lô đối chứng. Tương tự,
hàm lượng Hb và Hct cũng không bị suy giảm ở
lô sử dụng interferon và ribavirin, ngoại trừ ở
ngày thứ 14, chỉ số hematocrit có giảm so với lô
chứng. Như vậy interferon alfa-2b và ribavirin
chưa gây suy giảm sự tạo hồng cầu có ý nghĩa
phản ánh sự thiếu máu lâm sàng.
Interferon alfa-2b và ribavirin làm giảm
mạnh số lượng tiểu cầu vào ngày thứ 7 và 14 của
thực nghiệm. Như vậy hai thuốc này không
những ảnh hưởng lên số lượng bạch cầu, mà còn
ảnh hưởng lên số lượng tiểu cầu.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Khoa 43
Hình 4. Tác động của Interferon alfa-2b 200.000 UI/kg, ip + Ribavirin 300 mg/kg, po trên hồng cầu và tiểu cầu
BÀN LUẬN
Tác động gây suy giảm bạch cầu xảy ra khá
nhiều với các thuốc hóa trị như
cyclophosphamid, methotrexat, 5-FU, cytosin
arabinosid, etoposid, vincristin, adriamycin,,
các thuốc kháng virus như ribavirin, interferon
alfa-2b, lamivudin, zidovudin Trong nghiên
cứu này chúng tôi chọn ribavirin và interferon
alfa-2b để xây dựng mô hình, do hiện nay tần
suất sử dụng của các thuốc này trong điều trị
viêm gan siêu vi B, C là khá phổ biến. Bên cạnh
đó, chúng tôi chưa tìm thấy tài liệu nghiên cứu
thực nghiệm nào sử dụng 2 thuốc này để xây
dựng mô hình gây suy giảm bạch cầu. Qua quá
trình khảo sát sơ bộ về liều lượng sử dụng của
các thuốc để có thể xây dựng mô hình có thể áp
dụng được, chúng tôi nhận thấy:
Interferon alfa-2b sử dụng với liều cao
(2.000.000 UI/kg tiêm phúc mạc 3 lần/tuần)
không gây suy giảm bạch cầu một cách rõ rệt.
Điều này chứng tỏ nếu chỉ sử dụng riêng biệt
interferon thì rất khó áp dụng để xây dựng được
mô hình.
Khi phối hợp interferon alfa-2b với ribavirin,
tác động gây suy giảm bạch cầu của 2 thuốc này
đã thể hiện trong thời gian theo dõi 14 ngày. Tuy
nhiên, ribavirin gây tiêu chảy và làm cho chuột
tử vong khi sử dụng liều cao. Sau khi khảo sát
một số liều, chúng tôi đã chọn ra được sự phối
hợp interferon alfa-2b liều 200.000 UI/kg tiêm
phúc mô 3 lần/tuần và ribavirin 300 mg/kg uống
hàng ngày. Ở tỷ lệ phối hợp này, chuột có biểu
hiện suy giảm bạch cầu rõ rệt và tỷ lệ chuột tử
vong thấp, vì thế có thể áp dụng được trong
thực tế thực nghiệm.
Với việc xác định công thức máu sau khi gây
suy giảm bạch cầu bằng interferon alfa-2b và
ribavirin, chúng tôi nhận thấy tất cả những loại
bạch cầu quan trọng như bạch cầu trung tính,
bạch cầu lympho và bạch cầu đơn nhân đều
giảm mạnh. Mặc dù thuốc chưa tác động trên
hồng cầu, nhưng độc tính của thuốc cũng đã thể
hiện rõ trên tiểu cầu. Vì vậy đây có thể là một
mô hình thích hợp khi áp dụng trên chuột nhắt.
KẾT LUẬN
- Interferon alfa-2b liều 200.000 UI/kg tiêm
phúc mạc 3 lần/tuần phối hợp với ribavirin liều
300 mg/kg uống hàng ngày cho kết quả gây suy
giảm bạch cầu rõ rệt, có ý nghĩa về mặt bệnh lý
và thực nghiệm.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Dược Khoa 44
- Thời điểm giảm bạch cầu thể hiện rõ ở
ngày thứ 7 và duy trì cho đến khi kết thúc thực
nghiệm ở ngày thứ 14. Các loại bạch cầu trung
tính, bạch cầu lympho, bạch cầu đơn nhân, bạch
cầu ưa bazơ đều giảm rõ rệt, trong đó bạch cầu
lympho giảm rõ nhất. Số lượng bạch cầu ưa acid
hầu như không bị ảnh hưởng.
- Mô hình này cũng gây suy giảm số lượng
tiểu cầu khá rõ rệt. Điều này cũng cung cấp
thêm cho mô hình một thông số đánh giá có ý
nghĩa khi áp dụng mô hình để sàng lọc các
thuốc có tác dụng phòng ngừa suy tủy.
- Về mặt thực nghiệm, các thiết kế trên về
chủng thú vật thí nghiệm, liều lượng, thời gian
và đường sử dụng rất thích hợp cho điều kiện
phòng thí nghiệm để tiến hành nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Drug Information Handbook International, pages 821-825.
2. Goodman & Gilman’s The Pharmacological Basic of
Therapeutic, pages 1190-1194.
3. Merck (1997), Davis’s Drug Guide, Pages 806-887.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mo_phong_mo_hinh_gay_giam_bach_cau_thuc_nghiem_bang_ribaviri.pdf