Mở rộng hoạt động cho vay trả góp tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU Trong những năm gần đây, trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, Việt Nam cũng đã có những bước đi riêng của mình, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng cao hàng đầu thế giới, tình hình chính trị ổn định nhờ đó mà đời sống người dân cũng không ngừng được nâng cao. Theo điều tra nghiên cứu gần đây nhất về mức thu nhập của các hộ gia đình ở thành thị tại 36 thành phố lớn trong cả nước, tỷ lệ hộ gia đình có thu nhập trên 3 triệu đồng một tháng tăng từ 36% năm lên 64% năm 2005, và hiện nay trên 75%. Tuy vậy, thực tế lại cho thấy rằng, với mức thu nhập ấy, các hộ gia đình chỉ có thể đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu, còn những công việc hay nhu cầu có chi phí lớn, thì họ phải tích cóp hàng chục năm mới có thể có được. Họ mong muốn làm sao để sử dụng nguồn tài chính sẽ tiết kiệm được trong tương lai phục vụ cho nhu cầu hiện tai, nhằm phát huy tối đa giá trị sử dụng và lợi ích sản phẩm mà họ cần. Một trong những giải pháp có thể sử dụng nhằm giải quyết vấn để trên là sự tham gia của các NHTM. Các NHTM sẽ tài trợ cho các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế bằng hình thức cho vay trả góp. Tức là ngân hàng sẽ cho khách hàng vay số tiền cần thiết ở hiện tại và khách hàng sẽ thanh toán dần số tiền gốc và lãi vào các thời điểm trong tương lai sao cho phù hợp với nguồn thu nhập của mình và đúng với yêu cầu của ngân hàng. Trải qua nhiều thăng trầm trong quá trình hình thành và phát triển, NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank) đang ngày càng lớn mạnh và khẳng định vị trí của mình trong ngành ngân hàng Việt Nam. Trong thời đại hội nhập và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, VPBank đã chọn lối đi riêng cho mình để vượt qua phân khúc thị trường phía trước. Với mục tiêu trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam thì cho vay trả góp đang là một sản phẩm chủ lực của ngân hàng. Tuy nhiên việc xây dựng và phát triển sản phẩm trong một điều kiện nền kinh tế đang có nhiều biến động, VPBank vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong mở rộng và phát triển loại hình cho vay hấp dẫn này. Vì thế, em đã chọn đề tài: “Mở rộng hoạt động cho vay trả góp tại NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam” làm chuyên đề tốt nghiệp. Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, chuyên đề gồm có 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay trả góp tại VPBank Chương 3: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay trả góp tại VPBank Em xin chân thành cảm ơn ngân hàng VPBank, khoa Ngân hàng - Tài chính trường Đại học Kinh tế quốc dân và đặc biệtt là sự giúp đỡ tận tình của cô giáo Lê Hương Lan đã hướng dẫn em trong suốt thời gian thực tập và tạo điều kiện cho em hoàn thành chuyên đề này. Do hạn chế về nhiều mặt, bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các anh chị công tác tại ngân hàng VPBank. Em xin chân thành cảm ơn! MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRẢ GÓP CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3 1.1 Tổng quan về ngân hàng thương mại 3 1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại 3 1.1.2 Các hoạt động chủ yếu của NHTM 3 1.2 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại 7 1.2.1 Khái niệm và nguyên tắc cho vay của ngân hàng thương mại 7 1.2.2 Các hình thức cho vay của NHTM 8 1.3 Hoạt động cho vay trả góp của NHTM 12 1.3.1 Khái niệm cho vay trả góp (CVTG) 12 1.3.2 Vai trò của cho vay trả góp 12 1.3.3 Đặc điểm hoạt động CVTG. 15 1.4 Mở rộng hoạt động CVTG của NHTM. 23 1.4.1 Các chỉ tiêu phản ánh mở rộng hoạt động CVTG của NHTM. 23 1.4.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự mở rộng hoạt động CVTG của NHTM 25 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRẢ GÓP TẠI VPBANK 32 2.1 Tổng quan về NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank) 32 2.1.1 Sự hình thành và phát triển 32 2.1.2 Chức năng và hoạt động của VPBank 36 2.1.3 Cơ cấu tổ chức 37 2.1.4 Tình hình hoạt động của VPBank 38 2.2 Thực trạng hoạt động CVTG tại VPBank 42 2.2.1 Các vấn đề liên quan đến hoạt động CVTG tại VPBank 43 2.2.2 Thực trạng hoạt động CVTG tại VPbank 49 2.3 Đánh giá hoạt động CVTG tại VPBank 60 2.3.1 Thành tựu đạt được và nguyên nhân 60 2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân. 64 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRẢ GÓP TẠI VPBANK 70 3.1 Định hướng phát triển của ngân hàng 70 3.1.1 Triển vọng của hoạt động cho vay trả góp tại VPBank 70 3.1.2 Định hướng phát triển hoạt động CVTG của VPBank trong thời gian tới. 72 3.2 Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động CVTG tại VPBank 73 3.2.1 Hoàn thiện chính sách tín dụng. 73 3.2.2 Tăng cường hơn nữa hoạt động marketing. 74 3.2.3 Phát triển mở rộng đối tượng cho vay trả góp 76 3.2.4 Mở rộng quan hệ với các đơn vị hỗ trợ hoạt động CVTG của ngân hàng 77 3.2.5 Thay đổi thủ tục và thể lệ cho vay hợp lý hơn. 78 3.2.6 Nâng cao chất lượng và số lượng nguồn nhân lực 79 3.3 Một số kiến nghị 80 3.3.1 Kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nước. 80 3.3.2 Đối với ngân hàng nhà nước 82 KẾT LUẬN 84 DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU ĐỒ SƠ ĐỒ Sơ đồ 2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của VPBank Sơ đồ 2.2: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của VPBank chi nhánh Trần Hưng Đạo BẢNG Bảng 2.1: Tình hình dư nợ tín dụng tại VPBank Bảng 2.2: Quy định về mặt thời gian của quy trình CVTG Bảng 2.3: Doanh số CVTG tại VPBank qua các năm Bảng 2.4: Cơ cấu doanh số CVTG theo sản phẩm Bảng 2.5: Dư nợ CVTG tại VPbank Bảng 2.6:Cơ cấu dư nợ CVTG tại VPBank theo sản phẩm Bảng 2.7: Cơ cấu dư nợ CVTG tại VPbank theo thời hạn Bảng 2.8: Dư nợ CVTG trên vốn huy động Bảng 2.9: Lợi nhuận CVTG tại VPBank Bảng 2.10 : Tỷ trọng nợ quá hạn CVTG Bảng 2.11: Tỷ trọng nợ quá hạn CVTG trên tổng nợ quá hạn Bảng 2.12: Nợ quá hạn CVTG mua ô tô mà mua - xây dựng - sửa chữa nhà Bảng 2.13: Thu nhập bình quân đầu người trên cả nước BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1: Nguồn vốn huy động Vpbank qua các năm Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ nợ xấu tại VPBank qua các năm Biểu đồ 2.3: Tỷ trọng doanh số CVTG mua ô tô và mua nhà tại VPBank Biểu đồ 2.4: Dư nợ CVTG tại VPBank qua các năm Biểu đồ 2.5: Cơ cấu dư nợ CVTG tại VPBank theo sản phẩm Biểu đồ 2.6 Lợi nhuận CVTG tại VPBank DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1. NHTM: Ngân hàng thương mại 2. CVTG : Cho vay trả góp 3. CBTD : Cán bộ tín dụng 4. TSĐB : Tài sản đảm bảo 5. NV A/O: Nhân viên tín dụng 6. NHNN: Ngân hàng nhà nước

doc89 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1763 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mở rộng hoạt động cho vay trả góp tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0,34%. Như vậy, so với năm 2005, tỷ trọng nợ quá hạn CVTG chỉ bằng 1/4 năm 2005. Song về mặt tuyệt đối, số dư nợ quá hạn CVTG lại ngày càng tăng lên. Trong năm 2005, số dư nợ quá hạn CVTG là 8,27 tỷ đồng, số dư này tăng lên 10,15 tỷ đồng năm 2006 và 19,67 tỷ đồng năm 2007. Chỉ sau 2 năm thì số dư nợ quá hạn CVTG năm 2007 đã tăng gấp 2,37 lần năm 2005. Bảng 2.11 : Tỷ trọng nợ quá hạn CVTG trên tổng nợ quá hạn Đơn vị : tỷ đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Tổng nợ quá hạn 22,7 29,17 64,76 Nợ quá hạn CVTG 8,27 10,15 19,67 Nợ quá hạn khác 14,43 19,02 45,09 Tỷ trọngnợ quá hạn CVTG/ Tổng nợ quá hạn 36,43% 34,80% 30,37% (Nguồn: Bản tin và báo cáo tín dụng VPBank) So với tổng nợ quá hạn, nợ quá hạn CVTG chiếm 36,43% năm 2005, giảm xuống còn 34,80% năm 2006 và 30,37% năm 2007. Như vậy, tỷ trọng nợ quá hạn CVTG không những ngày càng giảm so với tổng dư nợ CVTG mà còn giảm so với tổng nợ quá hạn. Điều này chứng tỏ rằng, hoạt động CVTG không những ngày càng mở rộng mà chất lượng tín dụng cũng không ngừng được nâng cao. Bảng 2.12: Dư nợ CVTG mua ô tô mà mua - xây dựng - sửa chữa nhà Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Tổng nợ quá hạn CVTG 8,27 100% 10,15 100% 19,67 100% Nợ quá hạn CVTG mua ô tô 3,01 36,34% 3,57 35,19% 6,39 32,50% Nợ quá hạn CVTG mua nhà 3,80 45,96% 4,39 43,27% 9,49 48,25% Nợ quá hạn CVTG khác 1,46 17,70% 2,19 21,54% 3,79 19,25% (Báo cáo tín dụng VPBank ) Tổng nợ quá hạn CVTG mua ô tô năm 2005 là 3,01 tỷ đồng tỷ đồng, chiếm 36,34% tổng nợ quá hạn CVTG. CVTG mua xây dựng sữa chữa nhà có số dư nợ quá hạn là 3,80 tỷ đồng, chiếm đến 45,96 % tổng nợ quá hạn CVTG của VPBank. Trong khi đó các sản phẩm cho vay trả góp khác có số dư nợ quá hạn là 1,46 tỷ đồng tức chiếm 17,7% tổng nợ quá hạn CVTG. Sang năm 2006, tình hình nợ quá hạn CVTG mua nhà và ô tô có khả quan hơn về mặt tương đối: tỷ trọng nợ quá hạn mua ô tô và mua nhà trên tổng nợ quá hạn giảm xuống so với 2005. Cụ thể là năm 2006, tỷ trọng nợ quá hạn CVTG mua ô tô là 35,19% so với tổng nợ quá hạn CVTG còn tỷ trọng nợ quá hạn CVTG mua nhà chiếm 43,27%. Về tuyệt đối, số dư nợ quá hạn CVTG ngày một tăng lên cùng với sự gia tăng về dư nợ CVTG. Nợ quá hạn CVTG mua ô tô là 3,57 tỷ đồng, tăng 0,56 tỷ đồng so với 2005 còn 4,39 tỷ đồng là số dư nợ quá hạn CVTG mua nhà, tăng 0,59 tỷ đồng so với 2005. Tình hình có một ít thay đổi trong năm 2007, tỷ trọng nợ quá hạn CVTG mặc dù giảm đi, tỷ trọng của nợ quá hạn CVTG mua ô tô cũng giảm từ 35,19% xuống còn 32,50% tức là giảm đi 2,69%. Trong khi đó tỷ trọng nợ quá hạn CVTG mua - xây dựng sửa chữa nhà lại tăng lên và tăng từ 43,27% lên 48,25% tức là tăng 4,98%. Số dư nợ quá hạn CVTG mua ô tô trong năm này đã tăn lên đến 6,39 tỷ đồng, cao gấp 1,87 lần năm 2006. Còn đối với CVTG mua - xây dựng sửa chữa nhà, số dư nợ quá hạn là 9,49 tỷ đồng, tăng 5,1 tỷ đồng tương đương tăng hơn gấp 2 lần năm 2006. 2.3 Đánh giá hoạt động CVTG tại VPBank 2.3.1 Thành tựu đạt được và nguyên nhân Thành tựu đạt được Trong những năm qua, có thể nói, hoạt động CVTG tại VPBank luôn diễn ra sôi động và đã thu được một số thành quả đáng khích lệ: Một là, quy mô của hoạt động CVTG ngày một tăng cao. Các chỉ tiêu phản ánh sự mở rộng của CVTG là dư nợ và doanh số CVTG đều có tốc độ tăng trưởng khá cao và thường cao tương đương hoặc cao hơn tốc độ tăng trưởng của hoạt động tín dụng nói chung. Thêm vào đó là tỷ trọng dư nợ và tỷ trọng doanh số CVTG trong tổng dư nợ và doanh số của ngân hàng ngày càng cao cho thấy rằng hoạt động CVTG ngày càng được mở rộng về quy mô. Hai là, lợi nhuận từ hoạt động CVTG không ngừng gia tăng và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng lợi nhuận mà ngân hàng thu được. Đây là tiêu chí quan trọng phản ánh kết quả đạt được từ hoạt động cho vay trả góp. Chính vì lợi ích và hiệu quả mà hoạt động này mang lại là rất lớn càng tạo động lực cho VPBank mở rộng và phát triển hoạt động này hơn nữa. Ba là, tỷ trọng dư nợ CVTG trên tổng nguồn vốn huy động ngày càng tăng cao. Chỉ tiêu này phản ánh sự tập trung nguồn lực vào hoạt động CVTG. Tỷ trọng này ngày càng tăng cao chứng tỏ rằng VPBank đang ưu tiên nguồn lực cho hoạt động CVTG, bởi CVTG cũng là một trong những sản phẩm chủ chốt mà VPBank quan tâm trong quá trình thực hiện mục tiêu trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam. Bốn là, chất lượng tín dụng CVTG ngày càng được cải thiện. Lợi nhuận từ hoạt động CVTG ngày một tăng lên và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng lợi nhuận của ngân hàng. Tỷ trọng nợ quá hạn CVTG ngày càng giảm trong tổng nợ quá hạn của ngân hàng. So với tổng dư nợ, tỷ trọng nợ quá hạn CVTG cũng ngày một giảm đi. Nguyên nhân Giải thích cho sự tăng truởng mạnh cả về doanh số lẫn dư nợ của hoạt động CVTG nói chung và hoạt động CVTG mua ô tô và mua - xây dựng - sửa chữa nhà nói riêng có káh nhhiều lý do: Nguyên nhân khách quan Về phía khách hàng Đời sống người dân ngày càng được nâng cao khi mà thu nhập họ ngày một cao hơn. Nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao để phục vụ tốt hơn cho đời sống vật chất và tinh thần của mình. Tuy nhiên thu nhập ấy lại cố định hàng tháng, hàng kì và chưa phải là cao để khách hàng có thể trang trải đủ 100% chi phí cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, nhất là những khoản chi tiêu lớn như mua nhà hay mua ô tô. Do đó, khách hàng đến với sản phẩm CVTG của ngân hàng ngày càng nhiều hơn, phục vụ tốt hơn cho cuộc sống hiện tai mà vẫn đảm bảo khả năng chi trả trong tương lai. Bảng 2.12: Thu nhập bình quân đầu người trên cả nước Đơn vị: USD Năm 2005 2006 2007 Thu nhập bình quân đầu người 638,4 722 835 (Nguồn: Tổng cục thống kê và thời báo kinh tế Việt Nam 2007) Nền kinh tế tăng trưởng mạnh qua các năm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp gia tăng sản xuất kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận. Các doanh nghiệp kinh doanh vận tải, du lịch khách sạn cũng tận dụng cơ hội mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh trong một môi trường kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ này, vừa phục vụ tốt hơn cho nhu cầu khách hàng vừa thu lợi nhuận về cho mình. Các doanh nghiệp sẽ tìm tới ngân hàng tìm kiếm sự hỗ trợ về vốn bởi vốn tự có của họ thường nhỏ sẽ không thể đáp ứng được nhu cầu kinh doanh và cũng là để phục vụ tốt hơn nhu cầu quay vòng vốn của mình. Môi trường pháp lý Các quy định về hoạt động cho vay của NHNN ngày càng được bổ sung và hoàn thiện, giúp cho VPBank có đủ cơ sở pháp lý hơn làm căn cứa cho hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động CVTG nói riêng của mình. Nguyên nhân chủ quan Bắt đầu từ 2005, VPBank đã thật sự thoát khỏi kiểm soát đặc biệt của NHNN, từng bước khẳng định vị thế của mình trên thị trường tài chính Việt Nam. VPBank đã mở rộng thêm mạng lưới hoạt động, tăng cường công tác quản cáo tiếp thị cũng như đào tạo nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng, bước đầu tạo dựng uy tín đối với khách hàng, tạo dựng thương hiệu cho VPBank. Trong giai đoạn này (2006) VPBank tự hào là ngân hàng đầu tiên ở Việt Nam thực hiện sản phẩm CVTG mua ô tô cũ nhập khẩu, lượng khách hàng đến với VPBank mua ô tô cũ nhập khẩu đã góp phần làm cho doanh số CVTG mua ô tô của VPBank tăng trưởng với tốc độ cao. Đối với CVTG mua - xây dựng - sửa chữa nhà, doanh số và dư nợ không ngừng tăng lên và tăng gấp nhiều lần so với năm trước là nhờ thị trưòng bất động sản đã dần nóng trở lại, nhu cầu về nhà ở ngày càng trở nên cấp bách hơn. Những thành tựu đạt được của VPBank trong hoạt động CVTG là kết quả của sự nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên VPBank, nhất là các cán bộ tín dụng trong việc quảng cáo, tiếp thị. Cùng với đó là sự ra đời của công ty chứng khoán, công ty quản lý và khai thác tài sản (ACM) và nhiều chi nhánh ngân hàng mới, VPBank đã thành công trong hoạt động tín dụng của mình, đặc biệt là hoạt động CVTG. Cho đến cuối năm 2007, với sự mở rộng và phát triển mạng lưới với số lượng lớn nhất từ trước đến nay, VPBank hầu như đã có chi nhánh hoặc phòng giao dịch ở tất cả các tỉnh thành phố trong cả nước, từ Bắc vào Nam. Ở Hà Nội VPbank trở nên gần gũi và thân thuộc với người dân ở trên từng tuyến đường, từng con phố. Với sản phẩm dịch vụ ngày một hoàn thiện hơn, chính sách khách hàng, chính sách tín dụng ngày một hợp lý, đội ngũ cán bộ nhân viên hết lòng vì công việc, VPBank đang dần dần dần từng bước làm chủ hơn nữa công nghệ hiện đại core - banking T24... Tất cả các yếu tố đó kết hợp với nhau tạo nên thành công cho hoạt động tín dụng của VPBank, trong đó có cả hoạt động CVTG, về cả chất lượng lẫn số lượng. Việc ban hành các thể lệ CVTG, quy trình cho vay hết sức nhanh gọn với mỗi loại khách hàng cụ thể: Sau khi khách hàng cung cấp đầy đủ bộ hồ sơ cho nhân viên tín dụng, trong vòng từ 3 đến 5 ngày cán bộ tín dụng sẽ thực hiện các công việc cần thiết và khách hàng sẽ được đáp ứng ngay nhu cầu vay trả góp của mình nếu họ có đủ điều kiện vay vốn. Mặc dù thủ tục cho vay nhanh gọn nhưng hoạt động CVTG của VPBank vẫn tuân thủ quy trình hết sức chặt chẽ: VPBank đã xây dựng và đưa ra bảng chấm điểm và xếp hạng tín dụng đối với cả khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp, chấm điểm tín dụng với TSĐB đã giúp cho VPBank ngày càng cải thiện được chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng CVTG nói riêng. Ngoài những nguyên nhân trên, lý do khiến cho lợi nhuận hoạt động CVTG chiếm tỷ trọng cao trong tổng lợi nhuận của ngân hàng đó là, CVTG là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro vào loại bậc nhất trong danh mục hoạt động của ngân hàng, do đó nó là loại hình cho vay có lãi suất cho vay rất lớn, sẽ đem lại một mức lợi nhuận lớn cho ngân hàng hơn hẳn các loại hình cho vay khác. 2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân. Hạn chế. Về mặt cơ cấu, doanh số CVTG trả góp mua nhà và mua ô tô là chủ yếu, còn doanh số CVTG các sản phẩm khác chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ, thường chưa đến 10% tổng doanh số CVTG. Tình hình cũng diễn ra tương tự với dư nợ CVTG, tỷ trọng dư nợ CVTG trả góp mua nhà và ô tô chiếm hơn 90% tổng dư nợ CVTG. Thậm chí, với hai sản phẩm chiếm phần lớn tỷ trọng doanh số và dư nợ CVTG ngày thì tỷ trọng doanh số và dư nợ CVTG mua nhà cũng lớn hơn nhiều, thường gấp đôi tỷ trọng doanh số và dư nợ CVTG mua ô tô. Như vậy có sự chênh lệch trong cơ cấu doanh số và cơ cấu dư nợ CVTG nếu chia cơ cấu dư nợ CVTG theo laọi hình sản phẩm. Cơ cấu về mặt thời gian cũng chưa hợp lý: doanh số và dư nợ CVTG trung và dài hạn chiếm tỷ trọng ngày càng lớn hơn, tạo ra sự chênh lệch ngày càng lớn trong cơ cấu. Tỷ trọng doanh số và dư nợ CVTG mua nhà và mua ô tô trung dài hạn cũng chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều so với tỷ trọng này trong ngắn hạn. Doanh số CVTG cũng như dư nợ cho vay trả góp vẫn còn nhỏ, chưa đủ để khẳng định VPBank có thể trở thành ngân hàng lớn phục vụ cho hoạt động CVTG. Về chất lượng CVTG, mặc dù nợ quá hạn CVTG chiếm tỷ trọng khá nhỏ so với tổng dư nợ CVTG, nhưng tỷ lệ nợ quá hạn CVTG vẫn cao hơn tỷ lệ nợ quá hạn nói chung của hoạt động cho vay. Mặt khác, dù tỷ lệ nợ quá hạn CVTG ngày càng giảm, song về tuyệt đối, số dư nợ quá hạn CVTG lại ngày càng tăng lên. Nguyên nhân khách quan Về phía khách hàng Mặc dù thu nhập của người dân đã tăng lên rõ rệt, nhưng nhìn lại thì mức thu nhập ấy vẫn ở mức trung bình, thậm chí là thấp trong điều kiện sống hiện nay. Với những khoản cho vay trả góp có giá trị lớn như mua nhà hay mua ô tô, thì gánh nặng trả nợ là rất lớn đối với những người có thu nhập thấp và trung bình. Thói quen và tâm lý tiêu dùng của người dân ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động CVTG của ngân hàng. Nước ta hiện nay có hơn 85 triệu dân nhưng chỉ có hơn khoảng trên dưới 10% dân cư là sử dụng dịch vụ tài chính từ ngân hàng. Tâm lý ngại trở thành con nợ ngân hàng cũng phần nào hạn chế sự tiếp xúc với các loại hình sản phẩm dịch vụ của ngân hàng trong đó có sản phẩm CVTG. Một lý do nữa cản trở khách hàng đến với các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng là họ khó chứng minh được thu nhập và khả năng tài trợ của mình bởi thu nhập chủ yếu của họ là thu nhập “ngoài luồng”, tức là không xuất phát từ đồng lương. Một khách hàng hoàn toàn có đủ năng lực tài chính để trả nợ cho ngân hàng nhưng lại không thể chứng minh cho ngân hàng thấy thì họ cũng không thể đến với khoản CVTG của ngân hàng. Đối thủ cạnh tranh Không chỉ những ngân hàng cổ phần Việt Nam lâu nay mặn mà với dịch vụ tín dụng và cho vay tiêu dùng cá nhân như ACB, DAB, Eximbank... mà các nhà băng ngoại quốc tên tuổi như HSBC, ANZ, UOB, SC... hay các công ty tài chính mới ra đời như PRUFC, SGVF cũng nhảy vào giành giật khách hàng. Từ con số cho vay 20 triệu không cần thế chấp nay đã lên đến 200, thậm chí ACB còn cho vay đến 250 triệu đồng/người. Mức lương tối thiểu để xét cho vay cũng hạ xuống còn 2 triệu đồng/tháng cùng những điều kiện thuận tiện, thời gian xét duyệt chỉ 3 - 4  ngày. Nhiều ngân hàng đã lập ra một phòng, ban riêng để lo dịch vụ này và chào mời tới từng khách hàng. PRUFC hoạt động chưa đầy nửa tháng nhưng các nhân viên cũng đã gọi điện tới từng khách hàng từng mua bảo hiểm của hãng này để mời vay vốn. Không ít ngân hàng còn cử nhân viên đến tận nhà để làm thủ tục cho khách và có hẳn những chính sách ưu đãi cho khách đã từng sử dụng dịch vụ của mình như ACB, HSBC, PRUFC... Giờ đây thì mua nhà, tậu xe hơi, đi du lịch, du học, chữa bệnh, cưới xin, mua hàng trả góp... đều được các ngân hàng cho vay dùng trước trả sau. Không chỉ những doanh nhân nhỏ, tiểu thương, nhân viên công ty nước ngoài... mà hầu như bất cứ đối tượng nào có hợp đồng làm việc từ 1 năm trở lên với mức lương 2-3 triệu đồng/tháng đều lọt vào tầm ngắm của các ngân hàng. Ông Bùi Tấn Tài, Phó Tổng giám đốc ACB cho biết, dịch vụ bán lẻ, cho vay tiêu dùng cá nhân đang được các ngân hàng cổ phần, nước ngoài lẫn quốc doanh và tổ chức tài chính xem là một trong ít ưu tiên hàng đầu hiện nay. Giám đốc tín dụng một ngân hàng cổ phần thừa nhận: “Do sợ mất thị phần, nhiều ngân hàng đang ra sức khuyến mãi để thu hút khách hàng. Nhiều khách hàng biết được điều này còn trả giá lãi suất đâu thấp hơn, vay nhiều hơn, trả nợ dài hơn để vay”. Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện Cơ sở pháp lý cho hoạt động CVTG tại các NHTM hiện nay chủ yếu dựa vào những quy định của quyết định 1627 ban hành ngày 31/12/2001 về quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng với các khách hàng và các quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN và quyết định số 783/2005/QĐ-NHNN về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế cho vay đó. Tuy nhiên, do quy định chung trong hoạt động cho vay kinh doanh và cho vay tiêu dùng nên đã hạn chế rất nhiều trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Trong khi đó hoạt động CVTG lại rất cần những quy định cụ thể và rõ ràng nhưng cũng thật chặt chẽ và đồng bộ hơn Việc quản lý nhân thân của chính quyền địa phương đạt hiệu quả chưa cao, khó quản lý được dân nhập cư, nhất là tại 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Nếu ngân hàng cho vay vốn thì khâu thu hồi nợ và kiểm soát vốn vay sẽ gặp khó khăn. Môi trường kinh tế xã hội chưa thật sự ổn định Ai cũng biết rằng những năm vừa qua kinh tế Việt Nam tăng trưởng với tốc độ rât cao. Năm 2006 có tốc độ tăng trưởng 8,17%, năm 2007 là 8,5 %, là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Nhưng nhìn lại, ta lại có tỷ lệ lạm phát rất cao do sự biến động của nền kinh tế thế giới như giá vàng, giá dầu tăng lên tục. Do đó mà làm cho thu nhập thực tế của người dân và các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế giả đi rất nhiều. Nguyên nhân chủ quan Nguồn nhân lực của ngân hàng vẫn còn nhiều hạn chế. VPBank đang sở hữu một lực lượng nhân viên năng động và rất nhiệt tình, nhưng chính dội ngũ nhân viên này cũng có rất nhiều hạn chế. Đầu tiên phải kể đến việc trong số các cán bộ nhân viên tín dụng của VPBank, thì phần đông là các cán bộ vừa mới tuyển dụng, ngân hàng sẽ phải mất rất nhiều thời gian trong việc đào tạo lại đội ngũ này. Số lượng nhân viên trẻ tuổi ở VPBank chiếm khoảng 70%. Nhưng một cán bộ tín dụng thì cần phải có kinh nghiệm trong công việc cũng như trong cuộc sống. Do đó nhiều nhân viên tín dụng đôi lúc chưa biết cách cư xử mềm mỏng và linh hoạt với những khách hàng khó tính. Ngay cả trong phân tích tài chính và đánh giá khách hàng, những người có kinh nghiệm bao giờ cũng đánh giá chính xác hơn, có thể tránh được rủi ro không cần thiết cho ngân hàng. Một thực tế nữa ở VPBank là các chi nhánh cấp 2 vẫn chưa có sự tách biệt kinh doanh giữa hai bộ phận khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp, chất lượng tín dụng sẽ giảm đi ít nhiều khi một cán bộ tín dụng phải một lúc làm cả hai công việc. Phạm vi cho vay còn bị bó hẹp Ví dụ như cho vay mua ô tô và cho mua - xây dựng sửa chữa nhà thì chỉ cho vay đối với những cá nhân, hộ gia đình có hộ khẩu thường trú cùng địa bàn nơi có trụ sở của VPBank, điều này đã hạn chế rất nhiều số lượng khách hàng đến với khách hàng. Chỉ nói riêng 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, số lượng dân nhập cư là rất lớn nhưng lại chưa có hộ khẩu ở đó, nếu căn cứ vào phạm vi cho vay này, thì dân nhập cư không có hộ khẩu tại 2 thành phố này sẽ không được vay trả góp tại nơi mà học đang sinh sống. Sản phẩm CVTG chưa đa dạng và chưa có đặc điểm nổi bật Có thể khẳng định rằng sản phẩm CVTG của VPBank còn quá nghèo nàn. Cho đến nay, VPBank cũng mới chỉ mở rộng và phát triển thêm các sản phẩm truyền thống như CVTG mua ô tô, mua – xây dựng sửa chữa nhà, cho vay hỗ trợ du học, tiêu dùng khác. Nhưng trong đó, hầu như khách hàng chỉ biết đến VPBank với 2 sảmn phẩm đầu tiên. Trong khi đó, các NHTM khác đều đã có gần như đầy đủ những sản phẩm mà Vpbank hiện có, hợn nữa, sản phẩm của họ lại rất đa dạng và phong phú. Điển hình như ACB: Sản phẩm CVTG tiêu dùng của họ bao gồm cả mua sắm vật dụng gia đình, sửa chữa nhà ở, xe, thanh toán học phí, du lịch, chữa bệnh, ma chay, cưới hỏi… nói chung là hầu như tất cả các nhu cầu phát sinh trong cuộc sống sinh hoạt đều được hỗ trợ CVTG từ phía ngân hàng. Các ngân hàng khác cũng đã tiến hành CVTG sản xuất kinh doanh, tài trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp. Đó cũng là điều mà VPBank chưa làm được. Sản phẩm CVTG của VPBank cũng còn quá chung chung và chưa có đặc điểm gì nổi bật so với các ngân hàng khác. Ngay cả những ngân hàng theo đuổi mục tiêu là trở thành ngân hàng đa năng hay còn gọi là ngân hàng đại lý như VCB hay BIDV cũng đã có những sản phẩm giống như VPBank. Một số NHTM cổ phần khác đã tung ra các sản phẩm rất riêng và đặc trưng như Techcombank với sản phẩm “ gia đình trẻ cùng bạn tạo dựng cuộc sống tiện nghi”. Hoạt động marketing vẫn chưa mang lại hiệu quả Không thể phủ nhận rằng thời gian qua, VPBank đã đạt được nhiều thành công trong việc xây dựng biểu tượng, quảng cáo để huy động vốn. Song riêng sản phẩm tín dụng thì hoạt động marketing vẫn chưa được đề cao, nhất là sản phẩm CVTG . Hầu như các các bộ tín dụng phải vừa thực hiện công việc cho vay vừa thực hiện công tác tiếp thị quảng cáo, hoặc là khách hàng truyền thống của ngân hàng giới thiệu cho bạn bè mình. Hiện tại VPBank tuy đã có bộ phận marketing và phát triển sản phẩm mới nhưng lại chưa có phòng marketing riêng biệt mà vẫn thuộc phòng tổng hợp và quản lý chi nhánh tại hội sở. Với nhiệm vụ tìm kiếm các cộng tác viên và phát triển sản phẩm mới, các hoạt động tuyên truyền quảng cáo vẫn được tiến hành thường xuyên song tỏ ra chưa có hiệu quả cao. Quy chế cho vay vẫn còn cứng nhắc Hội đồng quản trị và ban lãnh đạo VPBank vẫn luôn thận trọng trong việc đưa ra các quyết định, quy định, quy chế điều chỉnh hoạt của ngân hàng, đặc biệt là trong hoạt động tín dụng. Ban lãnh đạo VPBank đang quyết tâm làm sạch nền tài chính của VPBank theo xu thế lành mạnh về mọi mặt. Tuy nhiên với những quy định và quy trình tín dụng chặt chẽ đó lại quá khắt khe, cản trở khách hàng đến với ngân hàng. Từ thực trạng của hoạt động CVTG tại VPBank trong những năm vừa qua, trong chuyên đề này, tôi xin mạnh dạn đóng góp một số giải pháp, nhằm mở rộng và phát triển hơn nữa hoạt động CVTG tại VPBank trong thời gian tới. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRẢ GÓP TẠI VPBANK 3.1 Định hướng phát triển của ngân hàng 3.1.1 Triển vọng của hoạt động cho vay trả góp tại VPBank Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang trên đà tăng trưởng mạnh, GDP bình quân các năm đều đạt trên 8%, riêng năm 2007 đạt 8,5%. Các hoạt động kinh tế xã hội đang diễn ra mạnh mẽ và sôi nổi. Đời sống của người dân ngày một tăng cao. Giờ đây con người ta không chỉ theo đuổi cuộc sống no đủ mà ngày càng hướng đến nhu cầu hưởng thụ cuộc sống tiện nghi, ăn ngon mặc đẹp. Khi cuộc sống đầy đủ hơn, con người muốn tiêu dùng những hàng hoá cao cấp hơn, chất lượng hơn, khi đã có nơi để đi sớm về khuya, nơi để che mưa che nắng, con người ta lại hướng đến một nơi vừa nghỉ ngơi thư giãn, vừa sinh hoạt hàng ngày... nhu cầu tiêu dùng của người dân là không bao giờ có giới hạn. Về hoạt động CVTG mua tô tô: Thị trường ô tô đang ngày một tăng trưởng mạnh nhờ tác động từ nhiều yếu tố đều thuận lợi. Người tiêu dùng, sự phát triển của ngành du lịch, công nghiệp ô tô phát triển, và cả từ phía nhà nước trong các chính sách kinh tế vĩ mô. Chính phủ vẫn đang có những biện pháp nhằm phát triển ngành công nghiệp ô tô để đến năm 2010 ngành công nghiệp ô tô trở thành công nghiệp vững mạnh, đáp ứng nhu cầu trong nước cũng như thế giới. Các hãng xe, các nhà kinh doanh xe ô tô và ngân hàng cũng tìm đến nhau, liên kết với nhau ngày một chặt chẽ hơn, với mục đích đôi bên cùng có lợi, và cũng để phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Hiện nay, tỷ lệ người có xe ô tô ở nước ta còn rất thấp, trong khi đó ở Malaisia là 5 ngưòi/xe thì ở Việt Nam là 140 người/ xe. Còn về thị trường bất động sản, sau một thời gian dài, người ta không còn mấy mặn mà với đất đai nhà cửa để chạy theo chứng khoán và thị trường vàng thì nay, khi mà thị trường chứng khoán tụt dốc và mất ổn định chưa từng có với chỉ số VNIndex đã có lúc vượt ngưỡng 1000 điểm nay chỉ còn lại một nửa, giá vàng cũng lên xuống thất thường, thị trường lại quay về với bất động sản. Các ngân hàng cùng với nhà đầu tư, các công ty xây dựng đã vào cuộc, phá tan tảng băng bất động sản trong những năm trước đó. Nhu cầu nhà ở là một trong những vấn đề nóng bỏng và bức xúc của những nước đông dân cư, nhất là một nước đang phát triển như nước ta. Vấn đề này càng trở nên bức bách hơn bao giờ hết tại các thành phố lớn. Dự báo, theo quy hoạch 2025, dân số thành phố Hồ Chí Minh sẽ là 10 triệu người, tỷ lệ khách vãng lai khoảng 25%. Theo các nhà chuyên gia đánh giá, con số thực tế có thể còn cao hơn nữa. Còn tại Hà Nội, chương trình phát triển nhà chung cư, đô thị đã được triển khai. Tính đến năm 20120 thì những dự án nhà chung cư sẽ tạo thêm 10 triệu m2 cho quỹ nhà Hà Nội. Trong khi dân số ngày một tăng lên, người dân định cư ở các thành phố lớn cũng không ngừng tăng lên thì tất yếu thị trường sẽ phải đáp ứng nhu cầu. Nhu cầu nhà ở cao cấp tăng lên khi mức sống tăng. Với những người có mức thu nhập trung bình và thấp, thì nhu cầu nhà ở của họ cũng là một vấn đề cần được các cấp quan tâm. Dưới sự tác động của việc tăng giá xăng dầu, tăng giá cả hàng hoá dịch vụ, lạm phát tăng cao làm cho người dân nhìn thấy rõ mất giá của đồng tiền, nhiều người quyết định mua sắm những tài sản cố định như nhà cửa, ô tô, đồ dùng dân dụng... trước khi không thể mua được vì giá hàng háo tăng lên quá cao. Họ e ngại rằng nếu cứ tích cóp dần dần, sẽ rất lâu sau họ mới được sử dụng tài sản ấy, hơn nữa, trong tình hình như hiện nay, đến lúc họ tiết kiệm đủ tiền, giá cả hàng hoá đã tăng lên một mức cao hơn số tiền họ tiết kiệm được. Nhu cầu vay trả góp lại nảy sinh để phần nào giúp khách hàng thoát khỏi quá trình “rượt đuổi” đó. Không chỉ có 2 sản phẩm ô tô và nhà ở, tất cả các nhu cầu khác cũng ngày một tăng lên như y tế, giáo dục, du lịch, sản xuất kinh doanh... tất cả đều có thể là sản phẩm của hoạt động CVTG và thực tế hiện nay đã có một số ngân hàng thực hiện. 3.1.2 Định hướng phát triển hoạt động CVTG của VPBank trong thời gian tới. Với mục tiêu chiến lược là trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam, hoạt động cho vay tiêu dùng trong đó có cả CVTG chắc chắn vẫn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sản phẩm dịch vụ của VPBank, nhất là các sản phẩm CVTG mua ô tô và mua xây dựng sửa chữa nhà. VPbank sẽ mở rộng hoạt động CVTG cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Để triển khai và thực hiện tốt mục tiêu này, VPBank đã đưa ra những phương hướng họat động cụ thể như sau: Về quy mô Ngân hàng sẽ chú trọng mở rộng các đối tượng phục vụ, mở rộng thị trường, khai thác thị trường tiềm năng, theo sát với định hướng phát triển kinh tế của Chính phủ như mở rộng thêm một số chi nhánh, phòng giao dịch tại một số vùng kinh tế trọng điểm, các tỉnh thành phố lớn... đối tượng khách hàng được mở rộng thêm sẽ thúc đẩy tăng trưởng dư nợ CVTG, tăng doanh thu từ hoạt động này. Tập trung khai thác tốt thị trường người tiêu dùng là những tầng lớp trung lưu, có thu nhập ổn định và có nhu cầu cao trong việc vay tiền để tiêu dùng, bên cạnh đó cần tận dụng và tìm kiếm cơ hội đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của những tầng lớp nghèo hơn vì số lượng này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong dân số Việt Nam. Gia tăng tỷ trọng CVTG trong cơ cấu cho vay. CVTG là loại hình cho vay mang lại nhiều lợi nhuận hơn so với các hoạt động khác nếu tính trên cùng số lượng và thời hạn cho vay vì lãi suất cho vay cao hơn. Do đó cần gia tăng mở rộng loại hình cho vay này, một mặt đem lại nhiều lợi nhuận hơn cho ngân hàng, mặt khác phân tán được rủi ro, khai thác được tối đa mọi đối tượng trong nền kinh tế. Về chất lượng Ngân hàng sẽ đẩy nhanh việc cải tiến quy trình nghiệp vụ, giảm thời gian chờ đợi và phiền toái cho khách hàng; đa dạng hoá sản phẩm tín dụng cá nhân mà trọng tâm là sẽ hình thành hệ thống sản phẩm dịch vụ mang đặc trưng riêng của ngân hàng. Việc đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ trọn gói, nhanh chóng, an toàn tiện lợi cung ứng liên kết giúp khách hàng có thể hưởng lợi ích đầy đủ nhất từ các sản phẩm này. Khi đưa ra một sản phẩm nên có những dịch vụ đi kèm để thoả mãn nhu cầu tốt nhất cho khách hàng, tăng khả năng cạnh tranh đối với ngân hàng khác. Tăng cường mối quan hệ 3 bên: Các công ty xây dựng hay hãng kinh doanh, ngân hàng và khách hàng. Thiết lập mối quan hệ với các đại lý ô tô, các đại lý bán lẻ hàng hoá khác... Làm chủ công nghệ hiện đại nhằm phát huy tối đa tính khả dụng của công nghệ, đưa ra được các sản phẩm của riêng mình, nâng cao năng lực cạnh tranh cho VPBank. Làm chủ công nghệ lõi Core - banking T24 sẽ giúp ngân hàng ứng dụng công nghệ điện tử, internet - banking, home - banking, phone - banking, thực hiện “đẩy khách hàng ra khỏi ngân hàng” tiết kiệm thời gian, chi phí giao dịch cho cả ngân hàng và khách hàng. Hiện đại hoá trang thiết bị để thuận tiện trong khâu thanh toán, lưu trữ hồ sơ quản lý khách hàng, cung cấp thông tin, đơn giản hoá thủ tục cho vay, tạo sự thuận lợi và thoải mái cho khách hàng nhưng vẫn đảm bảo được an toàn. Tiếp tục tăng cường hơn nữa công tác phát triển thương hiệu, đưa hình ảnh ngân hàng ngày càng trở nên quen thuộc hơn với khách hàng. Tăng cường đào tạo nhân viên, nâng cao chất lượng tuyển dụng đối với nhân viên mới, đảm bảo đủ trình độ để tiếp thu công nghệ mới đáp ứng nhu cầu hội nhập. Tiếp tục tăng vốn điều lệ để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng số lượng chi nhánh mới, và đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu trong điều kiện tài sản có rủi ro không ngừng tăng lên. Với khả năng và thực lực như hiện nay, Ngân hàng chọn phối hợp giữa 2 chiến lược “chiến lược tạo sự khác biệt” và “chiến lược tập trung” để làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của ngân hàng nói chung, cũng như hoạt động CVTG nói riêng. 3.2 Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động CVTG tại VPBank 3.2.1 Hoàn thiện chính sách tín dụng. Mặc dù phải tuân theo một quy trình thống nhất mà NHNN đã quy định để bảo đảm đưa ra quyết định chính xác và kiểm sóat được mục đích sử dụng vốn của khách hàng, ngân hàng nên ngày càng hoàn thiện chính sách tín dụng để thủ tục vay được nhanh gọn, thuận tiện cho khách hàng. Ví dụ như ngân hàng có thể rút ngắn hơn thời gian thẩm định khách hàng bằng cách sử dụng các phương pháp thẩm định chuyên nghiệp, hay sử dụng mạng điện tử online để trình duyệt, chuyển hồ sơ tín dụng giữa các phòng ban bộ phận liên quan đến giải quyết việc CVTG. Bên cạnh đó vẫn phải đảm bảo được sự chặt chẽ trong quá trình cho vay. Đây luôn là một việc làm cần thiết, cho dù chính sách tín dụng của ngân hàng luôn theo sát các quy định của NHNN và thị trường. Hiện nay chính sách tín dụng của ngân hàng khá cụ thể, chi tiết giúp cán bộ tín dụng có căn cứ rõ ràng trong việc xét duyệt và quản lý các khoản vay, song nhiều khi cũng chính vì thế mà khiến cán bộ tín dụng áp dụng một cách máy móc, không linh hoạt trong nhiều trường hợp, đặc biệt còn coi TSĐB là yếu tố quan trọng nhất trong thẩm định. Do đó, việc hoàn thiện chính sách tín dụng luôn là một nhiệm vụ quan trọng. 3.2.2 Tăng cường hơn nữa hoạt động marketing. Trong thời đại kinh tế thị trường mở cửa và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, Marketing là một hoạt động không thể thiếu ở tất cả các doanh nghiệp trong đó có cả ngân hàng. Thương hiệu, uy tín là tài sản vô hình vô giá và phải mất rất nhiều thời gian và công sức để tạo dựng được. Hiểu được điều đó một cách sâu sắc, tập thể và cán bộ nhân viên VPBank không ngừng cố gắng xây dựng cho ngân hàng mình một hình ảnh VPBank luôn hết mình vì lợi ích của khách hàng. Xây dựng một chính sách khách hàng hợp lý Hiện nay, trong CVTG, VPBank mới chỉ có một số ưu đãi nhất định đối với những khách hàng truyền thống mà chưa có sự phân nhóm rõ nét với những khách hàng tiềm năng (những người có thu nhập ổn định, những gia đình trẻ...) để chủ động tìm đến họ, kích thích nhu cầu tiêu dùng của họ. Đặc điểm của sản phẩm dịch vụ ngân hàng là dễ bắt chước và bắt chước một cách hợp pháp, vì thế mà rất khó giữ bản quyền. Để thu hút và giữ chân khách hàng, ngân hàng cần chú ý tìm cho mình những bí quyết riêng. Nhất là việc giữ chân một khách hàng cũ còn khó hơn nhiều so với thu hút một khách hàng mới. Do đó ngân hàng cần: - Có chính sách đối xử với mọi khách hàng đã, đang và sẽ có quan hệ giao dịch với ngân hàng. Bên cạnh đó ngân hàng xác định và tập trung vào nhóm khách hàng trọng yêu đối với CVTG là cá nhân và hộ gia đình thuộc tầng lớp trung lưu trong xã hội, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải… Để làm được điều đó, ngân hàng nên có danh mục khách hàng có quan hệ CVTG với ngân hàng, thường xuyên có chính sách quan tâm, khuyến mãi, tặng quà nhân dịp lễ tết… Tích cực thu hút và hướng đến những đối tượng khách hàng mới và khách hàng tiềm năng như có chế độ lãi suất và kì hạn trả nợ linh hoạt, chủ động tìm đến khuyến khích và động viên khách hàng mua trả góp… thay vì chỉ cho vay những khách hàng quen biết và truyền thổng là chủ yếu như hiwnj nay -VPBank cũng đang hạn chế khách hàng đến vay trả góp tại ngân hàng mình khi chỉ cho vay những người có hộ khẩu tại nơi ngân hàng có chi nhánh, nhất là tại các thành phố lơn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Mở rộng phạm vi cho vay trả góp là gải pháp hữu hiệu trong trường hợp này. - Tăng cường hoạt động nghiên cứu khách hàng, tìm hiểu xem khách hàng muốn gì, cần gì và đem lại lợi ích gì cho ngân hàng từ đó mà đưa ra các sản phẩm phù hợp với nhu cầu của khách hàng. - Tăng cường hướng dẫn khách hàng: Nhân viên tín dụng cần tư vấn cho khách hàng sử dụng sản phẩm của ngân hàng, phải nêu rõ cho khách hàng thấy những lợi ích có được từ giao dịch với ngân hàng. Qua công việc này nhân viên tín dụng thể hiện sự quan tâm của ngân hàng tới khách hàng và bảo vệ lợi ích của khách hàng của ngân hàng. Từ đó tạo ra mối quan hệ gắn kết lâu dài với khách hàng và thông tin kịp thời cho khách hàng về những sản phẩm dịch vụ mới có lợi cho khách hàng. Về công tác giới thiệu sản phẩm Dù hiện nay, công tác tạo uy tín và thương hiệu của VPBank đã có những hiệu quả nhất định, song tại VPBank vẫn chưa lập được phòng marketing riêng biệt, và đặc biệt vẫn còn yếu trong khâu marketing sản phẩm dịch vụ, nếu không cải thiện vấn đề này thì sẽ gây ảnh hưởng đến quá trình mở rộng cho vay nói riêng và CVTG nói chung của Vpbank. Trong khi các ngân hàng khác như Techcombank, ACB, Đông Á… có chiến lược Marketing sản phẩm rất tốt trên internet, phương tiện thông tin đại chúng, mang lại sự hài lòng cho khách hàng ngay từ khi bắt đầu tìm hiểu sản phẩm. Trong khi đó cách tiếp thị sản phẩm của VPBank lại là tư vấn trực tiếp với khách hàng, và phát tờ rơi, việc làm này vừa mất nhiều chi phí thời gian và tiền bạc lại không nhanh chóng và tiện ích, hiệu quả lại không cao. Website của ngân hàng (www.vpb.com.vn) giới thiệu còn quá sơ sài về sản phẩm CVTG . Ví dụ như trả góp mua ô tô, Website của ngân hàng chỉ cung cấp những thông tin chung chung, không có gì đặc biệt so với các sản phẩm dịch vụ khác về phạm vi cho vay, điều kiện, mức lãi suất… Bộ phận marketing của VPBank phải chấn chỉnh ngay tình hình này bằng cách đánh bóng sản phẩm, giới thiệu chi tiết và đầy đủ các tiện ích của sản phẩm dịch vụ, đưa sản phẩm đến với khách hàng một cách nhanh chóng tiện lợi ngay từ những điều sơ đẳng ban đầu. Vì thế việc cung cấp thông tin về sản phẩm dịch vụ nhất là những sản phẩm mới phải luôn được chú trọng, phải phát triển hơn việc quảng cáo qua mạng internet, qua website của ngân hàng, qua danh thiếp... Việc tăng cường quảng bá như vậy có thể tháo bỏ được những nếp suy nghĩ cố hữu, cũng như tập quán văn hoá xã hội, tạo thói quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng. 3.2.3 Phát triển mở rộng đối tượng cho vay trả góp Đối với đối tượng khách hàng là cá nhân, VPBank nên mở rộng hơn phạm vi cho vay. Hiện nay chỉ cho vay vốn với các cá nhân và hộ gia đình có hộ khẩu thường trú tại tỉnh, thành phố hay địa bàn có chi nhánh hoạt động của VPBank thì nay có thể mở rộng đối tượng CVTG bằng cách nới rộng phạm vi cho vay. Thay vì căn cứa vào hộ khẩu, ngân hàng có thể căn cứ vào hợp đồng lao động, chứng minh thư... thu hút nhiều hơn lượng khách hàng là dân nhập cư tại các tỉnh, thành phố lớn. Một đối tượng khách hàng tiềm năng mà ngân hàng cần quan tâm đó là những cá nhân và hộ gia đình có thu nhập thấp. Lý do ở chỗ, dân ta vẫn còn nghèo, người nghèo vẫn chiếm gần 80% dân số cả nước. Phát triển các sản phẩm CVTG đa dạng hơn, VPBank sẽ tạo cơ hội cho nhóm đối tượng này thoả mãn nhu cầu tiêu dùng, ngày một nâng cao mức sống của mình trong những điều kiện nhất định, vừa phục vụ khách hàng vừa hạn chế rủi ro và thu lợi nhuận cho ngân hàng. Đối với doanh nghiệp, VPBank chủ yếu CVTG đối với các doanh nhiệp kinh doanh vận tải và taxi, là những doanh nghiệp vừa và nhỏ là chủ yếu. Ngân hàng có thể tìm đến những doanh nghiệp kinh doanh trong nhiều lĩnh vực khác với các khoản CVTG đầu tư cho tài sản cố định khác ngoài ô tô, xây dựng nhà cửa... 3.2.4 Mở rộng quan hệ với các đơn vị hỗ trợ hoạt động CVTG của ngân hàng VPBank trong thời gian qua đã kí kết nhiều hợp đồng liên kết với nhiều hãng kinh doanh trong nhiều lĩnh vực như nhà đất, ô tô để hỗ trợ hoạt động CVTG. Trong nhiều hợp đồng có các điều khoản như: Hai bên sẽ giới thiệu khách hàng cho nhau khi khách hàng có nhu cầu vay vốn để mua nhà, mua ô tô; đồng thời, cả hai bên đều sẽ tiến hành thẩm định sơ bộ khả năng tài chính và độ tín nhiệm của khách hàng. Hoạt động này mang đến lợi ích cho cả hai bên. Với các cơ quan nhà nuớc liên quan đến hoạt động tín dụng thì ngân hàng mới chỉ dùng lại ở các cơ quan đăng kí giao dịch đảm bảo, mối quan hệ này đang ở mức các cán bộ tín dụng tự mình thiết lập. Mở rộng quan hệ với các cơ quan chức năng có liên quan đến hoạt động tín dụng sẽ giúp ngân hàng có thêm thông tin về khách hàng, nhờ đó mà công tác thẩm định và theo dõi khách hàng đươc thuận lợi hơn, giúp cho ngân hàng có thêm thông tin về sự thay đổi trong chính sách quản lý của nhà nước. Với cho vay mua nhà: Ngân hàng phải mở rộng và liên kết chặt chẽ hơn với các công ty xây dựng: Kí kết hợp đồng ba bên giữa công ty xây dựng, ngân hàng và khách hàng. NHờ đó, nếu khách hàng có nhu cầu mua nhà nhưng khả năng tài chính chưa thể đáp ứng ngay thì họ có thể nghĩ tới ngân hàng thông qua sự giới thiệu hay sự đồng ý của các công ty xây dựng hoặc phân phối nhà. Với cho vay mua ô tô: Ngân hàng nên triển khai cho vay gián tiếp trên cơ sở vẫn có khả năng giám sát khoản vay. Hiện nay VPBank đa có quan hệ hợp tác với các hãng bán xe lớn như: Toyota, Ford Thăng Long, Mercedes Benz, Isuzu…để các hãng này giới thiệu khách hàng đến ngân hàng vay tiền để mua xe trả góp. Ngân hàng nên có những chính sách để các hãng kinh doanh xe này có thái độ hợp tác bền lâu, và trung thành hơn với VPBank. Vì hiện nay, một hãng xe có thể liên kết với một số ngân hàng khác nhau để thực hiện hoạt động CVTG gián tiếp. Nếu VPBank có chính sách không chính xác, việc tạo lập mối quan hệ không tốt thì sẽ rất dễ dẫn đến mất khách hàng. Ngân hàng và cửa hàng bán lẻ nên kí kết với nhau các hợp đồng, ở đó ngân hàng sẽ đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được mua bán chịu. Ngân hàng cũng đưa ra các văn bản quy định cụ thể phương thức tài trợ giữa ngân hàng và hãng bán lẻ: truy đòi toàn bộ, truy đòi hạn chế, miễn truy đòi hay có mua lại. Nên có các hợp đồng kí kết hợp tác giữa VPBank và các hãng bán lẻ khác ngoài các công ty xây dựng, hãng bán lẻ ô tô như hiện nay. Như thế tức là Vpbank đang mở rộng đối tượng cho vay sang cả những sản phẩm khác, đồng thời nhờ các hợp đồng kí kết ấy, ngân hàng sẽ hạn chế được rủi ro, khắc phục được nhược điểm của hình thức cho vay này. 3.2.5 Thay đổi thủ tục và thể lệ cho vay hợp lý hơn. Có thể nói điều kiện về thủ tục và thể lệ cho vay là một rào cản lớn đối với viêc mở rộng hoạt động CVTG tai VPBank... đó là rào cản về lãi suất, thời hạn vay vốn và tài sản thế chấp. Để có những đổi mới về những điều kiện trên, hội đồng tín dụng và tổng giám đốc phải có những tín toán chi tiết liên quan tới hoạt động của toàn hệ thống cũng như các yêu cầu liên quan khác. Về lãi suất, ngân hàng cần phân bổ nguồn vốn huy động, tích cực tìm kiếm nguồn vốn huy động trung dài hạn để tài trợ cho khoản vay trả góp mua ô tô, nhất là khoản vay trả góp mua nhà. Chỉ có khi nguồn vốn huy động trung và dài hạn tốt, ngân hàng mới có thể đáp ứng nhu cầu của sản phẩm vay trả góp. Đồng thời, ngân hàng cũng cần tính toán hoán đổi lãi suất, hoán đổi kì hạn nguồn để tăng cường vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn. Có như vậy lãi suất cho vay trung dài hạn mới được cải thiện. Khách hàng sẽ không phải băn khoăn tiền lãi sau mười năm sẽ bằng tiền gốc. Còn về thời hạn cho vay, thời hạn cho vay cũng liên quan đến việc cơ cấu lại kì hạn nguồn và tìm kiếm nguồn huy động trung và dài hạn. Thực hiện được điều này, ngân hàng có thể chia nhỏ kì hạn nợ, giúp khách hàng có điều kiện vay vốn và trả nợ tốt hơn. Khách hàng có thể vay tới 10, 15 năm thậm chí 20 năm chứ không phải chỉ 5, 7 năm như hiện nay. Ngoài ra ngân hàng cần để người vay chủ động lựa chọn thời gian trả nợ phù hợp với tình hình của khách hàng thay vì việc ngân hàng ấn định thời gian trả nợ như hiện nay. 3.2.6 Nâng cao chất lượng và số lượng nguồn nhân lực Con người là nhân tố vô cùng quan trọng của mọi quá trình sản xuất kinh doanh. Hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh không chỉ phụ thuộc và số lượng mà còn phụ thuộc vào chất lượng của nguồn nhân lực. Trong hoạt động tín dụng, các cán bộ nhân viên tín dụng là những người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, thực hiện mọi quy trình cho vay từ khâu phân tích, thẩm định, theo dõi và thu hồi nợ, tất cả những công việc ấy không thể có máy móc nào có thể thay thế nổi. Kết quả hoạt động của ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào trình độ nghiệp vụ, tín năng sáng tạo và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng. Thực tế tại VPBank, qua quá trình tuyển dụng, VPBank phần nào đã lựa chọn ra những cán bộ có trình độ, song phần lớn họ là những người trẻ tuổi, kinh nghiệm làm việc, kĩ năng làm việc vẫn còn nhiều thiếu sót. Vì thế, VPBank phải tổ chức thường xuyên hơn nữa các khoá đào tạo do các cán bộ có kinh nghiệm giảng dạy, kết hợp đào tạo chính quy và đào tạo tại chỗ các kiến thức nghiệp vụ khác như nhà đất, chứng khoán, pháp luật, tin học, ngoại ngữ... để nhân viên tín dụng có thể thực hiện nghiệp vụ của mình một cách hiệu quả nhất. Bên cạnh việc đào tạo kiến thức, ngân hàng phải luôn nhắc nhở các cán bộ nhân viên rèn luyện về mặt đạo đức nghề nghiệp, một cán bộ tín dụng có đạo đức nghề nghiệp sẽ không vì lợi riêng mà làm tổn hại đến lợi ích của ngân hàng, hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Ngân hàng cũng phải tạo dựng một môi trường văn hoá kinh doanh lành mạnh, vừa đảm bảo tính cạnh tranh vừa thân thiện gần gũi. Để thực hiện tốt công việc này, VPBank phải có chế độ đãi ngộ nhân viên, lương thưởng hợp lý. Thực hiện gắn trách nhiệm của mỗi người với công việc và kết quả làm việc của họ. Song song với quá trình nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên là việc bổ sung và tuyển dụng mới cán bộ. Việc làm này phải có định hướng và kế hoạch rõ ràng, tránh trường hợp tuyển dụng theo tình thế và chưa theo kịp với yêu cầu phát triển chung của ngân hàng như hiện nay. 3.3 Một số kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nước. Để hoạt động CVTG tại các ngân hàng thương mại Việt Nam tiếp tục tăng trưởng mạnh và thật sự có hiệu quả, Chính phủ và các cơ quan, Bộ, ngành cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để hoạt động này có thể mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng và những tiện ích tối đa cho khách hàng vay vốn. Chính phủ cần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô bởi kinh tế ổn định là điều kiện tốt nhất cho tất cả các ngành kinh tế, nó là nền tảng quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển ổn định của một quốc gia. Hiện nay, khi mà chỉ số giá tiêu dùng, giá cả hàng hoá nguyên liệu đầu vào như xăng dầu, phôi thép...tăng cao làm cho sản xuất trong nước và đời sống người dân gặp rất nhiều khó khăn, nhất là tầng lớp dân cư có thu nhập trung bình hoặc thấp. Việt Nam cũng đã thật sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới với những cơ hội và thách thức mới, Chính phủ cần phải có những quyết định phù hợp trong xác định cơ cấu kinh tế nhằm đưa nền kinh tế nước ta tăng trưởng và phát triển nhanh nhưng phải bền vững. CVTG là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển nền kinh tế xã hội. Nó là một trong những biện pháp kích cầu của chính sách kinh tế mà nhà nước sử dụng trong cơ chế thị trường. Chính vì vậy, nhà nước cần có sự hỗ trợ, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho loại hình cho vay này phát triển CVTG phụ thuộc rất nhiều vào mức thu nhập thường xuyên của dân cư cũng như sự phát triển kinh tế của từng vùng miền cụ thể. Ngày nay, mặc dù sự tăng trưởng kinh tế ở mức rất cao song chủ yếu vẫn tập trung tại các thành phố lớn, sự chênh lệch giàu nghèo giữa khu vực thành thị và nông thôn vẫn còn rất cao. Do vậy, đại bộ phận dân chúng và các doanh nghiệp ở các vùng nông thôn, xa trung tâm thành thị dù có nhu cầu rất lớn song khó có thể tiếp xúc với các sản phẩm dịch vụ hỗ hợ từ ngân hàng. Từ thực tế ấy, Chính phủ cần nhanh chóng có những biện pháp khuyến khích sự phát triển kinh tế tại các khu vực này, xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình giao thông tạo điều kiện cho những ngành nghề truyền thống tại các địa phương phát triển. Công việc này vừa giúp kinh tế địa phương phát triển, vừa giúp tạo công ăn việc làm và nâmg cao thu nhập cho bộ phận dân cư trong vùng, miền kinh tế đó, từ đó họ có cơ hội tiếp cận dễ dàng hơn với vốn vay của ngân hàng, trong đó có vốn vay trả góp. Bên cạnh đó, Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp như giảm thuế, tạo điều kiện về các thủ tục hành chính... đối với các ngành kinh tế mũi nhọn hay các ngành nghề truyền thống của vùng. Nhờ đó, giúp doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào, kích thích sản xuất, tạo điều kiện cho người dân được sử dụng các sản phẩm dịch vụ với giá rẻ hơn. Kích thích tiêu dùng, tăng thu nhập cho dân cư sẽ tạo ra nhu cầu giúp cho ngân hàng có thể phát triển được các dịch vụ của mình. Chính phủ cũng phải có những chính sách nhất định liên quan đến vấn đề bất động sản, một trong những điều mà ngân hàng lo ngại nhất hiện nay, khi mà thị trường bất động sản lên xuống thất thường, việc xác định giá trị thực của căn nhà hay mảnh đất làm tài sản đảm bảo gặp rất nhiều khó khăn và rủi ro. Nếu chính phủ giải quyết được vấn đề này thì các ngân hàng sẽ mạnh dạn hơn trong việc mở rộng hoạt động cho vay, nhất là trong CVTG mua - xây dựng sửa chữa nhà, hay những khoản CVTG có TSĐB là nhà đất. Chính phủ cũng cần đầu tư cho hệ thống giáo dục, nâng cao trình độ dân trí. Bởi một chiến lược chỉ đạo cụ thể của nhà nước, các chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho các trường đại học khối ngành kinh tế chung, tạo điều kiện phát triển chất lượng hệ thống giáo dục - đào tạo, sẽ cung cấp cho nền kinh tế một đội ngũ lao động cho các ngành kinh tế phát triển. Đặc biệt trong một ngành áp dụng nhiều công nghệ tiên tiến vào bậc nhất trên thế giới như ngân hàng thì điều này càng có vai trò đặc biệt quan trọng. 3.3.2 Đối với ngân hàng nhà nước Trước hết NHNN cần tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng hơn làm tăng tính chủ động cho các ngân hàng thương mại. Từ đó lành mạnh tính chất cạnh tranh giữa các định chế tài chính ở Việt Nam hiện nay, tạo ra một môi trường cạnh tranh công bằng và bình đẳng giữa các ngân hàng thương mại cổ phần và ngân hàng thương mại quốc doanh. Ngân hàng nhà nước cần sớm hoàn thiện các văn bản pháp quy nhằm tạo nền tảng vững chắc cho sự mở rộng và phát triển hoạt động CVTG của các NHTM. Hiện tại, hoạt động CVTG của NHTM chủ yếu hoạt động chủ yếu dựa trên cơ sở những quy định của quyết định 1627 ban hành ngày 31/12/2001 về quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng với các khách hàng và các quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN và quyết định số 783/2005/QĐ-NHNN về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế cho vay đó. Tuy nhiên, do quy định chung trong hoạt động cho vay kinh doanh và cho vay tiêu dùng nên đã hạn chế rất nhiều trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Do đó, NHNN nên có những văn bản cụ thể hướng dẫn riêng cho từng hoạt động tín dụng riêng biệt trong đó có cả CVTG về sản phẩm, hạn mức, khung về tài sản đảm bảo. Để hoạt động CVTG có cơ sở pháp lý vững chắc, không gây khó khăn cho ngân hàng khi thực hiện các quyết định cho vay. Ngoài ra trung tâm thông tin tín dụng của NHNN (CIC) hiện nay tuy đã cung cấp một số thông tin sơ bộ về khách hàng cho các NHTM, nhưng mỗi lần cán bộ tín dụng kiểm tra thông tin khách hàng qua trung tâm này đều mất phí, phí này hạch toán vào chi phí quản lý của ngân hàng trong trường hợp khách hàng không đủ tư cách vay. Tuy nhiên trên thực tế, hoạt động của trung tâm này vẫn chưa mang lại hiệu quả cao, còn tồn tại nhiều sai sót. CIC chỉ cung cấp được một phần nhu cầu của thị trường thông tin tín dụng. Do đó NHNN cần đầu tư hơn nữa cho trung tâm này, đồng thời cập nhật thông tin thường xuyên theo hình thức online để cán bộ tín dụng có được những thông tin chính xác trong quá trình thẩm định tư cách khách hàng. Với vai trò giám sát, hỗ trợ và quản lý các ngân hàng, NHNN cần quan tâm hơn đến công tác thanh tra, kiểm soát đối với các ngân hàng. Việc làm này cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục nhằm phát hiện ngăn ngừa những truờng hợp vi phạm quy chế tín dụng, có biện pháp kịp thời xử lý nhằm hạn chế đến mức thấp nhất rủi tín dụng và rủi ro thanh khoản. NHNN cũng cần xây dựng chính sách tiền tệ lành mạnh đảm bảo sự minh bạch và đáng tin cậy kết hợp với việc thực thi chính sách tài khóa thận trọng trong đó các chính sách như lãi suất, tỷ giá, tín dụng, cần được xây dựng theo hướng linh hoạt để có thể sử dụng các công cụ thị trường can thiệp dễ dàng khi có biến động trong nước và quốc tế. Chú trọng việc áp dụng các hệ thống chuẩn mực quốc tế trong hoạt động ngân hàng. KẾT LUẬN Hiện nay trên thị trường, hoạt động CVTG đã và đang phát triển khá rầm rộ và phổ biến. Sản phẩm này đã được cung cấp bởi hầu hết các ngân hàng trong đó có cả NHTM nhà nước, NHTM cổ phần và cả những ngân hàng nước ngoài. Bởi theo các ngân hàng nhận xét thì dịch vụ CVTG như việc “nhặt từng đồng xu” nhưng lại đem đến doanh số và lợi nhuận khá hấp dẫn, nhất là trong thời buổi đầu ra đang khó khăn, tiền đồng dồi dào. Tại VPBank, hoạt động CVTG đang ngày càng được mở rộng và phát triển thể hiện qua các chỉ tiêu về doanh số, dư nợ, lợi nhuận từ hoạt động CVTG ngày một tăng lên trong khi đó chất lượng tín dụng CVTG cũng đang được cải thiện rất tốt. Song bên cạnh cũng còn tồn tại những vướng mắc cần tháo gỡ về nhiều mặt để có thể vững bước trên con đường phía trước. Nhận thức rõ tính chất khốc liệt của sự cạnh tranh trên thị trường hiện nay, VPBank với những gì đã và đang có, quyết tâm nỗ lực hết mình cho con đường riêng đã lựa chọn. VPBank sẽ cạnh canh với các ngân hàng khác bằng chiến lược của mình, đó là: trọng tâm hoá kết hợp với khác biệt hoá tức là tạo ra sự độc đáo và chất lượng cao trong sản phẩm dịch vụ của mình. Nhưng đồng thời VPBank cũng không ngừng nghiên cứu và phát triển các sản phẩm mới nhằm tạo ra tính đa dạng trong sản phẩm. Đưa đến cho khách hàng một danh mục sản phẩm vô cùng phong phú để lựa chọn sao cho phù hợp với nhu cầu và tình hình tài chính của mình nhất. Dựa trên ý tưởng đó, qua chuyên đề tốt nghiệp tôi đã tìm hiểu thực trạng của hoạt động CVTG tại VPBank và mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động CVTG tại VPbank. Do thời gian nghiên cứu có hạn và hạn chế về khả năng phân tích, kiến thức lý luận cũng như thực tiễn, chuyên đề của tôi còn nhiều thiếu sót. Tôi mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, cùng tất cả các bạn quan tâm đến vấn đề này, để tôi có thể tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện đề tài trong thời gian gần đây. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. T.S Phan Thị Thu Hà (2004), Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê 2. T.S Nguyễn Minh Kiều (2008),Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, NXB thống kê. 3. Peter S.Rose (2004), Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính. 4. T.S Nguyễn Hữu Tài (2002), Giáo trình Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ, NXB Tài chính 5. Báo cáo thường niên VPBank 2005, 2006. 6. Tạp chí ngân hàng 2006, 2007 7. Bản tin VPbank tháng 12/2006, tháng 12/2007. 8. Báo cáo tín dụng VPBank 9. www.vpb.com.vn. 10. www.vneconomy.com. 11. www.vnn.com.vn 12. www.acb.com.vn 13. www.techcombank.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM1093.DOC
Tài liệu liên quan