Để tiếp tục phát triển nguồn vốn huy động tại NHNNo&PTNT Hà nội cũng như toàn bộ hệ thống cần khẩn trương triển khai việc áp dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại vào cuộc sống như thẻ ATM, thẻ ngân hàng các loại song song với việc bổ sung hoàn thiện các hình thức huy động vốn hiện nay cho nhu cầu phát triển kinh tế -xã hội và nâng cao tiện ích cho người gửi tiền.
Có kế hoạch huy động vốn và sử dụng vốn trung và dài hạn cụ thể từng thời kỳ tạo định hướng và mục tiêu phát triển của ngành và các chi nhánh thành viên.
Cải cách việc điều hoà vốn thừa thiếu giữa các chi nhánh thành viên với trung tâm điều hành cho linh hoạt phù hợp trên cơ sở kích thích động viên các chi nhánh có khả năng huy động vốn lớn để tích tụ tập trung vốn cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá nhất là nông nghiệp và nông thôn.Có giải pháp thích hợp sử dụng vốn, không nên giao chỉ tiêu bắt buộc giảm vốn huy động cho ngân hàng cơ sở.
57 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1012 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mở rộng huy động vốn dân cư tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.5 Kết quả kinh doanh
Bảng 6 : Kết quả kinh doanh
Đơn vị: triệu đồng
Năm
2005
2006
2007
1. Tổng thu nhập
1.828.702
2.552.924
3.464.400
1.1. Thu từ hoạt động KD
820.774
1.081.929
1.485.620
1.2. Thu phí thừa vốn
973.958
1.397.601
1.860.318
1.3. Thu dịch vụ
15.732
17.781
28.712
1.4. Thu bất thường + khác
17.608
55.613
89.750
2. Tổng chi phí
1.716.381
2.376.898
3.208.456
2.1. Chi trả lãi
1.504.389
2.093.715
2.995476
2.2. Chi khác
211.992
283.183
212.980
3. Lợi nhuận ( 1 - 2 )
111.691
176.026
255.944
4. Tổng tài sản có
11.830.354
13.186.973
15.995.413
5. Lợi nhuận ròng/ TN (%)
6. ROA (%)
0,94%
1,33%
1,60%
(nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh 2005-2007)
2.2 Thực trạng huy động vốn tiền gửi từ dân cư tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội.
Các hình thức huy động vốn từ dân cư của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội:
Xuất phát từ mục tiêu, yêu cầu và những quan điểm chỉ đạo của toàn hệ thống về công tác nguồn vốn, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội đã tổ chức huy động vốn từ dân cư dưới các hình thức sau:
Nhận tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm là hình thức huy động vốn truyền thống của ngân hàng được nhân dân quen dùng và trở thành tập quán của cư dân khi có nhu cầu gửi tiền vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi hoặc tiết kiệm cho nhu cầu chi tiêu trong tương lai.Vì vậy trong khoảng thời gian dài kể từ năm 1991 trở về trước các NHTM của Việt nam chủ yếu dùng hình thức này để huy động vốn từ dân cư, các hình thức khác chưa có hoặc không đáng kể.
Hiện nay các NHTM nói chung và NHNNo & PTNT Hà nội nói riêng ngoài việc sử dụng biện pháp truyền thống trong huy động tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, các NHTM còn bổ sung nhiều hình thức huy động nguồn vốn mới làm thay đổi về chất trong huy động tiền gửi như công cụ lãi suất, sử dụng chính sách khách hàng ... nhằm đa dạng hoá các hình thức huy động vốn , đáp ứng nhu cầu của người gửi tiền và huy động tốt hơn nguồn vốn này .
Đối với NHNNo & PTNT Hà nội ngoài các hình thức tiền gửi tiết kiệm truyền thống là tiết kiệm không kỳ hạn và tiết kiệm có kỳ hạn thì NHNNo & PTNT Hà nội còn bổ sung thêm hình thức tiền gửi tiết kiệm hưởng lãi bậc thang theo thời gian gửi.Đối với tiết kiệm hưởng lãi bậc thang theo thời gian thì ngân hàng khuyến khích đối với các khoản vốn có thời gian gửi dài hơn bằng các mức lãi suất cao hơn.
Nhìn chung hiện nay tiền gửi tiết kiệm vẫn là một công cụ huy động vốn hữu ích của các ngân hàng vì nó vẫn được dân cư tín nhiệm và quen dùng, thủ tục gửi và lĩnh tiền đơn giản dễ hiểu, phù hợp với mọi tầng lớp dân cư.Với môi trường cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng hiện nay thì lãi suất phải được xử lý linh hoạt theo hướng đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền.
Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng
- K ỳ phiếu
NHNNo&PTNT Hà nội phát hành kỳ phiếu nhằm mục đích huy động vốn dân cư trên địa bàn thủ đô để đáp ứng nhu cầu vốn cho toàn hệ thống (huy động theo chỉ tiêu kế hoạch của NHNNo&PTNT Việt Nam giao) và cân đối vốn tại địa phương.Kỳ phiếu ngân hàng nông nghiệp thường có kỳ hạn 12 tháng hoặc 13 tháng, lãi suất kỳ phiếu thay đổi từng thời kỳ nhưng thường cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm và có thể trả trước.Khi huy động kỳ phiếu cho NHNNo&PTNT Việt Nam(Huy động hộ Trung ương), các ngân hàng địa phương được hưởng hoa hồng.
Huy động kỳ phiếu là một kênh để NHNNo&PTNT Hà nội tăng trưởng nguồn vốn. Nhìn chung nguồn vốn này có tính ổn định cao bởi nó thường có thời hạn từ 12 tháng trở lên, tuy nhiên việc huy động kỳ phiếu phụ thuộc vào nhu cầu vốn của từng thời kỳ, chính vì vậy để cân đối về tài chính và tăng nguồn thì NHNNo&PTNT Hà nội có thể mở từng đợt phát hành kỳ phiếu.Khi đó ngân hàng sẽ chủ động về số lượng huy động thời hạn, lãi suất... và đây chính là ưu điểm nổi bật của kỳ phiếu NHTM.Mặt khác, việc hạch toán kế toán đối với kỳ phiếu lại đơn giản, thủ tục gửi và lĩnh dễ dàng, ngân hàng thuận lợi trong việc tổ chức mạng lưới huy động và chi trả kỳ phiếu khi đến hạn.Ngân hàng có thể sử dụng hình thức này để huy động vốn thường xuyên, liên tục cũng như huy động tiền gửi tiết kiệm nhưng lãi suất, cách tính trả lãi, thời hạn thanh toán... linh hoạt, phù hợp với thị trường hơn gửi tiết kiệm.
Tuy nhiên kỳ phiếu của NHNNo&PTNT Hà nội hiện nay cũng còn hạn chế đó là: Chi phí huy động thường cao hơn các loại tiền gửi khác, người mua kỳ phiếu không được sử dụng các dịch vụ ngân hàng từ hình thức này, các giao dịch liên quan đến kỳ phiếu phải thực hiện tại trụ sở ngân hàng làm cho chi phí về thời gian lớn.
Trái phiếu
Căn cứ Quyết định số 247/QĐ-NH1 ngày 05/10/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Về việc: Cho phép NHNNo&PTNT Việt Nam phát hành trái phiếu ngân hàng. Tổng giám đốc NHNNo&PTNT Việt Nam đã phát hành quy chế phát hành trái phiếu số 1107/NHNo-KH với mục đích tạo lập nguồn vốn trung dài hạn từ các thành phần kinh tế xã hội, dân cư để đầu tư phát triển kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế có cơ hội đầu tư góp phần phát triển kinh tế đất nước, mang lại lợi ích cộng đồng, tạo tiền đề hàng hoá cho thị trường chứng khoán.
Trái phiếu ngân hàng nông nghiệp có 3 loại:
Trái phiếu ký danh (ghi tên người sở hữu).
Trái phiếu vô danh (không ghi tên người sở hữu).
Tài khoản trái phiếu.
Mệnh giá của trái phiếu được in sẵn gồm loại 500.000VNĐ, 1.000.000 VNĐ và 10.000.000VNĐ. Tài khoản trái phiếu được mở khi người mua trái phiếu một lần từ 5.000.000VNĐ trở lên, khi đó ngân hàng phát hành chứng chỉ tài khoản trái phiếu (theo mẫu in sẵn) cho chủ sở hữu.
Nhìn chung đối với ngân hàng thì trái phiếu là công cụ huy động vốn trung và dài hạn hữu hiệu, nó cho phép các ngân hàng có thể dùng công cụ lãi suất để huy động vốn.Đối với người gửi tiền thì trái phiếu vô danh dễ dàng chuyển nhượng, mua bán trên thị trường (kể cả thị trường chứng khoán), đầu tư trái phiếu an toàn.
Tuy nhiên huy động trái phiếu thì ngân hàng phải trả lãi cao cho khách hàng, do vậy hiệu quả trong huy động vốn sẽ bị co hẹp. Ngược lại đối với người mua trái phiếu lại không được sử dụng các dịch vụ ngân hàng.Khi đến hạn thanh toán ngân hàng phải chuẩn bị khả năng thanh toán lớn trong một thời gian nhất định để chi trả cho khách hàng.
Các hình thức huy động trên được thực hiện bằng VND hoặc Ngoại tệ (chủ yếu là USD)
Mở tài khoản cá nhân
1* Tài khoản tiền gửi cá nhân (tài khoản cá nhân)
Trên cơ sở thực hiện quyết định 160/QĐ-NH2 ngày 18/09/2003 về mở và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân, Quyết định 22/QĐ-NH2 ngày 21/02/1994 ban hành thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt và thông tư 08/TT-NH2 ngày 2/06/1994 hướng dẫn thực hiện quyết định 22/QĐ - NH1 của Thống đốc ngân hàng nhà nước . Ngày 14/09/1994 Ngân hàng nhà nước có thông báo số 332/CV-NH1 chọn Hà nội là địa phương làm điểm phát hành séc cá nhân để rús kinh nghiệm để mở rộng toàn quốc .
Đến nay sau hơn 7 năm thực hiện, kết quả mở tài khoản cá nhân và phát hành séc cá nhân tại Ngân hàng No&PTNT Hà nội được đánh giá trên các chỉ tiêu sau :
Bảng 7: Số liệu về tài khoản tiền gửi cá nhân
Stt
Chỉ tiêu
Đơn vị
2005
2006
2007
1
Tổng số tài khoản cá nhân
T.khoản
33.000
38.000
43.000
2
Số dư
Tỷ VND
247
392
480
3
D. số thanh toán qua TK
Tỷ VND
157.000
258.000
342.000
Bằng chuyển khoản
Tỷ đồng
107.000
190.000
253.000
Bằng tiền mặt
Tỷ đồng
50.000
68.000
89.000
Như vậy tài khoản cá nhân mở tại Ngân hàng No&PTNT Hà nội có tăng nhưng không đáng kể, trong đó có trên 2000 tài khoản của cán bộ công nhân viên Ngân hàng được mở vào năm 1995 khi thực hiện làm điểm phát hành séc cá nhân trên địa bàn Hà nội. Đến đầu năm 2008 Ngân hàng No&PTNT Hà nội đã mở thêm khoảng 10.000 tài khoản cá nhân cho những cán bộ chưa mở tài khoản để thực hiện trả lương qua tài khoản cá nhân, khuyến khích rút tiền bằng máy ATM . Tổng số dư trên tài khoản cá nhân không đáng kể so với tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng, nó chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 1 phần nghìn .
Doanh số thanh toán qua tài khoản cá nhân chủ yếu bằng séc, uỷ nhiệm chi và tiền mặt. Ngân hàng đã phát hành 6 quyển séc cá nhân (mối quyển 10 tờ séc) nhưng chưa có một tờ séc nào thanh toán và hiện nay Ngân hàng đã thu hồi 6 quyển séc cá nhan đó. Có thể nói việc phát hành séc cá nhân thí điểm tại Hà nội đã không thành công, séc cá nhân chưa đi vào đời sống kinh tế, xã hội và chưa được thị trường chấp nhận. Nguyên nhân chủ yếu do :
+ Trong giai đoạn hiện nay tài khoản cá nhân và việc áp dụng các dịch vụ ngân hàng hiện đại như : séc cá nhân, thẻ tín dụng, thẻ thanh toán... chưa thực sự phổ biến. Việc mở tài khoản tại ngân hàng để thanh toán tất cả các khoản thu chi của cá nhân và sử dụng dịch vụ của ngân hàng hiện đại còn rất hạn hẹp chưa trở thành thông lệ, tập quá, thói quen của dân cư. Vì vậy việc huy động vốn bằng hình thức này hiện tại chưa có hiệu quả hoặc không đáng kể.
+ Doanh số hoạt động qua tài khoản cá nhân hiện nay chủ yếu do chủ tài khoản có thu nhập từ việc bán sản phẩm hàng hoá của mình cho khách hàng mà khách hàng lại trả bằng chuyển khoản (séc, uỷ nhiệm chi...) Chủ tài khoản sử dụng số tiền trên tài khoản phần lớn là rút tiền mặt còn chỉ một phần nhỏ sử dụng uỷ nhiệm chi để trả cho người thu hưởng khác.
+ Mọi việc thanh toán thu chi từ tài khoản cá nhân thì chủ tài khoản phải đến trụ sở ngân hàng để thực hiện, mặt khác hiện nay ngân hàng cũng chưa cung cấp đuợc cho khách hàng những dịch vụ ngân hàng hoàn hảo - tiện ích , chư có các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt khoa học - hiện đại. Đây cũng là hạn chế lớn trong việc sử dụng tài khoản cá nhân hiện nay .
Kết quả huy động vốn từ dân cư của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội:
2.2.2.1 Về tổng nguồn vốn huy động
Bảng 8 : Cơ cấu huy động tổng nguồn vốn
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số tiền
2005/2004
(%)
Số tiền
2006/2005 (%)
Số tiền
2007/2006
(%)
Tổng nguồn vốn
11601
125,06
12845
110,72
15468
120,42
1.Cơ cấu theo loại tiền
Nội tệ
10485
125,46
11488
109,57
14296
124,44
Ngoại tệ
1116
121,43
1358
121,68
1172
86,3
2.Cơ cấu theo thời hạn
Không kỳ hạn
4661
146,8
5364
115,08
6491
121,01
Có kỳ hạn
6940
87,5
7481
107,79
8977
120
3.Cơ cấu theo TPKT
TG của dân cư
2965
117,3
3633
122,53
3541
97,47
TG của TCKT
8636
128
9212
106,67
11927
129,47
(Nguồn : Từ báo cáo tổng kết công tác huy động vốn dân cư qua các năm)
Tổng nguồn vốn huy động ngân hàng tăng tương đối đều qua các năm, đặc biệt năm 2007 tổng nguồn vốn huy động tăng 20,42% so với năm 2006, tốc độ này gấp 1,9 lần so với tốc độ tăng của năm 2006 so với 2005.Sự tăng trưởng này thể hiện tiềm lực phát triển mạnh mẽ cũng như thể hiện khả năng tự chủ trong kinh doanh của NHNo&PTNT Hà Nội. Tuy nhiên, tiền gửi của dân cư vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động. Riêng năm 2007, huy động từ dân cư giảm 2,53 % nguyên nhân do thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán đang phát triển mạnh, do vậy các khách hàng có nhu cầu về vốn lớn. Thêm nữa các ngân hàng thương mại trên địa bàn có sự cạnh tranh về lãi suất thiếu lành mạnh. Đặc biệt là các NHTMCP liên tục đẩy lãi suất cao hơn lãi suất mặt bằng chung. Tuy nhiên Chi nhánh NHNo&PTNT Hà nội với 11 Chi nhánh, 34 điểm huy động vốn đã khắc phục những khó khăn khách quan và chủ quan bằng nhiều sản phẩm dịch vụ tiện ích đối với khách hàng gửi tiền như huy động tiền gửi bậc thang, tiết kiệm dự thưởng bằng vàng có khuyến mại (NHNo&PTNT Việt nam phát hành) với nhiều hình thức trả lãi tháng, quý, năm, lãi trước, đồng thời NHNo&PTNT Hà Nội đã chủ động điều chỉnh lãi suất huy động vốn một cách linh hoạt phù hợp với lãi suất của các TCTD trên địa bàn, đặc biệt là lãi suất huy động vốn ngoại tệ và sự biến động giá cả theo từng thời điểm đã góp phần nâng cao chất, số lượng huy động vốn từ dân cư. Không những thế phong cách giao dịch đối với khách hàng được thay đổi ngày một tốt hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất trong giao dịch với khách hàng
2.2.2.2 Huy động tiết kiệm:
Bảng 9: Cơ cấu huy động tiết kiệm
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Tổng nguồn tiết kiệm
2.666
100%
2.864
100%
2.792
100%
Trong đó:
Nội tệ
1.852
69,47%
1.968
68,70%
1.971
70,60%
Ngoại tệ
814
30,53%
896
31,30%
820
29,40%
2.2.2.3 Huy động từ kỳ phiếu, trái phiếu ngân hang
Bảng 10: Tỷ trọng huy động từ kỳ phiếu,trái phiếu
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Tổng nguồn KP-GTCG
298
768
750
Trong đó:
Nội tệ
267
755
719
Ngoại tệ
31
13
31
(Tính tỷ trọng trên tổng nguồn dân cư của nămđó)
2.3.1 kết quả đạt được
Đánh giá huy động tiền gửi dân cư tại NHNo&PTNT Hà Nội đã nhận thức được rõ tầm quan trọng của công tác huy động tiền gửi dân cư.Do nguồn tiền gửi của dânc ư có tính ổn định cao và thường có kì hạn dài.Từ đó ngân hàng đang chú trọng và tìm hiểu biện pháp để đẩy mạnh huy động nguồn vốn này.Chính vì vậy,ngân hàng đã đạt được một số thành tựu đáng kể như sau:
+Tiền gửi dân cư có mức tăng trưởng khá cao qua các năm 2005,2006 và tăng ít hơn trong năm 2007. đặc biệt trong năm 2007 đạt mức tiền gửi dân cư là 3541 tỷ đồng. Đạt được kết quả này là do NHNo&PTNT Hà Nội đã làm tốt công tác khách hàng và marketing để giữ khách hàng truyền thống đồng thời thu hút thêm nhiều khách hàng mới . Đối với khách hàng truyền thống có nguồn tiền gửi lớn luôn được NHNo&PTNT Hà Nội đưa ra chính sách ưu đãi như giao dịch tận nơi về tiền mặt và chứng từ.
+Ngân hàng đang từng bước đa dạng hóa các hình thức huy động tiền gửi dân cư.Trước hết,ngân hàng đã đa dạng hóa các kì hạn gửi tiền thông thường với 9 kì hạn ,từ không kì hạn tới 24 tháng trở lên, đa dạng các hình thức trả lãi :trả lãi trước,tar lãi sau,trả lãi định kì(tháng hoặc quý); đa dạng hóa các loịa tiền gửi huy động ,ngoài huy động bằng VNĐ, ngân hàng còn huy động tiền gửi bằng EUR.Bên cạnh đó,dù mới triển khai được 3 năm nhưng hình thức huy động mới :tiết kiệm bậc thang,tiết kiệm dự thưởng đã thực sự thu hút được sự quan tâm của khách hàng , đặc bịêt là việc có thể rút gốc linh hoạt về thời gian và khối lượng trong loại hình tiết kiệm bậc thang đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng gửi tiền,tạo cho khách hàng có được nhiều sự lựa chọn khác nhau nâng cao năng lực cạnh tranh với các tổ chức tài chính khác trong viêc huy động lượng tiền vốn tạm thời nhàn rỗi của dân cư trong phát triển kinh tế.
+Ngân hàng đã sử dụng linh hoạt công cụ lãi suất để thu hút nguồn tiền gửi dân cư, đặc biệt chú trọng thu hút nguồn vốn trung và dài hạn nhằm khuyến khích dân cư gửi tiền theo các kì hạn trên 12 tháng.Ngoài ra,với loại hình tiết kiệm bậc thang khách hàng được hưởng những tiện ích trong việc có thể rút gốc ling hoạt về thời gian và khối lượng.Chính sự quan tâm điều chỉnh kịp thời này của ngân hàng đã góp phần tăng trưởng nguồn vốn có kì hạn 12-24 tháng tăng trưởng cao vào năm 2005 và giảm nhẹ vào năm 2006.Bên cạnh đó,việc phát hành chứng chỉ tiền gửi dài hạn.trái phiếu Agribank của TW và các đợt phát hành kì phiếu của NHNo&PTNT Hà Nội với các tổ chức tín dụng khác trên địa bàn.
+NHNo&PTNTHà Nội cũng rất chú trọng đến việc mở rộng mạng lươis chi nhánh của mình tại các khu đông dân cư,khu đô thị mới,tại các trung tâm thương mại,gần trường học.Hiện nay mạng lưới các phòng giao dịch trực thuộc ngân hàng đã lên con số 38 , đều nằm ở vị trí thực sự thuận lợi trên địa bàn thủ đô Hà Nội tạo điều kiện thu hút được nguồn tiền gửi dân cư khá lớn và góp phần vào việc tăng trưởng nguồn vốn cho cả ngân hàng.
+Ngoài ra,ngân hàng còn rất chú trọng đến việc đào tạo,bồi dưỡng và tạo điều kiện cho các cná bộ công nhân viên trong ngân hàng có nhu cầu nâng cao trình độ chuyên môn.Thông qua việc hàng năm có mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ :kế toán,kiểm toán,marketing,ngoại ngữ.Chát lượng đào tạo tương đối tốt.
+Công tác tin học của ngân hàng cũng phát triền nhanh theo kịp những yêu cầu về phát triển dịch vụ mới của NHNo&PTNT Hà Nội .Toàn bộ các chi nhánh đã trực thuộc đã thực hiện hệ thống IPCAS trong giao dịch với khách hàng và giao dịch nội bộ .Công tác an toàn và báo mật cho hệ thốn được thực hiện một cách nghiêm túc và thường xuyên hơn.
2.3.2 Những mặt còn hạn chế và nguyên nhân.
Mặc dù đạt được những kết quả chủ quan ,nhưng việc huy động vốn của NHNo&PTNT Hà Nội vẫn bộc lộ một số hạn chế đó là:
+Mặc dù ngân hàng Nhà nước đã cho phép các ngân hàng thương mại đa dạng hoá các lại tiền gửi với nhiều hình thức khác nhau.Nhưng việc thu hút các loại tiền gửi vào ngân hàng vẫn phù hợp.Năm 2005,nguồn vốn ngoại tệ chỉ chiếm 19% tổng vốn huy động.Năm 2006 chỉ hơn một chút là 21% còn lại là nguồn vốn nội tệ.Sản phẩm huy động vốn tuy đã được triển khai nhiều loại hình nhiều hình thức trả lãi song vẫn chưa đáp ứng được thị hiếu của người gửỉ.
+Cơ cấu vốn chưa hợp lí ,tỷ trọng vốn huy động không kì hạn và kì hạn dưới 12 tháng khá lớn ,vốn trung và dài hạn mặc dù đã có sự chuyển biến nhưng vẫn còn chưa đủ đáp ứng mọi nhu cầu sử dụng vốn trung và dài hạn.Vốn ngắn hạn thì thừa trong khi vốn trung và dài hạn thì thiếu.
+Nguồn vốn chưa có tính ổn định cao,nguồn huy động từ doanh nghiệp,các tổ chức kinh tế mà chủ yếu từ tiền gửi thanh toán sẽ tạo ra mất cân đối khi các doanh nghiệp,các tổ chức rút tiền gửi tại ngân hàng.
+Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng rất có lợi cho ngân hàng vì thông qua công tác thanh toán NHNo&PTNT Hà Nội sẽ tạo thêm được nguồn vốn không phải trả lãi hoặc lãi rất thấp ,nhưng do công tác thanh toán này còn nhiều hạn chế,người dân vẫn chưa hiểu biết hay chưa quen do tâm lí thích tiền mặt còn lớn và các khách hàng truyền thống của ngân hàng còn nhiều doanh nghiệp không thích sử dụng đến hình thức này của ngân hàng.
+Ngoài ra, hoạt động marketing của NHNo&PTNT Hà Nội đang mắc phải một khuyết điểm chưa thể khắc phục trong một thời gian ngắn.Hoạt động Marketing còn đơn điệu ,chưa được coi trọng đúng mức nên có hiệu quả thấp .Công tác Marketing mới chỉ dừng lại ở ình thức là các bài viết giới thiệu, đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng khi ngân hàng muốn thông báo về một sự kiện nào đó như tăng năng suất,phát hành kì phiếu hay trái phiếu
+Trình độ nghiệp vụ của một bộ phận cán bộ ,viên chức còn hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu cạnh tranh và hội nhập.Cơ sở vật chất của ngân hàng còn nhiều hạn chế chưa thực sự tương xứng với một ngân hàng như NHNo&PTNT Hà Nội.
*Nguyên nhân
Năm 2007 một số tồn tại ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh và vị thế của NHNo&PTNT Hà Nội. Đó là cả nguyên nhân khách quan và chủ quan:
NGUYÊN NHÂN KHÁCH QUAN
+Nền kinh tế thế giới thường xuyên có số biến động do ảnh hưỏng chiến tranh tại các khu vực nhạy cảm,dịch cúm gia cầm , động thái tăng lãi suất liện tục tại các cục dự trữ liên bang Mỹđã gây ra nhiều tác động không nhỏ đến nền kinh tế các nước trong đó có Việt Nam .
Một số ngành kinh doanh có hiệu quả có dấu hiệu chững lại,xuất hiện tình trạng khó khăn về tài chính ,ngành giao thông vận tải còn xảy ra tình trạng nợ các dự án ,ngành công nghiệp vật liệu xây dựng sản phẩm còn tồn kho lớn không tiêu thụ đượcNgân hàng là ngành chịu tác động to lớn bởi sự gia tăng lãi suất ngoại tệ do cục dự trữ liên bang Mỹ liên tục có động thái tăng lãi suất USD trong những năm vừa qua,của sức ép tăng lãi suất do chỉ số giá tiêu dùng tăng mạnh trong năm 2005,2006,2007.
+Hiện nay có nhiều ngân hàng cổ phần ,các tổ chức tín dụng,các ngân hàng liên doanh nước ngoài hoạt động trên sự cạnh tranh ngày càng gay gắt.Các ngân hàng thương mại cổ phần ,ngân hàng liên doanh và các ngân hàng nước ngoài có tốc độ phát triển nhanh chóng ,có các chính sách thu hút nhân tài của Việt Nam đang trở thánh những trở ngại cho hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam nói chung và NHNo&PTNT à Nội nói riêng.
+Luật doanh nghiệp mới tạo điều kiện cho các doanhnghiệp ra đời dễ dàng hơn ,người dân chuyển tiền đầu tư vào các doanh nghiệp làm giảm khối lượng vốn gửi vào ngân hàng.Bên cạnh đó ,TTCK trong thời gian gần đây hoạt động rất “nóng” thu hút một lượng không nhỏ tiền nhàn rỗi của nền kinh tế. Đây cũng là một khó khăn đối với công tác huy động vốn của NHNo&PTNT Hà Nội.
+Mặt khác do tâm lí người dân trên địa bàn Hà nội vẫn đang còn ưu chuộng tiền mặt ,thích cầm tiền trong tay để phòng thân . Điều này cho thấy sự thiếu hiểu biết của người dân về hoạt đôngh của ngân hàng.Bên cạnh đó ,các thủ tục ,chứng từ thanh toán qua ngân hàng chưa thực sự đơn giản,gây cho người dân tâm lí khi đi đến khách hàng.
+Một số văn bản của Nhà nước của ngành của hệ thống chưa dược bổ sung ,chỉnh sửa kịp thời gây ra khó khăn trong hoạt động ngân hàng.
+Ngoài ra một số doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh kém hiệu quả,thua lỗ đang ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Hà Nội.
+Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hỗ trợ cho các ngân hàng chưa đồng đều .Mức độ tự động của các dịch vụ còn thấp và các chương trình hiện đại hoá ngân hàng chưa hoàn thiện và ổn định.
NGUYÊN NHÂN CHỦ QUAN:
+Điểm yếu nổi bật của NHNo&PTNT Hà Nội là khả năng thích ứng với sự thay đổi trên thị trường. Điều này thể hiện rõ nhất qua việc điều chỉnh lãi suất của ngân hàng ,trong khi các ngân hàng thương mại Cổ phần nhanh chóng điều chỉnh lãi suất huy động theo biến động trên thị trường thì NHNo&PTNT Hà Nội vẫn còn hạn chế do phụ thuộc vào phí điều vốn của NHNo&PTNH Việt Nam.Lái suất huy động của NHNo&PTNT Hà Nội thường thấp hơn các ngân hàng thương mại cổ phần đã làm hạn chế lượng vốn huy động của ngân hàng.
+Các hình thức huy động vốn của ngân hàng còn chưa phong phú ,chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của khách hàng khác nhau trên địa bàn Hà Nội.Hiện nay ,các địa bàn thương mại và các tổ chức tín dụng đã đưa ra nhiều hình thức huy động vốn mới và hấp dẫn.Các nhu cầu này phù hợp với nhu cầu của nhiều nhóm khách hàng khi mà mức sống của người dân ngày càng được nâng cao.Trong khi đó NHNo&PTNT Việt Nam nói chung và NHNo&PTNT Hà Nội nói riêng tuy có áp dụng trong thời gian gần đây như phát hành kì phiếu ,chứng chỉ tiền gửi ,trái phiếu nhưng còn đơn điệu.
+Về nhân lực,NHNo&PTNT Hà Nội có một đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ nghiệp vụ khá tốt ,nhiệt tình,trách nhiệm với công việc được giao.Tuy nhiên một bộ phận cán bộ ngân hàng trẻ do còn thiếu kinh nghiệm thực tế nên trình độ nghiệp vụ còn hạn chế, đôi lúc còn gặp phải sơ suất trong công việc.Việc phân công công việc phù hợp để phát huy tối đa của mỗi nhân viên chưa được coi trọng nên hiệu quả cơ chưa cao.
+Giống như các ngân hàng thương mại khác ,công tác tuyên truyền quảng bá các sản phẩm nghiệp vụ.dịch vụ của NHNo&PTNT Hà Nội tuy đã có nhiều cố gắng và mang lại những hiệu quả nhất định song vẫn còn hạn chế về chất lượng, mẫu mã ,phương thức quảng bá ,quảng cáo và phương thức tiếp thịđã ảnh hưởng ít nhiều đến kết quả kinh doanh.
+Việc triển khai các sản phẩm dịch vụ tại các phong giao dịch tuy đã được triển khai, song do địa điểm Phòng giao dịch chưa có nhiều khách hàng sử dụng sản phẩm như thanh toán sec du lịch,thu đổi ngoại tệ chỉ tập trung chủ yếu vào USD, EUR,chuyển tiền kiều hối phi thương mại,một số cán bộ Phòng giao dịch chưa nắm bắt quy trình nghiệp vụ,khi thực hiện còn qua nhiều khâu nên tạo tâm lí ngại việc.Việc triển khai phát hành thẻ ghi nợ tại các Phòng giao dịch tuy đã triển khai nhưng kết quả còn hạn chế.Công tác chuyển tiền thường tập trung tại các Phòng giao dịch ở các khu thương mại nhiều hộ kinh doanh nên nhiều địa điểm Phòng giao dịch vẫn chưa phát huy và quảng bá tốt loại sản phẩm này.
+NHNo&PTNT Hà Nội chưa có chính sách khách hàng trong huy động tiền gửi dân cư,các dịch vụ sau khi huy động hầu như không có đặc biệt là người dân sau khi gửi vào hoàn toàn thiếu thông tin như sự biến động về số dư,lãi suất,tỷ giáMặt khác,thể thức gửi và lĩnh còn rườm rà,gửi ở đâu lĩnh ở đó,chưa có dịch vụ hỗ trợ cho khách hàng thuận tiện hơn.
+Địa điểm đặt trụ sở của văn phòng giao dịch của NHNo&PTNT Hà Nội chưa thực sự phù hợp với nền kinh tế thị trường,không thuận tiện giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng.Trụ sở của các chi nhánh ngân hàng cấp 2 chủ yếu là đi thuê nên vẫn mang tính tạm bợ,chật hẹp đã làm ảnh hưởng đến thương hiệu của NHNo&PTNT Hà Nội trong dân cư,gây khó khăn cho ngân hàng khi tiếp thị thị trường.
+Thời gian giao dịch của ngân hàng còn bó hẹp trong giờ hành chính đã hạn chế đáng kể khả năng huy động vốn.
+Công nghệ và trang thiết bị của ngân hàng lạc hậu nhiều so với mặt bằng chung của thế giới.Hệ thống thông tin chưa phát triển đồng bộ.tự động hoá thấp.Dưòng như chưa biết thiết lập hệ thống quản lí rủi ro hợp lí và chưa có chiến lược kinh doanh hiệu quả và bền vững.
+Việc huy động vốn nhàn rỗi từ các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế vẫn mang tính thụ động hầu hết là do nhu cầu của các doanh nghiệp nhiều hơn là biện pháp thu hút khách hàng.Hay nói cách khác,NHNo&PTNT Hà Nội vẫn còn thụ đôngnj trong việc khai thác nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp.
Tóm lại,trong những năm vừa qua NHNo&PTNT Hà Nội đã đạt được nhiều kết quả tôt trong hoạt động kinh doanh.Những hạn chế còn tồn tại cần được mang ra nghiên cứu và xem xét để rút kinh nghiệm và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực do nhưngc điều kiện bất lợi.Trong thời gian tới môi trường cạnh tranh sẽ ngày càng khốc liệt khi mà các ngân hàng nước ngoài được tự do tham gia vào thị trường Việt Nam_các đối thủ này đều rất mạnh về tiềm lực tài chính cũng như trình độ quản lí ,khả năng áp dụng công nghệ mới nên ngân hàng thương mại Việt nam nói chung và NHNo&PTNT Hà Nội nói riêng cần phải có những chiến lược,những phương hướng hoạt động cụ thể và phát triển.
Chương 3:GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHNo&PTNT HÀ NỘI
3.1. Định hướng phát triển của NHNo&PTNT Hà Nội
Có thế nói những năm đầu thế kỉ 21 là những năm “bản lề” cho cuộc chạy đua của tất cả các ngân hàng thương mại chuẩn bị cho hội nhập đầy gay go và quyết liệt.Các chỉ tiêy đã đạt đươcj là nền tảng cho sự phát triển của ngân hàng trong thời gian tiếp theo.Trong thời gian không xa,các ngân hàng sẽ hoạt động trong môi trường không có sự bảo hộ, ưu đãi của chính phủ ,các ngân hàng sẽ phải tự vươn lên trong lòng dân chúng và các nhà đầu tư.Những lợi thế về mạng lưới hoạt động,về khách hàng,về lãi suất sẽ không còn,mà thay vào đó là những khó khăn,các ngân hàng trong nước phải đương đầu với những ngân hàng nước ngoài có tiềm lực tài chính khổng lồ ,có cách thức quản lí tiên tiến ,công nghệ hiện đại,sản phẩm dịch vụ phong phú đa dạngKhông những thế tại Việt Nam,các tổ chức tài chính phi ngân hàng ,các công ti bảo hiểm bưu điện ,các công ti cho thuê tài chính cũng sẽ ra đời với nhiều hình thức hoạt động mới trong đó có cả huy động vốn.Trong môi trường cạnh tranh đầy “lửa” như thế buộc các ngân hàng thương mại nói chung và NHNo&PTNT Hà nội nói riêng phải có định hướng phát triển rõ ràng cụ thể.
Trên cơ sở quán triệt chiến lược phát triển của NHNo&PTNT Hà Nội trước những yêu cầu của đời sống kinh tế xã hội của đất nước,NHNo&PTNT Hà Nội đã xây dựng kế hoạch,phương hướng hoạt động trong thời ggian tới như sau:
3.1.1. Định hướng chung
*Thứ nhất:Cơ cấu lại tổ chức bộ máy theo hướng:
+Sắp xếp laij tổ chức bộ máy theo hứơng tuân thủ chiến lược khách hàng ,không coi trọng mở rộng chi nhánh mà cần coi trọng tính chuyên nghiệp để nắm chắc đặc điểm động thái của từng nhóm khách hàng,từng loại nghiệp vụ để phát trỉên thị trường trên cơ sở phát triển các quầy giao dịch và tân dụng tối đa thành tựu của khoa học công nghệ.
+Phát triển hệ thống”ngân hàng bán lẻ”hay còn gọi là giao dịch một cửa,hệ thống kênh phân phối diện tử nhằm năng động hoá quá trình phát triển dịch vụ,chuyển hướng thị trường hay thay đổi nhóm khách hàng.
*Thứ hai:Tăng cường năng lưc hoạt động và quản lí kinh doanh
+Tập trung huy động nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn huy động từ dân cư,các tổ chức kinh tế và các tổ chức xã hội khác.Chú trọng huy động vốn trung và dài hạn cả nội tệ và ngoại tệ.
+Mở rộng cho vay các thành phần kinh tế làm ăn có hiệu quả,dự án khả thi,tình hình tài chính lành mạnh, đáp ứng đủ nhu cầu về vay vốn.Tiếp tục tìm mọi giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng,rà soát hoàn chỉnh hố sơ 100% khách hàng đang còn dư nợ.
+Triển khai các loại hình dịch vụ,sản phẩm dịch vụ toàn diện có hiệu quả phù hợp với nhu cầu thị trường.
+Tập trung triển khai toàn diện có chất lượng công tác quảng cáo,quảng bá toàn diện kịp thời các mặt hoạt động nghiệp vụ ngân hàng nhằm nâng cao thương hiệu,uy tín,vị thể của NHNo&PTNT Hà Nội nói riêng và NHNo&PTNT Việt Nam nói chung.
*Thứ ba: Tăng cường năng lực tài chính
+Tăng vốn tự có bằng lợi nhuận để lại,phát hành trái phiếu,huy động vốn dài hạn trên thị trường vốn
+Xử lí dứt điểm nợ tồn đọng và làm trong sạch bản cân đối kế toán,xây dựng cơ chế hạn chế gia tăng nợ xấu.
3.1.2. Định hướng huy động vốn
Trên cở sở phát huy những thành tích đã đạt được trong thời gian qua trong công tác huy động vốn,NHNo&PTNT Hà Nội đã đề ra các định hướng huy động vốn như sau:
*Một là:thực hiện chiến trình huy động vốn theo chỉ đạo của Nhno&PTNT Việt Nam là phát huy nội lực,huy động vốn trong nước là chính đồng thời điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn một cách phù hợp để đáp ứng nhu cầu cho vay ngần hạn,trung hạn và dài hạn.
*Hai là:Tiếp tục duy trì tốc độ tang trưởng vốn huy động ở mức cao;tập trung huy động nguồn vốn nội ngoại tệ ,nguồn vốn trung và dài hạn; đồng thời tuân thủ các quy định của pháp luật về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh.
*Ba là:Xác định huy động vốn là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu,NHNo&PTNT Hà Nội luôn đáp ứng nhu cầu thanh toán,nhu cầu giải ngân các hợp đồng tín dụng đã kí và giữ vững nền vốn.Ngân hàng coi việc huy động vốn từ tiền gửi khách hàng cần được đẩy mạnh thường xuyên để có quy mô vốn tăng trưởng.Vì vậy,Nhno&PTNT Hà Nội tiếp tục nâng cao chất lượng và mở rộng các dịch vụ thanh toán trong nước,thanh toán quốc tế,bố trí mạng lưới phù hợp với điều kiện cụ thể.
3.1.2.1.Xây dựng chính sách lãi suất linh hoạt
Trong bối cảnh tự do hóa lãi suất ngày càng có nhiều ngân hàng cạnh tranh với nhau quyết liệt. Đặc biệt là lãi suất, các ngân hàng thương mại đều coi lãi suất là một trong những công cụ hiệu quả nhìn thấy được để tác động vào các tàng lớp dân cư.Vì các khách hàng dân cư khi gửi tiền vào ngân hàng điều quan tâm chủ yếu là lãi suất, đặc biệt là thời hạn dài.Xác định mức lãi suất phù hợp để huy động vốn của dân cư vào ngân hàng mà không làm tăng chi phí, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh ngân hàng là vấn đề khó khăn.Trả lãi là chi chí chủ yếu của ngân hàng.Các ngân hàng muốn giảm khoản này dẫn đến giảm chi phí.Các khách hàng lại muốn lãi suất cao để mức sinh lợi của khoản tiền nhàn rỗi cao.Do đó cần xây dựng chính sách lãi suất hợp lý để dung hòa lợi ích của người gửi tiền với ngân hàng và để cạnh tranh với các kênh huy động vốn khác trên thị trường.Việc áp dụng lãi suất tín dụng phải căn cứ cung cầu vốn, vào hiệu quả thực tế của đồng vốn trong nền kinh tế,vào tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế.Tiếp tục áp dụng chính sách lãi suất dương, lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất huy động,lãi suất huy động lớn hơn tỉ lệ lạm phát.
Việc thục hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận tạo điều kiện cho lãi suất phản ánh đúng bản chất của nó trong quan hệ cung cầu trong nên kinh tế.Trong thời gian qua việc tăng lãi suất và huy động với nhiều hình thức đã làm cho nguồn tiền gửi dân cư dài hạn tăng lên nhanh,chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn huy động.
Để khuyến khích khách hàng dân cư gửi tiền ngân hàng nên thực hiện chính sách lãi suất bậc thang lũy tiến theo quy mô tiền gửi, áp dụng lãi suất cao hơn với quy mô tiền gửi lớn hơn.Tuy nhiên,hiện nay ngân hàng vẫn thực hiện cơ chế quản lí lãi suất theo phương pháp cố định ,sự tahy đổi lãi suất rất chậm chưa phản ánh hết sự biến động lãi suất trong thị trường.
Một chính sách lãi suất phù hợp phải dựa vào các yếu tố trên và hướng tới các giải pháp giảm chi phí huy động từ đó giảm chi phí và tăng lợi nhuận.
3.1.2.2 Đa dạng hóa các hình thức huy động
Mặc dù trong các năm qua NHNN&PTNT Hà Nội đã có nhiều đổi mới trong công tác huy động vốn. Nhưng nhìn chung các phương thức huy động vốn của NHNo & PTNT Hà Nội mới chỉ bắt đầu thoát khỏi tính đơn điệu, truyền thống. NHNo&PTNT Hà Nội cần phải có thêm những phương thức mang tính sáng tạo, độc đáo để mang lại nhiều tiện ích, hấp dẫn, quyền lợi hơn cho khách hàng:
NHNN&PTNT Hà Nội cần phải áp dụng nhiều kỳ hạn khác nhau trong quá trình huy động tiền gừi tiết kiệm.Để thoả mãn tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng thì ngoài những kỳ hạn đã từng áp dụng trước đây: 01tháng, 03 tháng, 06 tháng..., 60 tháng.
NHNo&PTNT Hà Nội cần đưa thêm nhiều kỳ hạn thấp hơn như kỳ hạn 01, 02, 03 tuần....theo nhu cầu gửi tiền của khách hàng.
NHNo&PTNT Hà Nội cần nghiên cứu và đưa ra nhiều hình thức huy động phù hợp với mục đích tiết kiệm của khách hàng như:
Huy động tiền gửi tiết kiệm bằng vàng: Theo số liệu thống kê của bộ kế hoạch và đầu tư, của tổng cục thống kê thì hiện nay tổng thu nhập của người dân nước ta được sử dụng như sau: 44% tiền thu nhập được sử dụng để mua vàng và ngoại tệ, 20% mua nhà đất, cải thiện sinh hoạt và đáp ứng các nhu cầu cần thiết khác, 17% được gửi tiết kiệm vào ngân hàng, 19% đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh.Như vậy ngân hàng mới chỉ thu hút được 17% số thu nhập, còn lại 44% lượng thu nhập nhàn rỗi được người dân dự trữ dưới dạng vàng và ngoại tệ không sinh lời trong khi ngân hàng lại rất cần lượng vốn này để đầu tư, cho vay. Do vậy việc mở ra hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm bằng vàng sẽ một mặt nâng cao hiệu quả huy động vốn cho NHNo&PTNT Hà Nội, mặt khác góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế, đem lại nhiều lợi ích cho cả nhân hàng và khách hàng:
+ Với khách hàng, việc cất trữ vàng vào ngân hàng sẽ an toàn hơn là cất trữ tại nhà, đồng thời họ còn được hưởng lãi suất từ số vàng đã gửi, tránh được sự mất giá của đồng tiền.Ngoài ra khách hàng còn tiết kiệm được một khoản chi phí do chênh lệch giá mua vào và bán ra của vàng.
+ Với ngân hàng, việc huy động tiền gửi tiết kiệm bằng vàng sẽ tạo điều kiện giúp ngân hàng có thể huy động được nguồn vốn trong nước với lãi suất thấp (do phải trích lập quỹ bù dắp rủi ro giá vàng).Từ đó giúp NHNN&PTNT Hà Nội có thể nâng cao khả năng cạnh tranh trên thi trường.
Với hình thức huy động tiền gửi bằng vàng, NHNo&PTNT Hà Nội nên thực hiện với các kỳ hạn dài bởi lẽ những người có thói quen mua vàng và tích trữ vàng thường ít có nhu cầu chi tiêu trong tương lai gần.
Tiền gửi tiết kiệm dưỡng lão
Hiện nay trên địa bàn thành phố Hà Nội, có rất nhiều người đang làm việc cho các doanh nghiệp tư nhân, hoặc các doanh nghiệp nước ngoài.Họ thường có thu nhập cao và ổn định.Tuy nhiên khi những người này không còn làm việc nữa thì họ sẽ không còn được hưởng các chế độ lương bổng nữa, như thế nếu họ không có tích luỹ tốt thì cuộc sống khi về già, khi hết tuổi lao động của họ sẽ gặp nhiều khó khăn.Do đó, với những người này nhu cầu có một dịch vụ quản lý tiền tích luỹ cá nhân, đảm bảo cuộc sống khi về già là rất cần thiết.Trên thực tế, các công ty Bảo Hiểm đã đứng ra thực hiện các dịch vụ này. Tuy nhiên với những thủ tục còn phức tạp chưa thu hút được nhiều khách hàng.Vì vậy đây có thể là một cơ hội tốt để ngân hàng đưa thêm một sản phẩm mới vào danh mục sản phẩm kinh doanh của mình, đồng thời đây cũng là một biện pháp tốt để ngân hàng có thể huy động được nguồn vốn ổn định, liên tục và lâu dài (thông thường người gửi tiền không rút tiền trước hạn, trừ trường hợp đột tử).Với nguồn vốn này ngân hàng có thể chủ động dùng để cho vay, đầu tư trung dài hạn, góp phần nâng cao tỷ suất sinh lời cho mình.
Tiết kiệm cho trẻ em
Hình thức tiết kiệm này có lợi ích rất lớn không chỉ cho công tác huy động vốn của ngân hàng, mà nó còn góp phần tạo thói quen dè sẻn trong chi tiêu cho trẻ em.Bởi lẽ khi có một tài khoản riêng gắn với lợi ích của chúng, trẻ em sẽ quan tâm đến việc gửi tiền hơn thay vì chi tiêu vô ích.
Tiền gửi tiết kiệm gửi một nơi rút nhiều nơi
Khách hàng có thể gửi tiền tiết kiệm ở một chi nhánh ở thành phố này nhưng vì một lý do nào đó, gia đình họ phải chuyển vào sinh sống tại thành phố khác, tỉnh khác.Khi đến hạn thay vì việc có thể rút tiền tại một chi nhánh nào đó thuộc hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam có trụ sở tại thành phố họ chuyển tới, khách hàng phải ra tận chi nhánh đã gửi để rút tiền.Rõ ràng điều này sẽ gây rất nhiều khó khăn, bất tiện cho quỹ thời gian hạn hẹp của khách hàng, có thể dẫn đến việc khách hàng phải rút tiền trước hạn.Vì vậy phải chăng NHNo&PTNT Việt Nam nên có một chính sách để khách hàng gửi tiền ở một nơi và rút tiền ở nhiều nơi thuận tiện (tất nhiên thuộc hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam).
Tiền gửi tiết kiệm xây dựng nhà ở
Với tiền gửi tiết kiệm xây dựng nhà ở, ngân hàng sẽ mang lại cho đại bộ phận dân cư có thu nhập cao, ổn định một công cụ tích luỹ vốn đảm bảo khả năng đạt tới quyền sở hữu một căn hộ, một ngôi nhà cho bản thân và cho gia đình mà không ảnh hưởng quá nhiều đến khả năng tài chính hiện tại của họ.Đồng thời khi cung cấp sản phẩm này, ngân hàng sẽ có điều kiện đẻ tạo nguồn vốn ổn định, khả dụng ở thời gian trung dài hạn.
Mở rộng hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm hưởng lãi bậc thang.
Đây là loại hình tiền gửi tiết kiệm được khách hàng ưa chuộng, loại hình này khách hàng được quyền rút vốn (gốc và lãi) vào bất cứ lúc nào trong thời gian gửi và được hưởng một khoản tiền lãi với bậc lãi suất theo quy định khi gửi tiền phù hợp với thời gian gửi tiền. Lãi suất bậc thang tối đa được tính theo kỳ hạn lãi suất kỳ hạn 36 tháng kể từ ngày gửi tiền. Khung lãi suất bậc thang được xây dựng như sau:
+ Từ khi gửi đến dưới 3 tháng hưởng lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
+ Từ 3 tháng đến dưới 6 tháng hưởng lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng.
+ Từ 6 tháng đến dưới 9 tháng hưởng lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 6 tháng.
+ Từ 9 tháng đến dưới 12 tháng hưởng lãi suất kỳ tiền gửi tiết kiệm có hạn 9 tháng.
+ Từ 12 tháng đến dưới 24 tháng hưởng lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 12 tháng.
+ Từ 24 tháng trở lên được hưởng lãi suất bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 24 tháng tại thời điểm gửi tiền.
Với sự hoàn thiện và mở rộng hình thức huy động này, NHNo&PTNT Hà Nội sẽ khuyến khích được khách hàng gửi tiền với thời hạn dài hơn, nhất là kỳ hạn từ 12 tháng trở lên. Do đó, NHNN&PTNT Hà Nội sẽ có điều kiện thuận lợi để thu hút nguồn vốn trung dài hạn đáp ứng các nhu cầu đầu tư, cho vay với thời hạn dài, lợi nhuận cao.
3.1.2.3. Củng cố, nâng cao uy tín của ngân hàng
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền - quảng cáo
Ngày nay việc mở rộng hoạt động của hệ thống ngân hàng thông qua các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo khuyếch trương là rất cần thiết.Công tác tuyên truyền về hoạt động ngân hàng trong thời gian qua đã được triển khai mang lại hiệu quả đáng kể trong công tác huy động vốn nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung. Chi nhánh đã sử dụng số kinh phí không nhỏ nhưng hiệu quả tuyên truyền còn hạn chế.Vì vậy, trong thời gian tới ngân hàng phải khắc phục được tồn tại này, bằng cách : Để tiết kiệm chi phí mang lại hiệu quả cao, ngân hàng cần thực hiện quảng cáo theo chu kỳ của sản phẩm. Để làm tốt công tác này, NHNo&PTNT Hà Nội cần tập trung vào một số dịch vụ nhất định như: Lãi suất tiền gửi, các hình thức gửi tiền, các sản phẩm ngân hàng hiện đại...Nội dung quảng cáo cần tập trung vào nhu cầu, thị hiếu của khách hàng nhằm gắn kết mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng đồng thời đẩy mạnh đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền quảng cáo, các hoạt động tài trợ, khuyến mại,.....nhằm khuyếch trương hình ảnh cho ngân hàng. Cụ thể:
Nâng cao chất lượng tờ rơi, pa nô, áp phích dán tại trụ sở, tại các điểm giao dịch của ngân hàng và các điểm tập trung đông dân. Ngoài ra NHNo&PTNT Hà Nội cũng cần tăng cường quảng cáo trên các ấn phẩm và vật lưu niệm...
NHNo&PTNT Hà Nội nên tham gia tài trợ cho các chương trình thu hút được sự quan tâm của nhiều người như các chương trình văn hoa, thể thao, trên các phương tiện thông tin đại chúng như truyền thanh, truyền hình, báo chí ... nhằm khuyếch trương hình ảnh của ngân hàng.
Công khai kết quả hoạt động của ngân hàng
Cuối mỗi năm tài chính ngân hàng có thể giới thiệu với các khách hàng khi đến giao dịch kết quả hoạt động kinh doanh, đồng thời công bố trên trang web của ngân hàng để khách hàng tham khảo. Đây cũng là một cách để khách hàng hiểu rõ hơn về ngân hàng và có thể lựa chọn sản phẩm dịch vụ ngân hàng phù hợp, đưa ra quyết định đúng đắn trong quan hệ giao dịch với ngân hàng.
Nâng cao phong cách phục vụ
Nâng cao phong cách phục vụ là một biện pháp vô cùng quan trọng nhàm nâng cao uy tín, vị thế và hình ảnh của ngân hàng trong lòng khách hàng.Có nhiều khi khách hàng đến giao dịch rất đông và phải chờ đợi để đến lượt giao dịch, trong thời gian này nhân viên ngân hàng có thể mời khách hàng ngồi chờ, dùng nước và đọc các tạp chí của ngân hàng. Như vậy có thể giảm bớt mệt mỏi và tăng thêm nhiệt tình cho khách hàng.
Hoàn thiện chính sách khách hàng
Trong nền kinh tế thị trường“khách hàng là thượng đế”, ngân hàng muốn tồn tại và phát triển cần phải có khách hàng. Muốn vậy, ngân hàng phải thoả mãn tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng, khách hàng phải được phục vụ tận tình chu đáo trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối ưu của họ.
Để hoàn thiện chính sách khách hàng, NHNo&PTNT Hà Nội nên có những chính sách quan tâm ưu đãi đối với khách hàng.Cụ thể:
Với khách hàng đến giao dịch, các giao dịch viên phải có thái độ phục vụ nhiệt tình, chu đáo và cởi mở.
Số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng phải được đảm bảo bí mật và an toàn.
Ngân hàng nên đặt các hòm thư và thiết lập các đường dây điện thoại nóng để tiếp nhận các đơn từ và những phản ánh của khách hàng về thái độ giao dịch, về những sai sót của cán bộ khi thực hiện các nghiệp vụ. Từ đó một mặt tôn trọng ý kiến khách hàng, mặt khác có cơ sở để chấn chỉnh và hoàn thiện các hoạt động ngân hàng, thực hiện kinh doanh theo phương châm “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”.
Ngoài ra ngân hàng cần phải có chính sách khuyến mại hấp dẫn để tăng sự thu hút đối với khách hàng như:
Tổ chức các đợt quay số có giải thưởng cao như: Nhà ở, xe máy, chuyến du lịch...hay có những tặng phẩm nhỏ cho khách hàng như áo mưa, túi sách...
Với các điểm giao dịch mới khai trương, các đợt phát hành kỳ phiếu, trái phiếu mới, ngân hàng nên có những quà tặng giá trị cho những vị khách hàng đầu tiên.
Ngân hàng cũng nên có những món quà tặng cho những khách hàng truyền thống, những khách hàng lớn đã có quan hệ với ngân hàng nhiều năm liền.
3.2 KIẾN NGHỊ
3.2. 1 Với Chính phủ
- Hoàn thiện môi trường kinh tế vĩ mô,tạo môi trường đầu tư thông thoáng, tiếp tục sắp xếp đổi mới khu vực kinh tế nhà nước, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa
- Thiết lập môi trường pháp lý ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói riêng và các doanh nghiệp nói chung,giúp doanh nghiệp có thể vay vốn của ngân hàng, bảo đảm sự ổn định của nguồn tiền gửi cho ngân hàng
- Có các chính sách khuyến khích , hỗ trợ các ngân hàng hiện đại hóa công nghệ ngân hàng nhằm nâng cao năng lực canh tranh đáp ứng yêu cầu hội nhập và đổi mới trong nền kinh tế
-Định hướng tiêu dùng, khích lệ tiết kiệm đầu tư trong nhân dân thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm phát huy nội lực từ nền kinh tế, tranh thủ mọi nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, từng bước hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế - xã hội đưa Việt Nam thành nước công nghiệp vào những thập niên đầu thế kỷ XXI.
3.2.2 Với ngân hàng nhà nước
- Tập trung xây dựng và hoàn thiện chính sách tiền tệ,tín dụng thúc đẩy phát triển nghiệp vụ ngân hàng .Do khai thác vốn của ngân hàng thương mại phụ thuộc vào chính sách tiền tệ do đó các chính sách tiền tệ phải linh hoạt,phù hợp để đẩy vốn cho nền kinh tế ,thúc đẩy nền kinh tế phát triển
- Cơ cấu lại hệ thông thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng để đảm bảo sự tuân thủ pháp luật mọi ngiệp vụ trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng,góp phần nâng cao chất lưọng tín dụng ,tạo điều kiện cho ngân hàng hoạt động ổn định,lành mạnh.
Mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt, một mặt giảm lượng tiền cung ứng trong lưu thông, thực thi chính sách tiền tệ quốc gia mặt khác nó làm tăng khả năng tạo tiền của toàn hệ thống các ngân hàng thương mại, tăng tốc độ tăng trưởng vốn.Đồng thòi đối với khách hàng họ cũng nhận được nhiều tiện lợi thông qua hoạt động này so với thanh toán bằng tiền mặt, nhanh chóng, an toàn và tiết kiệm chi phí bảo quản, kiểm đếm và vận chuyển.Về mặt quản lý nhà nước: khi quản lý tốt thanh toán không dùng tiền mặt có thể hạn chế nạn rửa tiền, làm tiền giả đang có chiều hướng gia tăng.
-Phát triển hơn nũa thị trường liên ngân hàng: Ngân hàng nhà nước cần có giải pháp cần thiết để tạo điều kiện cho thị trường liên ngân hàng hoạt động có hiệu quả, với việc làm này các ngân hàng có thể huy động vốn trên thị trường liên ngân hàng một cách dễ dàng hơn khi cần thiết.
Đối với NHNNo&PTNT Việt Nam
Để tiếp tục phát triển nguồn vốn huy động tại NHNNo&PTNT Hà nội cũng như toàn bộ hệ thống cần khẩn trương triển khai việc áp dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại vào cuộc sống như thẻ ATM, thẻ ngân hàng các loại song song với việc bổ sung hoàn thiện các hình thức huy động vốn hiện nay cho nhu cầu phát triển kinh tế -xã hội và nâng cao tiện ích cho người gửi tiền.
Có kế hoạch huy động vốn và sử dụng vốn trung và dài hạn cụ thể từng thời kỳ tạo định hướng và mục tiêu phát triển của ngành và các chi nhánh thành viên.
Cải cách việc điều hoà vốn thừa thiếu giữa các chi nhánh thành viên với trung tâm điều hành cho linh hoạt phù hợp trên cơ sở kích thích động viên các chi nhánh có khả năng huy động vốn lớn để tích tụ tập trung vốn cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá nhất là nông nghiệp và nông thôn.Có giải pháp thích hợp sử dụng vốn, không nên giao chỉ tiêu bắt buộc giảm vốn huy động cho ngân hàng cơ sở.
Cho phép các chi nhánh thành viên có nguồn vốn huy động lớn trong đó có chi nhánh Hà nội được trực tiếp cho vay các NHTM và các tổ chức tín dụng khác hoặc đầu tư chứng khoán, đấu thầu trái phiếu Kho bạc Nhà nước, mua cổ phần để “tiêu thụ” nguồn vốn huy động.
Thị trường“đầu ra” của NHNo&PTNT đang đòi hỏi rất lớn về vốn, khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầngVì vậy NHNNo&PTNT Việt Nam phải phối hợp với các ngành, các cấp dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, của ngân hàng Nhà nước.Xây dựng chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn, phải đưa sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là trách nhiệm của mình trước tổ quốc và nhân dân Việt Nam.
Giải quyết được vấn đề này tức là giải quyết được đầu ra của NHNNo&PTNT rất lớn và có hiệu quả.Đây chính là cơ sở, là nền tảng cho sự phát triển nguồn vốn huy động.
Tập trung một phần tài chính trên cơ sở có hiệu quả và tiết kiệm để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho mạng lưới các chi nhánh, các bàn tiết kiệm đủ điều kiện giao dịch với khách hàng văn minh - lịch sự, tạo niềm tin và sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng.Tăng cường đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ ngân hàng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.Kết hợp đào tạo với công tác tổ chức cán bộ quản lý và chính sách khoán tài chính, tiền lương tới cán bộ nhân viên ngân hàng nhằm động viên lao động sáng tạo của từng cá nhân và ngân hàng cơ sở.
MỤC LỤC
Kết luận
Hoạt động huy động vốn từ dân cư là hoạt động quan trọng góp phần phát triển của ngân hàng. Đặc biệt khi nền kinh tế nước ta đang trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước,thì hoạt động này càng trở nên quan trọng hơn,là một trong những nhân tố quyết định đưa đất nước tránh khỏi tình trạng lạc hậu về kinh tế.
Qua thực trạng huy động vốn từ dân cư của NHNNo&PTNT HN từ năm 2007 ta thấy NHNNo&PTNT HN đã không ngừng đổi mới kinh doanh phù hợp với nền kinh tế thị trường và đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước,Trong những năm qua,số lượng và quy mô nguồn vốn từ dân cư năm sau bao giờ cũng cao hơn năm trước đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế thủ đô và những vùng lân cận.Tuy nhiên,tăng trưởng của vốn thành phần không ổn định ,cơ cấu vốn chưa hợp lí.Do đó, để mở rộng huy động vốn từ dân cư ngân hàng cần tập trung : đa dạng hoá hình thức huy động,kì hạn tiền gửi,chuyên môn hoá theo từng nhóm đối tượng,sử dụng chính sách lãi suất linh hoạt hợp lí.
Do hạn chế về thời gian nghiên cứu cũng như sự hiểu biết của tôi nên chuyên đề này không tránh khỏi thiếu sót.Vì vậy,tôi mong nhận được ý kiến đóng góp từ thầy giáo và các cô chú cán bộ tại NHNNo&PTNT HN để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
EM XIN CÁM ƠN THẦY GIÁO HƯỚNG DẪN VÀ QUÝ NGÂN HÀNG.
Lời nói đầu
Nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến kinh tế quan trọng và đạt được nhiều thành quả to lớn trong phát triển kinh tế xã hội.
Vốn là một trong những nguồn lực quanh trọng mang tính quyết định trong tiến trình CNH-HĐH nền kinh tế xã hội Việt Nam.
Ngân hàng là một trong những kênh huy động vốn chủ yếu của nền kinh tế.Tức là ngân hang đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất,làm dễ dàng cho hoạt động của Nhà Nước.Vì vậy vốn ngân hàng đóng vai trò quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển đất nước.
Nguồn vốn từ dân cư chiếm tỷ trọng lớn và có ý nghĩa quan trọng trong tổng nguồn huy động của ngân hàng .
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nôị (NHNNo&PTNT HN) là định chế tài chính có khả năng to lớn trong việc tổ chức huy động các nguồn vốn từ dân cư nói riêng cũng như trong nền kinh tế nói chung.Với mạng lướng chi nhánh rộng lớn đã cho phép NHNo&PTNT HN tổ chức huy động vốn từ dân cư đạt hiệu quả cao hơn.
Tuy nhiên,với các hình thức huy động vốn của ngân hàng còn hạn chế chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của nền kinh tế, và chưa khia thác hết được nguồn vốn tiềm tàng từ trong dân cư.
Vì vậy,tôi đã chon đề tài nghiên cứu: "Mở rộng huy động vốn dân cư tại NHNNo&PTNT HN"
Chuyên đề sẽ phân tích và lí giải về thực trạng huy động vốn dân cư tại chi nhánh NHNNo&PTNT HN và đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm mở rộng huy động vốn tại NHNNo&PTNT HN.
Chuyên đề gồm có 3 phần:
- Phần một:Tổng quan về huy động vốn dân cư ở ngân hàng thương mại.
-Phần hai:Thực trạng huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT HN
-Phần ba:Các giải pháp được kiến nghị.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7635.doc