Kiến nghị về mở rộng nguồn của
pháp luật
Thứ nhất, việc thừa nhận nguyên tắc
“bất khẳng thụ lý” trong hệ thống pháp luật
Việt Nam là bước tiến quan trọng trong việc
đảm bảo quyền tiếp cận công lý của người
dân. Tuy nhiên, để cho nguyên tắc tiến bộ
và văn minh này được tôn trọng trên thực tế,
nhà làm luật cũng cần đặt ra biện pháp chế
tài đối với thẩm phán khi từ chối thụ lý vì lý
do chưa có điều luật để áp dụng hoặc vì lý
do luật không rõ ràng, bên cạnh các vi phạm
về thời hạn giải quyết vụ việc, mà có thể tạo
nhiều hệ lụy lớn về kinh tế, chính trị và xã
hội. Công lý bị trì hoãn là công lý bị từ chối
và bất khẳng thụ lý cũng là một sự từ chối
công lý rõ ràng, vô lý và thiếu trách nhiệm.
Trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm
2015, hiện chưa có quy định về tội từ chối
xét xử (công lý), dù đã có Chương XXIV về
các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Chế tài
hiện tại đối với các hành vi này có lẽ vẫn chỉ
là trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm
kỷ luật.
Thứ hai, việc thừa nhận án lệ như một
loại nguồn của pháp luật Việt Nam là một
bước đi tiến bộ, nhưng chưa phải là điểm
dừng bởi đằng sau đó là một quá trình dài
xem xét về việc lựa chọn, công bố và áp
dụng án lệ một cách phù hợp, chính xác để
quy định này đảm bảo tính hiệu quả cao nhất
trong thực tiễn thì mới góp phần đảm bảo
quyền tiếp cận công lý của người dân.
Để án lệ trở thành một nguồn thực thụ
của pháp luật - góp phần bảo đảm quyền
tiếp cận công lý của người dân, cần phải
trao quyền giải thích pháp luật cho tòa án.
Chức năng chính của án lệ là bổ khuyết sự
thiếu sót, không rõ ràng và lạc hậu của pháp
luật. Và chỉ có thể có án lệ đúng nghĩa khi
trao quyền giải thích pháp luật cho cơ quan
tư pháp, mà người trực tiếp thực hiện quyền
này là các thẩm phán. Việc giải thích pháp
luật chỉ nhằm mục đích áp dụng pháp luật
vào các trường hợp cụ thể của đời sống xã
hội, chứ không nên xuất phát từ ý chí của
nhà lập pháp khi làm luật. Ngoài ra, cần phải
thay đổi tư duy về việc sử dụng án lệ trong
giảng dạy và đào tạo luật. Theo đó, cần đưa
kiến thức chuyên sâu về án lệ trong các lớp
đào tạo nghiệp vụ xét xử
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 249 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mở rộng nguồn pháp luật đảm bảo quyền tiếp cận công lý tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Văn Quân*
* TS. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
MỞ RỘNG NGUỒN PHÁP LUẬT
ĐẢM BẢO QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ TẠI VIỆT NAM*
“Công lý bị trì hoãn là công lý bị từ chối”∗∗
* Bài viết bổ sung và phát triển bài viết cho Hội thảo “Công lý và quyền tiếp cận công lý: những vấn đề lý luận, thực
tiễn” do Viện Chính sách công và Pháp luật thuộc Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam đã tổ chức ngày 18/04/2018.
∗∗ To delay Justice is Injustice - Penn, William (1693), Some Fruits of Solitude, Headley, 1905, tr. 86.
Tóm tắt:
Mở rộng và đa dạng hóa các loại nguồn pháp luật là điều tất yếu
phải tiến hành trong một nhà nước pháp quyền - nhà nước bảo
đảm quyền con người. Sự mở rộng nguồn pháp luật góp phần khỏa
lấp những khoảng trống mà luật thành văn chưa và không dự liệu
được. Qua đó, góp phần nâng cao vị thế của Tòa án trong việc bảo
vệ công lý, quyền con người, quyền công dân.
Abstract
The extension and diversification of the legal sources are a must for
a state governed by the rule of law - the state guarantees the human
rights. The extension of the legal sources contributes to fill in the
gaps, for which the written laws yet to cover the unpredictable cases.
Also, this has contributed to enhancing the position of the court in
protecting justice, human rights and citizenship rights.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: tiếp cận công lý; nguồn pháp
luật; mở rộng nguồn pháp luật; luật
thành văn; bất khẳng thụ lý.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 04/06/2018
Biên tập : 18/06/2018
Duyệt bài : 25/06/2018
Article Infomation:
Keywords: access to justice; legal
sources; extension of the legal sources
Article History:
Received : 04 Jun 2018
Edited : 18 Jun 2018
Approved : 25 Jun 2018
Dẫn nhập
Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác
nhau về tiếp cận công lý (acces to justice).
Phổ biến nhất, có thể hiểu là quyền được
1 Vũ Công Giao, Tiếp cận công lý và các nguyên lý của nhà nước pháp quyền, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà
Nội, Luật học 25, 2009, tr. 188.
xét xử công bằng bởi tòa án1. Đây là cách
hiểu mang tính truyền thống được ghi nhận
từ lâu trong các văn kiện pháp lý quốc tế.
Điều 8 Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 17(369) T9/2018
(UDHR) năm 1948 quy định: “Mọi người
đều có quyền được các tòa án quốc gia có
thẩm quyền bảo vệ bằng các biện pháp hữu
hiệu để chống lại những hành vi vi phạm
các quyền cơ bản của họ đã được hiến pháp
hay pháp luật quy định”. Điều 10 của Tuyên
ngôn này cũng khẳng định: Mọi người đều
bình đẳng về quyền được xét xử công bằng
và công khai bởi một toà án độc lập và
khách quan để xác định các quyền và nghĩa
vụ của họ, cũng như về bất cứ cáo buộc hình
sự nào đối với họ”. Điều 6 Công ước Châu
Âu về Nhân quyền năm 1950 cũng khẳng
định: “Mọi người đều có quyền được xét xử
công bằng và công khai trong một khoảng
thời gian hợp lý, bởi một tòa án độc lập và
vô tư được thành lập theo luật định”.
Chúng tôi dựa vào cách hiểu này về
quyền tiếp cận công lý để phân tích mối
quan hệ giữa mở rộng, đa dạng hóa các loại
nguồn pháp luật và đảm bảo quyền tiếp cận
công lý tại Việt Nam.
Hệ thống pháp luật Việt Nam ngày nay
cơ bản vẫn dựa trên nền tảng hệ thống pháp
luật của các nước XHCN2 (Soviet Law), và
ít nhiều thừa hưởng một số yếu tố của hệ
thống dân luật (Civil law) - di sản của hơn
80 năm người Pháp cai trị. Về cơ bản, pháp
luật XHCN có nhiều nét tương đồng với hệ
thống dân luật - vốn đề cao pháp luật thành
văn, đề cao pháp điển hóa và xem văn bản
quy phạm pháp luật (VBQPPL) là nguồn
pháp luật chính3. Ở Việt Nam, lý thuyết pháp
luật thực chứng Xô viết có ảnh hưởng sâu
rộng và lâu dài. Đặc trưng cơ bản của thực
2 Đào Trí Úc, “Basic Information of Legal Research – A Case Study of Vietnam”, Project of Doing Legal Research in
Asian Countries: China, India, Malaysia, Philippines, Thailand and Vietnam, Conducted by the Institute of Developing
Economies (IDE-JETRO), Japan, 2003, tr. 206.
3 René David, Camille Jauffret-Spinosi, Marie Goré, Les grands systèmes de droit contemporains, Dalloz, 2016, tr.176;
Gilles Cuniberti, Grands systèmes de droit contemporain: Introduction au droit comparé, LGDJ, 3ème éd., 2015, tr.
53-54.
4 Shirley Robin Letwin, On the History of the Idea of Law, Cambridge University Press, 2005, tr. 240.
5 Lý luận pháp luật Xô viết được cho là do Andreï Ianouarievitch Vychinski (1883-1954) đặt nền móng và tạo lập sự ảnh
hưởng sâu sắc. Xem: Hans Kelsen, The communiste theory of law, Frederick A. Praeger, Inc, 1995, tr. 116-132.
6 Phan Nhật Thanh (Chủ biên), Tập quán pháp, tiền lệ pháp và việc đa dạng hóa hình thức pháp luật ở Việt Nam, Nxb.
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2017, tr. 176.
chứng pháp lý Xô viết là sự đề cao thái quá
vai trò của VBQPPL, xuất phát từ vai trò
độc tôn của nhà nước trong đời sống xã hội
và pháp luật được xem là công cụ để thực
hiện chuyên chính vô sản mà xem nhẹ vai
trò xã hội, vai trò giải quyết các tranh chấp
giữa các cá nhân4, pháp luật gần như đồng
nghĩa với luật công - luật pháp điều chỉnh
quan hệ giữa nhà nước và cá nhân5.
Đây có lẽ cũng là một trong những
khiếm khuyết và hạn chế của hệ thống pháp
luật Xô viết. Hệ thống pháp luật thành văn
luôn tồn tại những điểm hạn chế nhất định,
bị giới hạn bởi cái gọi là “thành văn”, tức là
giới hạn trong câu chữ rõ ràng, bởi các quy
định trừu tượng và khái quát của luật6 - văn
bản của cơ quan lập pháp. Nguồn luật thành
văn với sự đề cao pháp điển hóa cũng tạo ra
sự thiếu hụt của quy phạm pháp luật trong
một số trường hợp, vì nhà làm luật không thể
dự liệu được hết mọi tình huống trong cuộc
sống. Nếu chỉ dựa vào nguồn luật thành văn,
sẽ dẫn tới nhiều trường hợp tòa án từ chối
xét xử vì lý do chưa có luật, hoặc luật không
rõ ràng. Để đảm bảo công lý của người dân,
việc thừa nhận nguyên tắc “bất khẳng thụ
lý” và sử dụng các loại nguồn pháp luật khác
ngoài luật thành văn là một đòi hỏi tất yếu
và khách quan.
1. Quan niệm về nguồn pháp luật ở
Việt Nam
Khi bàn về nguồn của pháp luật, có tài
liệu còn sử dụng cụm từ “hình thức của pháp
luật”. Theo đó, “hình thức pháp luật là cách
thức mà giai cấp thống trị sử dụng để nâng
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 17(369) T9/2018
ý chí của giai cấp mình lên thành pháp luật.
Trong lịch sử đã có ba hình thức pháp luật là
tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản pháp
luật”7. Theo chúng tôi, việc dùng thuật ngữ
“hình thức của pháp luật” để nói về vấn đề
nguồn của pháp luật là không thuyết phục.
Tại sao vấn đề nguồn của pháp luật (tức vấn
đề xem xét quy phạm pháp luật tồn tại ở
đâu) lại là vấn đề hình thức của pháp luật?
Theo chúng tôi, khái niệm “hình thức
của pháp luật” được dùng có lẽ do ảnh hưởng
từ các tài liệu khoa học của Liên Xô, vốn
được các tác giả Việt Nam tham khảo khá
phổ biến. Trong các giáo trình này, các tác giả
người Nga thường dùng cụm từ “Источник
(форма) права”8 hoặc источники (формы)
права9 được các tác giả Việt Nam dịch ra
tiếng Việt là “nguồn (hình thức) của pháp
luật”. Về mặt ngôn ngữ thì từ “форма” là
một từ vay mượn trong tiếng Nga, có thể có
nguồn gốc từ tiếng Pháp (forme), hoặc tiếng
Anh (form). Từ này không chỉ có nghĩa là
“hình thức”, “hình thể” mà còn có nghĩa là
“hình dạng”, “dạng”, “kiểu”, “thể loại”
Phải chăng vì thế, các tác giả Việt Nam
dùng thuật ngữ “hình thức của pháp luật”
như thuật ngữ tương đương của “nguồn của
pháp luật”? Theo chúng tôi, nếu dùng thuật
ngữ “các dạng pháp luật” hoặc “các thể loại
pháp luật” thì dễ hiểu và gần gũi hơn. Cách
hiểu nguồn của pháp luật là hình thức của
pháp luật dường như chỉ tồn tại trong lý luận
7 Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân 2008, tr. 81.
8 М.Н.Марченко, Теория государства и права, Проспект, 2004, tr.504. Т.Н. Радько, Теория государства и права.
Учебник для бакалавров, Проспект, 2012, Chương 7; С.С. Алексеев, Теория государства и права, Норма, 2005.
9 А. В. Мелехин. Теория государства и права: Учебник, Маркет ДС, 2007, tr. 276.
10 Jacques Ghestin, Gilles Goubeaux avec le concours de Muriel Fabre-Magnan, Traité de Droit civil: Introduction
générale, Nxb. LGDJ, 4ème édition, 1994, n 236; tr. 192.
11 Jacques Ghestin, Gilles Goubeaux avec le concours de Muriel Fabre-Magnan, Traité de Droit civil: Introduction
générale, Sđd, n 236, tr. 194.
12 Jacques Ghestin, Gilles Goubeaux avec le concours de Muriel Fabre-Magnan, Traité de Droit civil: Introduction
générale, Sđd, n237, tr. 195.
13 Hoàng Thị Kim Quế, Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015, tr. 295.
14 Hoàng Thị Kim Quế, Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015, tr. 328.
“Nguồn pháp luật là những hình thức chính thức thể hiện các quy tắc bắt buộc chung được nhà nước thừa nhận có giá
trị pháp luật để áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc trong thực tiễn pháp luật, là những cơ sở được sử dụng trong
xây dựng, ban hành pháp luật, cơ sở hình thành nên nội dung pháp luật”.
pháp luật kiểu Xô viết - vốn xem pháp luật
là “hình thức” biểu hiện ý chí của giai cấp
thống trị.
Bản chất của nguồn pháp luật là
những biểu hiện, thể loại pháp luật tồn tại
trong đời sống xã hội mà người ta có thể áp
dụng vào trong tình huống pháp lý. Chính vì
thế, ở Pháp, một nhóm các nhà luật học quan
niệm rằng, nguồn của pháp luật chính là vấn
đề “giải pháp cho một câu hỏi pháp lý được
tìm thấy ở đâu”10. Các tác giả này cho rằng,
đó là nghĩa hẹp của khái niệm nguồn pháp
luật, bên cạnh nghĩa rộng là “tất cả những
yếu tố ảnh hưởng tới sự hình thành nên pháp
luật”11. Cách hiểu theo nghĩa hẹp là cách
hiểu về “nguồn của pháp luật thực định” -
những quy tắc xử sự chung tồn tại ở một thời
điểm cụ thể, trong một không gian cụ thể”12.
Dù còn nhiều tranh cãi về khái niệm “pháp
luật”, nhưng số đông vẫn quan niệm, pháp
luật là “hệ thống các quy tắc xử sự chung13
(các quy phạm) nên khi nói về nguồn của
pháp luật là chúng ta xem xét các quy định
của pháp luật tồn tại ở đâu, đó có phải là căn
cứ được sử dụng để điều chỉnh các vấn đề
cụ thể của đời sống hay không và đây chính
là nội hàm của khái niệm “nguồn của pháp
luật”. Đây cũng là quan điểm của một số học
giả Việt Nam hiện nay14.
Ảnh hưởng của khoa học pháp lý Xô
viết đối với quan điểm về nguồn pháp luật
của các nhà luật học Việt Nam là điều không
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Số 17(369) T9/2018
cần phải bàn cãi. Sự tương đồng về khái
niệm nguồn của pháp luật giữa các tác giả
Việt Nam và Liên Xô có thể dễ dàng nhìn
thấy trong các công trình nghiên cứu về lý
luận pháp luật. Từ sự ảnh hưởng về khái
niệm nguồn dẫn tới sự tiếp nhận trong pháp
luật thực định Việt Nam nguồn pháp luật
theo mô hình Xô viết15.
Sự đề cao nguồn luật thành văn trong
hệ thống pháp là một trong những đặc trưng
của họ pháp luật XHCN, đã được nhiều nhà
luật học so sánh chỉ ra16. Có thể tóm lược lại
một số nét như sau:
Trong pháp luật XHCN, tính tối cao,
thậm chí có thể gọi là độc tôn của pháp luật
thành văn là một nguyên tắc không phải bàn
cãi và nghi ngờ đối với các nhà lý luận17.
Theo đó, luật pháp là “những gì do các cơ
quan được Hiến pháp trao cho quyền tạo ra
luật, tức là () các cơ quan lập pháp”18, và
tại các nước XHCN, hình thức điển hình mà
pháp luật thể hiện là hình thức lập pháp, phù
hợp với các nguyên tắc XHCN của chế độ
chính trị”19.
Có thể đưa ra một số căn nguyên lý
giải cho sự đề cao luật thành văn trong hệ
15 Có thể dễ dàng tìm thấy sự ảnh hưởng của quan niệm về nguồn pháp luật của các nhà luật học Xô viết trong các nghiên
cứu của các tác giả Việt Nam được xuất bản vào giai đoạn trước đây. Ví dụ : Đinh Văn Mậu, Phạm Hồng Thái, Lý luận
chung về nhà nước và pháp luật, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, 2005, tr. 271.
Tại Liên bang Nga ngày nay có nhiều thay đổi trong nhận thức về nguồn của pháp luật cũng như sự thừa nhận các
loại nguồn khác ngoài luật thành văn. Xem: М.Н. Марченко, Источники права. Учебное пособие, Проспект, 2013;
William Butler, Russian Law, Oxford University Press, 2009.
16 Có thể tham khảo nghiên cứu có tính hệ thống về nguồn pháp luật tại các nước XHCN: George C. Guins, Soviet Law
and Soviet Society, The. Hague, Martinus Nijhoff, 1954, tr.69-79; Hubert Izdebski, Les sources du droit dans les pays
socialistes européens (Histoire, théorie, pratique), Revue Internationale de droit comparé. Vol. 38 N°1, Janvier-mars
1986. tr. 7-56 ; René David, Camille Jauffret-Spinosi, Marie Goré, Les grands systèmes de droit contemporains, Sđd,
tr.176.
17 Hubert Izdebski, Les sources du droit dans les pays socialistes européens (Histoire, théorie, pratique), Sđd, tr.18.
18 I. SZABÓ, “Le droit socialiste. (Introduction)”, Introduction aux droits socialistes, Budapest, Akadémiai Kiadó, 1971.
p. 95 et 97, dẫn bởi Hubert Izdebski, Les sources du droit dans les pays socialistes européens (Histoire, théorie, pra-
tique), Sđd.
19 Hubert Izdebski, Les sources du droit dans les pays socialistes européens (Histoire, théorie, pratique), Sđd.
20 Lev Samoĭlovich JAWITSCH, The General Theory of Law. Social and Philosophical Problems, Moscou, Progress,
1981. tr. 121.
21 S. ROZMARYN, “Le système du droit de la République populaire de Pologne”. Introduction à l’étude du droit po-
lonais, Varsovie, P.W.N., 1967, tr. 31, dẫn theo Hubert Izdebski, Les sources du droit dans les pays socialistes européens
(Histoire, théorie, pratique), Sđd. Tr.19.
22 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, 2013, tr. 96.
thống pháp luật XHCN như sau:
Dưới góc độ Hiến pháp, “nền dân chủ
XHCN dựa trên sự tập trung tất cả quyền
lực nhân dân vào cơ quan đại diện tối cao
của quyền lực nhà nước, có khả năng biểu
thị một cách trọn vẹn lợi ích của nhân dân
lao động”20. Bản thân pháp luật không hề
có mục đích tự thân mà là một phương tiện
để xây dựng xã hội cộng sản của tương lai.
Cương lĩnh chuyển đổi nhanh chóng và sâu
sắc các quan hệ xã hội chỉ có thể được tiến
hành thông qua pháp luật”21. Nhà nước do
giai cấp thống trị nắm giữ, còn pháp luật là
công cụ để nhà nước quản lý xã hội, bảo vệ
quyền và lợi ích của giai cấp cầm quyền22.
Một cách tự nhiên, luật thành văn trở thành
nguồn quan trọng nhất trong tay các nhà
quản lý. Nhìn rộng hơn, việc quốc hữu hóa
và kế hoạch hóa nền kinh tế đòi hỏi việc
quốc hữu hóa - nhà nước hóa và kế hoạch
hóa việc làm luật - vốn là công cụ trong tay
nhà nước để quản lý mọi mặt của đời sống
xã hội.
Ngoài ra, chúng ta có thể chỉ ra thêm
một căn nguyên của việc đề cao một cách
tuyệt đối luật thành văn. Đó là sự độc tôn của
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 17(369) T9/2018
luật thành văn phù hợp với nguyên tắc “tập
trung dân chủ” - nguyên tắc nền tảng trong
tổ chức quyền lực của các nước XHCN23.
Theo đó, mọi hoạt động của công dân cũng
như bộ máy nhà nước được chỉ đạo, điều
hành thống nhất từ trên xuống dưới.
Sự đề cao vai trò của luật thành văn
còn xuất phát từ một căn nguyên sâu xa hơn
là quan niệm về pháp luật: Về cơ bản, có hai
quan niệm (mô hình) khác nhau về pháp luật.
Quan niệm thứ nhất (legal centralisme) cho
rằng, pháp luật là luật của nhà nước. Điều
này có nghĩa rằng, pháp luật là hệ thống các
quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và công
nhận. Trường phái thứ hai (legal pluralism)
cho rằng, pháp luật bao gồm của luật của
nhà nước ban hành và “luật” không do nhà
nước ban hành24. Mô hình tập trung là quan
niệm ủng hộ sự nhất nguyên của pháp luật
với ba tiêu chí cụ thể: 1) pháp luật chỉ là
luật của nhà nước; 2) pháp luật nhà nước
là cách thức tốt nhất trong việc điều chỉnh
hành vi; và 3) pháp luật nhà nước chiếm vị
trí tối cao trong hệ thống các quy phạm, và
hệ thống các quy phạm khác chỉ là nguồn hỗ
trợ cho pháp luật nhà nước25. Quan niệm thứ
hai (legal pluralism) cho rằng pháp luật bao
gồm cả luật của nhà nước ban hành và luật
không do nhà nước ban hành, thừa nhận các
dạng thức khác nhau của pháp luật.
Dưới góc độ luật học so sánh, có thể
thấy rằng, do chịu ảnh hưởng của họ pháp
luật XHCN, một phần nào đó là của họ pháp
luật châu Âu lục địa, hệ thống pháp luật Việt
Nam về cơ bản đi theo mô hình tập trung26.
2. Sự đề cao luật thành văn và hệ lụy
Xu hướng đề cao luật thành văn không
chỉ là đặc điểm cơ bản của hệ thống pháp
23 Hoàng Thị Kim Quế, Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015, tr. 184.
24 Phan Nhật Thanh, Luật tập quán và quyền con người, Nxb. Hồng Đức, 2013, tr. 89.
25 D. J. Galligan, Law in Modern Society, Oxford University Press, 2017, tr. 173-174, dẫn theo Phan Nhật Thanh, Luật
tập quán và quyền con người, Nxb. Hồng Đức, 2013, tr. 89.
26 Phan Nhật Thanh, Luật tập quán và quyền con người, Sđd, tr.209.
27 Jean- Claude Bécane, Michel Couderc, Jean-Louis Hérin, La Loi, Dalloz, 2ème éd, 2010, tr. 33.
28 Jean- Claude Bécane, Michel Couderc, Jean-Louis Hérin, La Loi, Sđd, tr. 56.
luật kiểu Xô viết mà còn là đặc điểm nổi bật
của hệ thống dân luật.
Luật thành văn có nhiều ưu điểm như
tính chặt chẽ, ổn định, xuất phát từ tính khát
quát, trừu tượng27 của các quy phạm do các
nhà lập pháp đặt ra. Tuy nhiên, bản thân tính
khát quát, trừu tượng của luật thành văn lại
chứa đựng một số giới hạn, hạn chế không
thể tránh khỏi28:
- Về lý luận lẫn thực tiễn, một quy
phạm pháp luật phải chứa được quy tắc xử
sự chung (khái quát), thế nhưng việc áp
dụng các quy tắc xử sự chung này cho mọi
trường hợp, kể cả các trường hợp đặc biệt lại
là điều không thể. Đây chính là điểm khiến
cho văn bản pháp luật dễ dàng bộc lộ khuyết
điểm. Thực tế cho thấy, các tình huống pháp
luật xảy ra thường ở những không gian, thời
gian và hoàn cảnh sống rất khác nhau. Bởi
vậy, không phải lúc nào quy phạm pháp luật
thành văn cũng có thể áp dụng được, hoặc là
do khó vận dụng vào các tình huống đa dạng
của đời sống; hoặc là do quy định không phù
hợp với thực tiễn.
- Ngoài ra, VBQPPL thường dễ bị lạc
hậu so với cuộc sống. Bởi vì, VBQPPL phản
ánh ý chí của nhà làm luật vào một thời điểm
cụ thể, là kết quả của một quy trình phức
tạp. Trong khi đó, cuộc sống luôn vận động,
biến đổi. VBQPPL suy cho cùng chỉ là sự
phản ứng của con người trước những thay
đổi của xã hội. Do đó, các VBQPPL luôn
đi sau cuộc sống, dù nhà làm luật có tài giỏi
đến như thế nào. Như vậy, dù có hoàn thiện
đến đâu thì VBQPPL cũng không thể điều
chỉnh hiệu quả, kịp thời các quan hệ xã hội
mới phát sinh. Tức là nếu chỉ dựa vào duy
nhất nguồn pháp luật thành văn thì sẽ dễ dẫn
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Số 17(369) T9/2018
tới tình trạng thiếu luật, tạo ra những khoảng
trống luật pháp29.
Luật gia Portalis, một trong bốn tác
giả của Bộ luật Dân sự (BLDS) Pháp năm
1804 đã đúc kết về những “thiếu sót”, “lỗ
hổng” của luật thành văn như sau: “Đòi hỏi
của xã hội rất phong phú, sự trao đổi giữa
con người vô cùng năng động, lợi ích của
các cá nhân là rất đa dạng và quan hệ giữa
con người với nhau là rất phong phú, cho
nên nhà làm luật không thể nào làm hết mọi
thứ. Ngay cả trong những lĩnh vực thuộc về
nhà làm luật, cũng có hàng loạt những chi
tiết vượt ra ngoài khả năng của họ, vì lý do
những chi tiết này quá gây tranh cãi hoặc
thay đổi thường xuyên để có thể đưa vào
luật”30, và rằng “một đạo luật cho dù trọn
vẹn đến đâu cũng không thể nào giải quyết
được hàng nghìn câu hỏi mà người thẩm
phán bất ngờ phải đối mặt”31.
Tòa án có nghĩa vụ áp dụng pháp luật.
Sẽ là dễ dàng nếu quy phạm pháp luật được
tuyên bố rõ ràng trong một văn bản luật.
Tòa án hành động không dựa theo cảm tính
cá nhân mà chỉ căn cứ vào quy định pháp
luật đã dự liệu cho trường hợp đó. Để tránh
sự tùy tiện của tòa án, luật phải quy định
rõ ràng, dự liệu các trường hợp. Nhưng đây
là điều không thể nào thực hiện được trong
một xã hội có nhiều biến đổi và phức tạp.
Tòa án thực hiện chức năng đảm bảo
công lý nhưng trong hệ thống pháp luật tuyệt
đối hóa luật thành văn sẽ dẫn tới trường hợp
Tòa án từ chối xét xử vì lý do không có luật,
chưa có luật hoặc luật không rõ ràng. Người
dân trông chờ vào Tòa án để đảm bảo, thực
thi công lý nhưng nhiều khi bị từ chối thụ lý.
Và công lý bị trì hoãn là công lý bị chối từ!
29 Nguyễn Văn Hiến, Hoàng Công Dũng, Một số vấn đề về pháp luật, bản chất của pháp luật và nguồn của pháp luật, trong
sách Bàn về hệ thống pháp luật, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2014, tr. 25 dẫn bởi Phan Nhật Thanh (Chủ biên), Tập
quán pháp, tiền lệ pháp và việc đa dạng hóa hình thức pháp luật ở Việt Nam, Sđd.
30 Portalis, Exposé des motifs du Titre préliminaire, Fenet, Tome IV, tr. 43
31 Portalis, Exposé des motifs du Titre préliminaire, Sđd.
32 Trần Văn Độ, Vị trí và chức năng của Tòa án trong Hiến pháp, xem :
Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=9, truy cập ngày 20/03/2018.
Nói tóm lại, luật thành văn dù có chặt
chẽ, rõ ràng, ổn định song cũng ẩn chứa
những hạn chế cố hữu là cứng nhắc, giáo
điều và nhiều khi đi sau thực tiễn cuộc
sống. Chính những điểm yếu này làm cho
VBQPPL, dù rất cần thiết vẫn không hoàn
toàn đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Muốn khắc phục những hạn chế kể trên, cần
có nhiều giải pháp mà một trong những giải
pháp quan trọng là đa dạng hóa nguồn pháp
luật. Như vậy, công lý chỉ có thể được bảo
đảm với sự thừa nhận các căn cứ pháp lý
khác ngoài luật thành văn như: vận dụng
điều luật tương tự; dựa vào phong tục, tập
quán; căn cứ án lệ, hoặc tiền lệ pháp và xét
xử theo lẽ công bằng.
3. Tòa án và chức năng xét xử, bảo vệ và
bảo đảm công lý
Sống có pháp luật đồng nghĩa với việc
nhà làm luật phải đảm bảo cho xã hội luôn có
đủ pháp luật để tuân theo. Nhưng tiếc thay,
đòi hỏi này là bất khả thi đối với nhà làm
luật. Nhận thức là cái có sau thực tại. Nhà
làm luật thông minh, tài giỏi đến đâu cũng
không thể nhận biết, dự kiến hết mọi sự đổi
thay đang diễn biến không ngừng trong xã
hội. Trong lúc đó, công lý và công bằng đối
với con người giống như nhu cầu về cơm ăn,
nước uống. Không thể nêu lý do không có
luật định mà từ chối việc phân định công lý
và công bằng. Bởi vì, tòa án là chỗ dựa của
người dân trong việc bảo vệ công lý, quyền
con người. Ở Việt Nam, nhiệm vụ bảo vệ,
bảo đảm công lý của tòa án đã lần đầu tiên
trong lịch sử được hiến định hóa (Khoản 3,
Điều 102, Hiến pháp năm 2013). Mỗi khi
người dân có tranh chấp và khởi kiện đến
tòa án thì tòa án không được từ chối giải
quyết vì bất cứ lý do gì32.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15Số 17(369) T9/2018
Tuy nhiên, thực tiễn có thể có trường
hợp tòa án từ chối xét xử vì lý do không có
luật hoặc luật quy định không rõ ràng. Để
tránh tình huống này, nguyên tắc bất khẳng
thụ lý được đề ra.
Bất khẳng thụ lý là một nguyên tắc cơ
bản của pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) của
hầu hết các nước trên thế giới, bao gồm hệ
thống luật thành văn và luật bất thành văn
(hay châu Âu lục địa - Civil Law và Thông
luật - Common Law). Nguyên tắc này xuất
phát từ châm ngôn “Luật pháp không tự thân
quan tâm đến các tiểu tiết” (de minimis non
curat lex)33.
Theo đó, nguyên tắc cơ bản trong hệ
Common Law là khi phát sinh một vụ việc
mà tòa án không tìm thấy án lệ hay quy định
của pháp luật thành văn thì tòa án đó tự thấy
nghĩa vụ phải tìm đến các nguyên tắc của
chính sách công cộng, và châm ngôn đó
được sử dụng như các hỗ trợ sáng tạo để thiết
lập các án lệ mới trong thẩm quyền của tòa
án. Điều 4 của Bộ luật Napoléon năm 1804
cũng có cách tiếp cận tương tự khi quy định:
“Thẩm phán nào từ chối xét xử, với lý do
luật không quy định, quy định không rõ ràng
hoặc không đầy đủ, thì có thể bị truy tố về
tội từ chối công lý (xét xử)”. Điều 10 Bộ luật
TTDS của Québec quy định: “Tòa án không
được từ chối xét xử vì lý do luật không quy
định, luật tối nghĩa hay thiếu sót”34. Một án
lệ của Tòa án liên bang Canada35 - có tính
ràng buộc cao nhất - cho rằng, “bất kỳ sự
thiếu sót nào đối với lẽ công bằng có ảnh
hưởng đến tiến trình tố tụng có thể bị xem
33 Lê Quang Vy, Lương Văn Trung, Lẽ công bằng, công lý và tòa án. Xem:
cong-bang-cong-ly-va-vai-tro-cua-toa-an.html, truy cập ngày 22/03/2018.
34 truy cập ngày 25/03/2018.
35 Phán quyết Corpuz Ledda c. Canada (Sécurité publique et Protection civile), 2012 CF 811, au paragraphe 14. Xem:
https://www.canlii.org/fr/ca/cfpi/doc/2012/2012cf811/2012cf811.pdf, truy cập ngày 26/03/2018.
36 Điều 5 của BLDS Bắc Kỳ quy định: “Phàm Thẩm phán lấy cớ rằng luật không quy định, không rõ hay là không đủ mà
thoái thác không xét xử thì có thể bị truy tố về tội danh bất khẳng thụ lý”. Điều 4 Bộ Dân luật giản yếu Nam Kỳ 1883
quy định: “Thẩm phán nào từ chối phán xét vì lý do luật không quy định vấn đề hay luật tối nghĩa hoặc bất túc sẽ bị truy
tố về tội bất khẳng thụ lý”.
như là sự chối từ công lý (xét xử).
Nguyên tắc này cũng được thừa nhận
trong nhiều bộ luật tại Việt Nam trước năm
1945 và ở miền Nam Việt Nam trước năm
197536. Khoản 2 Điều 14 BLDS năm 2015
đã ghi nhận nguyên tắc này, theo đó: “Tòa
án không được từ chối giải quyết vụ, việc
dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng;
trong trường hợp này, quy định tại Điều 5 và
Điều 6 của Bộ luật này được áp dụng”. Điều
5 BLDS năm 2015 quy định về áp dụng
tập quán pháp, Điều 6 quy định về áp dụng
tương tự pháp luật.
Khoản 2, Điều 4, Bộ luật TTDS cũng
khẳng định “Tòa án không được từ chối
yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do
chưa có điều luật để áp dụng []. Việc
giải quyết vụ việc dân sự quy định tại khoản
này được thực hiện theo các nguyên tắc do
BLDS và Bộ luật này quy định”.
Như vậy, ngoài nguồn lập pháp (luật
thành văn), pháp luật dân sự Việt Nam thừa
nhận các nguồn khác: tập quán, các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ
công bằng. Đây là quy định có tính “cách
mạng”, thể hiện tinh thần hội nhập quốc tế,
tiếp thu những chuẩn mực pháp luật tiến bộ
của thế giới, và đồng thời cũng là quay trở
về với những giá trị đã được nhiều thế hệ
đi trước đúc kết (áp dụng án lệ, tập quán đã
có từ thời Pháp thuộc và ở miền Nam trước
1975). Việc mở rộng, đa dạng hóa nguồn
pháp luật để tòa án tham chiếu là một bước
tiến dài trong việc bảo đảm quyền tiếp cận
công lý của công dân.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Số 17(369) T9/2018
4. Kiến nghị về mở rộng nguồn của
pháp luật
Thứ nhất, việc thừa nhận nguyên tắc
“bất khẳng thụ lý” trong hệ thống pháp luật
Việt Nam là bước tiến quan trọng trong việc
đảm bảo quyền tiếp cận công lý của người
dân. Tuy nhiên, để cho nguyên tắc tiến bộ
và văn minh này được tôn trọng trên thực tế,
nhà làm luật cũng cần đặt ra biện pháp chế
tài đối với thẩm phán khi từ chối thụ lý vì lý
do chưa có điều luật để áp dụng hoặc vì lý
do luật không rõ ràng, bên cạnh các vi phạm
về thời hạn giải quyết vụ việc, mà có thể tạo
nhiều hệ lụy lớn về kinh tế, chính trị và xã
hội. Công lý bị trì hoãn là công lý bị từ chối
và bất khẳng thụ lý cũng là một sự từ chối
công lý rõ ràng, vô lý và thiếu trách nhiệm.
Trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm
2015, hiện chưa có quy định về tội từ chối
xét xử (công lý), dù đã có Chương XXIV về
các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Chế tài
hiện tại đối với các hành vi này có lẽ vẫn chỉ
là trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm
kỷ luật.
Thứ hai, việc thừa nhận án lệ như một
loại nguồn của pháp luật Việt Nam là một
bước đi tiến bộ, nhưng chưa phải là điểm
dừng bởi đằng sau đó là một quá trình dài
xem xét về việc lựa chọn, công bố và áp
dụng án lệ một cách phù hợp, chính xác để
quy định này đảm bảo tính hiệu quả cao nhất
trong thực tiễn thì mới góp phần đảm bảo
quyền tiếp cận công lý của người dân.
Để án lệ trở thành một nguồn thực thụ
của pháp luật - góp phần bảo đảm quyền
tiếp cận công lý của người dân, cần phải
trao quyền giải thích pháp luật cho tòa án.
Chức năng chính của án lệ là bổ khuyết sự
thiếu sót, không rõ ràng và lạc hậu của pháp
luật. Và chỉ có thể có án lệ đúng nghĩa khi
trao quyền giải thích pháp luật cho cơ quan
tư pháp, mà người trực tiếp thực hiện quyền
này là các thẩm phán. Việc giải thích pháp
luật chỉ nhằm mục đích áp dụng pháp luật
vào các trường hợp cụ thể của đời sống xã
hội, chứ không nên xuất phát từ ý chí của
nhà lập pháp khi làm luật. Ngoài ra, cần phải
thay đổi tư duy về việc sử dụng án lệ trong
giảng dạy và đào tạo luật. Theo đó, cần đưa
kiến thức chuyên sâu về án lệ trong các lớp
đào tạo nghiệp vụ xét xử■
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Jean- Claude Bécane, Michel Couderc, Jean-Louis Hérin, La Loi, Dalloz, 2ème éd, 2010.
2. René David, Camille Jauffret-Spinosi, Marie Goré, Les grands systèmes de droit contemporains,
Dalloz, 2016.
Trần Văn Độ, Vị trí và chức năng của Tòa án trong Hiến pháp, xem :
ctv/news/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=9, truy cập ngày 20/03/2018.
Trần Ngọc Đường, Thực trạng và nhu cầu giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh trong thời gian tới từ thực
tiễn hoạt động của Quốc hội, Hội thảo Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh theo Hiến pháp năm 2013 của Viện
Nghiên cứu Lập pháp, Hà Nội, 6/2016.
Gilles Cuniberti, Grands systèmes de droit contemporain: Introduction au droit comparé, LGDJ, 3ème éd., 2015.
D. J. Galligan, Law in Modern Society, Oxford University Press, 2017.
Vũ Công Giao, “Tiếp cận công lý và các nguyên lý của nhà nước pháp quyền”, Tạp chí Khoa học Đại học
Quốc gia Hà Nội, Luật học 25, năm 2009.
Jacques Ghestin, Gilles Goubeaux avec le concours de Muriel Fabre-Magnan, Traité de Droit civil:
Introduction générale, Nxb. LGDJ, 4ème édition, 1994
Shirley Robin Letwin, On the History of the Idea of Law, Cambridge University Press, 2005.
Hans Kelsen, The communiste theory of law, Frederick A. Praeger, Inc, 1995,
3. Hubert Izdebski, Les sources du droit dans les pays socialistes européens (Histoire, théorie, pratique),
Revue Internationale de droit comparé. Vol. 38 N°1, Janvier-mars 1986.
4. Lev Samoĭlovich JAWITSCH, The General Theory of Law. Social and Philosophical Problems,
Moscou, Progress, 1981.
5. Đinh Văn Mậu, Phạm Hồng Thái, Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, 2005
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 17(369) T9/2018
6. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân 2008.
М.Н.Марченко, Теория государства и права, Проспект, 2004.
Т.Н. Радько, Теория государства и права. Учебник для бакалавров, Проспект, 2012.
С.С. Алексеев, Теория государства и права, Норма, 2005.
А. В. Мелехин. Теория государства и права: Учебник, Маркет ДС, 2007.
Portalis, Exposé des motifs du Titre préliminaire, Fenet, Tome IV.
Hoàng Thị Kim Quế, Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015.
Phan Nhật Thanh, Luật tập quán và quyền con người, Nxb. Hồng Đức, 2013.
Phan Nhật Thanh (Chủ biên), Tập quán pháp, tiền lệ pháp và việc đa dạng hóa hình thức pháp luật ở Việt
Nam, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2017.
Đào Trí Úc, “Basic Information of Legal Research – A Case Study of Vietnam”, Project of Doing Legal
Research in Asian Countries: China, India, Malaysia, Philippines, Thailand and Vietnam, Conducted by the
Institute of Developing Economies (IDE-JETRO), Japan, 2003.
Lê Quang Vy, Lương Văn Trung, Lẽ công bằng, công lý và tòa án.
Xem: truy cập
ngày 22/03/2018.
Hậu quả kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong hoạt động tư pháp
Trong công tác kiểm tra điều tra: phê
chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của
cơ quan điều tra; quyết định áp dụng, thay
đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn,
hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ
quan điều tra. Quyết định đình chỉ hoặc tạm
đình chỉ điều tra. Yêu cầu cơ quan điều tra
khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt
động điều tra...
Trong công tác kiểm sát xét xử: kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm,
tái thẩm các bản án, quyết định của TAND
theo quy định của pháp luật. Yêu cầu TAND
cùng các cấp áp dụng các biện pháp khẩn
cấp tạm thời theo quy định của pháp luật,
kiến nghị với TAND cùng cấp và cấp dưới
khắc phục những vi phạm pháp luật trong
hoạt động xét xử.
Trong công tác kiểm sát thi hành án:
kháng nghị, yêu cầu TAND, cơ quan thi
hành án áp dụng các biện pháp cần thiết bảo
đảm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án được thi hành đúng pháp
luật, đầy đủ, nhanh chóng, kịp thời.
Hậu quả giám đốc của TAND tối cao
đối với TAND các cấp
Kháng nghị các bản án, quyết định đã
có hiệu lực của TAND các cấp để xét xử lại
theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm (Điều
20 Luật Tổ chức TAND).
Trong việc xét xử theo trình tự giám
đốc thẩm, tái thẩm, TAND tối cao có quyền
cải, sửa, hủy bỏ toàn bộ hay một phần các
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật,
giao lại cho TAND các cấp giải quyết hoặc
ra phán quyết trong những trường hợp do
luật định.
Trình bày trên đây cho thấy hoạt động
giám sát, kiểm tra, giám đốc có tính chất và
nội dung rất khác nhau. Do đó, có thể khẳng
định rằng về lý luận cũng như trên thực tế,
chưa bao giờ Quốc hội giao việc thực hiện
chức năng giám sát, nhất là giám sát hoạt
động của các cơ quan tư pháp cho các cơ
quan nhà nước khác thực hiện■
(Tiếp theo trang 9)
PHÂN BIỆT GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI...
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Số 17(369) T9/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mo_rong_nguon_phap_luat_dam_bao_quyen_tiep_can_cong_ly_tai_v.pdf