Thanh toán bằng tiền mặt là quá trình tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt, được các tổ chức và cá nhân sử dụng chi trả hàng ngày về hàng hoá, dịch vụ cho những giao dịch có giá trị nhỏ. Tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế phụ thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế đó và tính tiện ích của các phương tiện thanh toán, đồng thời phụ thuộc trình độ dân trí của mỗi quốc gia. Đối với các nước phát triển, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt chỉ chiếm khoảng 10% trong tổng phương tiện thanh toán, trong khi đó ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, tỷ lệ này thường chiếm từ 30% đến 40%.
Thanh toán không dùng tiền mặt là quá trình thanh toán không có sự xuất hiện của tiền mặt mà thực hiện bằng cách trích tiền trên tài khoản của người trả chuyển sang tài khoản của người thụ hưởng thông qua vai trò trung gian thanh toán là ngân hàng. Kinh tế càng phát triển, khối lượng hàng hoá và dịch vụ ngày càng đa dạng, phong phú, quan hệ trao đổi được mở rộng, thanh toán bằng tiền mặt càng bộc lộ rõ những hạn chế của nó, đó là: tính an toàn không cao, dễ bị lợi dụng để tham ô, tăng chi phí xã hội, giảm vòng quay của vốn, làm cho sản xuất kinh doanh bị chậm lại, ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế. Thanh toán KDTM khắc phục được những nhược điểm của thanh toán bằng tiền mặt, có tác động qua lại với các nghiệp vụ khác trong hoạt động ngân hàng, khai thác nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư thông qua số dư trên các tài khoản tiền gửi thanh toán của các tổ chức và cá nhân, làm rõ tăng hệ số tạo tiền của NHTM
87 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 985 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt dựa trên nền tảng công nghệ thông tin tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Văn Lâm - Tỉnh Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không thể thiếu đối với các NHTM hiện đại, nhận thức được tầm quan trọng đó, NHNo & PTNT huyện Văn Lâm - tỉnh Hưng Yên luôn đề ra mục tiêu và phương hướng cụ thể cho năm sau trên cơ sở những kết quả đã đạt được.
Mục tiêu trong năm 2008:
- Phát triển đồng bộ các công cụ thanh toán, tăng cả về doanh số và số món thanh toán, nhất là tăng doanh số thanh toán bằng thẻ > 10 tỷ.
- Tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt trong thanh toán chung là trên 95%.
- Tăng con số tài khoản cá nhân lên 1500 tài khoản.
Các phương hướng cụ thể:
Thứ nhất: Xây dựng hệ thống cung cấp dịch vụ ngân hàng đủ lớn và đảm bảo yêu cầu của hệ thống thanh toán tiêu chuẩn.
Chi nhánh cần phải xây dựng một quy mô cung cấp các dịch vụ ngân hàng đủ lớn, tạo ra tính đa dạng và thuận tiện khi giao dịch cho công chúng. Muốn vậy phải tiến tới hợp tác trong việc phát triển và liên kết mạng lưới để tăng các điểm cung cấp dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Đồng thời đa dạng các dịch vụ để mỗi lần đến ngân hàng khách hàng có thể thực hiện nhiều dịch vụ , cải tiến và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng để họ cảm thấy thực sự là “Thượng đế” khi giao dịch với ngân hàng.
Để thoả mãn tối đa lợi ích của khách hàng, trước tiên hệ thống thanh toán của ngân hàng phải đảm bảo thực hiện được yêu cầu cơ bản thanh toán nhanh, ổn định để các chủ thể tham gia có thể quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn của mình. Trong giao dịch tài chính, các chủ thể phải tính toán chi phí và lợi ích thu được khi tham gia thanh toán để lựa chọn dịch vụ và phương tiện thanh toán có lợi nhất với chi phí thấp nhất. Do vậy, Chi nhánh cần đặc biệt quan tâm việc giảm chi phí thanh toán. Đồng thời phải đảm bảo quá trình thanh toán chính xác, an toàn và ổn định, giảm thiểu được rủi ro trong thanh toán và phải là một hệ thống mở.
Thứ hai: Xúc tiến khách hàng.
Với thói quen sử dụng tiền mặt phổ biến trong dân cư, có thể nói dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt ít được người dân biết đến và sử dụng, nhất là việc mở tài khoản cá nhân để giao dịch với ngân hàng. Đối với khách hàng sử dụng sản phẩm thanh toán, điều cốt yếu là họ thấy được lợi ích thiết thân khi sử dụng các sản phẩm đó. Chi nhánh phải tích cực tuyên truyền tiếp thị với các đối tượng khách hàng với các sản phẩm cụ thể phù hợp với họ. Do vậy, thực tế đòi hỏi NHNo & PTNT huyện Văn Lâm - tỉnh Hưng Yên phải đẩy mạnh công tác xúc tiến khách hàng hơn nữa, ngoài việc xây dựng các chương trình quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, Chi nhánh phải tăng cường bồi dưỡng cán bộ Marketing tiến tới thành lập bộ phận thông tin khách hàng của toàn Chi nhánh.
Thứ ba: Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.
Đổi mới phương thức giao dịch dựa trên công nghệ hiện đại không chỉ là thuần tuý về kỹ thuật mà còn là vấn đề văn hoá giao tiếp trong ngân hàng.Để phát triển nghiệp vụ giao dịch, thanh toán hiện đại Chi nhánh cần xây dựng được một cơ sở vật chất hoàn hảo, có đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm với kiến thức khoa học đầy đủ, thái độ tận tình, cởi mở, phục vụ khác hàng chu đáo dựa trên hệ thống quy trình nghiệp vụ được tiêu chuẩn hoá.
Đồng thời cùng với cả hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam phải kết hợp với các NHTM khác để tạo ra một mạng lưới thanh toán đồng bộ qua ngân hàng tạo sự thuận tiện cho khách hàng.
Hiện đại hoá công nghệ thanh toán giúp Chi nhánh xử lý khối lượng công việc liên quan đến dịch vụ thanh toán một cách nhanh chóng và chính xác, cũng như tạo cơ sở cho việc áp dụng các hình thức thanh toán hiện đại.
3.1.3 Dự báo nhu cầu phương tiện thanh toán trong thời gian tới
Cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần kinh tế của Văm lâm đã và đang có những chuyển biến tích cực, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ ngày một tăng, nông nghiệp sẽ giảm; tiến trình cổ phần hoá và sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước nhằm cải cách khu vực kinh tế này diễn ra khá mạnh mẽ, được các ngành, các cấp thực hiện quyết liệt. Tốc độ tăng trưởng GDP nhanh, mạnh, thu nhập bằng tiền của dân cư được cải thiện đáng kể, trong đó một bộ phận dân cư có thu nhập cao. Tình hình cung ứng các dịch vụ cơ bản như điện, nước, điện thoại tăng trưởng cả về khối lượng và phạm vi. Hàng năm, lượng kiều hối của bà con Việt kiều và những người đi lao động ở nước ngoài chuyển về tỉnh khá lớn, ngày càng tăng.
Khi Dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán giai đoạn II được hoàn thiện, các NHTM trên địa bàn Văn Lâm sẽ tham gia đầy đủ vào hệ thống này; đồng thời TTBT điện tử trên địa bàn được triển khai, thực hiện làm cho quá trình thanh toán diễn ra nhanh chóng, chính xác, thuận tiện, an toàn với chi phí thấp.
Từ tình hình trên và xu thế phát triển chung, dự báo trong những năm tới tiềm năng về các dịch vụ ngân hàng, nhất là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng ở nước ta nói chung, tại Văn Lâm nói riêng khá lớn và triển vọng. Đây cũng là khu vực sẽ diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng Việt Nam với ngân hàng nước ngoài trong tiến trình mở cửa và hội nhập.
Vì vậy, nhu cầu thanh toán qua ngân hàng sẽ tăng nhanh, lượng tiền mặt được sử dụng ít dần, các phương tiện thanh toán truyền thống từng bước bị thu hẹp, thay vào đó là các phương tiện thanh toán hiện đại, đa năng như thẻ ngân hàng, tiền điện tử sẽ là những phương tiện thanh toán chủ lực và thống lĩnh thị trường.
3.2. Những giải pháp cơ bản mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt dựa trên nền tảng công nghệ thông tin tại ngân hàng Thái Bình
3.2.1. Tổ chức mạng lưới ngân hàng và đào tạo cán bộ
- Mở rộng thanh toán KDTM tới các tổ chức và dân cư bằng cách kết hợp phương pháp truyền thống đó là mở rộng mạng lưới ngân hàng, với phương pháp hiện đại là ứng dụng triệt để thành tựu khoa học kỹ thuật dựa trên nền tảng CNTT. Việc mở rộng mạng lưới ngân hàng tới vùng kinh tế trọng điểm và tập trung dân cư bằng cách thành lập mới các chi nhánh, hiện nay ít được áp dụng do chi phí ban đầu cao, khó khăn trong việc tiếp cận, chiếm lĩnh thị phần và mở rộng thị trường; công tác quản trị, điều hành, nhất là chi phí tiền lương cho đội ngũ cán bộ làm việc tại chi nhánh tăng, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh.
Cách hiệu quả nhất hiện nay là sử dụng sự hỗ trợ của CNTT để mở rộng thị phần cung ứng các dịch vụ cho khách hàng. Tại Văn Lâm, sự lưu chuyển hàng hoá mỗi năm của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế kinh doanh trên mọi lĩnh vực với khối lượng rất lớn, trong đó một số doanh nghiệp cung ứng các dịch vụ cơ bản như điện, nước, điện thoại, bảo hiểm là những đối tác quan trọng, khách hàng tiềm năng, hệ thống ngân hàng có thể mở rộng dịch vụ thanh toán với khách hàng của họ.
Trước mắt, Lãnh đạo ngân hàng cần quán triệt tới cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan mình; đồng thời làm việc với các đơn vị trên địa bàn huyện, vận động cán bộ công nhân viên của họ mở tài khoản cá nhân ở ngân hàng để dung nạp tiền lương hàng tháng và các khoản thu nhập vào đó, tổ chức ký thoả thuận với chi nhánh điện lực Văn lâm, chi nhánh điện báo điện thoại Văn lâm, Chi nhánh xăng dầu Hưng Yên, Bảo hiểm xã hội Văn lâm làm dịch vụ thu hộ tiền của những khách hàng sử dụng dịch vụ thông qua tài khoản cá nhân. Hàng tháng, đến kỳ thanh toán, đơn vị cung ứng dịch vụ lập danh sách khách hàng, chuyển cho ngân hàng làm cơ sở để trích tiền trên tài khoản cá nhân chuyển cho các đơn vị cung ứng dịch vụ theo thoả thuận đã ký.
- NHNo & PTNT huyện Văn Lâm - tỉnh Hưng Yên cần thường xuyên đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ ngân hàng nói chung, cán bộ làm công tác kế toán thanh toán nói riêng về mọi mặt để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Hiện nay, tỷ lệ cán bộ làm công tác thanh toán có trình độ đại học là 70%, cố còn lại có trình độ trung cấp hoặc trình độ khác; về tin học, có 35% số người trình độ B trở lên. Khi tham gia tổ chức thương mại thế giới (WTO), ngân hàng nước ngoài sẽ vào hoạt động và cạnh tranh với ngân hàng trong nước nhiều hơn, với mức độ gay gắt hơn, vì vậy các nhà quản trị cần có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng đảm bảo mọi cán bộ đều phải tinh thông nghiệp vụ ngân hàng hiện đại; tiếp thu nhanh thành tựu CNTT, có trình độ ngoại ngữ, tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động cao; cần xây dựng kế hoạch đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề nghiệp cho những cán bộ ngay từ khi mới tuyển dụng.
Việc đào tạo cần thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, đào tạo tập trung tại trung ương hoặc liên kết với các cơ quan trong tỉnh; mời các nhà khoa học bồi dưỡng, cập nhật kiến thức theo chuyên đề. Khuyến khích cán bộ tự học tập nâng cao trình độ, coi trọng hình thức học tại chỗ qua công việc hàng ngày và các phương tiện thông tin đại chúng.
Mặt khác, để khuyến khích cán bộ làm việc hết khả năng thì các ngân hàng phải có chế độ trả lương thoả đáng, theo kết quả công việc, đồng thời định kỳ cần tổ chức kiểm tra sát hạch, những cán bộ không đáp ứng yêu cầu thì có phương án luân chuyển, sắp xếp lại cho phù hợp; gắn kết chặt chẽ giữa quy hoạch, đào tạo với sử dụng, tránh lãng phí. Mạnh dạn bổ nhiệm cán bộ trẻ, có năng lực, được đào tạo đầy đủ, bài bản, trình độ chuyên môn giỏi, thông thạo ngoại ngữ và tin học, có phẩm chất đạo đức tốt vào những vị trí thích hợp.
3.2.2 Hòan thiện và phát triển các phương tiện thanh toán
3.2.2.1 Hoàn thiện các phương tiện thanh toán truyền thống
Chi nhánh cần xây dựng chế độ thanh toán sao cho phù hợp với từng đối tượng khách hàng. Chọn lựa phương thức thanh toán cho phù hợp với từng đối tượng khách hàng là một vấn đề khó cần phải nghiên cứu tìm hiểu sâu khả năng sử dụng các loại chứng từ của từng tầng lớp dân cư. Thậm chí phải thay đổi, thêm bớt một số chi tiết sao cho để thực hiện và đảm bảo an toàn cho khách hàng và ngân hàng. Ví dụ như uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi phù hợp với các doanh nghiệp mà không phù hợp với cá nhân; thanh toán thẻ, séc phù hợp với giới có học vấn nhưng không phù hợp với nông dân, công nhân
*Về Séc:
Séc là một hình thức thanh toán được Chính phủ và Ngân hàng nhà nước quan tâm thúc đẩy việc sử dụng trong TTKDTM. Nhìn chung thì những thay đổi về nội dung, hình thức và các quy định ban hành theo Nghị định 159/CP đã có nhiều cải tiến góp phần tạo thuận lợi cho người sử dụng. Tuy vậy, so với tiêu chuẩn quốc tế và yêu cầu của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay thì hình thức thanh toán séc vẫn còn rất chậm tiến bộ. Do vậy với quy chế về séc, cần thay đổi để có thể thật sự phát huy tác dụng.
- Khi chủ tài khoản dùng séc để rút tiền mặt thì nên cho phép chỉ cần trả cho “chính mình”, không cần ghi đầy đủ các yếu tố như khi phát hành cho người khác, tạo sự thoải mái và tiện ích cho chủ tài khoản.
- Mặc dù thời hạn hiệu lực thanh toán của séc theo Nghị định 159/CP là 30 ngày, đã thay đổi so với thời hạn 15 ngày theo Nghị định 30/CP, tuy vậy so với thời hạn thanh toán của séc theo Công ước Geneva 1931 thì quan niệm về thời hạn thanh toán của ta vẫn chưa rõ ràng. Do vậy cần quy định tờ séc có hiệu lực lâu hơn kể từ ngày ký séc đến ngày nộp séc vào tổ chức thanh toán.
- Quy định cho phép tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán séc được quyền xác định mức độ thấu chi (mức độ chi vượt quá số dư trên tài khoản của khách hàng) đối với chủ tài khoản phát hành séc trên cơ sở mức độ tín nhiệm dựa trên khả năng thu nhập thực tế của chủ tài khoản hoặc có bảo lãnh của bên thứ ba.
- Cần tạo lập cụ thể hơn nữa một môi trường pháp lý rõ ràng, bình đẳng giữa ngân hàng và các bên phát hành, chuyển nhượng, thụ hưởng séc, chấm dứt sự can thiệp phân xử của ngân hàng trong xử lý tranh chấp vi phạm.
- Séc Chuyển khoản:
Tuy thủ tục đơn giản nhưng người mua cũng rất dè dặt khi sử dụng loại séc này, bởi lẽ khi phát hành séc quá số dư người phát hành sẽ bị phạt. Đối với séc phát hành quá số dư do cố ý thi bị phạt là xứng đáng, nhưng đối với tờ séc tại thời điểm phát hành vẫn đủ số dư nhưng do khoản chi tiêu đột xuất hay do tiền về chậm dẫn đến lúc thanh toán thiếu tiền thì việc bị phạt gây nên thiệt hại lớn. Hơn nữa, số tiền vượt quá số dư có thể rất nhỏ so với tổng số tiền thanh toán nên việc chậm trễ do phải chờ đủ tiền trên tài khoản của người thanh toán sẽ gây thiệt hại cho người thụ hưởng. Để khắc phục nhược điểm này, NHNo & PTNT huyện Văn Lâm - tỉnh Hưng Yên nên cho phép khách hàng có thể dư nợ hay phát hành séc quá số dư theo lãi suất nợ ngắn hạn, thời điểm tính lãi kể từ khi Chi nhánh thực hiện thanh toán số tiền quá số dư cho bên thụ hưởng.
Đây thực chất là một loại cho vay chỉ áp dụng đối với khách hàng có khả năng tài chính tốt, nguồn thu ổn định và có uy tín trong quan hệ thanh toán. Khách hàng muốn sử dụng nghiệp vụ này, làm đơn gửi tới Chi nhánh đề nghị Chi nhánh cho vay thanh toán trường hợp đột xuất thiếu số dư. Chi nhánh sẽ kiểm tra, thẩm định kỹ lưỡng về khả năng và điều kiện của khách hàng, từ đó Chi nhánh quyết định có cho vay hay không.
Trong thời gian gần đây, nghiệp vụ này đã được áp dụng thành công ở nhiều nước trên thế giới, nhưng ở nước ta nghiệp vụ này hầu như chưa được áp dụng. Khi áp dụng cho vay thanh toán séc chuyển khoản được sử dụng tốt sẽ tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt phát triển và mở rộng. Hơn nữa, áp dụng nghiệp vụ này sẽ làm tăng uy tín cho bên mua hàng thanh toán tiền hàng hoá thuận lợi kịp thời. Khi khách hàng phát hành séc quá số dư, họ phải trả lãi suất cao nhưng còn dễ chịu hơn nhiều so với việc phát hành quá số dư và phạt chậm trả.
*Về Uỷ nhiệm thu:
Người thụ hưởng có thể lập Uỷ nhiệm thu định kỳ nhờ Chi nhánh thu hộ những khoản thu có tính chất định kỳ thường xuyên mà bên trả tiền chưa áp dụng hình thức thanh toán Uỷ nhiệm chi định kỳ.
Hình thức thanh toán bằng Uỷ nhiệm thu chỉ có lợi cho người cung ứng dịch vụ với điều kiện mọi người dân đều có mở tài khoản tại Ngân hàng. Xây dựng quy trình chuyển thu nhập của khách hàng vào tài khoản một cách tiện lợi cho khách hàng, để khách hàng hàng kỳ lĩnh lương không phải đến Ngân hàng làm thủ tục nộp tiền vào rất mất thời giờ. Chi nhánh nên liên hệ với các cơ quan chi trả thu nhập của khách hàng thương lượng để thực hiện hợp đồng thu hộ. Bên cạnh đó, Ngân hàng cần thương lượng với các khách hàng thụ hưởng như Bưu điện, cơ sở thu thuế, cấp nước thực hiện các hợp đồng thu hộ. Nếu Ngân hàng làm được những việc này thì khách hàng thanh toán qua Ngân hàng sẽ thấy tiện ích rất lớn.
Một điều cần thiết khác đó là thủ tục thanh toán Uỷ nhiệm thu cần được đơn giản hoá, dễ hiểu và sử dụng.
*Về Uỷ nhiệm chi:
Uỷ nhiệm chi ở Chi nhánh là hình thức được sử dụng nhiều nhất về doanh số, tuy nhiên, khách hàng luôn ưa thích thanh toán Uỷ nhiệm chi với các món có doanh số lớn và xa. Chi nhánh nên áp dụng hình thức thanh toán Uỷ nhiệm chi để thanh toán các khoản mang tính chất ổn định thường xuyên như: nộp thuế, bảo hiểm, tiền điệnĐịnh kỳ các đơn vị thay vì phải đến tận doanh nghiệp, tổ chức để thanh toán tiền điện, tiền nước, tiền điện thoạithì họ gửi hoá đơn trực tiếp tới Chi nhánh mở tài khoản nhờ thanh toán hộ. Chi nhánh sau khi kiểm tra sẽ tự động trích tài khoản tiền gửi của khách hàng để thanh toán. Định kỳ Chi nhánh phải gửi giấy báo thanh toán cho khách hàng, thông báo về số tiền đã thanh toán và số còn dư trên tài khoản.
Với một quy trình thanh toán qua Ngân hàng được thực hiện khép kín, thu nhập của khách hàng được chuyển thẳng vào tài khoản của khách hàng, sau đó Ngân hàng nhận các hoá đơn của các cơ quan tổ chức thụ hưởng thì trích từ tài khoản của khách hàng chuyển trả vào tài khoản người thụ hưởng. Sau đó Ngân hàng theo cam kết gửi các hoá đơn đã thanh toán cho khách phải chi trả và báo cáo cho khách hàng thụ hưởng. Đến đây quy trình thanh toán kết thúc.
3.2.2.2 Phát triển các phương tiện thanh toán và sản phẩm dịch vụ hiện đại
* Về thanh toán thẻ:
Nghiệp vụ thẻ là một trong những nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ mới mẻ, phát triển với tốc độ lớn, quy mô rộng. Hầu hết các Ngân hàng thương mại hiện nay đều xây dựng một chiến lược cụ thể để phát triển loại hình dịch vụ này. Nhận thức được xu thế trên, Chi nhánh phải có một chủ trương đúng đắn để có thể triển khai tham gia vào thị trường vốn rất cạnh tranh này.
- Chi nhánh cần tăng cường hệ thống máy ATM và các điểm chấp nhận thẻ.
Việc nâng hệ thống máy ATM và các điểm thanh toán thẻ sẽ đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu sử dụng thuận tiện cho chủ thẻ. Chi nhánh cần tăng cường sự liên kết hợp tác với các ngân hàng khác để phát triển thị trường thẻ nói chung của Việt Nam.
- Hiện đại hoá công nghệ thẻ:
Các loại thẻ thanh toán tại Chi nhánh chủ yếu vẫn sử dụng công nghệ thẻ từ, công nghệ này có ưu điểm là sản xuất đơn giản, giá hành rẻ nhưng dễ bị xâm nhập, không đảm bảo an toàn cho chủ thẻ. Vì vậy Ngân hàng nên chuyển sang sử dụng thẻ điện tử . Dòng thẻ này sẽ chống được các sao chép thông tin vì thế sẽ đảm bảo an toàn cho chủ thẻ và cho cả ngân hàng phát hành thẻ.
- Cần có sự phối hợp với ngành Bưu chính viễn thông trong hoạt động thanh toán thẻ.
NHNo & PTNT Văn Lâm - tỉnh Hưng Yên nói riêng và hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam nói chung cần phải tích cực chủ động phối hợp với ngành Bưu chính viễn thông để phát triển công nghệ thanh toán thẻ, tích hợp những dịch vụ mới đem lại cho khách hàng sử dụng thẻ những tiện ích thiết thực. Trước mắt là đảm bảo không bị gián đoạn nghẽn mạch đường truyền của hệ thống ATM vào thời gian cao điểm.
- Cần tăng cường tuyên truyền lợi ích của việc sử dụng thẻ ngân hàng.
Dịch vụ kinh doanh thẻ ngân hàng là một sản phẩm tương đối mới. Vì vậy cần được xem như một thứ hàng hoá để tuyên truyền quảng cáo. Chính vậy Chi nhánh cần mở website để quảng cáo về sản phẩm thẻ cùng với việc quảng cáo trên truyền hình.
- Việc phát hành thẻ phải đa dạng, nhiều chủng loại.
Trong cơ chế thị trường nhà sản xuất không thể bán cái mình có mà phải bán cái người mua cần. Thẻ ngân hàng cũng vậy, các ngân hàng phát hành phải quan tâm đến nhiều đối tượng khách hàng để có thể phát hành đa dạng nhiều chủng loại thẻ. Các loại thẻ phải có các mệnh giá khác nhau, có loại thẻ ghi danh, có loại thẻ vô danh. Với một tấm thẻ vô danh có thể trở thành một món quà rất văn hoá, rất có ý nghĩa để tặng bạn bè, người thân .Thẻ phải có thiết kế trang trí màu sắc bắt mắt để phục vụ giới trẻ nhưng cũng cần có những loại sang trọng, lịch sự để phục vụ các khách hàng VIP. Thẻ nên có ảnh của chủ thẻ để trong một số trường hợp có thể thay thế giấy tờ tuỳ thân cho chủ thẻ.
Chi nhánh có thể đưa ra các sản phẩm đặc biệt, mới lạ để đa dạng hoá danh mục thẻ hiện có của Chi nhánh:
+ Sản phẩm thẻ ghi nợ kết hợp với các dịch vụ khác như: bảo hiểm (sản phẩm mà Vietcombank đã rất thành công).
+Thêm một số tính năng mới vào sản phẩm thẻ: rút tiền mặt, chuyển tiền, xem số dưtại mạng lưới ATM.
+ Phân loại thẻ theo các mức: Vàng, Chuẩn và Đặc biệt.
* Phát triển các dịch vụ mới:
- Online - Banking: Ngân hàng trực tuyến. Theo đó, khách hàng khi đăng ký tham gia sử dụng sẽ được ngân hàng cấp cho một “ Usename”- tên sử dụng và “Password”- mật mã.Khách hàng trước tiên nối mạng vào trang Web của ngân hàng rồi sử dụng các tiện ích theo hướng dẫn.
- Phone – Banking: Ngân hàng tự động qua điện thoại. Chi nhánh có một số điện thoại riêng để khách hàng của mình gọi tới, cung cấp thông tin qua điện thoại về lãi suất, tỷ giá, số dư tài khoảncho khách hàng mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng.
- Home – Banking: Ngân hàng giao dịch tại nhà. Theo đó, máy tính của khách hàng kết nối mạng Internet, từ đó kết nối mạng với ngân hàng phục vụ mình, khách hàng được cung cấp một Password, chữ ký điện tử, có thể ngồi tại nhà, tại công ty, thực hiện giao dịch chuyển tiền, thanh toán.
- Mobile – Banking: Thanh toán bằng dịch vụ điện thoại di động. Theo đó, những người có điện thoại di động mở tài khoản tại Chi nhánh được cấp mã số truy cập và mật khẩu có thể thực hiện thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ ở bất kỳ nơi nào có điện thoại di động phủ sóng.
3.2.3. Tham gia đầy đủ vào các hệ thống thanh toán; thực hiện tốt TTBT điện tử trên địa bàn
NHNo & PTNT Văn Lâm - tỉnh Hưng Yên cần thực hiện tốt những việc sau:
3.2.3.1 Nâng cao hiệu quả của hệ thống thanh toán nội bộ
Mỗi ngân hàng đã tự xây dựng cho mình một hệ thống thanh toán riêng biệt để thực hiện các lệnh thanh toán nội bộ trong hệ thống. Các hệ thống này đều là những cấu phần riêng lẻ, thuộc sở hữu riêng của NHNo song nó được "hoà mạng" chung vào hệ thống thanh toán liên ngân hàng do NHNN quản lý. Các chi nhánh NHNo Hưng Yên đều tham gia đầy đủ vào hệ thống thanh toán nội bộ của mình và thực hiện các lệnh thanh toán trong hệ thống rất nhanh chóng, thuận tiện; kết nối với ngân hàng TW thông qua đường thuê bao Leased line, với chi nhánh cấp II, các ngân hàng cấp III qua kênh điện thoại. Vì vậy, việc thanh toán giữa chi nhánh cấp I vơí TW diễn ra nhanh chóng, thuận tiện an toàn; còn thanh toán giữa chi nhánh cấp I và chi nhánh cấp II và các phòng giao dịch đôi khi bị trục trặc, chưa hoàn toàn chủ động trong thanh toán do đường truyền bận hoặc lỗi, tốc độ chậm. Thời gian tới, cần thay đổi phương thức truyền thông với các chi nhánh cấp II, cấp III bằng đường thuê bao Leased line, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, phục vụ tốt khách hàng.
3.2.3.2 Thực hiện tốt thanh toán bù trừ điện tử
Cuối tháng 7/2005 ngân hàng Văn Lâm đã triển khai thực hiện TTBT điện tử tới các thành viên trên địa bàn thành phố, kết thúc giai đoạn TTBT bán tự động giao nhận chứng từ trực tiếp. Từ khi triển khai thực hiện đến nay, hệ thống hoạt động khá ổn định, việc thanh toán tiền vốn cho khách hàng không bị ách tắc, được thành viên đánh giá cao.
Theo quy định hiện hành và thoả thuận giữa các thành viên, TTBT điện tử thực hiện phương thức quyết toán ròng, theo phiên phi tự động được tổ chức mỗi ngày 01 phiên. Thực hiện theo phương thức này, đến giờ quy định, các thành viên truyền số liệu tới ngân hàng chủ trì; ngân hàng chủ trì tổng hợp và chuyển kết quả bù trừ cùng các lệnh thanh toán cho từng thành viên. Căn cứ kết quả nhận được từ ngân hàng chủ trì, các thành viên hạch toán vào tài khoản cho khách hàng, vì vậy khách hàng thường không sử dụng được vốn ngay trong ngày.
Trong tương lai, nhu cầu thanh toán tăng, để luồng vốn luân chuyển được nhanh chóng và sử dụng có hiệu quả thì NHTW cần chuyển sang phương thức quyết toán tổng tức thời với cơ chế xử lý thiếu hụt trong thanh toán bằng cách quy định từng thành viên được phép thấu chi một hạn mức nhất định tại mọi thời điểm trong ngày khi chưa kết thúc công việc hàng ngày. Khi quyết toán TTBT, đơn vị nào thiếu hụt thì xử lý bằng cách cho vay qua đêm, vay trên thị trường tiền tệ hoặc áp dụng biện pháp chia sẻ rủi ro; không áp dụng hình thức trả lại chứng từ cho thành viên.
Mở rộng phạm vi đến chi nhánh cấp III (các phòng giao dịch) ở các huyện với tư cách thành viên gián tiếp thông qua thành viên trực tiếp là chi nhánh cấp II tại huyện.
3.2.3.3 Cho phép QTD cơ sở được mở rộng đối tượng tham gia thực hiện các dịch vụ thanh toán
Nghị định số 69/2005/NĐ-CP ngày 26/5/2005 của Chính phủ đã cho phép QTD cơ sở được thực hiện các dịch vụ thanh toán và ngân quỹ chủ yếu phục vụ các thành viên, còn các đối tượng không phải là thành viên vẫn chưa được hưởng những tiện ích từ các dịch vụ này.
Văn lâm có thuận lợi rất cơ bản, hiện nay toàn huyện có 7 QTD cơ sở, tạo thành mạng lưới bao trùm rộng khắp trong huyện, hoạt động ổn định. Những Quỹ có điều kiện đã đưa chương trình phần mềm vào hoạt động nghiệp vụ, trước mắt là công tác kế toán. Đến 30/6/2005 có 60% số Quỹ đã trang bị máy tính, 3 Qũy đưa phần mềm nghiệp vụ với nhiều tiện ích, phục vụ tốt cho công tác quản trị, điều hành và làm báo cáo, nâng cao hiệu quả hoạt động.
Mặt khác, số người ở huyện Văn lâm đi xuất khẩu lao động khá lớn; hàng tháng, quý, năm chuyển tiền về cho gia đình với số lượng tương đối lớn, một số người chuyển rất đều đặn, mỗi tháng vài triệu đồng, có trường hợp chuyển tới vài chục triệu đồng một lần. Việc chuyển tiền chủ yếu do các ngân hàng làm đại lý thực hiện, vì vậy người thân của họ phải đi rất xa (tới các ngân hàng làm đại lý) mới nhận được tiền, tốn nhiều thời gian, không an toàn.
Như vậy, nếu chỉ cho những thành viên được thực hiện các dịch vụ thanh toán thì đối tượng bó hẹp, rất ít. Xuất phát từ yêu cầu thực tế tại địa phương, NHNN cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành để QTD cơ sở tổ chức triển khai cung ứng dịch vụ thanh toán đảm bảo mọi người dân đều được hưởng lợi từ các dịch vụ này, để huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân phục vụ cho đầu tư và phát triển kinh tế địa phương.
3.2.4. Tích cực đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ thanh toán
- Tăng cường đầu tư thiết bị CNTT, gồm các máy tính, thiết bị ngoại vi, mạng cục bộ, mạng truyền thông, máy ATM
Qua nghiên cứu thực trạng việc trang bị máy tính và thiết bị tin học của NHNo & PTNT Văn Lâm - tỉnh Hưng Yên, mặc dù bước đầu đã thiết bị lập được cơ sở vật chất máy móc thiết bị phục vụ cho hoạt động ngân hàng nói chung, công tác kế toán và thanh toán nói riêng, song so với một số tỉnh lân cận và các thành phố lớn thì các ngân hàng trên địa bàn Hưng Yên còn thua kém rất nhiều, đặc biệt trước yêu cầu hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Vì vậy, trong những năm tới, các chi nhánh NHNo & PTNT Hưng Yên cần tích cực quan hệ tốt với Trung ương, xin trang bị những máy tính và thiết bị ngoại vi hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế; xây dựng hệ thống mạng bằng những thiết bị tiên tiến đạt "chuẩn" với giải pháp mở, vừa đáp ứng yêu cầu hiện tại, vừa có thể nâng cấp trong tương lai, hoạt động ổn định. Chi nhánh NHNN Hưng Yên chủ trì đứng ra thực hiện liên kết mạng của các ngân hàng với nhau tạo thành mạng diện rộng, kết nối trực tuyến; ngành ngân hàng có thể xây dựng mạng trong toàn hệ thống với kênh truyền thông riêng cho các giao dịch ngân hàng, tránh hiện tượng nghẽn mạch và không phụ thuộc vào kênh truyền thông của Tổng Công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam.
NHNo & PTNT Văn Lâm - Hưng Yên khẩn trương lắp đặt thêm các máy ATM tại các siêu thị, nơi tập trung dân cư theo đúng chương trình; phấn đấu thời gian tới trên toàn địa bàn có 6 máy ATM hoạt động, khuyến khích thúc đẩy khách hàng sử dụng phương tiện thanh toán bằng thẻ. Máy ATM của các ngân hàng cần liên kết tạo thành mạng thống nhất; thẻ của các ngân hàng đều sử dụng được lại tất cả các máy ATM, khắc phục tình trạng bởi sự thiếu đồng bộ trong đầu tư của ngân hàng.
- Thiết lập các chương trình phần mềm đồng bộ và tương thích, khả năng xử lý tự động cao, dựa trên công nghệ mới và hiện đại, cơ sở dữ liệu chuẩn, đảm bảo bí mật, an toàn tuyệt đối.
Hiện nay phần mềm dùng trong hoạt động ngân hàng và công tác kế toán của các chi nhánh đều do Trung ương thiết kế, triển khai cài đặt và hướng dẫn
vận hành. Do điều kiện và thế mạnh của từng hệ thống, cho nên mỗi ngân hàng tự lựa chọn cho mình một công nghệ phù hợp với yêu cầu quản trị, điều hành và khả năng tài chính, song nhìn chung các ngân hàng đã có được "tiếng nói chung" trong lĩnh vực này, cơ sở dữ liệu tương đối đồng nhất.
Trong thanh toán nội bộ, mỗi ngân hàng đều có chương trình phần mềm riêng. NHNN có chương trình chuyển tiền điện tử; NHCT có chương trình chuyển tiền nội bộ; NHNT thực hiện giao dịch một cửa, trực tuyến Online bằng chương trình Silverleke; NHĐT với chương trình Branch delivery tích hợp nhiều ứng dụng, quản lý tài khoản tập trung tại trung ương; những thông tin về tài khoản của khách hàng và sử dụng vốn được cập nhật nhanh chóng; các đơn vị còn lại đều thực hiện giao dịch tức thời, quản lý khoản phân tán tại các chi nhánh.
Sau khi chương trình TTBT điện tử được triển khai tới các thành viên thì gặp phải khó khăn, đó là tính không tương thích giữa các chương trình phần mềm và dữ liệu hiện có. Tại NHNN khi có dữ liệu chuyển tiền đến. nếu phải qua TTBT thì không thực hiện chuyển đổi được thông qua các bước trong chương trình, phải nhập lại số liệu, mất nhiều thời gian, giảm tốc độ thanh toán; kết quả TTBT cũng chưa chuyển sang chương trình giao dịch được, phải nhập lại toàn bộ chứng từ phát sinh. Tình trạng này cũng xẩy ra tương tự tại các ngân hàng thành viên khác.
Trong thanh toán bằng thẻ, tại NHNo & PTNT huyện Văn Lâm có 04 máy ATM, và chỉ có một loại thẻ duy nhất đó là thẻ rút tiền tự động do NHNT phát hành. Hiện nay ngành Ngân hàng đã xây dựng Trung tâm chuyển mạch tài chính quốc gia, đảm nhiệm việc kết nối hệ thống máy ATM và các NHTM trên toàn quốc, đảm bảo thẻ do các ngân hàng phát hành đều sử dụng chung tại bất kỳ máy ATM nào, song thực tế hiện nay vẫn chưa làm được điều này.
Do vậy, thời gian tới các ngân hàng cần chỉnh sửa phần mềm, khắc phục cho được tình trạng chia cắt bởi sự thiếu đồng bộ trong các chương trình riêng biệt, đảm bảo phù hợp với quy định của NHNN, khắc phục tình trạng lãng phí và kém hiệu quả trong đầu tư.
- Đảm bảo an ninh hệ thống CNTT, chống truy cập trái phép vào mạng; an toàn cơ sở dữ liệu, chương trình phần mềm, tài sản của khách hàng và ngân hàng. Hiện nay an ninh mạng đang là vấn đề thời sự, cần được lãnh đạo các ngân hàng trên địa bàn quan tâm đúng mức. Đã có nhiều vụ án xẩy ra do bọn tội phạm truy cập trái phép vào hệ thống mạng của ngân hàng, ra lệnh t hanh toán ảo, lừa ngân hàng lấy tiền, trong đó có cả những vụ do chính cán bộ ngân hàng là chủ mưu, gây thất thoát tài sản, ảnh hưởng đến uy tín của hệ thống ngân hàng.
Do vậy, cần lắp những thiết bị bảo vệ và kiểm soát việc truy cập từ xa, thiết lập "bức tường lửa"; sử dụng ngôn ngữ thế hệ mới để xây dựng cấp phát, quản lý mã khoá bảo mật và chữ ký điện tử, chống gian lận trong nội bộ và tin tắc tấn công từ bên ngoài.
3.2.5. Xây dựng và thực hiện tốt chiến lược marketing phù hợp
Để thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ của mình nói chung và các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng, Chi nhánh phải nhận thấy được tầm quan trọng của Marketing Ngân hàng. Hiện nay, hầu hết các Ngân hàng thương mại đều tích cực cạnh tranh đưa ra các sản phẩm tiện ích cao và hấp dẫn. Khách hàng giờ đây đã trở thành những “thượng đế” của ngân hàng. Do vậy nếu không có sự đầu tư vào Marketing thì Chi nhánh khó có thể thu hút được khách hàng sử dụng các công cụ thanh toán hiện đại và mới mẻ của mình. Muốn khuyến khích mọi người sử dụng phương tiện thanh toán qua ngân hàng cần có giải pháp tuyên truyền, khuyến mãi thích hợp. Ví dụ như người có tài khoản thanh toán qua ngân hàng thanh toán thường xuyên các dịch vụ như điện, nước, trả cước phí bưu điện, điện thoạitrong thời gian 6 tháng trở lên được tham gia quay xổ số dự thưởng; hoặc những khách hàng thanh toán qua ngân hàng với những khoản thanh toán lớn và đều đặn sẽ được nhận những món quà có giá trị; hoặc được miễn phí thanh toán trong thời hạn một tháng.
Chi nhánh phải đề ra được chiến lược phát triển màng lưới, mở rộng khách hàng, thành lập bộ phận tiếp thị ngân hàng nhằm tiếp cận thị trường. Qua đó thu thập và phân tích đầy đủ thông tin thị trường nhằm phân loại đối tượng khách hàng, tìm hiểu và nắm được các nhu cầu của khách hàng để tạo thêm các sản phẩm dịch vụ đáp ứng cho khách hàng.
* Hiện tại Chi nhánh cần tập trung vào việc mở tài khoản cá nhân bởi dây là cơ sở để ứng dụng các công cụ TTKDTM qua ngân hàng.
Với một tài khoản cá nhân tại Ngân hàng, hiện nay khách hàng có thể sẽ được hưởng rất nhiều lợi ích: thực hiện thanh toán qua Ngân hàng rất dễ dàng, gửi tiền cho người thân ở xa, vừa có nơi cất giữ tiền an toàn và sinh lãi, vừa có điều kiện sử dụng các dịch vụ liên quan đến tài khoản Ngân hàngNgoài lợi ích mang lại cho khách hàng mở tài khoản tại Ngân hàng, Ngân hàng có thể sẽ thu hút được lượng tiền đáng kể trong dân cư, tăng thêm thu nhập về phí dịch vụ, đa dạng hoá các sản phẩm của mình.
Để đạt được điều này, công tác Marketing của Chi nhánh hiện nay và trước mắt là tập trung vào giá cả dịch vụ (ở đây là phí mở tài khoản) và xúc tiến khách hàng (quảng cáo và khuếch trương sản phẩm đến khách hàng):
- Có thể bước đầu miễn phí dịch vụ mở tài khoản và thẻ để khuyến khích các giao dịch bằng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt qua Chi nhánh. Như một số Ngân hàng Thương mại hiện nay: mở thẻ ATM không cần có số dư trong tài khoản; trả lãi tiền gửi thanh toán để được sử dụng vào nhu cầu thanh toán thường nhật. Việc thu hút khách hàng để gia tăng khối lượng tài khoản cá nhân là tiền đề phát triển khả năng đáp ứng nhu cầu chi tiêu cá nhân.
Mục tiêu lợi nhuận của Chi nhánh trong giai đoạn đầu cần đặt sau mục tiêu khách hàng để phát triển số lượng khách hàng. Những chi phí Chi nhánh bỏ ra trong giai đoạn đầu của chiến lược mở rộng thị trường có thể bù đắp bằng lợi nhuận thu được từ sử dụng một tỷ lệ nhất định tiền gửi thanh toán đã phát triển ổn định.
Sau một thời gian khi các dịch vụ Ngân hàng được khách hàng ưa chuộng, trở thành tiện nghi sinh hoạt trong đời sống của đại bộ phận dân cư, đó chính là thời kỳ để Chi nhánh chuyển sang thu phí dịch vụ về mở tài khoản, xử lý thông tin và tư vấn khách hàng. Trong giai đoạn này thực hiện thu phí dịch vụ, mục tiêu lợi nhuận của Chi nhánh và lợi ích khách hàng được chú trọng ngang nhau và có nhiều cơ hội để cải thiện, nâng cao.
- Tham gia tài trợ các chương trình lớn và có nhiều khách hàng tham gia, đến từng nơi tập trung nhiều đối tượng khách hàng tiềm năng để khuếch trương sản phẩm. Chi nhánh cần chủ động làm tốt công tác tiếp thị tới các trường đại học, cao đẳng bao gồm cả nhà trường và nhu cầu của cán bộ, sinh viênđầu tư máy móc, thiết bị, bố trí cán bộ, mở quầy giao dịch riêng cho các trường; phòng giao dịch, lắp đặt máy ATM ngay trong các trường. Ngoài ra Chi nhánh đẩy mạnh truyền thông quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, tại các trường thông qua các áp phích, buổi hội thảođồng thời có thể miễn giảm phí dịch vụ chuyển tiền cho sinh viên, đặc biệt là nộp tiền học phí.
- Phát triển mạnh dịch vụ hỗ trợ khách hàng như phát sách hướng dẫn và tư vấn khách hàng miễn phí, thường xuyên cung cấp cho khách hàng tiềm năng giá cả của các loại hình dịch vụ và sự ưu đãi của ngân hàng. Cần có chính sách rõ ràng, ưu tiên các khách hàng có hoạt động thường xuyên, có số dư tài khoản thanh toán ổn định. Chi nhánh nên đưa ra các chương trình bốc thăm trúng thưởng trên các số hiệu tài khoản của khách hàng nhằm tạo động lực vật chất để thu hút khách hàng.
3.2.6. áp dụng các biện pháp linh hoạt để mở rộng thanh toán trong dân cư.
Mở rộng dịch vụ thanh toán trong khu vực dân cư là một chủ trương lớn của NHNN nhằm tiếp tục cải thiện công tác thanh toán trong nền kinh tế, tạo dần thói quen sử dụng séc trong chi tiêu hàng ngày của dân cư, qua đó tạo lập nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế.
Những năm gần đây ngành ngân hàng đã tạo dựng được những tiền đề cần thiết, tích cực đầu tư đổi mới cơ sở vật chất, hiện đại hoá hệ thống thanh toánnhưng thu nhập bình quân đầu người vẫn ở mức thấp. Hưng Yên cũng nằm trong tình trạng chung đó. Do vậy, để mở rộng thanh toán KDTM vào khu vực này, đòi hỏi chúng ta phải có những bước đi phù hợp. Trước mắt, có thể mở rộng việc sử dụng tài khoản cá nhân tới đối tượng là cán bộ, công chức và người lao động trong các cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp, thu nhập hàng tháng được chuyển vào tài khoản. Khi cần chi tiêu thì đến ngân hàng rút tiền hoặc thanh toán trực tiếp cho người thụ hưởng.
Nhà nước cần có những văn bản quy định cụ thể đối với tổ chức và cá nhân được phép thanh toán bằng tiền mặt với mức tiền cụ thể theo từng thời kỳ, phù hợp với tình hình phát triển chung của nền kinh tế. Ví dụ, hiện nay nên quy định đối với cá nhân thanh toán dưới 5 triệu đồng, đối với tổ chức dưới 10 triệu đồng thì được sử dụng tiền mặt, trên mức đó phải thanh toán không dùng tiền mặt.
Mặt khác, để phát triển tài khoản cá nhân, mở rộng thanh toán KDTM thì Nhà nước cần tiếp tục cải cách chế độ tiền lương và thu nhập, để người lao động ngoài việc chi tiêu cho sinh hoạt hàng ngày, thì vẫn còn tiền trên tài khoản, khi đó tài khoản cá nhân mới có ý nghĩa thiết thực.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với quốc hội, chính phủ.
3.3.1.1 Đối với Quốc hội
Đề nghị sớm ban hành Luật giao dịch điện tử, khẳng định giá trị pháp lý của chứng từ điện tử và chữ ký điện tử trong giao dịch thương mại và những giao dịch liên quan đến hoạt động thanh toán của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Hiện nay CNTT được ứng dụng rộng rãi trong mọi ngành, mọi lĩnh vực, đã tạo nên sự thay đổi rất lớn trong nhận thức và hoạt động của con người cũng như các tổ chức, doanh nghiệpviệc đàm phán, hội họp, trao đổi và ký kết các hợp đồngđều có thể thực hiện qua mạng máy tính. Trong lĩnh vực thanh toán, đặc biệt thanh toán quốc tế, CNTT đã hỗ trợ tích cực và có hiệu quả, làm cho quá trình chu chuyển vốn trên thế giới diễn ra sôi nổi.
Quá trình toàn cầu hoá, tự do hoá và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hầu hết các quan hệ kinh tế, tài chính của nước ta với các nước trên thế giới, góp phần nâng cao hiệu quả phân phối nguồn lực, thúc đẩy kinh tế phát triển, tăng cường khả năng thanh toán và ổn định thị trường tài chính trong nước. Khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), những rào cản từng bước được rõ bở, các quy định sẽ thông thoáng hơn, ngân hàng nước ngoài là công nghệ cao, dịch vụ đa dạng, dầy dặn kinh nghiệm, đặc biệt là năng lực tài chính mạnhsẽ là những áp lực lớn đối với các NHTM Việt Nam.
Vì vậy, chúng ta cần khẩn trương ban hành Luật giao dịch điện tử, chỉnh sửa Luật thương mại, hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với đường lối phát triển kinh tế - xã hội và thông lệ quốc tế, trước hết là các cam kết của chính phủ về hội nhập quốc tế và mở cửa thị trường tài chính. Từng bước tạo lập hệ thống pháp luật ngân hàng hoàn chỉnh, đối xử công bằng, bình đẳng giữa các TCTD trong nước và nước ngoài, đồng thời đảm bảo tính công khai, minh bạch trong các hoạt động kinh tế xã hội để khuyến khích cạnh tranh lành mạnh vì sự an toàn, hiệu quả của hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế.
3.3.1.2 Đối với Chính phủ
Chính phủ đã có Nghị định số 64/2001/NĐ-CP về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 44/2002/QĐ-TTg cho phép sử dụng chứng từ kế toán để hạch toán và thanh toán vốn của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Đây là văn bản pháp quy cao nhất trong lĩnh vực hạch toán và thanh toán vốn được sử dụng chứng từ điện tử từ trước tới nay, tạo hành lang pháp lý cơ bản cho việc sử dụng chứng từ điện tử trong hoạt động thanh toán của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Tuy nhiên, đến nay những văn bản này đã có những bất cập, phạm vi bó hẹp trong các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, chưa cho phép người sử dụng dịch vụ thanh toán được sử dụng chứng từ điện tử trong hoạt động thanh toán, đây cũng là những đòi hỏi khách quan, chính đáng của khách hàng, vì vậy những văn bản này cần được bổ sung chỉnh sửa cho phù hợp với thực tiễn.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Mở rộng thanh toán KDTM bằng việc làm cụ thể và thiết thực, trước mắt chuẩn bị tốt các điều kiện để triển khai thực hiện Nghị định của Chính phủ về thanh toán bằng tiền mặt. Nhanh chóng xây dựng đề án phát triển hệ thống lưu thông séc, hối phiếu và hệ thống thanh toán bằng tiền mặt, mở rộng và phát triển thanh toán KDTM; chuẩn bị đầy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành Nghị định về thanh toán bằng tiền mặt khi được Chính phủ ban hành.
- Ngày 07/6/2005 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền, có hiệu lực thi hành từ 01/8/2005; NHNN Việt Nam đã thành lập Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền. Đây là những điều kiện nền tảng, cơ bản tạo có tác động mạnh mẽ và thúc đẩy thanh toán KDTM. Để Nghị định sớm đi vào cuộc sống, đạt hiệu quả cao, NHNN cần chủ động phối hợp với các bộ, ngành liên quan ban hành các văn bản hướng dẫn kịp thời, góp phần thúc đẩy mở rộng thanh toán KDTM.
- Bổ sung, chỉnh sửa các quy định đối với các phương tiện thanh toán. Nhìn chung các văn bản pháp quy của NHNN mới được ban hành ngày càng phù hợp hơn với thực tế hoạt động kinh doanh ngân hàng trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Khách hàng tham gia sử dụng các dịch vụ thanh toán đã được bảo đảm hơn về quyền lợi của mình; ngân hàng cũng không can thiệp trực tiếp vào quan hệ giao dịch thương mại giữa bên mua và bên bán, chỉ đơn thuần thực hiện vai trò làm trung gian thanh toán. Tuy nhiên trong một số văn bản còn chưa được rõ ràng, chỉ có thể thực hiện trong ngân hàng và các doanh nghiệp, còn đối với công chúng rất khó thực hiện.
Ví dụ: điều 14 quyết định số 226/2002/QĐ - NHNN trao quyền cho tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thoả thuận với khách hàng về điều kiện, thủ tục, thời hạn thực hiện uỷ nhiệm thu phù hợp với quy định của NHNN, nhưng tại điều 5 Quyết định số 1092/2002/QĐ - NHNN quy định: mẫu, thủ tục và phương thức giao nhận UNTdo ngân hàng nhận UNT quy định, mẫu, thủ tục và phương thức giao nhận UNTdo ngân hàng nhận UNT quy định, nhưng phải đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật. Vậy còn văn bản pháp luật nào chi phối, trong khi đây là văn bản của NHNN hướng dẫn thực hiện.
- Đối với thanh toán bằng séc, hiện nay đang thực hiện theo Nghị định số 159/2003/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư hướng dẫn số 05/2004/TT- NHNN của NHNN Việt Nam. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, chúng ta phải tuân thủ những chuẩn mực chung của thế giới, tính pháp lý của nghị định không cao bằng luật. NHNN đang chủ trì phối hợp với các cơ quan chức năng xây dựng dự án luật hối phiếu để điều chỉnh 3 loại công cụ (hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và séc) để trình Quốc Hội xem xét thông qua, vì vậy NHNN cần tích cực tuyên truyền giải thích những nội dung mang tính chuyên sâu mà nhiều đại biểu Quốc Hội chưa hiểu, để nhận được sự ủng hộ của họ đối với một vấn đề lớn, liên quan tới hoạt động của các tổ chức kinh tế đồng thời rất nhạy cảm với dư luận.
- Đẩy nhanh tiến độ triển khai giai đoạn II dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán trên có sở kết quả đàm phán, ký hiệp định tín dụng với ngân hàng thế giới. Kết nạp thêm thành viên trực tiếp có đủ điều kiện theo quy định của NHNN để mở rộng phạm vi, nâng cao hiệu quả của hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. Những ngân hàng chưa đủ điều kiện làm thành viên trực tiếp, đề nghị NHNN cho phép làm thành viên gián tiếp thông qua ngân hàng thành viên.
- Đề nghị NHNN quy định không thu phí dịch vụ thanh toán hoậc thu mức thấp đối với những khách hàng sử dụng thẻ, giao dịch trực tuyến, với mục đíchd khuyến khích họ tiếp cận, làm quen với phương tiện thanh toán hiện đại. Hiện nay có một số cở chấp nhận thẻ tại các cửa hàng, siêu thị thu hút khá cao, từ 2% - 10% doanh số thanh toán, đây là nguyên nhân tạo nên sự "chênh lệch giá" giữa thanh toán bằng thẻ và tiền mặt, làm triệt tiêu động lực thúc đẩy sử dụng phương tiện thanh toán tiên tiến. NHNN cần tích cực kiểm tra và xử lý nghiêm đối với những tổ chức, cá nhân cố tình vi phạm.
3.3.3. Kiến nghị với các ngân hàng thương mại trung ương
- Cần giành tỷ lệ vốn thích đáng trong vốn xây dựng cơ bản để đầu tư cho CNTT, mua sắm máy móc thiết bị và công nghệ phục vụ hoạt động ngân hàng nói chung, hoạt động thanh toán nói riêng trong toàn hệ thống. Việc mua sắm cần lựa chọn những công nghệ tiên tiến trên thế giới, tránh mua phải những công nghệ cũ, lạc hậu kém hiệu quả.
- Các NHTM cần áp dụng hệ thống quản lý chất lượng trong một số sản phẩm dịch vụ trong đó có dịch vụ thanh toán, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng tiêu chuẩn dịch vụ đáp ứng yêu cầu của khách hàng và phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, tăng sức cạnh tranh, đưa việc quản lý chất lượng trở thành công việc thường xuyên hàng ngày trong từng cán bộ.
- Đẩy mạnh đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thị trường, đề xuất các giải pháp mở rộng thanh toán KDTM và phát triển dịch vụ ngân hàng. Theo dõi chặt chẽ, thống kê chính xác các phương tiện thanh toán để có số liệu phân tích, tổng hợp và dự báo nhằm phục vụ tốt công tác quản trị, điều hành và có chính sách phát triển đồng bộ.
- Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ, kỹ sư chuyên làm CNTT trong lĩnh vực ngân hàng có đủ năng lực tiếp nhận, chuyển giao, quản lý công nghệ hiện đại và làm chủ được khoa học kỹ thuật trong thời kỳ mới, đủ khả năng trình độ thiết kế và sản xuất những gói phần mềm chuyên dụng cho hoạt động ngân hàng, đảm bảo chất lượng, an toàn trong hoạt động. Thường xuyên phổ cập kiến thức CNTT cho đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ nghiệp vụ để chủ động đối với những kỹ thuật và công nghệ mới. Có cơ chế tài chính cụ thể thu hút nguồn nhân lực trình độ cao, tạo điều kiện cho cán bộ phát huy năng lực sáng tạo trong việc xây dựng phần mềm ứng dụng, phục vụ thiết thực cho hoạt động ngân hàng và thanh toán.
- Hiện nay các NHTM Hưng Yên chưa được tham gia vào hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng nên khách hàng của họ chưa được hưởng lợi từ những dịch vụ và tiện ích của hệ thống này, làm cho công tác thanh toán KDTM trên địa bàn có phần bị hạn chế. Trong thời gian tới, đề nghị các NHTM trung ương cho phép các chi nhánh tại Hưng Yên đựơc tham gia vào hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng với tư cách là đơn vị thành viên.
Kết luận chương 3
Trên cơ sở định hướng chung của Đảng và Nhà nước, mục tiêu của ngành ngân hàng, của NHNo & PTNT Văn Lâm - Hưng Yên và dự báo nhu cầu về phương tiện thanh toán trong những năm tới, Khoá luận đã đưa ra 6 giải pháp để mở rộng thanh toán KDTM tại NHNo & PTNT Văn Lâm - Hưng Yên, đáng lưu ý 2 giải pháp: một là, phát triển các phương tiện thanh toán hiện đại dựa trên nền tảng CNTT; hai là, cho phép QTD được làm dịch vụ thanh toán đối với cả những người không phải là thành viên. Để thực hiện tốt các giải pháp, Khoá luận đưa ra những kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương và địa phương để công tác thanh toán KDTM ngày càng được hoàn thiện và phát triển.
Kết luận
Thanh toán là một trong những chức năng chủ yếu trong hoạt động ngân hàng, thanh toán KDTM có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế. Sử dụng linh hoạt các phương tiện thanh toán và tổ chức tốt hệ thống thanh toán qua ngân hàng sẽ thúc đẩy quá trình chu chuyển vốn, giảm chi phí cho xã hội, là động lực quan trọng thu hút khách hàng tham gia, tạo điều kiện cho họ sử dụng vốn hiệu quả, ngân hàng có được nguồn vốn rẻ, tăng hệ số tạo tiền và có cơ hội mở rộng tín dụng, nâng cao hiệu quả hoạt động.
Mở rộng thanh toán KDTM không phải là vấn đề mới, song mở rộng dựa trên nền tảng CNTT hiện đại và trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế lại là điều không đơn giản đối với hệ thống ngân hàng nước ta hiện nay. Với ba chương, khoá luận đã hoàn thành nhiệm vụ đề ra, cụ thể:
1- Hệ thống hoá có chọn lọc những lý luận cơ bản về các phương tiện thanh toán, tổ chức hệ thống thanh toán qua ngân hàng, vai trò của thanh toán KDTM đối với nền kinh tế. Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến thanh toán KDTM, trong đó nhân tố khoa học kỹ thuật và công nghệ có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động thanh toán của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
2- Nghiên cứu kinh nghiệm của Hàn Quốc trong việc tổ chức hệ thống TTBT, cộng hoà Liên bang Đức với việc phát triển và sử dụng phương tiện thanh toán bằng séc; Thái Lan trong việc mở rộng dịch vụ thanh toán thẻ, từ đó rút ra bài học đối với nước ta, cần tận dụng lợi thế của nước đi sau, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm hay của những nước đi trước, kết hợp với những thành tựu của khoa học kỹ thuật, ứng dụng mạnh mẽ CNTT để mở rộng thanh toán KDTM.
3- Phân tích khái quát tình hình kinh tế xã hội của huyện Văn Lâm để thấy được những thuận lợi, khó khăn tác động tới hoạt động ngân hàng và công tác thanh toán KDTM; nêu khái quát hoạt động của NHNo & PTNT huyện Văn Lâm - tỉnh Hưng Yên trong những năm gần đây.
4- Nghiên cứu, thu thập số liệu hoạt động thanh toán tại các NHTM để phân tích, đánh giá đúng thực trạng những kết quả đạt được công tác thanh toán KDTM của NHNo & PTNT huyện Văn Lâm - tỉnh Hưng Yên từ năm 2005 đến năm 2007; đưa ra nhận định và đánh giá chung, đồng thời chỉ ra những mặt yếu kém tồn tại, bất cập của các phương tiện thanh toán, hệ thống thanh toán và nguyên nhân của những yếu kém đó cần khắc phục.
5- Trên cơ sở định hướng chung của Đảng, của ngành, và của NHNo & PTNT huyện Văn Lâm - tỉnh Hưng Yên, đồng thời căn cứ những nguyên nhân của yếu kém đã được chỉ ra, khoá luận đưa ra hệ thống các giải pháp mang tính tổng thể để mở rộng thanh toán KDTM tại NHNo & PTNT huyện Văn Lâm - tỉnh Hưng Yên, trong đó những giải pháp thuộc về kỹ thuật cần có cơ chế chính sách đặc thù phù hợp và đáp ứng yêu cầu đặt ra.
6- Đưa ra những kiến nghị với Quốc hội, với Chính phủ, với NHNN và các NHTM trung ương, các ngành, các cấp tại địa phương để công tác thanh toán KDTM ngày càng phát triển và mở rộng.
Qua thời gian nghiên cứu và viết khoá luận, được sự giúp đỡ nhiệt thành của thầy hướng dẫn TS. Tô Ngọc Hưng, khoá luận đã được hoàn thành. Tuy nhiên, do khả năng và trình độ còn hạn chế, chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết, vì vậy rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô, bạn bè và đồng nghiệp.
Tài liệu tham khảo
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đoàn Thu Anh (2004), hệ thống CNTT của NHTWƯ Hàn Quốc, tạp chí Tin học ngân hàng, số 5/2004, NHNN Việt Nam.
PGS.TS. Mai Văn Bạn (2004), hoàn thiện cơ chế và tổ chức thanh toán trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học ngành Ngân hàng (quyển 3), NXB thống kê, Hà Nội.
PGS.TS. Mai Văn Bạn (2005), thanh toán ngân hàng trong thương mại điện tử đến năm 2010, Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học ngành ngân hàng (quyển 4), NXB thống kê, Hà Nội.
Nguyễn Văn Dũng, Nguyễn Đức Lệnh (2005), hiện đại hóa hệ thống thanh toán qua ngân hàng trên địa bàn thanh phố Hồ Chí Minh, tạp chí Khoa học và đào tạo ngân hàng, số 7/2005, Học viện ngân hàng.
Nhà giáo ưu tú, TS. Nguyễn Thị Minh Hiền (2003), giáo trình Marketing Ngân hàng, NXB thống kê, Hà Nội.
PGS.TS. Lê Đình Hợp (2005) hoàn thiện môi trường cung ứng dịch vụ thanh toán của ngân hàng Việt Nam hiện nay, tạp chí Khoa học và đào tạo ngân hàng, số 6/2005, Học viện ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật NHNN Việt Nam, Luật các TCTD (2004), NXB công an nhân dân, Hà Nội.
NHNN Việt Nam (2005), kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 trong lĩnh vực ngân hàng.
NHNN Việt Nam chi nhánh Hưng Yên (2005), Báo cáo hoạt động ngân hàng 5 năm (2003 2007) phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 2006 - 2010.
Chính phủ, Nghị định số 159/2003/NĐ-CP cung ứng và sử dụng séc.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7665.doc