Mối quan hệ biện chứng giữa con người, xã hội và môi trường

Mối quan hệ biện chứng giữa con người, xã hội & môi trườngMục lục Lời nói đầu Nội dung I.Khái quát chung về môi trường 1.Khái niệm 2.Phân loại 3.Chức năng của môi trường II.Xã hội - bộ phận đặc thù của tự nhiên III.Mối quan hệ con người, xã hội và môi trường, tự nhiên 1.Triết lý tổng quát 1.1.Sự tác động qua lại giữa môi trường tự nhiên và xã hội a.Mối quan hệ môi trường và sự tồn tại, phát triển của con người b.Môi trường ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội? 1.2.Những yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên a.Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội b.Mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên phụ thuộc vào trình độ nhận thức và vận dụng các quy luật trong hoạt động thực tiễn 2.Thực tiễn 2.1.Tiến trình phát triển của xã hội loài người và mối quan hệ giữa xã hội loài người với môi trường a.Xã hội nguyên thủy . b.Làn sóng văn minh nông nghiệp c.Cách mạng công nghiệp và làn sóng văn minh công nghiệp d.Kinh tế thị trường hiện đại, cách mạng khoa học công nghệ và toàn cầu hóa - Làn sóng hậu công nghiệp. Sự phát triển hiện đại. e.Phát triển bền vững - yêu cầu tất yếu của việc tái lập sự cân bằng giữa con người, xã hội, phát triển và môi trường 2.2.Thực trạng môi trường trên thế giới hiện nay 2.3.Thực trạng môi trường Việt Nam hiện nay a.Môi trường nước b.Môi trường không khí c.Đa dạng sinh học 3.Các giải pháp cho sự phát triển bền vững ở Việt Nam 3.1.Chính sách dân số 3.2. Bảo vệ môi trường trong hoạt động công nghiệp, xây dựng, năng lượng và giao thông vận tải 3.3. Bảo vệ môi trường trong sản xuất nông nghiệp và khai thác thủy sản 3.4. Bảo vệ môi trường trong du lịch 3.5. Bảo vệ môi trường trong quy hoạch xây dựng đô thị 3.6. Kiện toàn hệ thống quản lý môi trường các cấp 3.7. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, luật pháp bảo vệ môi trường 3.8. Tăng cường đầu tư cho bảo vệ môi trường 3.9. Mở rộng hợp tác quốc tế 3.10.Nâng cao giáo dục nhận thức bảo về môi trường 3.11.Xã hội hóa bảo vệ môi trường Kết luận 26 Tài liệu tham khảo

doc30 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2232 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mối quan hệ biện chứng giữa con người, xã hội và môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hực hiện mục đích, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của toàn xã hội trong mối quan hệ hài hòa tự nhiên - xã hội. 2. Thực tiễn 2.1.Tiến trình phát triển của xã hội loài người và mối quan hệ giữa xã hội loài người với môi trường a.Xã hội nguyên thủy Xã hội nguyên thủy được đặc trưng bởi cuộc sống bầy đàn. Công cụ sản xuất thô sơ và nền sản xuất chưa hình thành. Xã hội cộng sản nguyên thủy dựa trên nền kinh tế hái lượm, săn bắn. Với phương thức kinh tế này, con người chưa tách khỏi tự nhiên, họ bị phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. sự hiểu biết của người nguyên thủy, những hoạt động của họ chưa làm thay đổi thế giới tự nhiên, sự lưu thông vật chất giữa người và tự nhiên chưa có sự khác biệt so với bản thân sự tuần hoàn vật chất của chính bản thân lưu thông vật chất của giới tự nhiên. Nó dựa chính ngay trên sự tuần hoàn của giới tự nhiên để sinh tồn. Nói khác đi, nó chưa tạo ra nền sản xuất của mình, do vậy chưa hình thành một sự tuần hoàn vật chất đặc thù giữa xã hội và tự nhiên. Chính điều này khiến cho con người và xã hội loài người nguyên thủy tồn tại trong một thể hòa hợp đồng nhất với giới tự nhiên. Cố nhiên với trạng thái đồng nhất này, vấn đề môi trường chưa xuất hiện. b.Làn sóng văn minh nông nghiệp Loài người bước vào đời sống kinh tế của mình bằng việc phát minh ra nông nghiệp và bằng nông nghiệp, loài người đã tạo ra nền sản xuất của chính mình. Nền sản xuất này có đặc điểm cơ bản: Sản xuất nông nghiệp có đối tượng của mình là cây trồng và vật nuôi. Con người tác động vào cây trồng vật nuôi để sản xuất ra lương thực thực phẩm duy trì sự sinh tồn của mình. Nó dựa vào quy luật trao đổi chất của bản thân giới tự nhiên để sản xuất ra của cải cho mình. Sản xuất ở đây là quá trình con người tác động vào cây trồng, thuần hóa và nuôi dưỡng súc vật, qua đó thu về cho mình những sản phẩm cần thiết để nuôi sống mình. Hái lượm và săn bắn là chiếm hữu trực tiếp từ tự nhiên cũng chính những nguồn lương thực, thực phẩm tồn tại trong tự nhiên. Sản xuất nông nghiệp là con người chủ động điều khiển và kiểm soát quá trình sinh sản của sinh vật để thu được những sản phẩm cần cho sự sống của mình. Tóm lại, nền kinh tế của làn sóng nông nghiệp là nền kinh tế sinh thái. Nó tiến triển, tiến hóa trong sự cân bằng và bao dung của giới tự nhiên, con người, xã hội hòa hợp với giới tự nhiên. c.Cách mạng công nghiệp và làn sóng văn minh công nghiệp Nhân loại chuyển vào thời đại phát triển bằng cuộc cách mạng công nghiệp thiết lập hệ phát triển thị trường - công nghiệp và tạo ra làn sóng công nghiệp. Cuộc cách mạng công nghiệp đã làm thay đổi bản chất nền kinh tế tự nhiên sinh tồn, tự cung tự cấp, thành nền kinh tế thị trường theo đuổi mục tiêu sản xuất ra giá trị thặng dư và chuyển nền kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp. Vậy cuộc cách mạng công nghiệp và làn sóng công nghiệp đã làm thay đổi mối quan hệ giữa con người, xã hội với giới tự nhiên, với môi trường như thế nào? Thứ nhất, làn sóng công nghiệp được diễn ra trong hệ kinh tế thị trường và được thúc đẩy bởi các quy luật của kinh tế thị trường. Nếu trong làn sóng nông nghiệp kinh tế là kinh tế sinh tồn thì trong làn sóng công nghiệp, hoạt động kinh tế là nhằm vào việc sản xuất ra giá trị thặng dư. Ở đây quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản. Dưới sự thúc đẩy của quy luật giá trị thặng dư, sức sản xuất có một sự bành trướng không giưới hạn. Đến lượt mình, chính quy luật giá trị thặng dư trở thành động lực mạnh mẽ nhất đối với việc khai thác thiên nhiên. Thứ hai, kỹ thuật máy móc đã tạo ra cho nền sản xuất xã hội một phương tiện mạnh mẽ nhất để tăng sức sản xuất của lao động lên vượt khỏi những giới hạn tự nhiên của con người. Bằng cuộc cách mạng công nghiệp, nhân loại đã mở ra một thời đại khai thác đại quy mô giới tự nhiên.Có thể nói, cách mạng công nghiệp tạo ra bộ máy sản xuất công nghiệp với kỹ thuật và máy móc mạnh để khai thác, chế biến các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Thứ ba, nếu trong làn sóng nông nghiệp, con người dùng hệ sinh thái và quy luật sinh học để sản xuất ra các giá trị sử dụng chủ yếu để duy trì cuộc sống của mình, thì làn sóng công nghiệp lại tạo ra bộ máy công nghiệp khai thác và chế biến các vật chất tự nhiên thành những hàng hóa trong quá trình theo đuổi giá trị thặng dư. Trong mối quan hệ này, sự tăng trưởng kinh tế ngày càng ít phụ thuộc vào nông nghiệp và ngày càng tăng sự phụ thuộc vào sự thăng tiến, phát triển của bộ máy công nghiệp. Sự phát triển của nền công nghiệp là tỷ lệ thuận, hơn nữa, tỷ lệ cấp số nhân với việc khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Có thể nói, cách mạng công nghiệp tạo ra làn sóng công nghiệp, tạo ra công nghiệp máy móc là tạo ra thời đại công nghiệp khai thác. Chỉ số phát triển kinh tế do vậy được đo bằng quy mô và sức sản xuất điệ, than, dầu khí, sắt thép, xi măng và máy móc. Một nền công nghiệp phát triển và hùng mạnh do vậy được đo bằng lượng máy móc, điện, than, sắt, xi măng sản xuất ra trong một năm và mức sản cuất thực ra là mức khai thác tài nguyên tính trên đầu người. Thứ tư, cùng với bộ máy công nghiệp dựa trên ký thuật máy móc, làn sóng công nghiệp là làn sóng trong đó kinh tế phát triển dựa vào việc cơ khí hóa, tăng cường sử dụng năng lượng, nguyên vật liệu và sản phẩm được sản xuất dựa trên tiêu phí nhiều vật liệu và năng lượng. Do vậy, nền kinh tế là bộ máy công nghiệp chế biến tài nguyên và nền kinh tế của làn sóng công nghiệp là nền kinh tế tài nguyên. Thứ năm, cùng với quá trình công nghiệp hóa nền kinh tế là quá trình đô thị hóa phát triển mạnh, hình thành những trung tâm dân cư rộng lớn, từ đây hình thành nền văn minh đô thị công nghiệp hóa - một kiểu tổ chức xã hội và một không gian, một lối sống công nghiệp đô thị mới được xác lập khác hẳn với tổ chức xã hội trong làn sóng nông nghiệp. Thứ sáu, kèm theo với quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa là quá trình tăng cường mạnh mẽ mức phát thải công nghiệp và rác thải tăng lên một cách đáng kể. Có thể nói, cách mạng công nghiệp và làn sóng công nghiệp đã tạo ra một mối quan hệ mới giữa con người và giới tự nhiên. Mối quan hệ này đã phá vỡ sự hòa hợp giữa con người, xã hội và giới tự nhiên. Vì mục tiêu phát triển và những lợi ích khác nhau của bộ máy kinh tế thị trường công nghiệp, và bằng bộ máy công nghiệp, con người và xã hội công nghiệp đã mở ra một thời đại phát triển, đồng thời cũng tạo ra một phương thức phát triển dựa trên việc tăng cường mạnh mẽ khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tài nguyên thiên nhiên trở thành mục tiêu tấn công của bộ máy công nghiệp. Dưới sự thúc đẩy của quy luật giá trị thặng dư và với bộ máy công nghiệp khỏe mạnh nền kinh tế như một cơ thể đói khát, bằng mọi cách, mọi phương tiện nó tìm kiếm các nguồn tài nguyên và khai thác một cách mạnh mẽ những nguồn tài nguyên không tái tạo được. Có thể nói, cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo ra một sự nhảy vọt trong lực lượng sản xuất, hình thành một lực lượng sản xuất khổng lồ cho nhân loại, đồng thời tạo ra một lực lượng theo tỉ lệ thuận năng lực khai thác tài nguyên thiên nhiên. Cùng với quá trình công nghiệp khai thác, chế biến tài nguyên thiên nhiên, bộ máy công nghiệp và xã hội công nghiệp đã đụng chạm đến tất cà các chức năng của môi trường. Không chỉ tài nguyên thiên nhiên bị khai thác và dẫn đến cạn kiệt, bị suy thoái mà cả sinh quyển, sinh thái, không gian sống và nơi chứa phế thải cũng bắt đầu bị tổn thương. Trên đây ta đã thấy, giới tự nhiên là cái nôi của loài người, đồng thời là nền tảng trên đó con người tổ chức cuộc sống với mọi hoạt động xã hội và kinh tế. Tuy nhiên, sự phát triển của làn sóng công nghiệp hãy còn nawmg trong phạm vi mức chịu đựng của môi trường tự nhiên của trái đất. Những tổn thương cục bộ do sự phát triển của làn sóng công nghiệp chưa dẫn tới mức trầm trọng gây nguy cơ sụp đổ sự cân bằng giữa giới tự nhiên và con người ở phạm vi toàn cầu. d. Kinh tế thị trường hiện đại, cách mạng khoa học công nghệ và toàn cầu hóa - Làn sóng hậu công nghiệp. Sự phát triển hiện đại. C.Mac viết: " Công nghiệp hiện đại không bao giờ xét và coi hình thức hiện có của quá trình sản xuất là hình thức dứt khoát . Vì vậy cơ sở kỹ thuật của nó là có tính chất cách mạng, còn cơ sở của tất cả các phương thức sản xuất trước kia về căn bản là bao thủ. Nhờ dùng máy móc, nhờ cá qua trình hóa học và các phương pháp khác nền công nghiệp hiện đại không ngừng đảo lộn những cơ sở kỹ thuật của nền sản xuất…". Như vậy làn sóng công nghiệp không chỉ dừng ở cuộc cách mạng công nghiệp. Trong tiến trình kinh tế thị trường - công nghiệp, quy luật giá trị thặng dư và quy luật tích lũy tư bản, đã đặt kỹ thuật sản xuất tồn tại trong một tiến trình đổi mới, tiến bộ phát triển không ngừng. Đến lượt mình sự phát triển của kỹ thuật đã đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với sự phát triển khoa học. Mặt khác, chính sự tiến bộ của kỹ thuật và của sự phát triển của kinh tế đã tạo ra cơ sở kinh tế và kỹ thuật chắc chắn cho khoa học phát triển. Thặng dư kinh tế không chỉ là mục tiêu, động lực thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Chính thặng dư được tích lũy lại và chuyển thành tư bản là cơ sở kinh tế cho việc phát triển của khoa học và kỹ thuật. Ph.Ănghen đã từng chỉ ra , nền văn minh nhân loại được xây dựng, phát triển trên nguồn thặng dư do chính nhân loại tạo ra. Có thể nói bộ máy kinh tế thị trường - công nghiệp, đồng thời là bộ máy tự tiến hóa, phát triển lực lượng sản xuất, mà trọng tâm là khoa học kỹ thuật. Sự phát triển từ lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Vào giữa thế kỷ XX, lại một cuộc đại cách mạng trong lực lượng sản xuất của xã hội xảy ra. * Đó là cách mạng khoa học - công nghệ. Gọi là cách mạng khoa học công nghệ vì ở đây diễn ra 2 cuộc cách mạng nằm trong một tiến trình chung của cuộc cách mạng lực lượng sản xuất. Cuộc cách mạng khoa học đã đem lại sự đảo lộn trong khoa học và cuộc cách mạng này đã đem lại một cơ sở mới cho con người giải quyết mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Nó không chỉ là những nhận thức chung về thế giới, mà còn đi sâu vào những nhận thức mới về quy luật vận động của thế giới vậy chất, một bức tranh mới về thế giới vật chất được hình thành. Điều quan trọng hơn, những khám phá khoa học về thế giới vật chất đã trực tiếp dẫn tới một cuộc cách mạng trong công nghệ sản xuất. Đặc trưng của cách mạng khoa học công nghệ là thông qua công nghệ và quản lý, khoa học trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp. Từ đặc trưng này ta thấy, phương thức sản xuất của xã hội đã được nâng cao, thay đổi về chất. Xã hội không chỉ dừng ở bộ máy chế biến tài nguyên thành những giá trị sử dụng cần thiết cho mình. Bằng những khám phá về quy luật vận động của thế giới vật chất và bằng những phát minh công nghệ mới con người đã tạo ra những lực lượng sản xuất bằng con đường hoàn toàn mới, sản xuất ra những sản phẩm dịch vụ hoàn toàn mới. Công nghệ điện tử, công nghệ di truyền là trọng tâm và đột phá của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ. Với công nghệ này đã mở ra một thời đại mới - làn sóng hậu công nghiệp, làn sóng của khoa học công nghệ. Công nghệ đã làm thay đổi hoàn toàn xu hướng của làn sóng công nghiệp. Nếu bộ máy công nghiệp là bộ máy chế biến tài nguyên thì làn sóng khoa học công nghệ hiện đại - công nghệ điện tử hướng sự phát triển vào quá trình làm chủ các bí mật của thế giới vật chất và bằng công nghệ chuyển thành những lực lượng mạnh mẽ khổng lồ của thế giới vật chất thành của cải cho xã hội loài người. Nếu máy móc nối dài cánh tay của con người, giải phóng lao động cơ bắp, là sự thắng lợi của con người đối với tự nhiên thì khoa học công nghệ hiện đại là sự giải phóng những lực lượng vật chất tiềm ẩn trong những quy luật vận động vật chất và biến chúng thành những lực lượng sản xuất cho con người. Năng lượng nguyên tử, công nghệ điện tử, công nghệ sinh học… là những thành tựu của con người chỉ ra một phương thức sản xuất hoàn toàn mới. Đó là một cuộc đại nhảy vọt dựa trên sự giải phóng sức sản xuất từ sự khám phá những quy luật của thế giới vật chất và công nghệ chuyển những lực lượng vật chất đó thành lực lượng sản xuất cho nhân loại. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã làm thay đổi phương thức lưu thông giữa con người và tự nhiên. Nó làm thay đổi phương thức lưu thông vật chất giữa con người và giới tự nhiên. Phương thức này đem lại một sự nhảy vọt trong năng suất, hiệu quả, đồng thời tránh được những tổn thương môi trường. Mặt khác, cũng chính sự phát triển của khoa học công nghệ mới và nội dung của sự phát triển, kinh tế đã cung cấp cho xã hội cơ sở khoa học công nghệ và cơ sở kinh tế để giải quyết những hiệu ứng xấu trong quá trình sản xuất và trong quá trình sống của xã hội hậu công nghiệp. Có thể nói, cách mạng khoa học công nghệ là một bước nhảy vọt trong lực lượng sản xuất, làm thay đổi quan hệ giữa con người và tự nhiên, xã hội và tự nhiên. Cách mạng khoa học công nghệ đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng, đồng thời, hình thành một kiểu quan hệ mới giữa con người, xã hội và tự nhiên theo hướng tái lập sự hòa hợp, sự cân bằng giữa con người và tự nhiên. * Trong những năm qua, cách mạng khoa học công nghệ đã đẩy nền kinh tế của thế giới vào một thời đại mới: thời đại phát triển hiện đại. Thời đại phát triển hiện đại được tạo lập trên 3 cơ sở: cách mạng khoa học công nghệ, kinh tế thị trường hiện đại và toàn cầu hóa. Kinh tế thị trường hiện đại là một hệ thống kinh tế mới, trong đó nền kinh tế trở thành kinh tế vĩ mô với các quy luật kinh tế vi mô làm nền tảng. Chính những quan hệ vi mô này làm cho nền kinh tế trở thành một cơ cấu chung. Trong kinh tế thị trường hiện đại, nhà nước không đơn thuần là một bộ máy hành chính, một bộ máy chính trị. Nó trở thành một nhân tố quyết định của sự phát triển với chức năng mới - chức năng phát triển. Đây là chức năng đặc biệt và cơ bản của nhà nước hiện đại. Nó là người điều tiết thị trường và duy trì cho sự ổn định và bền vững. Với vai tò này, nhà nước có ý nghĩa đặc biệt đối với việc giải quyết vấn đề môi trường. Toàn cầu hóa là xu thế đặc trưng của thời đại phát triển hiện đại. Toàn cầu hóa được thúc đẩy bởi lực lượng sản xuất to lớn và thể hiện một trình độ phát triển cao của xã hội hóa. Ta biết rằng, trong làn sóng công nghiệp, nhiều khu vực của trái đất còn nằm ngoài sự tác độn, khai thác và kiểm soát của con người. Đó là những kho dự trữ to lớn, giàu có cho một quá trình phát triển trong tương lai, những dự trữ của trái đất còn hơn sức khai thác của con người. Toàn cầu hóa, cũng tức là con người đã mở rộng phạm vi tác động, khai thác và kiểm soát của mình trên toàn bộ môi trường của trái đất. Nó đã mở đến những cái kho dự trữ cuối cùng của giới tự nhiên. Trên đây ta thấy, làn sóng công nghiệp đã lâm vào mặt mâu thuẫn của sự phát triển: dường như trong khi thúc đẩy sự phát triển thì sự phát triển đó lại tấn công, làm tổn thương đến chính ngay nền tảng trên đó xã hội tổ chức toàn bộ sự phát triển của mình. Ở đây, một viễn cảnh không mấy tốt đẹp hiện ra: một ngày nào đó mọi nguồn tài nguyên sẽ cạn kiệt và môi trường trở nên tồi tệ trong đó con người không thể sống được nữa và thế là thế giới sụp đổ. Trước viễn cảnh này, con đường sống của nhân loại tất yếu là vãn hồi sự cân bằng, hòa hợp giữa con người, xã hội và giới tự nhiên, đồng thời, để thực hiền yêu cầu này, cơ hồ con đường phải quay trở lại điểm xuất phát, quay trở lại thời đại của làn sóng nông nghiệp. Quay lại làn sóng nông nghiệp tức là thụt lùi, phản phát triển. Thực ra hệ kinh tế thị trường - công nghiệp đã đặt tiến trình kinh tế của nhân loại vào một tiến trình phát triển không ngừng, bất khả kháng không có gì có thể cản được, thành một quy luật thép. Thực tế phát triển của loài người đã bác bỏ ý tưởng ngớ ngẩn, quay trở lại làn sóng nông nghiệp để vãn hồi sự cân bằng quan hệ giữa con người, xã hội, sự phát triển và môi trường. Chính trong nội sinh của hệ kinh tế thị trường công nghiệp, lực lượng sản xuất tất yếu được phát triển và những cuộc cách mạng trong phương thức sản xuất sẽ nổ ra. Cũng chính các cuộc cách mạng này sẽ tạo ra phương thức và những cơ sở tất yếu để giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa con người, xã hội và giới tự nhiên, môi trường, hình thành một nền tảng mới cho sự phát triển ở cấp độ cao hơn. C.Mac đã từng chỉ ra: "Nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà nó có thể giải quyết được, vì khi xét kĩ hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng, nảm thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi những điều kiện vật chất giải quyết nhiệm vụ đó đã có rồi, hay ít ra cũng đang ở trong quá trình hình thành." Hiện nay, ở đầu thế kỉ XXI, khi cách mạng khoa học công nghệ, kinh tế thị trường hiện đại, toàn cầu hóa đã đạt tới những trình độ phát triển cao thì cũng chính từ đây vấn đề khủng hoảng môi trường lại phát sinh. Đương nhiên, môi trường tổn thương nghiêm trọng xảy ra trong làn sóng hậu công nghiệp, thì để cho ta một ý niệm hiển nhiên là môi trường bị tổn thương nghiêm trọng, xung đột môi trường gay gắt đó là hậu quả của làn sóng hậu công nghiệp, của cách mạng khoa học công nghệ, của kinh tế thị trường hiện đại và của toàn cầu hóa. Điều này có nghĩa là, làn sóng hậu công nghiệp, sự phát triển hiện đại rốt cuộc là làm trầm trọng thêm vấn đề môi trường, nó không dẫn việc giải quyết mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên vốn có đã có nguy cơ tổn thương trầm trọng từ trong làn sóng công nghiệp. Trên đây, ta đã thấy cách mạng khoa học công nghệ, kinh tế thị trường hiện đại và toàn cầu hóa đã tạo ra một cách thức sản xuất mới cho sự phát triển và do vậy, nó tạo ra kiểu quan hệ mới giữa con người, xã hội và giới tự nhiên, do vậy đó chính là thời đại con người, xã hội và tự nhiên có thể hòa hợp môi trường. Vậy lý do gây xung đột một trường là ở đâu? Cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế thị trường hiện đại là sự nối tiếp tất yếu của làn sóng công nghiệp, do vậy, quê hương, nơi xuất phát của cách mạng khoa học công nghệ, kinh tế thị trường hiện đại lại là ở các nước công nghiệp phát triển, nơi xuất phát của cách mạng khoa học công nghiệp và làn sóng công nghiệp trước đây. Điều này cũng có nghĩa là khi bộ phận phát triển nhất của thế giới chuyển sang thời đại hậu công nghiệp, thì đại bộ phận thế giới vẫn đang ở trong làn sóng nông nghiệp hoặc chuyển từ làn sóng nông nghiệp sang làn sóng công nghiệp. Ta biết rằng, chuyển sang làn sóng công nghiệp, xác lập bộ máy công nghiệp, đồng thời là xác lập nền kinh tế tài nguyên, xác lập trào lưu tấn công vào thế giới tự nhiên. Trên kia ta đã phân tích mối quan hệ giữa làn sóng công nghiệp và giới tự nhiên, và thấy rằng, làn sóng công nghiệp là giai đoạn phát triển của con người tạo ra một sự mất cân bằng giữa xã hội và giới tự nhiên, có nguy cơ làm tổn thương trầm trọng môi trường, gây xung đột môi trường. Trong điều kiện giờ đây, khi làn sóng công nghiệp lan rộng đang còn hiện hữu và phát huy hiệu lực ở cả một khu vực rộng lớn là khu vực thế giới thứ 3, thế giới đang phát triển. Mặt khác, vấn đề khủng hoảng môi trường giờ đây mang tính toàn cầu song khả năng giải quyết vấn đề chỉ ở chỗ có phương tiện, có cơ sở, để giải quyết xung đột môi trường, vấn đề quyết định chính là ở chỗ, các quốc gia phát triển hiện đại có tham gia quyết định vào việc bảo vệ môi trường hay không. Ta biết rằng, sự phát triển hiện đại là phát triển dựa trên cách mạng khoa học - công nghệ, nhờ đó có thể tránh được việc tấn công mạnh vào tài nguyên thiên nhiên nhưng thay vì lượng phát thải của nền kinh tế tri thức này vào môi trường chất độc hại và phế thải gây tổn thất nặng nề môi trường, việc phá vỡ tầng oozon, làm nhiệt độ trái đất tăng lên, mực nước biển tăng lên,…, có sự tham gia đáng kể của hoạt động kinh tế xã hội của các nước phát triển hiện đại. Nhưng những ngoại ứng xấu của hoạt động kinh tế xã hội của các nước phát triển hiện đại lại chưa thể kiểm soát và chưa có được những thể chế hữu hiệu, buộc những nước này giảm mức phát thải, xử lý những phát thải gây ô nhiễm tổn thất môi trường của các nước phát triển. Có thể nói làn sóng công nghiệp đã trở thành lỗi thời song còn hiệu lực mạnh và vẫn đang tiếp tục thúc đẩy một bộ phận lớn thế giới phát triển, còn làn sóng hậu công nghiệp, làn sóng phát triển hiện đại đang hình thành song chưa có thể chế tương thích khiến cho việc giảm thiểu sự suy thoái môi trường thành một tất yếu trong phát triển kinh tế - xã hội đã tạo ra một sự cộng hưởng làm bùng nổ sự xung đột môi trường. Sự phát triển trong điều kiện đan xen các làn sóng chậm phát triển, làn sóng công nghiệp và hậu công nghiệp làm cho trái đất với cái kho tài nguyên cổ truyền của nó trở nên chật hẹp, nhỏ bé và ít ỏi. Nói cách khác, sự phát triển của nhân loại đã vượt quá khuôn khổ cho phép của môi trường. Trái đất đã không chịu đựng nổi sức tấn công của con người. Mối quan hệ giữa con người, xã hội và giới tự nhiên, môi trường thông qua sự phát triển đã lâm vào trạng thái mất cân bằng, hài hòa giữa con người, xã hội, và giới tự nhiên, môi trường. e. Phát triển bền vững - yêu cầu tất yếu của việc tái lập sự cân bằng giữa con người, xã hội, phát triển và môi trường Nhân loại đã tạo ra một cỗ máy phát triển, mà sự vận hành của nó là một sự vận động không ngừng tiến lên. Nhưng cỗ máy phát triển công nghiệp này dưới sự thúc đẩy của hệ kinh tế thị trường và cơ sở kỹ thuật công nghiệp, nó có một sức bành trướng không có giới hạn. Đồng thời nó đặt môi trường Trái đất - một giới tự nhiên hữu hạn, trong một giới hạn chật hẹp, tức sự bành trướng to lớn của nó. Ở một ý nghĩ nhất định, phương thức sản xuất của cỗ máy công nghiệp chứa đựng sự xung đột gay gắt giữa sự lớn mạnh của lực lượng sản xuất với tính có hạn của môi trường. Bởi vậy, vấn đề cố nhiên phải phát triển và mặt khác lại phải duy trì được trạng thái hài hòa, cân bằng giữa con người, xã hội và tự nhiên. Trước yêu cầu này, đã phát sinh khái niệm về phát triển bền vững. Khái niệm phát triển bền vững được ủy ban môi trường và phát triển thế giới nêu ra vào năm 1987: "Những thế hệ hiện đại vần đáp ứng nhu cầu của mình, sao cho không phương hại đến khả năng của các thế hệ tương lai đáp ứng các nhu cầu của họ". Từ khái niệm phát triển bền vững này ta nhận thấy, sự phát triển của làn sóng công nghiệp, làn sóng phát triển được dựa trên hệ kinh tế thị trường cổ điển và bộ máy công nghiệp, tấn công vào tài nguyên, hệ sinh thái, xét cho cùng là có ý nghĩa: một sự phát triển vay mượn ở tương lai tấn công vào tương lai. Sự phát triển của làn sóng công nghiệp trong khi đẩy mạnh sức sản xuất thì đồng thời nó tấn công ngay vào nền tảng của sự phát triển lâu dài, là môi trường. Có thể nói khủng hoảng của môi trường là khủng hoảng của sự phát triển. Mà đã là khủng hoảng của sư phát triển thì vấn đề, một mặt, không phải chúng sẽ xảy ra ở tương lai, ở những thế hệ mai sau, mà ở ngay thời điểm đang diễn ra sự phát triển của loài người và mặt khác phải giải quyết vấn đề khủng hoảng môi trường ngay trong quá trình phát triển ở trong phương thức sản xuất. Bởi vậy, đứng ở khía cạnh phát triển và ở mối quan hệ giữa con người, xã hội và giới tự nhiên, cần phải định nghĩa sự phát triển bền vững là quá trình tái sản xuất mở rộng không ngừng nền kinh tế, xã hội trên cơ sở một phương thức sản xuất hiện đại trong khi đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội hiện đại, đồng thời bảo vệ được môi trường nhằm duy trì mối quan hệ cân bằng, hài hòa giữa con người và giới tự nhiên, duy trì nền tảng của sự phát triển lâu dài. Sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên hợp lý, bảo vệ môi trường nhằm duy trì mối quan hệ cân bằng, hài hòa giữa con người, xã hội và giới tự nhiên chính là bảo tồn nền tảng vĩnh cửu của sự tồn tại và phát triển của loài người. Khi sức sản xuất của nhân loại ở giới hạn mấp mé với khả năng chịu đựng của trái đất thì việc bảo vệ môi trường trở thành một nội dung hoạt động cần thiết và hệ trọng mang tính sinh tử đối với toàn bộ sự hiện đại và phát triển của nhân loại. Hai mục tiêu, tái sản xuất mở rộng nền kinh tế hay tăng trưởng không ngừng kinh tế và bảo vệ môi trường chính là hai yếu tố của sự phát triển bền vững. Thế giới đã đưa ra nhiều mô hình phát triển bền vững, chẳng hạn mô hình của Jacols và Sadler, của WCED (hội đồng về môi trường và phát triển bền vững thế giới), cảu Willen, và của ngân hàng thế giới. Những mô hình này chủ yếu nhấn mạnh mục tiêu hài hòa của ba hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội, hoặc nếu có đề cập đến phương thức đạt tới mục tiêu phát triển bền vững thì cũng chỉ nhấn mạnh vào mô hình sinh thái. Bản chất và nội dung phát triển bền vững mà chúng ta đưa ra ở đây là trên nền tảng của phát triển hiện đại, sự phát triển bền vững đó không chỉ là yêu cầu, mục tiêu mà đời sống hiện đại đòi hỏi, điều quyết định cần nhấn mạnh ở đây là con đường nào để đạt tới những mục tiêu và giải quyết những nhu cầu cân bằng, hòa hợp giữa con người, xã hội và giới tự nhiên. Con đường này tất yếu là nằm ngay trong tiến trình phát triển hiện đại. Chính sự phát triển hiện đại cung cấp phương thức và những cơ sở để thực hiện sự phát triển bền vững, có điều nhân loại phải nhận thức và tự tổ chức thành một xã hội với văn hóa môi trường trong mối quan hệ với việc giải quyết môi trường ở cấp vĩ mô, trong cộng đồng, trong quốc gia cho tới phạm vi toàn cầu. 2.2. Thực trạng môi trường trên thế giới hiện nay Hiện nay, thế giới đang đứng trước 5 cuộc khủng hoảng lớn: dân số, lương thực, năng lượng, tài nguyên và sinh thái. Năm cuộc khủng hoảng này đều liên quan chặt chẽ với môi trường và làm cho chất lượng cuộc sống của con người có nguy cơ suy giảm. Mặt khác môi trường đang bị phá hoại và ô nhiễm nặng nề cũng là một phần nguyên nhân gây nên 5 cuộc khủng hoảng trên. Có thể nói thế giới đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng mới, đó chính là cuộc khủng hoảng môi trường. Ở các khu vực mà vấn đề an toàn lương thực và xoá đói giảm nghèo đặt lên hàng đầu như Châu Phi, Tây Á, Châu Á - Thái Bình Dương và Châu Mỹ La Tinh thì các vấn đề quỹ đất sử dụng, làm giảm nhẹ việc suy thoái đất và quản lý tài nguyên đất và nước có hiệu quả hơn cần phải chú trọng trước tiên. Việc giới hạn của quỹ đất trồng trọt và việc mất đất do sự bành trướng của các đô thị đặc biệt quan trọng đối với các quốc đảo và khu vực Tây Á. Sự suy thoái của các vùng đất khô là một nguy cơ cấp bách trên bình diện toàn cầu mà 1 tỉ người thuộc 110 quốc gia (chủ yếu là các nước đang phát triển) phải đương đầu. Ở các nước công nghiệp, cải thiện các vùng đất bị ô nhiễm và đương đầu với mưa acid là vấn đề hàng đầu. Các áp lực của các hoạt động phát triển lên rừng và tính đa dạng sinh học chủ yếu ở khu vực đang phát triển vì vấn đề này đã được quan tâm đúng mức ở các nước phát triển. Trong thập kỷ 1980 -1990 diện tích rừng và các khu vực trồng cây lấy gỗ đã giảm 2%; trong đó diện tích rừng ở các nước công nghiệp hầu như không đổi, ở các nước đang phát triển tốc độ mất rừng tự nhiên là 8%. Ở Châu Âu, ô nhiễm không khí (kể cả mưa acid), côn trùng, bệnh và cháy rừng là nguyên nhân chính làm suy giảm rừng. Vấn đề đa dạng sinh học được quan tâm hàng đầu ở Châu Mỹ La Tinh, Caribbean, Châu Á và Thái Bình Dương vì các khu vực này là nơi sinh sống của khoảng 80% các loài sinh vật trên Trái đất. Tuy nhiên, chưa có một thống kê, đánh giá về tính đa dạng sinh học ở các khu vực này và chỉ có 13% của khoảng 13 triệu loài trên Trái đất được các nhà sinh vật học mô tả và phân loại. Nơi cư ngụ, hành lang an toàn cho các sinh vật bị mất dần và sự suy giảm đa dạng sinh học ở ngoài khu vực bảo vệ cũng góp phần lớn trong việc suy giảm đa dạng sinh học toàn cầu. Tất cả các khu vực trên thế giới sẽ phải đương đầu với các vấn đề liên quan đến nước mặt hoặc nước ngầm hoặc cả hai. Hàng ngày, 25000 người chết do nước uống không đạt chất lượng và các bệnh có liên quan đến nguồn nước. Khoảng 1,7 tỉ người (hơn 1/3 dân số thế giới) không được cung cấp nước sạch và an toàn. Thêm vào đó, khoảng 1/4 dân số thế giới sẽ lâm vào tình trạng thiếu nước kéo dài vào đầu thế kỷ tới. Ở Tây Á, Châu Phi, khu vực Châu Á - Thái Bình Dương vấn đề quản lý hữu hiệu và phát triển các nguồn nước phải đặt lên hàng đầu. Việc cung cấp nước ở các quốc gia có thành phố lớn (megacity) phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề bảo vệ nguồn nước ngầm, xâm nhập mặn vào hệ thống cấp nước ngọt và sụp đất. Hiện nay có khoảng 1,5 tỉ người sử dụng nước ngầm để làm nước uống. Các vấn đề quan trọng có qui mô toàn cầu khác là: vấn đề chia xẻ công bằng nguồn nước ở các quốc gia nằm trên cùng lưu vực của một con sông, các ô nhiễm không có điểm (non - point source pollution), và các ảnh hưởng do việc xây đập và chẻ nhánh sông. Nước sẽ trở thành trở ngại chính cho sự phát triển của một số khu vực. Khoảng 60% dân số thế giới sống trong khoảng 100 km ven biển và hơn 3 tỉ người phụ thuộc vào khu vực bờ biển để sản xuất, giao thông, giải trí và thải các chất thải. Khoảng 1/3 khu vực bờ biển trên thế giới có nguy cơ suy thoái nghiêm trọng do ô nhiễm và việc xây dựng hạ tầng cơ sở. Bờ biển của Châu Âu bị ảnh hưởng lớn nhất, khoảng 80% đang có nguy cơ suy thoái, ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương tỉ lệ này là 70%. Ở Châu Mỹ La Tinh khoảng 50% rừng ngập mặn đang bị ảnh hưởng bởi lâm nghiệp và các hoạt động nuôi trồng thủy sản. Ô nhiễm và khói bụi tại Bắc Kinh, Trung Quốc. Ảnh: Reuters Lượng xe máy gia tăng nhanh chóng trên đường Vấn đề tràn dầu là nguy cơ đặc biệt ở khu vực Tây Á và Caribbean. Trong khi đó vấn đề phát triển cơ sở hạ tầng để phục vụ công nghệ du lịch đang gây áp lực mạnh cho bờ biển các quốc đảo. Việc đánh bắt quá độ dẫn đến suy giảm các loài cá thương mại đang ở mức báo động ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Bắc Mỹ, Châu Âu và Tây Á. Trên bình diện toàn cầu 60% ngư trường đang bị khai thác quá độ. Hầu hết các thành phố trên thế giới đang chịu ảnh hưởng về chất lượng không khí. Ở Đông Âu, chất lượng không khí là vấn đề môi trường nghiêm trọng nhất. Mưa acid và ô nhiễm không khí xuyên biên giới trước đây chỉ xảy ra ở châu Âu và một phần Bắc Mỹ nay đã xuất hiện ở Châu Á - Thái Bình Dương và Châu Mỹ La Tinh. Nhiều khu vực rộng lớn đang gặp nguy hiểm do việc thay đổi khí hậu và mưa acid. Bất kể những hợp tác hành động trên toàn cầu, tầng ozone tiếp tục suy giảm nhanh hơn mong đợi và trong vòng 10 năm tới sẽ rất dễ bị tổn thương. Việc sử dụng và mua bán trái phép các hợp chất gây suy giảm tầng ozone gần đây nổi lên và trở thành vấn đề đáng quan tâm. Sự gia tăng nhanh của nhu cầu về năng lượng đặc biệt ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương (tăng 100% trong giai đoạn 1990 - 2010), ở Châu Mỹ La Tinh (50 - 70%) đang gây áp lực lớn cho việc giải quyết vấn đề nóng dần lên của toàn cầu, biến động về khí hậu và thay đổi mực nước biển. Các ảnh hưởng của kiểu sản xuất, tiêu thụ hiện nay và việc sản sinh ra chất thải lên sức khoẻ con người là vấn đề hàng đầu ở Bắc Mỹ và Tây Âu. Việc tích tụ của chất thải phóng xạ và ảnh hưởng của lượng phóng xạ bị rò rỉ trong thời gian qua vẫn là mối lo ngại đặc biệt của Đông Âu. Những vấn đề trên liên quan đến tốc độ đô thị hoá quá nhanh và gia tăng khoảng cách giữa người giàu và người nghèo.Mặc dầu nạn nghèo đói và gia tăng dân số được xem là yếu tố chính của việc suy giảm tài nguyên trên thế giới, các yếu tố khác như việc sử dụng không hiệu quả các tài nguyên, ô nhiễm do chất thải công nghiệp, và việc tiêu thụ hoang phí cũng góp phần quan trọng. Mức quan trọng tương đối của vấn đề môi trường ở các khu vực khác nhau Vấn đề môi trường Châu Phi Châu Á - Thái Bình Dương Châu Âu và USSR Châu Mỹ La Tinh và Caribbean Bắc Mỹ Tây Á Vùng Cực Đất: suy thoái RQT RQT QT RQT QT RQT IQT Rừng: mất rừng, suy thoái RQT RQT QT RQT IQT IQT KQT Đa dạng sinh học: mất nơi cư ngụ của sinh vật QT RQT RQT QT QT QT QT Nước ngọt: trữ lượng, ô nhiễm RQT RQT RQT QT RQT RQT IQT Biển và bờ biển: suy thoái QT RQT RQT QT QT RQT IQT Khí quyển: ô nhiễm QT RQT RQT RQT RQT QT KQT Đô thị và công nghiệp: ô nhiễm, chất thải QT RQT RQT RQT RQT RQT QT RQT: rất quan trọng; QT: quan trọng; IQT: ít quan trọng; KQT: không quan trọng  KHUYNH HƯỚNG CÁC VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG Ở KHU VỰC Vấn đề môi trường Châu Phi Châu Á - Thái Bình Dương Châu Âu và USSR Châu Mỹ La Tinh và Caribbean Bắc Mỹ Tây Á Vùng Cực Đất: suy thoái T T GN T G T GN Rừng: mất rừng, suy thoái T T GN T GN T KB Đa dạng sinh học: mất nơi cư ngụ của sinh vật T T T T GN T GN Nước ngọt: trữ lượng, ô nhiễm T T GN T GN T GN Biển và bờ biển: suy thoái GN T T T GN T GN Khí quyển: ô nhiễm GN T GN T GN GN GN Đô thị và công nghiệp: ô nhiễm, chất thải GN T GN T GN T KB  T: tăng; GN: giữ nguyên; G: giảm; KB: không biết 2.3. Thực trạng môi trường Việt Nam hiện nay a. Môi trường nước Nhà sàn trên kênh Lò Gốm đang trở thành ổ chứa mầm bệnh. Ảnh: B.TRUNG Môi trường nước ở Việt Nam đang bị ô nhiễm nặng nề. Trong các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng,…hệ thống các ao, hồ, hênh, rạch là nơi tiếp nhận và vận chuyển nước thải của các khu công nghiệp và dân cư. Hiện nay hệ thống này đều ở tình trạng ô nhiễm trầm trọng vượt quá mức cho phép 5-10 lần ( theo tiêu chuẩn nguồn nước mặt loại B TCVN 2005). Các hồ trong nội thành phần lớn ở tình trạng phú dưỡng, hóa đột biến và tái nhiễm bẩn hữu cơ. Ô nhiễm môi trường nước ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người dân, là nguyên nhân gây nên một loạt các bệnh như: tiêu chảy, thương hàn, giun, sán,viêm gan A, các bệnh thiếu máu, còi xương, tử vong, đặc biệt là ở trẻ em. Có đến 88% trường hợp tiêu chảy là do thiếu nước sạch, điều kiện vệ sinh môi trường kém. Không chỉ ô nhiễm nguồn nước lục địa mà môi trường nước biển cũng bị ô nhiễm nặng nề. Việc gia tăng dân số đã kéo theo hàng loạt các hoạt động đánh bắt, khai thác, nuôi trồng thủy hải sản, du lịch…đã thải ra sông biển hàng loạt các chất thải. Các rác thải này làm ô nhiễm nguồn nước, phá hủy sự cân bằng trong môi trường sống của các sinh vật biển. Bên cạnh đó, sự cố tràn dầu gây nên ô nhiễm trầm trọng và khó khắc phục. Ô nhiễm biển đặc biệt là ô nhiễm kim loại nặng, hóa chất độc hại gây ảnh hưởng đến phát triển kinh tế biển. Ô nhiễm nước biển ở các bãi tắm, các điểm du lịch và sự xuống cấp của cảnh quan thiên nhiên đã đang và sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển du lịch ở Việt Nam. Một nhà máy xi măng thải khí gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ở Đà Nẵng (Ảnh: Minh Đức) b.Môi trường không khí Không khí cũng như nước, có ý nghĩa sống còn đối với Trái Đất, tuy nhiên, khác với nước, không khí không có ranh giới, không thuộc về riêng ai,…Ô nhiễm môi trường không khí là một vấn đề nghiêm trọng đối với các đô thị, thành phố lớn và một số làng nghề ở nước ta. Ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng,…lượng bụi ở trong không khí luôn vươt mức cho phép 2-3 lần, ở các nút giao thông là 2-5 lần, còn ở các công trường lên tới 5-10 lần. Không khí ở các vùng nông thông ở nước ta còn tốt trừ ở một số làng nghề, bị ô nhiễm chủ yếu do khói từ các lò sử dụng than, củi, … c. Đa dạng sinh học Việt Nam được đánh giá là một trong các quốc gia có tính đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới. Các hệ sinh thái của Việt Nam đa dạng với nhiều kiểu rừng, đầm lầy, sông suối, rạn san hô, các loài động thực vật quý hiếm…Tuy nhiên hiện nay, sự đa dạng sinh học đó đang bị đe dọa trầm trọng với nạn chặt phá rừng bừa bãi, săn bắt động thưc vật quý hiếm trái phép. Theo báo cáo môi trường quốc gia về đa dạng sinh học, Việt Nam hiện nay có gần 700 loài bị đe dọa tuyệt chủng ở cấp quốc gia, 300 loài bị đe dọa tuyệt chủng ở cấp đọ toàn cầu. trong đó có 49 loài ở cấp độ cực kỳ nguy cấp. Săn bắt là một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với các khu bảo tồn. Năm 2002, buôn bán động thực vật hoang dã nội địa và kiên biên giới ở Việt Nam lên tới khoảng 3050 tấn, trị giá khoảng 66 triệu đô la Mỹ. Những nguy cơ khác gồm có các phương pháp đánh bắt thủy hải sản có tính hủy diệt, như dùng chất nổ, chất độc, và sốc điện gây hịa cho hơn 80% rạn san hô ở Việt Nam. Nạn khai thác gỗ trái phép diễn ra tại những nơi không được bảo vệ chặt chẽ. Từ 0.5 đến 2 triệu m3 gỗ bị khai thác trái phép hàng năm từ tất cả các loại rừng, gồm cả rừng đặc dụng. Tỉ lệ khai thác đã vượt mức bền vững 70%. 3.Các giải pháp cho sự phát triển bền vững ở Việt Nam Các giải pháp phải được tiến hành trên mọi phương diện kinh tế, chính trị, xã hội, và phải được thực hiện một cách rộng khắp. 3.1.Chính sách dân số Để tránh xảy ra việc bùng nổ dân số trở lại và để giảm sức ép của dân số lên môi trường, cần triển khai đồng bộ các chính sách, đặc biệt cần có các chính sách để kiểm soát được việc di dân tự do. di dân từ nông thông vào thành thị, giảm sinh con thứ ba. 3.2.Bảo vệ môi trường trong hoạt động công nghiệp, xây dựng, năng lượng và giao thông vận tải Nhằm giải quyết các vấn đề môi trường do hoạt động công nghiệp, xây dựng, nặng lượng và giao thông vận tải gây ra, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp sau: - Lồng ghép các yêu cầu về bảo vệ môi trường đối với quy hoạch phát triển công nghiệp, nặng lượng, khu công nghiệp, giao thông. - Đổi mới công nghệ, thiết bị sản xuất nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường. - Tăng cường hiệu quả sử dụng nguyên liệu, nhiên liệu và năng lượng, sử dụng hợp lý, chọn lựa phù hợp trong sản xuất. - Nâng cao chất lượng của các phương tiện giao thông, đảm bảo chỉ tiêu của môi trường. - Xây dựng các trạm xử lý nước thải tập trung cho các khu công nghiệp. 3.3.Bảo vệ môi trường trong sản xuất nông nghiệp và khai thác thủy sản. - Áp dụng các kỹ thuật canh tác nhằm giảm thiểu sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật, tuân thủ các yêu cầu kỹ thuật khi sử dụng các loại hóa chất bảo vệ thực vật. - Quy hoạch quy mô các phương thức nuôi trồng thủy sản. - Ngăn chặn việc chặt phá rừng ngập mặn để nuôi trồng thủy sản. Kinh nghiệm từ cơn bão số 7 năm 2005 cho thấy những đoạn đê biển có rừng ngập mặn bảo vệ đều không bị vỡ. Vì vật, bảo vệ rừng ngập mặn là bảo vệ hệ sinh thái đặc biệt, bảo vệ nguồn lợi thủy sản và còn bảo vệ đê điều. - Tuyên truyền để nhân dân tuân thủ các quy định của Nhà Nước trong việc đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. 3.4. Bảo vệ môi trường trong du lịch - Nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện các cơ chế chính sách, ưu tiên các dự án du lịch có các giải pháp cụ thể bảo vệ môi trường, giảm thiểu ô nhiễm, phát triển hợp lý khai thác tài nguyên, đảm bảo phát triển du lịch bền vững. - Quy hoạch và xây dựng các hệ thống xử lý nước thải đối với các khu du lịch, nghỉ dưỡng. 3.5.Bảo vệ môi trường trong quy hoạch xây dựng đô thị - Lồng ghép triển khai đồng bộ công tác bảo vệ môi trường gắn với thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2006-2010, triển khai đánh giá tác động môi trường cho các dự án quy hoạch đô thị, tăng cường công tác quản lý quy hoạch xây dựng, đẩy mạnh công tác xây dựng, quy hoạch hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị. - Nghiên cứu ban hành các chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế, huy động các nguồn lực trong xã hội cùng tham gia đầu tư, quản lý, vận hành cung cấp các dịch vụ công cộng đô thị, xóa bỏ bao cấp, tính độc quyền, sự manh mún, khép kín theo địa giới hành chính. 3.6.Kiện toàn hệ thống quản lý môi trường các cấp Hình thành và phát triển hệ thống quản lý môi trường ở địa phương theo hướng kết hợp quản lý tài nguyên với quản lý môi trường. Tiếp tục kiện toàn các sở tài nguyên và môi trường, trong đó có các đơn vị quản lý môi trường đủ mạnh ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, hình thành bộ phận quản lý môi trường ở cấp huyện, có cán bộ chuyên trách về môi trường ở cấp xã. 3.7.Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, luật pháp bảo vệ môi trường Tăng cường pháp chế về môi trường bao gồm các nội dung hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trương theo hướng quy định rõ quyền lợi nghĩa vụ trách nhiệm bảo vệ môi trường của các cá nhân, tổ chức, các chế tài cụ thể cho việc vi phạm, xây dựng các quy định về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môi trường, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, lực lượng thanh tra, kiểm tra triển khai và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm nhằm bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh luật bảo về môi trường. 3.8.Tăng cường đầu tư cho bảo vệ môi trường Thực hiện các chủ trương và chỉ đạo của nghị quyết số 41-NQ/TW của bộ chính trị về công tác bảo vệ môi trường trong đó có việc triển khai xây dựng đề án chi cho hoạt động sự việc môi trường không dưới 1% tổng chi ngân sách hàng năm, bộ tài nguyên và môi trường đã và đang phối hợp với bộ tài chính và bộ kế hoạch và đầu tư khẩn trương tiến hành điều tra, đách giá tình hình đầu tư cho công tác quản lý và bảo về môi trường thời gian vừa qua, trên cơ sở đó xác định rõ mục tiêu, nguyên tắc và phạm vi chi cho sự nghiệp môi trường - Quản lý chất thải, hạn chế, tiến tới ngăn chặn hoàn toàn mức độ gia tăng ô nhiễm và suy thoái môi trường, từng bước xử lý các khu vực, điểm nóng về môi trường, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường - Xây dựng, quản lý, vận hành và phát triển hệ thống quan trắc và phân tích môi trường quốc gia( bao gồm các trạm của các bộ ngành và các địa phương), xây dựng thông tin và cơ sở dữ liệu về môi trường. - Tăng cường công tác bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, trước mắt tập trung cho các vườn quốc gia, khu bảo tồn. -Đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục nâng cao công tác truyền thông giáo dục nâng cao nhận thức về môi trường -Hỗ trợ và thúc đẩy xã hội hóa các hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển cấc hình dịch vụ môi trường… 3.9.Mở rộng hợp tác quốc tế Luật bảo vệ môi trường đã tạo thuận lợi để hội nhập quốc tế, đồng thời quy định các biện pháp hạn chế các tác động tiêu cực của toàn cầu hóa.Tuy nhiên, để thúc đẩy hội nhập, đặc biệt trong bối cảnh môi trường, chúng ta cần có cơ chế để các doanh nghiệp tiếp cận được các chính sách cũng như các yêu cầu về môi trường của các thị trường tiềm năng và các bạn hàng thường xuyên của Việt Nam, thúc đẩy việc áp dụng hệ thống quản lý môi trường theo ISO 14001 và các mô hình quản lý môi trường, hỗ trợ hội nhập kinh tế quốc tế khác. Đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức quốc tế như: chương trình phất triển của Liên Hợp Quốc, chương trình môi truường LHQ, ngân hàng thế giới, ngân hàng phát triển châu Á, quỹ môi trường toàn cầu, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ nhằm tranh thủ sự hỗ trợ dưới mọi hình thức để sử dụng hiệu quả cho công tác bảo vệ môi trường 3.10. Nâng cao giáo dục nhận thức bảo về môi trường - Nâng cao giáo dục nhận thức bảo về môi trường thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Tổ chức biên soạn hệ thống chương trình phát thanh, truyền hình để truyền tải đầy đủ nội dung về trách nhiệm bảo vệ môi trường của người công dân, phổ cập và nâng cao hiểu biết về môi trường, cung cấp thông tin về bảo vệ môi trường, cổ động liên tục cho các phong trào toàn dân bảo vệ môi trường. - Nâng cao giáo dục nhận thức bảo về môi trường thông qua các lớp học, tập huấn, nâng cao nhận thức về môi trường và các hoạt động cộng đồng khác. 3.11. Xã hội hóa bảo vệ môi trường Nội dung của việc xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường là huy động ở mức cao nhất sự tham gia của xã hội vào công tác bảo vệ môi trường, đề cao vai trò của mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội trong công tác bảo vệ môi trường, đưa bảo vệ môi trường vào nội dung hoạt động của khu dân cư, cộng đồng dân cư và phát huy vai trò của cá tổ chức này trong công tác bảo vệ môi trường. Kết luận Môi trường và xã hội con người luôn có mối quan hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau. Con người tồn tại trong xã hôi và trong tự nhiên, nên không những phải tuân theo các quy luật của xã hội mà còn phải tuân theo một cách nghiêm túc quy luật của tự nhiên. Chính vì vậy, một khi con người không chấp hành các nguyên tắc của môi trường, phá vỡ sự cân bằng của tự nhiên thì con người sẽ phải trả giá. Xin được trích thông điệp của giám đốc chương trình môi trường liên hợp quốc KLAUS TOEPFER nhân ngày môi trường thế giới đầu tiên 5-6-2000: "Càng ngày chúng ta càng thấy rõ là những việc chúng ta làm đã ảnh hưởng đến việc phân hoá xã hội- thậm chí khi các mối quan hệ chưa thể biểu hiện rõ ràng. Trong thực tế, sự phân hoá đã bị sụp đổ ở mọi ngóc ngách trên toàn cầu. Hãy cho phép tôi nhấn mạnh đến các vấn đề gây áp lực lớn cho bộ mặt của hành tinh chúng ta. Nhiều khu vực trên thế giới đang đương đầu với nạn thiếu nước nghiêm trọng. Khoảng 20% dân số trên hành tinh chúng ta không có nguồn nước an toàn và khoảng 50% thiếu các phương tiện vệ sinh thích hợp. Vấn đề thời tiết trên toàn cầu ngày càng có những biểu hiện cực đoan. Độ màu mở của đất ngày càng suy giảm. Sự suy thoái của đất ngày càng gia tăng. Tốc độ đô thị hoá nhanh chóng đang gây ô nhiễm không khí nghiêm trọng. Ô nhiễm do các dưỡng chất (đạm) đang làm tổn hại hệ sinh thái của các thủy vực, cũng như đóng góp vào sự nóng dần lên của trái đất. Hơn 80% rừng của hành tinh của chúng ta đã bị tàn phá hoặc suy thoái, ¼ các loài động vật có vú đang có nguy cơ bị diệt chủng, và sự đa dạng sinh học đang mất dần ở tốc độ báo động. Hơn phân nữa hệ San hô trên thế giới đang bị đe doạ bởi các hoạt động của con người, và hải sản đang bị khai thác đến mức mà khả năng tự hồi phục của nó bị nghi ngờ. Dân số thế giới đã vượt qua con số 6 tỉ người, và phần lớn số người này sống trong cảnh nghèo đói. Trong lúc đó, việc sử dụng tài nguyên của hành tinh của nhóm thiểu số (giàu) đang gia tăng. Hai vấn đề này – sự nghèo khổ của đa số và sử dụng tài nguyên quá mức của thiểu số- là động lực của sự suy thoái môi trường. Chúng ta cần phải thay đổi các khuynh hướng trên, tuy nhiên thời gian không còn nhiều nữa. Để thực sự có được những tiến triển, các việc phải làm trong thế kỷ 21 là cải thiện môi trường gắn liền với các khiá cạnh kinh tế, xã hội. Trong thiên niên kỷ mới, chúng ta cần có sự hợp tác toàn cầu để thúc đẩy việc phát triển bền vững. Các công ước quốc tế bảo đảm vấn đề thương mại và chính sách môi trường phải đạt được mục tiêu giúp đở những người nghèo nhất trong số những người nghèo trên thế giới. Nó cũng phải thành công trong lĩnh vực vì lợi ích của môi trường. Các cộng đồng trên thế giới phải áp dụng các biện pháp tổng hợp trong vấn đề quản lý môi trường. Chính sách này phải chỉ ra được sự cần thiết của việc tham gia của mọi tầng lớp trong xã hội trong việc thiết lập và thực hiện các chính sách môi trường. Chúng ta đang ở bước ngoặt của lịch sử. Chúng ta có kiến thức và kỹ thuật để giải quyết các vấn đề môi trường. Điều mà chúng ta cần là các chính sách để có thể thay đổi được vấn đề. Đã tới thời điểm để chúng ta hành động. Tôi tin tưởng ở sự gia tăng tham gia của các dân tộc trên thế giới trong việc chỉ ra các áp lực về môi trường, đặc biệt khi tôi thấy rằng sự tham gia này đã lan rộng đến khu vực kinh doanh, công nghiệp và chính quyền trong việc sửa soạn cho các hành động cụ thể. Tôi đặc biệt tin tưởng là thế hệ trẻ đang ngày càng có nhận thức thẳng thắn hơn về các vấn đề môi trường, việc này đảm bảo rằng giá phải trả cho các hành động sai trái về môi trường của chúng ta sẽ không quá lớn. Điều cần thiết trước mắt là chúng ta phải biến "lời nói thành hành động", tuy nhiên việc này không có làm giảm sút tầm quan trọng của "lời nói". Các chương trình hành động – để phát triển bền vững- chỉ có thể thành công khi chúng ta đồng tâm. Và sự đồng tâm thì không dễ gì mà đạt được. Trong ngày Môi trường thế giới này chúng ta hãy đảo ngược lại khuynh hướng của 1000 năm vừa qua. Chúng ta hãy tiến hành các bước cần thiết để dẫn chúng ta tới một tương lai bền vững hơn đánh dấu bởi việc cải thiện chất lượng cuộc sống và sự trong lành của hành tinh mà chúng ta đang phụ thuộc vào nó." Vì vậy, mà mỗi người phải tự có ý thức rằng bảo vệ môi trường chính là bảo vệ cuộc sống của mỗi chúng ta./. Tài liệu tham khảo 1.Giáo trình Triết học Mac-Lenin, Bộ giáo dục đào tạo, NXB chính trị quốc gia. 2.Vấn đề văn hóa môi trường ở Việt Nam. 3.Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2005, ngân hàng thế giới. 4.GEO-ấn bản ghi nhanh của UNEP về vấn đề môi trường thế giới. 5.Báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam đa dạng sinh học, ngân hàng thế giới. 6.Tạp chí môi trường. 7.Tạp chí hoạt động khoa học. 8.Website cục bảo vệ môi trường. 9.Website ngân hàng thế giới . 10.Bản tóm tắt thông điệp của giám đốc chương trình môi trường thế giới. Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Nội dung 2 I.Khái quát chung về môi trường 2 1.Khái niệm 2 2.Phân loại 2 3.Chức năng của môi trường 3 II.Xã hội - bộ phận đặc thù của tự nhiên 4 III.Mối quan hệ con người, xã hội và môi trường, tự nhiên 4 1.Triết lý tổng quát 4 1.1.Sự tác động qua lại giữa môi trường tự nhiên và xã hội 4 a.Mối quan hệ môi trường và sự tồn tại, phát triển của con người b.Môi trường ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội? 1.2.Những yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên 7 a.Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội b.Mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên phụ thuộc vào trình độ nhận thức và vận dụng các quy luật trong hoạt động thực tiễn 2.Thực tiễn 8 2.1.Tiến trình phát triển của xã hội loài người và mối quan hệ giữa xã hội loài người với môi trường 8 a.Xã hội nguyên thủy .8 b.Làn sóng văn minh nông nghiệp 8 c.Cách mạng công nghiệp và làn sóng văn minh công nghiệp 9 d.Kinh tế thị trường hiện đại, cách mạng khoa học công nghệ và toàn cầu hóa - Làn sóng hậu công nghiệp. 11 Sự phát triển hiện đại. e.Phát triển bền vững - yêu cầu tất yếu của việc tái lập sự cân bằng giữa con người, xã hội, phát triển và môi trường 15 2.2.Thực trạng môi trường trên thế giới hiện nay 17 2.3.Thực trạng môi trường Việt Nam hiện nay 20 a.Môi trường nước b.Môi trường không khí c.Đa dạng sinh học 3.Các giải pháp cho sự phát triển bền vững ở Việt Nam 22 3.1.Chính sách dân số 3.2. Bảo vệ môi trường trong hoạt động công nghiệp, xây dựng, năng lượng và giao thông vận tải 3.3. Bảo vệ môi trường trong sản xuất nông nghiệp và khai thác thủy sản 3.4. Bảo vệ môi trường trong du lịch 3.5. Bảo vệ môi trường trong quy hoạch xây dựng đô thị 3.6. Kiện toàn hệ thống quản lý môi trường các cấp 3.7. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, luật pháp bảo vệ môi trường 3.8. Tăng cường đầu tư cho bảo vệ môi trường 3.9. Mở rộng hợp tác quốc tế 3.10.Nâng cao giáo dục nhận thức bảo về môi trường 3.11.Xã hội hóa bảo vệ môi trường Kết luận 26 Tài liệu tham khảo 28

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60453.DOC