Về giám sát của Chính phủ đối
với CQĐP
Mối quan hệ giữa Chính phủ và CQĐP
thể hiện trực tiếp và rõ rệt nhất thông qua
khâu cuối cùng: hoạt động giám sát của
Chính phủ đối với địa phương. Không có nền
hành pháp nào hoàn toàn tách rời các lãnh
thổ hành chính của mình, nhưng mức độ can
thiệp của Chính phủ đối với CQĐP là rất
khác nhau, tùy từng quốc gia.
Thông thường, trong nền hành chính tập
trung, các quyết định của cơ quan hành chính
địa phương và kể cả cơ quan dân cử, vẫn có
thể bị đình chỉ, bãi bỏ bởi cơ quan hành chính
cấp trên hay Chính phủ. Như vậy, quan hệ
giám sát hành chính vẫn tồn tại một cách trực
tiếp và toàn diện. Trực tiếp vì Chính phủ có
quyền đình chỉ, bãi bỏ ngay các văn bản của
CQĐP vi phạm pháp luật, chứ không dừng lại
ở mức kiến nghị hay đề xuất địa phương bãi
bỏ. Toàn diện bởi vì việc giám sát không giới
hạn ở bất kỳ lĩnh vực nào. Quyền giám sát
như vậy thực ra không thể tồn tại trong một
bối cảnh CQĐP phân cấp và tự chủ, bởi lẽ sự
can thiệp trực tiếp và toàn diện là đi ngược
lại với quyền tự chủ của địa phương.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 242 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ giữa chính phủ và chính quyền địa phương trong thực hiện quyền hành pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MÖËI QUAN HÏå GIÛÄA CHÑNH PHUÃ VAÂ CHÑNH QUYÏÌN
ÀÕA PHÛÚNG TRONG THÛÅC HIÏåN QUYÏÌN HAÂNH PHAÁP
NguyễN HoàNg aNH*
Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể: “Chính phủ là cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, thực hiện quyền
hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”1. Chức năng “thực hiện
quyền hành pháp” liệu có mang lại “màu sắc mới” trong hoạt động của
Chính phủ? Việc thực hiện quyền hành pháp của Chính phủ liệu có ảnh
hưởng đến mối quan hệ giữa Chính phủ với chính quyền địa phương
(CQĐP)? Và mối quan hệ giữa Chính phủ - CQĐP biểu hiện như thế nào?
Chúng tôi xin trao đổi về các nội dung đó thông qua nghiên cứu so sánh
trong pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài - chủ yếu là pháp luật
Cộng hòa Pháp.
1. Sự phân biệt hành pháp - hành chính
trong các học thuyết pháp lý trong lịch sử
Từ khá xa xưa, trong các học thuyết
pháp lý đã có sự phân biệt quyền hành pháp
- hành chính. Đầu tiên, quyền hành pháp có
nội hàm hẹp. Các Quốc hội thời cách mạng
tại Pháp (1792 - 1795) quan niệm quyền
hành pháp là quyền thi hành một cách chật
hẹp và máy móc mọi đạo luật do Quốc hội
ban hành và hoàn toàn không có quyền sáng
tạo gì cả, ngay cả trong địa hạt bang giao2.
Quan niệm này bắt nguồn từ học thuyết dân
chủ tư sản - khi đề cao vai trò Nghị viện - cơ
quan đại diện nhân dân. Người ta cho rằng,
nếu như luật là thể hiện ý nguyện chung của
dân chúng, thì quyền hành pháp chỉ giới hạn
lại trong việc thực thi luật mà thôi. Và khi
quan niệm hành pháp là thực thi luật thì đã
đồng nhất hành pháp với hành chính.
Tuy nhiên, cùng với thời gian, quan
niệm tuyệt đối hóa quyền lực của nghị viện
đã thay đổi. Lập pháp bớt dần uy thế độc tôn,
biểu hiện rõ rệt nhất là sự “chia sẻ” quyền
lực với tòa án trong việc sáng tạo luật. Các
thẩm phán có quyền (và cũng là nghĩa vụ)
phải lên tiếng ngay cả khi luật “im lặng”, tối
nghĩa hoặc mâu thuẫn. Sự chia sẻ uy quyền
lập pháp cũng lan tỏa sang lĩnh vực hành
chính, từ đây bắt đầu sự phân biệt giữa chức
năng hành pháp và hành chính.
12
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 06(310) T3/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
* PGS,TS. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
1 Điều 94 Hiến pháp 2013.
2 Dẫn theo GS,TS. Nguyễn Đăng Dung, “Quyền hành pháp và quyền hành chính nhà nước cao nhất”,
Lý do phân biệt hành pháp - hành chính
bắt nguồn từ một thực tiễn có rất nhiều hoạt
động đã không còn nằm trong phạm vi thông
thường của hành chính, như việc thực hiện
các thẩm quyền trong lĩnh vực ngoại giao và
quân sự; bổ nhiệm hay cách chức các bộ
trưởng; hoãn họp nghị viện hay thậm chí giải
tán nghị viện; v.v.. Quyền hành pháp không
còn bó hẹp trong thực thi các đạo luật mà còn
là “quyền thi hành những điều hợp với quốc
tế công pháp”3.
Riêng ở Pháp thì sự phân biệt này còn có
ý nghĩa riêng do sự lớn mạnh của tòa hành
chính. Người ta phải nghĩ đến một giới hạn
nhất định để bảo vệ cơ quan hành chính
trước thẩm quyền phán xét rộng mở của tòa
án. Và ở đây chính là sự phân biệt giữa các
quyết định hành pháp và các quyết định hành
chính. Các quyết định hành pháp, như quyết
định liên quan đến đối ngoại, đến an ninh
quốc gia, đến mối quan hệ giữa các nhánh
quyền lực trung ương, sẽ được che chở -
thoát khỏi thẩm quyền tài phán của tòa án.
Không nhiều văn bản pháp luật quy định
sự phân biệt này, nhưng có thể tìm thấy
những quy định này tại Cộng hòa Pháp, đất
nước có nền tảng civil law nổi tiếng với việc
duy trì các nguyên lý pháp luật dựa trên các
luận thuyết mang tính triết học4. Từ thế kỷ
XIX, có một Nghị định ghi ngày 25/3/1852
về phi tập trung nền hành chính, trong đó có
một điều khoản rất nổi tiếng: “Xét rằng
người ta có thể cai trị từ xa, nhưng chỉ có thể
quản trị hành chính ở gần, và do đó, nếu hành
pháp của nhà nước cần tập trung hóa bao
nhiêu thì hành chính lại càng cần được phi
tập trung bấy nhiêu”.
Hòa nhịp với pháp luật thực định, các
học thuyết pháp lý cũng đưa ra các thuật ngữ
mới nhằm phân biệt rõ hơn giữa hành pháp
và hành chính. Trong tác phẩm “Các thiết
chế hành chính của Cộng hòa Pháp” (1829-
1830), Bá tước Gerando đã phân biệt giữa
“Gouvernement” (Chính phủ) và “Adminis-
tration civile et ordinaire” (cơ quan hành
chính - thực hiện các hoạt động điều hành
dân sự và thường lệ). Cũng như vậy vào thời
kỳ đó, Chaveau đã phân biệt giữa “quyền
hành pháp thuần túy” và “hành chính tích
cực”. Tương tự, Henrion de Pansey đã đối
lập giữa “hành chính tối cao - hay “chính
phủ” với “hành chính đúng nghĩa”.
Sự phân biệt này dựa trên các tiêu chí cơ
bản như sau:
- Thứ nhất, đó là tính thứ bậc: quyền
hành pháp luôn có vị trí cao hơn hành chính.
Quyền hành pháp luôn có vị trí tối cao, có
tính chất khởi nguyên, bắt đầu và định
hướng. Do ngự trị ở vị trí tối cao, quyền hành
pháp được ví như bộ não đưa ra các mệnh
lệnh có tính chất chung. Ngược lại, quyền
hành chính luôn ở vị trí trực thuộc, thấp hơn
quyền hành pháp, nó là cánh tay của hành
pháp, là hành động của hành pháp và chỉ
đảm nhiệm thực thi những vấn đề cụ thể.
Hoặc theo Laferriere, một học giả luật
công nổi tiếng ở Pháp “Hành chính là việc
bảo đảm thực thi luật hàng ngày, trông nom
các quan hệ giữa cơ quan hành chính với
công dân và giữa các cơ quan hành chính với
nhau. Chính phủ là việc đáp ứng các nhu cầu
thuần túy của giới chính trị, là việc trông nom
tính hợp hiến, trông nom sự vận hành của các
nhánh quyền lực lớn, trông nom quan hệ giữa
nhà nước với các quyền lực bên ngoài, trông
coi an ninh đối nội và đối ngoại”.
Siyere đã diễn đạt ý tưởng trên như sau:
“Quyền hành chính là hành động, còn quyền
hành pháp là suy nghĩ”. Vivien cho rằng:
quyền hành pháp (trị vì) đảm bảo một sự
13
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 06(310) T3/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3 Montesquieu, “Tinh thần pháp luật”, Bản dịch của Hoàng Thanh Đạm, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Khoa
Luật, Nxb. Giáo dục, Hà Nội,1996, tr.100.
4 Phần viết về các quan điểm của các học giả Pháp chủ yếu tham khảo từ nguồn: Pierre Sergant, “Administrer et Gouverner:
histoire d’une distinction” (Revue internationale de droit public) Administrer-et-gouverner-
Histoire.html, truy cập ngày 20/10/2015.
giám sát thường xuyên trên toàn xã hội, lắng
nghe nhu cầu của xã hội, tuân theo hay điều
chỉnh các xu hướng xã hội, thực thi các ý
nguyện của xã hội hay điều tiết sự hưng phấn
của xã hội.
Phát triển từ ý tưởng này, một nhà
nghiên cứu Việt Nam đã cho rằng, nói đến
chính phủ thời hiện đại là phải gắn liền với
chính sách. Hoạch định chính sách quốc gia
là một trong những chức năng quan trọng
gắn liền với sự tồn tại và tiêu vong hiện nay
của chính phủ5.
- Thứ hai, tiêu chí phân biệt hành pháp -
hành chính dựa trên tính chính trị. Chức năng
hành pháp có tính chính trị, còn hành chính
thì không. Một số học giả còn gọi thành tên:
hành chính chính trị và hành chính dân sự
để phân tách hai chức năng này. Tính chính
trị trong hành pháp thể hiện qua các hoạt
động: điều tiết mối quan hệ ngoại giao, lãnh
đạo các hoạt động hành chính trong nước.
Tính hành chính thể hiện trong các hoạt
động: bảo vệ con người, bảo vệ tài sản, quản
lý công sản, đảm bảo thực thi các biện pháp
vì lợi ích chung của cộng đồng.
- Thứ ba, tiêu chí phân biệt hành pháp -
hành chính dựa trên tính chất hoạt động
thường xuyên hay đột xuất. Nếu như hành
chính đảm trách các công việc thường xuyên,
được dự liệu trước, thì hành pháp lại đối phó
với những công việc mang tính bất ngờ,
ngoại lệ. Hành chính đảm trách các nhu cầu
hàng ngày của đời sống nhân dân, trong khi
hành pháp đối phó với những tình huống nảy
sinh mới6.
- Thứ tư, tiêu chí phân biệt dựa trên các
quy tắc pháp lý làm cơ sở cho hành pháp và
hành chính. Hành chính là việc thực thi các
đạo luật, có nghĩa là dựa trên sự cho phép của
lập pháp; trong khi đó hành pháp dựa trên các
quy định của Hiến pháp và dường như, khá
độc lập đối với các đạo luật. Tính chất này
được Raymond Carre de Malberg đặc biệt đề
cao: nếu như hành chính chỉ là chức năng
thực thi các đạo luật; bị quy tắc hóa bởi lập
pháp, thì chức năng hành pháp là “quyền lực
tự quản” đến từ “sự chuyển nhượng cao hơn
đối với quyền lập pháp”. Và theo ông, cội rễ
của quyền hành pháp là Hiến pháp. Quan
niệm này đã dẫn đến việc đẩy vị trí của hành
pháp lên gần kề lập pháp, bởi chúng cùng tìm
thấy sự chính danh từ Hiến pháp.
Lưu ý rằng, các tiêu chí phân biệt giữa
hành pháp - hành chính chủ yếu là tiêu chí
về nội dung, các tiêu chí liên quan đến hoạt
động, chức năng, chứ không có tiêu chí về tổ
chức. Lý do là cùng một tổ chức có thể thực
hiện cả hai hoạt động hành pháp và hành
chính và như vậy, căn cứ phân định dựa trên
cơ quan sẽ không còn nhiều ý nghĩa.
Từ các quan niệm trong lịch sử và hiện
tại về hành pháp - hành chính, có thể tạm đúc
rút lại rằng: quyền hành pháp - một mặt phân
biệt với hành chính nhưng mặt khác, lại bao
hàm hành chính. Các quy định rất phổ biến
trong các hiến pháp như: “chính phủ lãnh đạo
hoạt động hành chính” phản ánh hàm ý thứ
hai này. Mối quan hệ giữa hành pháp và hành
chính bởi vậy rất khó tách rời. Tuy nhiên, khi
bổ sung “chính phủ thực hiện quyền hành
pháp” thì vị thế của Chính phủ đã được đề
cao hơn, vượt ra khỏi tính chất là cơ quan
chấp hành, hành chính thông thường, mà
được coi như một nhánh quyền lực ngang
hàng với các nhánh quyền lực khác, đặc biệt
là lập pháp. Ngoài việc lãnh đạo các hoạt
động hành chính, quyền hành pháp còn bao
hàm một số hoạt động vượt trên giới hạn của
hành chính thông thường nhằm xử lý mối
quan hệ giữa các nhánh quyền lực; xử lý mối
quan hệ giữa các quốc gia.
Vậy chức năng “hành pháp” có tạo nên
thay đổi gì trong mối quan hệ giữa Chính
phủ với CQĐP?
14
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 06(310) T3/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5 Nguyễn Đăng Dung, “Sự hạn chế quyền lực nhà nước”, Nxb. Đại học Quốc gia Hà nội, Hà Nội, 2005, tr. 507.
6 Maurice Hauriou, Precis de droit administratif, Paris, Larose & Forcel, 3e edtion, 1879, p.283.
- Thứ nhất, nếu quan niệm hành pháp
theo nghĩa trang bị thêm cho chính phủ
những hoạt động, những chức năng và vị thế
có tầm chính trị, tầm ảnh hưởng cao trong
điều chỉnh mối quan hệ giữa các nhánh quyền
lực nhà nước, thì quy định “chính phủ thực
hiện quyền hành pháp” chỉ làm thay đổi mạnh
mẽ và trực tiếp đến mối quan hệ giữa chính
phủ với các cơ quan Quốc hội, tòa án tối cao
- những nơi thực hiện quyền lập pháp và tư
pháp. Mối quan hệ giữa chính phủ và CQĐP
không chịu nhiều sự tác động từ thay đổi này,
trừ khả năng quy định chính phủ thực hiện
quyền hành pháp sẽ thúc đẩy thêm mức độ
phân quyền hành chính. Lý do là khi ở một
vị trí cao, thực thi một quyền lực mang màu
sắc chính trị, đảm nhiệm những công việc có
tính chất định hướng, khởi phát - thì chính
phủ thực sự trở thành “người cầm lái” chứ
không phải là “người chèo thuyền”. Công
việc hành chính cụ thể của CQĐP hầu như sẽ
không thuộc phạm vi điều hành hay xem xét,
giám sát của chính phủ7. Đây là bước mở
đường cho phân quyền hành chính, và xa hơn
nữa là tự quản hành chính ở địa phương.
- Thứ hai, mặt khác, với quy định “chính
phủ thực hiện quyền hành pháp”, mối quan
hệ giữa chính phủ với CQĐP vẫn tồn tại, bởi
lẽ chức năng của chính phủ hiện đại không
thể tách rời giữa hành pháp và hành chính:
hành pháp như bộ não, còn hành chính như
cánh tay để thực thi các mệnh lệnh từ não bộ
phát ra. Chức năng của chính phủ sẽ không
trọn vẹn nếu không bao quát cả hai hoạt động
hành pháp và hành chính. Nói cách khác, mối
quan hệ giữa chính phủ với CQĐP vẫn tồn
tại, bởi vì: i) thực hành quyền hành pháp, phải
gắn với hành chính, và ii) trong mọi trường
hợp, Chính phủ là cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam (Điều 94 Hiến pháp năm 2013).
2. Mối quan hệ giữa Chính phủ với chính
quyền địa phương
Không thể thực hiện quyền hành pháp
mà không bao gồm quyền lãnh đạo hành
chính, nên mối quan hệ giữa Chính phủ với
CQĐP là luôn tồn tại, kể cả có hay không
việc quy định bổ sung thêm chức năng Chính
phủ “thực hiện quyền hành pháp”. Mối quan
hệ này không nhất quán ở mọi quốc gia, cũng
không giống nhau ở mọi thời kỳ. Sự khác
biệt dựa trên nền tảng mức độ phân quyền
(giữa trung ương và địa phương).
Logic của vấn đề là, nếu một quốc gia có
nền hành chính tập trung thì mối quan hệ
giữa Chính phủ - với tư cách là cơ quan hành
chính cao nhất - với CQĐP sẽ mang tính thứ
bậc, trực thuộc. Ngược lại, ở những quốc gia
có nền hành chính phân quyền, thì quan hệ
giữa Chính phủ - CQĐP có sự độc lập nhất
định.
Nhưng ở bất kỳ quốc gia nào, mối quan
hệ giữa Chính phủ và CQĐP cũng thể hiện
qua các yếu tố cơ bản: trong vị trí của CQĐP;
trong các yếu tố về nội dung, về tổ chức và
về giám sát giữa hai bên.
2.1. Vị trí của CQĐP
Địa vị của CQĐP phản ánh phần nào
mối quan hệ giữa Chính phủ - CQĐP. Cách
gọi tên CQĐP thể hiện mối quan hệ đó. Khá
nhiều hiến pháp trên thế giới dùng khái niệm
“tự quản địa phương” (Hiến pháp Nhật Bản);
hoặc “tự trị địa phương” (Hiến pháp Liên
bang Nga, Hiến pháp Hàn Quốc) trong
chương về CQĐP. Ngay cả khi không gọi là
tự quản địa phương thì địa vị của CQĐP
cũng được khẳng định rõ trong Hiến pháp,
như trường hợp của Cộng hòa Pháp: “Các
15
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 06(310) T3/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7 Về vấn đề này, chúng tôi không hoàn toàn nhất trí với ý kiến của một số tác giả khi định nghĩa phạm vi “thực hiện quyền
hành pháp” của Chính phủ bao gồm: “...thiết lập trật tự công (trật tự hành chính) trên cơ sở các quy định của luật; (v)
phát hiện, điều tra, xử lý vi phạm theo thẩm quyền hoặc/và yêu cầu tòa án xét xử theo trình tự thủ tục tư pháp” (Nguyễn
Phước Thọ, “Một số điểm mới trong vị trí chức năng của Chính phủ trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” tại
Những hoạt động cụ thể này nên quan niệm thuộc
về chức năng “hành chính nhà nước cao nhất” của chính phủ, chứ không phải là “thực hiện quyền hành pháp”.
địa phương tự quản hành chính thông qua hội
đồng dân cử và có quyền lập quy để thực thi
các thẩm quyền của mình trong các điều kiện
quy định bởi pháp luật”8.
Vị trí này cho phép nhìn thấy lát cắt giữa
trung ương và địa phương, từ đó có thể hình
dung ranh giới quyền “lãnh đạo hành chính”
của trung ương.
Hầu hết các quốc gia có nền hành chính
phi tập trung đều phân biệt hành chính trung
ương và hành chính địa phương. Ở Pháp, các
học giả cho rằng, Chính phủ lãnh đạo hoạt
động hành chính, nhưng chỉ trong phạm vi
hành chính trung ương mà thôi. Hành chính
địa phương là hoạt động tự quản, bởi vậy sẽ
không chịu sự lãnh đạo của Chính phủ. Hành
chính địa phương sẽ chịu sự chỉ đạo điều
hành của các thủ trưởng hành chính địa
phương và những thủ trưởng này do Hội
đồng dân biểu địa phương lập ra, không lệ
thuộc vào hành chính trung ương9. Sự lãnh
đạo của Chính phủ đối với CQĐP thể hiện
thông qua việc hoạch định các chính sách
chung, chứ không thông qua điều hành cụ
thể.
Ngược lại, trong nền hành chính tập
trung, vị trí độc lập của CQĐP không được
thể hiện rõ trong pháp luật. Ví dụ trong Hiến
pháp nước ta, thuật ngữ “cơ quan hành chính
của địa phương” còn chưa được sử dụng, mà
thay vào đó là “cơ quan hành chính ở địa
phương” - thuật ngữ phản ánh tính thống
nhất của hệ thống hành chính nhà nước từ
trung ương xuống địa phương. Dường như
CQĐP chưa có hệ thống hành chính riêng
của mình. Kiểu tổ chức nền hành chính tập
trung và lệ thuộc vào trung ương chỉ phù hợp
với một số mô hình địa phương đặc biệt;
hoặc với các nước tập trung hành chính, hoặc
mới tiếp cận với thời kỳ bắt đầu của phân
quyền. Trong các bản Hiến pháp trước năm
2013 của Việt Nam, tính chất hành chính tập
trung còn thể hiện rõ rệt thông qua việc gọi
tên các cơ quan địa phương là Hội đồng nhân
dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND).
Việc gọi tên “HĐND và UBND” dường như
chỉ kể đến các cơ quan ở cấp địa phương và
cùng với các chế định khác về các cơ quan
này có thể hiểu là chúng cùng với các cơ
quan cùng hệ thống ở trung ương - sẽ tạo ra
một chỉnh thể thống nhất. Ví dụ: HĐND các
cấp và Quốc hội - tạo thành hệ thống cơ quan
quyền lực nhà nước; UBND các cấp và
Chính phủ - tạo thành hệ thống cơ quan hành
chính. Cách gọi tên này (HĐND và UBND)
dường như không có sự phân biệt giữa trung
ương và địa phương mà chỉ có sự phân khúc
quyền lực nhà nước trên từng địa bàn lãnh
thổ. Hiến pháp năm 2013 đưa ra cách gọi tên
mới: CQĐP - tên gọi mới không những khắc
phục được điểm này, mà còn phản ánh một
tư duy mới: Tên chương “Chính quyền địa
phương” sẽ cho phép nhìn nhận rõ lát cắt
giữa trung ương - địa phương, cho phép nhìn
nhận CQĐP như là một thực thể riêng, tồn
tại khá độc lập so với chính quyền trung
ương, đặc biệt là hành chính trung ương.
2.2. Mối quan hệ giữa Chính phủ và
chính quyền địa phương
2.2.1. Về nội dung
Thẩm quyền
Phạm vi thẩm quyền của địa phương
phản ánh trực tiếp nhất mối quan hệ giữa địa
phương với hành chính trung ương - Chính
phủ. Đây cũng là nội dung cốt yếu của phân
quyền hành chính.
Thông thường, phạm vi thẩm quyền của
địa phương được quy định tại Hiến pháp
hoặc ít nhất, là trong luật. Khoản 1 Điều 130
Hiến pháp Liên bang Nga quy định: “Tự
quản địa phương ở Liên bang Nga bảo đảm
quyền tự quyết của cư dân đối với các vấn
16
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 06(310) T3/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Điều 72 Hiến pháp Cộng hòa Pháp 1958.
9 Tham khảo: comment -definir-ad-
ministration.html
17
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 06(310) T3/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
đề tầm địa phương, nắm giữ, sử dụng và định
đoạt sở hữu của địa phương”. Tương tự, Điều
94 Hiến pháp Nhật Bản quy định: “CQĐP có
thẩm quyền trong quản lý tài sản của mình,
thực thi các công việc, quản trị hành chính
và ban hành các quy định của mình phù hợp
với các quy định của pháp luật”. Thẩm quyền
này cũng có thể được xác định theo hướng
loại trừ: khoản 4 Điều 117 Hiến pháp Cộng
hòa Italia 1947 quy định rằng: “Các Khu vực
có quyền lập pháp trong mọi vấn đề không
được luật nhà nước nêu rõ”10. Hiến pháp
Cộng hòa Ba Lan quy định rộng mở: “CQĐP
thực hiện các công vụ không được quy định
trong Hiến pháp và các đạo luật về các cơ
quan khác của Nhà nước” (Điều 163).
Sau khi đã có phân định thẩm quyền địa
phương, quy tắc tiếp theo là địa phương hoàn
toàn tự chủ trong quyết định nội dung, lựa
chọn phương tiện để thực thi các thẩm quyền
đó. Chính phủ không can thiệp, chỉ đạo và
thậm chí không giám sát các thẩm quyền tự
quản của địa phương.
Ở những quốc gia có nền hành chính tập
trung, sự phân định thẩm quyền giữa Chính
phủ với CQĐP không rõ rệt. Thẩm quyền địa
phương không hiện diện cụ thể trong hiến
pháp; các công việc của trung ương và địa
phương không phân định rõ nét trong luật;
hoặc có phân định trong các đạo luật nhất định
nhưng vẫn có sự ràng buộc lẫn nhau thông
qua quy định về nghĩa vụ báo cáo của địa
phương với cấp trên; hay thông qua việc phê
duyệt, cấp phép về chủ trương của trung ương
đối với công việc địa phương. CQĐP được
ban hành văn bản pháp quy nhưng văn bản
của CQĐP chủ yếu nhằm cụ thể hóa các quy
định của cấp trên - trong đó có Chính phủ.
Trong rất nhiều lĩnh vực của thẩm
quyền, sự tinh tế trong mối quan hệ giữa
Chính phủ với địa phương đặc biệt thể hiện
trong quyền lập quy của địa phương. Việc
ban hành các văn bản quy phạm của địa
phương không thể là sự cụ thể hóa các quy
định của Chính phủ. Trong nền hành chính
phân quyền, địa phương ban hành các quy
phạm nhằm thực thi các thẩm quyền riêng có
của mình. Ranh giới này thể hiện rõ trong
quy định tại Điều 72 Hiến pháp Cộng hòa
Pháp, theo đó “địa phương có quyền lập quy
để thực thi các thẩm quyền của mình”. Và rõ
ràng, trong các lĩnh vực thẩm quyền riêng
của địa phương thì Chính phủ không thể ra
quy phạm. Việc cụ thể hóa các quy phạm của
Chính phủ sẽ do các cơ quan thuộc Chính
phủ thực hiện mà không thuộc thẩm quyền
lập quy của địa phương.
Tuy nhiên, sự phân định này chỉ rạch ròi
đối với các công việc thuộc phạm vi thẩm
quyền riêng của địa phương. Vẫn còn đó
những ranh giới mập mờ giữa quyền lập quy
của Chính phủ và quyền lập quy của địa
phương, ví dụ ở Pháp, đó là các lĩnh vực mà
lập pháp đã quy định nhưng cần cụ thể hóa
để thực thi (đào tạo nghề; giáo dục; quy
hoạch đô thị; hoạt động kinh tế và phát triển
doanh nghiệp) và cả Chính phủ cũng như địa
phương đều có thẩm quyền can thiệp11.
Tài chính
Mối quan hệ giữa thẩm quyền và tài
chính luôn tỷ lệ thuận: Địa phương càng độc
lập về thẩm quyền thì nguồn tài chính của địa
phương cũng độc lập hơn so với trung ương
và ngược lại, nếu các thẩm quyền của địa
phương vẫn còn chia sẻ với trung ương thì
ngân sách của địa phương không thể là tự
chủ. Điều này dẫn đến quy định mới trong
Hiến pháp sửa đổi năm 2003 của Cộng hòa
Pháp: “Việc chuyển giao các thẩm quyền
giữa Nhà nước và các địa phương phải đi
cùng việc giao các nguồn lực tương ứng để
thực thi các thẩm quyền đó” (Điều 72 - 2).
10 Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, CRIGHTS, “Tuyển tập Hiến pháp của một số quốc gia”, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2012,
tr. 377.
11 “Les relations entre l’Etat et les collectivites locales”, Rapport du group de travail, Precide Alain LAMBERT, Decembre 2007,
p. 6-7, /074000741.pdf.
Cũng với tinh thần đó, Hiến pháp năm
2013 của nước ta đã có quy định rất xác thực:
“Trong trường hợp cần thiết, CQĐP được
giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan
nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm
thực hiện nhiệm vụ đó” (Khoản 3 Điều 111).
Mối quan hệ giữa Chính phủ với CQĐP
về phương diện tài chính cần được xác định
trên cơ sở xác định lại các thẩm quyền của
địa phương. Trong xu thế phân quyền, nên
từng bước tăng sự tự chủ tài khóa cho CQĐP,
đặc biệt là những nguồn thu địa phương được
hưởng 100%, gắn với việc quản lý và cung
ứng dịch vụ công tại địa phương. Cũng như
vậy, trong chi ngân sách, cần phân định
nhiệm vụ chi của địa phương cho phù hợp
với chức năng, nhiệm vụ của chính quyền
theo phân cấp quản lý hành chính. Trong
tương lai, cần xây dựng cơ chế để CQĐP có
quyền tự chủ trong các quyết định phân bổ
nguồn lực, sử dụng nguồn lực theo các ưu
tiên của địa phương và chủ động chọn lựa
cách thức thực hiện; trung ương chỉ tác động,
can thiệp khi cần thực hiện các mục tiêu có
tính quốc gia.
2.2.2. Về mặt tổ chức
Quan hệ về tổ chức giữa Chính phủ -
CQĐP thể hiện qua việc thành lập các cơ
quan địa phương, việc tồn tại các cơ quan tản
quyền của Chính phủ tại địa phương, trong
quy chế công chức địa phương.
Ở những quốc gia có nền hành chính tập
trung, mối quan hệ về mặt tổ chức giữa
Chính phủ với CQĐP là khăng khít, lệ thuộc.
Đó là sự gắn kết trong việc thiết lập (cơ quan
hành chính của địa phương do Chính phủ lập
ra/tham gia vào việc lập ra, thông qua việc
bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo). Việc can
dự vào thành lập sẽ là tiền đề để chỉ đạo, điều
hành mọi hoạt động của hành chính địa
phương. Và ở các nước có nền hành chính
tập trung, từ logic thẩm quyền hành chính
thống nhất nên cơ cấu của hành chính địa
phương về cơ bản khá thống nhất với tổ chức
hành chính trung ương. Chế độ công vụ,
công chức cũng cùng chung quy chế thống
nhất trên toàn quốc.
Tuy nhiên, trong nền hành chính phân
quyền có sự phân biệt rõ ràng giữa các cơ
quan của địa phương và các cơ quan hành
chính tản quyền (của Chính phủ) đặt tại địa
phương. Ví dụ ở Pháp hiện nay, trừ mô hình
xã trưởng - vừa kết hợp giữa dân bầu và
quyền cách chức của Hội đồng bộ trưởng;
còn lại tất cả các cơ quan hành chính địa
phương đều có nguồn gốc từ địa phương và
không chịu bất kỳ sự can thiệp nào của
Chính phủ. Mô hình chung là dân bầu ra Hội
đồng dân cử, và cơ quan này lập ra cơ quan
hành chính của mình. Bên cạnh bộ máy hành
chính thuần túy của địa phương, có một số
đại diện trung ương - nhưng chỉ ở một vài
cấp địa phương lớn mà thôi - đó là tỉnh
trưởng (ở cấp tỉnh); vùng trưởng (ở cấp
vùng) và một số cơ quan tản quyền đặt chủ
yếu tại cấp tỉnh. Không phải bất cứ bộ nào
cũng có cơ quan tản quyền ở địa phương, mà
thường chỉ có một vài bộ như Văn hóa, Giáo
dục v.v.. Các nhân sự và các cơ quan tản
quyền này, Chính phủ trực tiếp bổ nhiệm,
quản lý và chỉ đạo hoạt động. Họ cũng là
kênh liên lạc giữa Chính phủ với địa phương,
thông qua việc xem xét một số loại quyết
định của CQĐP, nhưng không có quyền đình
chỉ hay bãi bỏ chúng12.
Nhiều quốc gia có nền hành chính phân
quyền thậm chí còn có sự phân biệt trong
quy chế công vụ của trung ương và địa
phương. Các khái niệm công chức nhà nước,
công chức địa phương cũng xuất hiện từ đây.
18
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 06(310) T3/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Tham khảo Jean - Luc Boeuf, Manuela Magnan, “Les collectivites territoriales et la decentralisation” (Các đơn vị hành chính
lãnh thổ và sự phân quyền) Decouverte de la Vie publique, La documentation Francaises, 2007.
13 Theo Trần Thị Minh Châu, “Kinh nghiệm thi tuyển công chức của một số nước trên thế giới”,
truy
cập ngày 27/10/2015.
Công chức địa phương có quy chế riêng,
được tuyển dụng theo cách riêng biệt13.
2.2.3. Về giám sát của Chính phủ đối
với CQĐP
Mối quan hệ giữa Chính phủ và CQĐP
thể hiện trực tiếp và rõ rệt nhất thông qua
khâu cuối cùng: hoạt động giám sát của
Chính phủ đối với địa phương. Không có nền
hành pháp nào hoàn toàn tách rời các lãnh
thổ hành chính của mình, nhưng mức độ can
thiệp của Chính phủ đối với CQĐP là rất
khác nhau, tùy từng quốc gia.
Thông thường, trong nền hành chính tập
trung, các quyết định của cơ quan hành chính
địa phương và kể cả cơ quan dân cử, vẫn có
thể bị đình chỉ, bãi bỏ bởi cơ quan hành chính
cấp trên hay Chính phủ. Như vậy, quan hệ
giám sát hành chính vẫn tồn tại một cách trực
tiếp và toàn diện. Trực tiếp vì Chính phủ có
quyền đình chỉ, bãi bỏ ngay các văn bản của
CQĐP vi phạm pháp luật, chứ không dừng lại
ở mức kiến nghị hay đề xuất địa phương bãi
bỏ. Toàn diện bởi vì việc giám sát không giới
hạn ở bất kỳ lĩnh vực nào. Quyền giám sát
như vậy thực ra không thể tồn tại trong một
bối cảnh CQĐP phân cấp và tự chủ, bởi lẽ sự
can thiệp trực tiếp và toàn diện là đi ngược
lại với quyền tự chủ của địa phương.
Ở các quốc gia có sự phân quyền trung
ương - địa phương, giám sát hành chính của
chính quyền trung ương đối với địa phương
đã giảm thiểu đến gần như tối đa. Điển hình
là quá trình phân cấp ở Cộng hòa Pháp thể
hiện bằng quá trình trao quyền cho địa
phương và cắt giảm sự giám hộ của trung
ương. Luật ngày 02/03/1982 đã giới hạn
phạm vi kiểm tra hoạt động của CQĐP: chỉ
trong khuôn khổ tính hợp pháp chứ không
thể kiểm tra tính hợp lý của các quyết định
của CQĐP. Tỉnh trưởng, Vùng trưởng -
người đại diện cho Nhà nước trung ương -
không có quyền năng gì trong việc ngăn chặn
các quyết định của địa phương. Khi phát hiện
các văn bản của CQĐP vi phạm pháp luật,
các Tỉnh trưởng, Vùng trưởng chỉ có thể yêu
cầu Tòa Hành chính xét xử, và Tòa Hành
chính là cơ quan duy nhất có quyền tuyên
hủy các quyết định của địa phương.
Thẩm quyền kiểm tra của các Tỉnh
trưởng, Vùng trưởng bị thu hẹp đến mức,
theo các học giả Pháp thì dường như: “việc
chuyển văn bản trái pháp luật (của CQĐP)
cho Tòa án xử lý không phải là nghĩa vụ của
Tỉnh trưởng, Vùng trưởng. Mặc dù trong một
Quyết định của Hội đồng bảo hiến (Quyết
định số 93-335 DC ngày 21/01/1994) có
đoạn viết: “căn cứ vào Điều 72 của Hiến
pháp, việc kiểm tra tính hợp pháp đối với các
quyết định của CQĐP thuộc trách nhiệm của
người đại diện Nhà nước trung ương...”
nhưng vì pháp luật cũng như án lệ không hề
xác định chế tài trong trường hợp người đại
diện Nhà nước trung ương không thực hiện
trách nhiệm này nên có thể khẳng định rằng,
đó không phải là một trách nhiệm mang tính
pháp lý”14.
Ở hầu hết các quốc gia có tài phán hiến
pháp và hành chính, nhiệm vụ quan trọng
của Tòa án là phân xử các tranh chấp thẩm
quyền giữa địa phương với cơ quan nhà nước
trung ương và giữa địa phương với nhau.
Điều 165 Hiến pháp Ba Lan quy định: “Các
tòa án hành chính có nhiệm vụ giải quyết các
tranh chấp về thẩm quyền giữa các đơn vị
của CQĐP và các cơ quan hành chính nhà
nước”. Khi mà thẩm quyền trung ương - địa
phương được phân định rành mạch thì hiển
nhiên hành chính trung ương không còn
quyền giám sát địa phương đối với các công
việc đã phân quyền, và lúc này, thiết chế tư
pháp chiếm vị trí ưu thế, là người khách
quan, độc lập đánh giá sự đúng sai trong xử
19
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 06(310) T3/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Martine Lombard, Gilles Dumont, “Pháp luật hành chính của Cộng hòa Pháp”, Sách dịch, ngày 25/3/1852 Nhà pháp luật
Việt Pháp - Organisation Internationale de la Francophone, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2007, tr. 242.
(Xem tiÕp trang 25)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- moi_quan_he_giua_chinh_phu_va_chinh_quyen_dia_phuong_trong_t.pdf