Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp của Trung Quốc với quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc

Hiệu ứng của đầu tư đem lại cho thương mại trong ngành dịch vụ là không lớn, nhưng cùng với sự tăng trưởng các ngành và thu nhập bình quân tăng lên, dự kiến thị trường Việt Nam sẽ tăng cường tiêu thụ dịch vụ của các công ty đa quốc gia, ví dụ như lĩnh vực du lịch và giáo dục. Tương tự, đối với ảnh hưởng FDI Trung Quốc đến xuất khẩu của Việt Nam cho thấy, khi đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam tăng hoặc giảm 1% thì xuất khẩu của Việt Nam tăng hoặc giảm 0,54%. Như vậy, có thể khẳng định mối quan hệ giữa FDI của Trung Quốc với xuất khẩu của Việt Nam là quan hệ bổ sung. Cũng như trên, hệ số chặn của ba ngành lớn phản ánh tác động của FDI Trung Quốc đến xuất khẩu của ngành nông nghiệp là cao và rõ ràng nhất, ngành dịch vụ là thấp nhất. 5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư sang Việt Nam để tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên giá rẻ và nguồn lao động dồi dào của Việt Nam, nhằm thực hiện mục tiêu tối thiểu hóa chi phí của doanh nghiệp. Phân tích mối quan hệ giữa FDI của Trung Quốc với thương mại của hai nước, kết quả thu được cho thấy, FDI tác động tích cực thúc đẩy thương mại, FDI của Trung Quốc tăng trưởng 1% giúp cho thương mại hai nước tăng 0,55%. Mặc dù vậy, điều đó cũng đã chứng minh, mối quan hệ giữa FDI và thương mại là quan hệ bổ sung. Từ phân tích mối quan hệ giữa FDI Trung Quốc đến quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc thời gian qua, một số vấn đề sau đây Việt Nam cần chú ý trong công tác quản lý: Thứ nhất, Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam trong lĩnh vực nông nghiệp chủ yếu nhằm lợi dụng tài nguyên thiên nhiên dồi dào của Việt Nam với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, mặt khác còn thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc vào Việt Nam (thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc, cơ khí nông nghiệp ). Đây là một trong những hệ quả mà chúng ta không hề mong muốn, vì vậy một mặt Việt Nam cần kiểm soát các dự án FDI của Trung Quốc trên lĩnh vực nông nghiệp. Thứ hai, đối với ngành công nghiệp, nước ta đang có lợi thế về lao động và thuê đất rẻ, mặt bằng trình độ lao động của Việt Nam tương đối cao, được thể hiện qua tỉ lệ mù chữ dưới 5%, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề khá cao (38,5%). Nắm bắt được lợi thế này, các doanh nghiệp FDI Trung Quốc đã đầu tư trong các lĩnh vực sản xuất thâm dụng lao động như: ngành may mặc, linh kiện ô tô, xe máy, thiết bị điện gia đình

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 356 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp của Trung Quốc với quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
56 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018 MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA TRUNG QUỐC VỚI QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC THE RELATIONSHIP BETWEEN CHINA’S FDI AND TRADE RELATION VIETNAM - CHINA Lương Thị Hoa1, Hoàng Thị Bích Ngọc1, Lê Thị Mỹ Huyền2 Email: hoaluong.aof@gmail.com 1 Trường Đại học Sao Đỏ 2 Học viện Ngân hàng - Phân viện Bắc Ninh Ngày nhận bài: 26/5/2017 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 20/12/2017 Ngày chấp nhận đăng: 28/12/2017 Tóm tắt Trong những năm qua, đầu tư trực tiếp (FDI) của Trung Quốc vào Việt Nam cũng như quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc có sự cải thiện đáng kể về số lượng và chất lượng. Xét về tổng thể, điều này có lợi cho cả hai nước. Tuy vậy, trong chừng mực nào đó mối quan hệ lợi ích này chưa rõ ràng. Tình trạng nhập siêu của Việt Nam với Trung Quốc gia tăng đáng báo động khi qui mô FDI của Trung Quốc vào Việt Nam ngày càng tăng lên. Bài báo phân tích thực trạng và động cơ FDI của Trung Quốc vào Việt Nam trong những năm qua. Sử dụng mô hình lực hấp dẫn để phân tích mối quan hệ giữa FDI và quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc, kết quả như sau: FDI của Trung Quốc vào Việt Nam tăng 1% thì kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc vào Việt Nam tăng 0,58%, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Trung Quốc tăng 0,55%. Từ kết quả này, bài báo đưa ra một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam thời gian tới. Từ khóa: Đầu tư trực tiếp; mô hình lực hấp dẫn; quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc. Abstract In recent years China’s FDI activities as well as the trade relation between Vietnam - China have been significantly improved in terms of quantity and quality. Overall, this is beneficial for both countries, however, to a certain extent, it seems that the benefits of such relationship is still ambiguous as Vietnam is suffering trade deficit with China, which remarkably increases, and the volume of China’s FDI inflows to Vietnam is increasingly growing. This article analyzes the current facts and major reasons of China’s investment in Vietnam in recent years. Using gravity model to analyze the relationship between FDI and trade relations Vietnam - China, the results are as follows: turnover in direct investments of China to Vietnam increased by 1%, export turnover of China to Vietnam increased by 0.58%, whereas export turnover of Vietnam to China increased by 0.55%. From such results, the article gives some recommendations about policies for Vietnam in the next few years. Keywords: FDI; gravity model; trade relation Vietnam - China. 1. GIỚI THIỆU FDI của Trung Quốc vào Việt Nam được bắt đầu từ cuối tháng 11 năm 1991, do một doanh nghiệp Quảng Tây (Trung Quốc) liên doanh với một doanh nghiệp Hà Nội, mở nhà hàng Hoa Long trên phố Hàng Trống - Hà Nội. Tuy nhiên, phải sau năm 2005 hoạt động này mới thực sự khởi sắc. Trải qua 25 năm, kể từ dự án đầu tiên, vốn FDI của Trung Quốc tại Việt Nam liên tục vươn lên trong vị trí xếp hạng, không những gia tăng về quy mô, thay đổi về hình thức, lĩnh vực đầu tư, mà còn mở rộng về địa bàn. Lũy kế tính đến ngày 20 tháng 3 năm 2017, đầu tư của Trung Quốc (chưa kể Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao) tại Việt Nam có 1.615 dự án còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 11,193 tỷ USD, chiếm 7% số dự án và 3,72% tổng vốn đăng ký, đứng thứ 8 trong tổng số 116 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. Tuy nhiên, theo thời gian, dòng vốn FDI của Trung Quốc vào Việt Nam tăng, giảm khá thất thường, riêng năm 2013, FDI Trung Quốc là hơn 2.300 triệu USD, trong đó dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện đốt than BOT Vĩnh Tân đã là hơn 2.000 triệu USD. NGÀNH KINH TẾ Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018 57 Bảng 1. Một số chỉ tiêu về quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc giai đoạn 2010-2016 (Đơn vị tính: tỷ USD) Năm Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Trung Quốc Xuất khẩu sang Trung Quốc Nhập khẩu từ Trung Quốc Cán cân thương mại Việt Nam - Trung Quốc 2010 27,33 7,31 20,02 -27,33 2011 35,72 11,13 24,59 -13,46 2012 41,17 12,39 28,79 -16,40 2013 50,25 13,3 36,95 -23,65 2014 57,23 13,53 43,70 -30,17 2015 65,20 15,09 49,30 -34,21 2016 71,90 21,97 49,93 -27,96 (Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam) Qua thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy tình trạng nhập siêu của Việt Nam trong quan hệ thương mại với Trung Quốc liên tục gia tăng trong những năm qua. Do thương mại với Trung Quốc chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng kim ngạch thương mại hàng năm (hình 1) nên việc nhập siêu với Trung Quốc đã khiến cho kim ngạch thương mại của Việt Nam liên tục bị thâm hụt những năm trước 2012, ngay cả những năm 2012-2014, Việt Nam xuất siêu nhưng vẫn nhập siêu rất lớn với Trung Quốc. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của thị trường Trung Quốc như: sắt thép, máy móc thiết bị và nguyên liệu cho ngành điện tử, dệt may. Mặc dù kim ngạch nhập khẩu năm 2016 tại thị trường Trung Quốc gia tăng không đáng kể so với năm 2015 nhưng giá trị vẫn cao nhất trong các thị trường nhập khẩu. (Trung Quốc) Hình 1. Tỷ trọng cán cân thương mại của Việt Nam với một số đối tác chủ chốt năm 2016 (Nguồn: Số liệu thống kê - Tổng cục Hải quan Việt Nam 2016) Hình 2. 10 thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam năm 2016 Hình 3. 10 thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam năm 2016 58 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018 Nhập siêu không phải là vấn đề lớn đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Tuy vậy, đánh giá thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc thời gian qua cho thấy, có nhiều vấn đề cần phải tiếp tục được xem xét để có biện pháp quản lý phù hợp nhằm đạt mục tiêu phát triển kinh tế bền vững. Xét riêng năm 2016, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc đạt hơn 21,97 tỷ USD, tăng 28,4% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 12,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan: thị trường nhập khẩu của Việt Nam năm 2016 vẫn chủ yếu tập trung tại châu Á với kim ngạch hơn 140,76 tỷ USD, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước, và chiếm tỷ trọng 80,8% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Trong đó, thị trường nhập khẩu lớn nhất vẫn là Trung Quốc với kim ngạch gần 49,93 tỷ USD, tăng 0,9%, và chiếm tỷ trọng 28,7% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước. 2. TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN Cho đến nay, mặc dù luồng ra của đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Trung Quốc đang tăng lên nhanh chóng và trở thành hiện tượng gây chú ý với giới học giả, nhưng số lượng các nghiên cứu về lĩnh vực này vẫn chưa nhiều. Hơn nữa, hiện có rất ít nghiên cứu liên quan trực tiếp đến chủ đề “Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp của Trung Quốc với quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc”. Nghiên cứu của tác giả Phạm Thái Quốc “Thực trạng và chính sách đầu tư nước ngoài của Trung Quốc và Ấn Độ - Nghiên cứu so sánh” (2007) đã trình bày rất rõ chính sách đầu tư nước ngoài của Trung Quốc những năm gần đây cũng như cơ sở của chính sách này. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Phương Hoa “Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc tại Việt Nam trong 10 năm qua” (2010), tác giả đã trình bày những động thái mới trong đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam giai đoạn mới 2001-2010, trong đó tác giả đã nêu bật những thay đổi quan trọng về tốc độ và quy mô vốn, cơ cấu đầu tư theo ngành, vùng. Nghiên cứu của hai tác giả Hoàng Xuân Hòa và Trần Thị Thanh Nga “Đầu tư ra nước ngoài - chính sách phát triển mới của Trung Quốc” (2006) đã phân tích khá sâu sắc về chiến lược “đi ra ngoài” của Trung Quốc với sự đi sâu làm rõ những cơ sở khách quan và chủ quan của chiến lược này: đó là khát vọng mở rộng thị trường của các nhà đầu tư Trung Quốc, ý đồ chiếm lĩnh các nguồn tài nguyên thiên nhiên của thế giới nhằm phục vụ nền kinh tế phát triển nóng ở trong nước, mong muốn chuyển dịch một số ngành và cơ sở sản xuất đã bão hòa ra bên ngoài, trốn thuế Những nghiên cứu này tương đối phong phú và đã đạt được những kết quả nhất định: Thứ nhất, các nghiên cứu trước đây đã nêu rõ được bối cảnh và sự cần thiết khách quan của chính sách “đi ra ngoài” của Trung Quốc nói chung cũng như vào Việt Nam nói riêng. Thứ hai, các công trình trước đây cũng đã đề cập đến nhiều khía cạnh trong nội dung thu hút FDI Trung Quốc vào Việt Nam như: mục đích thu hút FDI, tốc độ thu hút FDI, qui mô thu hút FDI, lĩnh vực thu hút FDI, địa bàn thu hút FDI Thứ ba, các công trình nói trên cũng đã đề cập chủ yếu tới những tác động tích cực và một số mặt tiêu cực của việc thu hút FDI Trung Quốc vào Việt Nam. Thứ tư, một số giải pháp nhằm thúc đẩy dòng vốn FDI của Trung Quốc vào Việt Nam cũng đã được đưa ra và phân tích. Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu trên vẫn còn chưa đề cập đến mối quan hệ của đầu tư trực tiếp với cán cân thương mại hai nước. Theo Mondale (1959), hiệu ứng thay thế xuất hiện là do các yếu tố sản xuất không thể tự do dịch chuyển giữa các quốc gia, vì vậy sản xuất ở nước ngoài sẽ thay thế một phần sản phẩm sản xuất trong nước để phục vụ xuất khẩu và một phần nguyên vật liệu nhập khẩu. Chính vì vậy, FDI sẽ làm giảm lượng xuất nhập khẩu của quốc gia đó. Theo Kojima (1987), FDI sẽ bù đắp những thiếu hụt về vốn, kĩ thuật và quản lý mà quốc gia nhận đầu tư đang cần, giúp cho những quốc gia này phát huy được lợi thế tương đối đang có như lao động, thị trường và đất để tiến hành sản xuất. Không những thế thông qua quá trình trên, sản lượng biên của quốc gia đi đầu tư cũng được mở rộng. Cùng với đầu tư trực tiếp tăng lên, thay vì tự sản xuất, nước đầu tư sẽ nhập khẩu từ nước nhận đầu tư và xuất khẩu những linh kiện đi kèm của sản phẩm đang sản xuất ở nước ngoài. Do đó, FDI thúc đẩy thương mại tăng trưởng. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để phân tích mối quan hệ giữa FDI và thương mại giữa hai nước Việt - Trung là thay thế hay bổ sung, bài báo lựa chọn mô hình lực hấp dẫn để tiến hành phân tích, lấy tổng vốn FDI của Trung Quốc vào Việt Nam làm biến giải thích, kim ngạch xuất nhập khẩu hai nước làm biến được giải thích NGÀNH KINH TẾ Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018 59 và biến kiểm soát là GDP của hai nước. Dựa vào mô hình lực hấp dẫn, sử dụng bảng số liệu tổng vốn FDI và kim ngạch xuất nhập khẩu hai nước từ năm 2001 đến 2015 để tiến hành hồi quy. Lấy mô hình vận dụng vào lĩnh vực đầu tư ta có phương trình hồi quy sau đây: trong đó: Tcv: lượng xuất nhập khẩu của hai nước; GDPc: giá trị tổng thu nhập quốc nội của Trung Quốc hàng năm; GDPv: giá trị tổng thu nhập quốc nội của Việt Nam hàng năm; FDIcv: FDI thực tế Trung Quốc vào Việt Nam mỗi năm. Để mối quan hệ phi tuyến tính giữa biến giải thích và biến được giải thích chuyển thành quan hệ tuyến tính, đồng thời giảm bớt tính không chuẩn của phân bổ và tăng ý nghĩa của phương sai, ta lấy ln hai vế. Mặt khác, qua khảo sát thực tế thấy rằng, ảnh hưởng của đầu tư đến mậu dịch có độ trễ, nên với FDI và GDP chúng ta đều lấy trễ 1 kì so với t. Do đặc điểm bảng số liệu là tương đối lớn, tác giả quyết định lựa chọn phương pháp bình phương nhỏ nhất và biến giả để tiếp tục chia (1) thành phương trình xuất khẩu (EX) và nhập khẩu (IM): Giới hạn của biến giả: + D2i phản ánh ngành công nghiệp, xây dựng lấy giá trị 1, các ngành khác lấy giá trị 0; + D3i phản ánh ngành dịch vụ lấy giá trị 1, các ngành còn lại lấy giá trị 0; + Khi D2i và D3i đồng thời bằng 0 thì phương trình phản ánh ngành nông nghiệp; + C1, C2, C3 lần lượt là hệ số chặn của ba ngành là nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; + α1,α2, β: hệ số của phương trình hồi quy; + µit: sai số của phương trình hồi quy. Nguồn số liệu: + Số liệu FDI của Trung Quốc vào Việt Nam qua các năm từ 2001-2015 tại www.gso.gov.vn. + Số lượng xuất nhập khẩu của Trung Quốc và Việt Nam: từ Niên giám thống kê Trung Quốc. + Số liệu đóng góp GDP lần lượt của ba ngành: từ Tổng cục Thống kê Việt Nam. + Số liệu FDI của Trung Quốc vào Việt Nam chia theo ba ngành: từ Tổng cục Hải quan Trung Quốc. 4. PHÂN TÍCH SỐ LIỆU Thực tiễn FDI của Trung Quốc vào Việt Nam 25 năm qua cho thấy tính giai đoạn được thể hiện khá rõ: Giai đoạn 1991-2001: tác động chưa đáng kể đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam; từ năm 2002-2010 mới có chuyển biến rõ rệt, trở thành nội dung chủ yếu trong hợp tác kinh tế giữa hai nước và đặc biệt từ năm 2011 đến nay, FDI của Trung Quốc vào Việt Nam tăng đột biến, nhất là vào năm 2013. Tính riêng 3 tháng đầu năm 2017, FDI Trung Quốc vào Việt Nam đạt mức kỷ lục so với cùng kỳ các năm trước, cả về số dự án cấp mới, số vốn đăng ký và vốn giải ngân. Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), hiện Trung Quốc đứng vị trí thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký mới và tăng vốn đạt gần 824 triệu USD, chiếm 10,7% tổng vốn Bảng 2. Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam giai đoạn 2010-2016 Chỉ tiêu Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 Tổng vốn đầu tư thực tế (triệu USD) 685 460 345 2.300 446,9 744 1.875 Tỷ trọng FDI Trung Quốc so tổng FDI vào Việt Nam (%) 6,23 4,22 3,44 20,34 3,58 3,09 7,7 FDI Trung Quốc vào Việt Nam so với tổng FDI ra nước ngoài của Trung Quốc (%) 1,03 0,68 0,46 2,11 0,39 0,58 1,12 Số lượng dự án tăng thêm trong năm (dự án) 105 86 345 110 112 175 278 Tỷ trọng hạng mục FDI của Trung Quốc so với tổng hạng mục FDI nước ngoài vào Việt Nam (%) 8,49 7,22 5,91 7,19 6,08 8,71 10,87 Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư ( Niên giám thống kê Trung Quốc từ năm 2010-T3/2017 60 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018 FDI vào Việt Nam, sau Hàn Quốc và Singapore.Đặc điểm đầu tư của các doanh nghiệp Trung Quốc là số lượng hạng mục đầu tư lớn nhưng quy mô mỗi dự án đầu tư thường nhỏ. Mặc dù trong những năm gần đây, quy mô của dự án đầu tư đã tăng, đã xuất hiện nhiều dự án có vốn đầu tư trên 10 triệu USD nhưng bên cạnh đó vẫn có những dự án có vốn đầu tư dưới 500.000 USD, thậm chí có dự án dưới 100.000 USD như dự án xuất nhập khẩu, bán buôn nguyên liệu và phụ gia làm thức ăn cho gia súc 11.000 USD, dự án cấp dịch vụ đánh giá chứng nhận hệ thống quản lý tiêu chuẩn quốc tế, chất lượng sản phẩm 15.000 USD, dự án sản xuất thi công lắp đặt các loại cửa nhựa, PC-U, linh phụ kiện liên quan 46.470 USD, dự án dịch vụ lắp ráp, hiệu chỉnh, tiêu thụ các tủ điện, máy biến thế, cầu dao 88.000 USD Mặc dù vậy, Trung Quốc vẫn liên tục là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, nhưng xét trên phương diện FDI, Trung Quốc luôn đi sau các đối tác thương mại khác (bảng 3). Bảng 3. Các đối tác đầu tư trực tiếp vào Việt Nam đến ngày 20/3/2017 Nước Số dự án Tổng vốn đăng kí (triệu USD) 1. Hàn Quốc 5.932 54.011.530 2. Nhật Bản 3.355 42.490.319 3. Singapore 1.838 39.263.677 4. Đài Loan (Trung Quốc) 2.526 32.353.112 5. British Virgin Islands 695 20.649.930 6. Hồng Kông 1.187 17.236.820 7. Malaysia 547 11.995.092 8. Trung Quốc 1.615 11.193.692 (Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư T3/2017) Xét theo lĩnh vực đầu tư: Lũy kế hết năm 2016, đầu tư của Trung Quốc chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với tổng vốn đăng ký 6,87 tỷ USD (chiếm 61,4% tổng vốn đầu tư đăng ký của Trung Quốc tại Việt Nam). Đứng thứ hai là lĩnh vực sản xuất, phân phối điện, khí, nước, điều hòa cùng tổng vốn đăng ký đạt 2,04 tỷ USD (chiếm 18,2% tổng vốn đầu tư đăng ký của Trung Quốc tại Việt Nam). Ngành hoạt động kinh doanh bất động sản đứng thứ ba với 631,2 triệu USD (chiếm 5,6% tổng vốn đầu tư đăng ký của Trung Quốc tại Việt Nam). Về đầu tư theo địa phương: FDI của Trung Quốc có mặt trên 54 tỉnh thành của cả nước, trong đó tập trrung chủ yếu tại các địa phương Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Quảng Ninh Đây đều là những tỉnh, thành phố mà cơ sở hạ tầng tương đối hoàn thiện, chi phí lao động và chi phí thuê đất không có sự chênh lệch quá lớn so với các tỉnh, thành phố khác, trong khi thị trường tiêu thụ rất rộng lớn. Hình 4.Vốn FDI của Trung Quốc tại một số tỉnh thành trên lãnh thổ của Việt Nam (Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2016) NGÀNH KINH TẾ Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018 61 Các dự án FDI của Trung Quốc tại Việt Nam chủ yếu đến từ các tỉnh/thành phố Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, Vân Nam, Hà Bắc, Giang Tô, Sơn Đông trong đó, nhiều nhất là Quảng Tây. Điều này xuất phát từ: (i) Về mặt địa lý, các tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, Vân Nam đều là những tỉnh tiếp giáp với Việt Nam; (ii) Do hiệu ứng tập trung, một doanh nghiệp đầu tư thành công sẽ kéo theo số lượng lớn các doanh nghiệp khác tiến hành đầu tư và thường chỉ đầu tư vào lĩnh vực đã thành công đó. Hiện nay, dòng vốn FDI của Trung Quốc vào Việt Nam thường tập trung vào những lĩnh vực như dệt may, da giày, xơ sợi, nhiệt điện, khai thác khoáng sản... Đây là những ngành có nguy cơ gây ô nhiễm cao. Chẳng hạn như trong quý 1/2017, Trung Quốc rót vốn vào Việt Nam thực hiện các dự án: Dự án nhà máy sản xuất polyester và sợi tổng hợp Billion Việt Nam với tổng vốn đầu tư 220 triệu USD được doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư tại Tây Ninh. Dự án đầu tư cơ sở hạ tầng cụm công nghiệp Lan Sơn và Nhà máy nhựa Khải Hồng Việt vốn đầu tư 150 triệu USD do doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư tại Bắc Giang. Theo số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho hay chỉ riêng tháng 3/2017, các nhà đầu tư Trung Quốc đã đăng ký thực hiện 123 dự án tại Việt Nam và 174 lượt mua cổ phần, chiếm 21,1% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam mặc dù trong nhiều năm qua, top 5 nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, rất hiếm khi có sự góp mặt của Trung Quốc. Mặt khác, ngoài sự dư thừa vốn của nền kinh tế Trung Quốc thì việc các nhà đầu tư Trung Quốc gia tăng rót vốn vào Việt Nam còn do chính sách khuyến khích đầu tư ra bên ngoài của Chính phủ nước này. Thêm vào đó, hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực dệt may, xơ sợi hay da giày vốn nằm trong lộ trình điều chỉnh chính sách ngành của Trung Quốc. Các ngành thâm dụng lao động, có tác động tiêu cực đến môi trường và các ngành dễ mất sức cạnh tranh khi chi phí lao động tăng cao đều được khuyến khích đầu tư ra bên ngoài. Bên cạnh đó, đối với những ngành như thép, hoạt động đầu tư sang Việt Nam có thể nhằm tận dụng ưu đãi thuế suất khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ, tránh bị chú ý điều tra. Sử dụng mô hình lực hấp dẫn, với số liệu từ các nguồn đã đề cập trong phương pháp nghiên cứu, cho kết quả như sau: Bảng 4. Kết quả hồi quy Ảnh hưởng FDI của Trung Quốc đến nhập khẩu của Việt Nam Ảnh hưởng FDI của Trung Quốc đến xuất khẩu của Việt Nam Biến Hệ số Giá trị T Prob Biến Hệ số Giá trị T Prob 1,637620 2,382062 0,0231** 0,272533 0,353570 0,7259 0,105801 0,130025 0,8973 1,131746 1,240514 0,2235 0,578002 2,337049 0,0257 0,545051 1,965583 0,0478** Hệ số chặn Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ 1,239559 0,463973 -1,703532 1,103858 0,359549 -1,463408 Các chỉ số khác R2 0,932409 Độ tin cậy của F 0,0000*** R2 0,872175 Độ tin cậy của F 0.0000*** Giá trị điều chỉnh của R2 0,922168 DW 1,520613 Giá trị điều chỉnh của R2 0,852807 DW 1,60 Chú ý: *** biểu thị độ tin cậy dưới 1%, ** biểu thị độ tin cậy dưới 5%, kết quả hồi quy do Eviews 6.0 hoàn thành 62 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018 Bảng 4 cho thấy: Giá trị ước lượng hệ số của hai biến ln giá trị tổng thu nhập quốc nội sớm 1 thời kì của Trung Quốc và ln kim ngạch FDI của Trung Quốc vào Việt Nam sớm 1 thời kì với kiểm định T (0,0231 và 0,0257 ) và F (0,0000) đều cho độ tin cậy nhỏ hơn 5%. Mặt khác, R2 rất gần với 1, nên có thể khẳng định phương trình hồi quy đáng tin cậy. Ý nghĩa kinh tế: Khi FDI của Trung Quốc vào Việt Nam (năm t–1) tăng hoặc giảm 1%, thì nhập khẩu của Việt Nam năm t sẽ tăng hoặc giảm 0,578%. Như vậy, FDI đã thúc đẩy thương mại, do đó mối quan hệ giữa FDI và thương mại là quan hệ bổ sung. Ảnh hưởng cụ thể tới từng ngành như sau: FDI của Trung Quốc vào Việt Nam có ảnh hưởng tích cực đến xuất khẩu của Trung Quốc, trong đó thúc đẩy xuất khẩu của ngành nông nghiệp là cao và rõ ràng nhất, còn đối với ngành dịch vụ là thấp và không cụ thể nhất. Nguyên nhân chủ yếu do Việt Nam có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, nhưng lại thiếu hụt về kĩ thuật sản xuất. Cụ thể, khi Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp sẽ phát sinh nhu cầu nhập khẩu thiết bị cơ khí nông nghiệp, hạt giống, thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc làm tăng nhập khẩu của Việt Nam về những sản phẩm liên quan đến sản xuất nông nghiệp. Hiệu ứng bổ sung của FDI đối với thương mại của ngành công nghiệp không cao như ngành nông nghiệp. Mặc dù số liệu cho thấy, hàng năm FDI của Trung Quốc vào Việt Nam chủ yếu tập trung 60-70% vào ngành công nhiệp, trong khi ngành nông nghiệp chỉ chiếm trên 10%. Vì vậy, sau khi lấy ln, tính co giãn của hệ số đầu tư ngành công nghiệp nhỏ hơn ngành nông nghiệp. Hiệu ứng của đầu tư đem lại cho thương mại trong ngành dịch vụ là không lớn, nhưng cùng với sự tăng trưởng các ngành và thu nhập bình quân tăng lên, dự kiến thị trường Việt Nam sẽ tăng cường tiêu thụ dịch vụ của các công ty đa quốc gia, ví dụ như lĩnh vực du lịch và giáo dục. Tương tự, đối với ảnh hưởng FDI Trung Quốc đến xuất khẩu của Việt Nam cho thấy, khi đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam tăng hoặc giảm 1% thì xuất khẩu của Việt Nam tăng hoặc giảm 0,54%. Như vậy, có thể khẳng định mối quan hệ giữa FDI của Trung Quốc với xuất khẩu của Việt Nam là quan hệ bổ sung. Cũng như trên, hệ số chặn của ba ngành lớn phản ánh tác động của FDI Trung Quốc đến xuất khẩu của ngành nông nghiệp là cao và rõ ràng nhất, ngành dịch vụ là thấp nhất. 5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư sang Việt Nam để tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên giá rẻ và nguồn lao động dồi dào của Việt Nam, nhằm thực hiện mục tiêu tối thiểu hóa chi phí của doanh nghiệp. Phân tích mối quan hệ giữa FDI của Trung Quốc với thương mại của hai nước, kết quả thu được cho thấy, FDI tác động tích cực thúc đẩy thương mại, FDI của Trung Quốc tăng trưởng 1% giúp cho thương mại hai nước tăng 0,55%. Mặc dù vậy, điều đó cũng đã chứng minh, mối quan hệ giữa FDI và thương mại là quan hệ bổ sung. Từ phân tích mối quan hệ giữa FDI Trung Quốc đến quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc thời gian qua, một số vấn đề sau đây Việt Nam cần chú ý trong công tác quản lý: Thứ nhất, Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam trong lĩnh vực nông nghiệp chủ yếu nhằm lợi dụng tài nguyên thiên nhiên dồi dào của Việt Nam với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, mặt khác còn thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc vào Việt Nam (thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc, cơ khí nông nghiệp). Đây là một trong những hệ quả mà chúng ta không hề mong muốn, vì vậy một mặt Việt Nam cần kiểm soát các dự án FDI của Trung Quốc trên lĩnh vực nông nghiệp. Thứ hai, đối với ngành công nghiệp, nước ta đang có lợi thế về lao động và thuê đất rẻ, mặt bằng trình độ lao động của Việt Nam tương đối cao, được thể hiện qua tỉ lệ mù chữ dưới 5%, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề khá cao (38,5%). Nắm bắt được lợi thế này, các doanh nghiệp FDI Trung Quốc đã đầu tư trong các lĩnh vực sản xuất thâm dụng lao động như: ngành may mặc, linh kiện ô tô, xe máy, thiết bị điện gia đình Thứ ba, gắn việc tăng cường kiểm soát nhằm sàng lọc các dự án FDI của Trung Quốc với tăng cường kiểm soát quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc thông qua các công cụ thuế quan, hạn ngạch, kiểm soát chặt chẽ các hoạt động buôn bán tiểu ngạch các tuyến biên giới trên đất NGÀNH KINH TẾ Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018 63 liền Việt - Trung cũng như phải kết hợp hiệu quả với các công cụ tài chính khác, đặc biệt chú trọng sử dụng công cụ tỷ giá. Hiện nay, công cụ tỷ giá chưa thực sự có tác động tích cực trong việc kiểm soát hoạt động ngoại thương của Việt Nam, do vậy tình trạng nhập siêu có thể sẽ diễn biến phức tạp đối với môi trường kinh tế vĩ mô của Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Mondale (1959). The Theory of the Growth of the Firm [M]. USA: Oxford University Press, 1959: 1-28. [2]. Kojima (1987). Foreign Trade (Bản dịch) [M]. Nankai University Press. [3]. Quỳnh Lam (2015). Doanh nghiệp FDI “kêu” chất lượng nhân lực Việt. ngày 5/3/2015). [4]. Hồng Phúc (2014). Chất lượng nhân lực vẫn còn yếu. ngày 21/12/2014. [5]. UNCTAD (2011). World Investment Report 2011 [R].2011:28-39. [6]. Vo Tri Thanh,Nguyen Anh Duong (2011). Revisiting Exports and Foreign Direct [J. Asian Economic Policy Review. (6):112-131. [7]. Yi Ren (2006). Motivation of Chinese Investment in Vietnam [J]. Chinese Geographical Science,2006 (1):4. [8]. h t t p : / / w w w . s g g p . o r g . v n / xahoi/2016/1/409610/#sthash.PmISSowt.dpuf [9]. www.gso.gov.vn [10]. quoc-sap-can-moc-100-ty-usd-42680.html [11]. h t t p s : / / w w w . c u s t o m s . g o v . v n / L i s t s / ThongKeHaiQuan/Default.aspx [12]. hang-thang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmoi_quan_he_giua_dau_tu_truc_tiep_cua_trung_quoc_voi_quan_he.pdf
Tài liệu liên quan