Kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực trọng yếu nhất của đời sống xã hội. Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị cũng là những nội dung quan trọng và nổi bật nhất trong tiến trình đổi mới ở nước ta trong hơn 20 năm nay và chắc chắn còn diễn ra lâu dài về sau.
Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong những mối quan hệ cốt lõi, chẳng những thuộc về lý luận đổi mới, phát triển và hiện đại hoá xã hội mà còn là nội dung hợp thành lý luận chủ nghĩa xã hội Việt Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hiểu đúng thực chất và giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị trong thực tiễn là vấn đề phức tạp, khó khăn nhất.
1- Tình hình kinh tế và chính trị nước ta trước đổi mới (75-85)
Sau giải phóng miền Nam (30-4-1975), Tổ quốc đã thống nhất, cả nước cùng quá độ tới chủ nghĩa xã hội. Đại hội IV của Đảng (1976) đã thông qua Nghị quyết quan trọng về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, bao gồm đường lối chung và đường lối xây dựng phát triển kinh tế.
Các văn kiện Đại hội nhấn mạnh tới những quan điểm lớn có tác dụng chỉ đạo và định hướng phát triển đất nước như xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng, trong đó cách mạng quan hệ sản xuất đi trước một bước, xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt và công nghiệp hoá là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ. Đại hội IV (và tiếp theo là Đại hội V vào năm 1981) còn đặc biệt nhấn mạnh vai trò của cách mạng tư tưởng văn hoá nhằm xây dựng con người mới, lối sống mới xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng lý tưởng, thực hiện chế độ làm chủ tập thể, coi đó là mục tiêu, động lực của phát triển, thể hiện bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Kèm theo đó là một hệ thống chỉ tiêu phát triển để phấn đấu thực hiện trong kế hoạch 5 năm (76-81), điển hình là sau kế hoạch 5 năm sẽ đạt 21 triệu tấn lương thực.
Một sự kiện quan trọng diễn ra tại Đại hội IV là đổi tên Đảng và đổi tên nước, từ tên gọi “Đảng Lao động Việt Nam” thành “Đảng Cộng sản Việt Nam”, từ nước “Việt Nam dân chủ Cộng hoà” thành nước “Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Có thể nói, thể chế chính trị và thể chế kinh tế – xã hội nước ta được xác lập theo đặc trưng chế độ xã hội chủ nghĩa và mô hình chủ nghĩa xã hội, mang những nét phổ biến của chủ nghĩa xã hội hiện thực thế giới lúc bấy giờ với những ảnh hưởng khá đậm nét của mô hình Xô viết.
Sau khi cách mạng miền Nam đã hoàn toàn thắng lợi, sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước suốt 30 năm (1945-1975) đã kết thúc, đất nước bước vào một kỳ mới, thuận lợi đan xen cùng khó khăn, tình hình mới, nhiệm vụ và yêu cầu mới đặt ra rất nhiều vấn đề trong bước chuyển tiếp lịch sử từ chiến tranh sang hoà bình.
Thuận lợi của cách mạng nước ta ở thời điểm đó chính là:
- Đất nước đã thống nhất, chiến tranh đã kết thúc, có thể tập trung mọi nguồn lực và mọi nỗ lực vào công cuộc tái thiết, đưa dân tộc ta đi lên trên con đường phát triển mới, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội để đem lại tự do, hạnh phúc cho toàn dân.
- Vị thế của Việt Nam sau thắng lợi có tầm vóc lịch sử của cách mạng, được nâng cao rõ rệt. Dân tộc ta đứng vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả của thời đại và thế giới nhân loại, vì hoà bình, độc lập, dân chủ, tiến bộ xã hội và chủ nghĩa xã hội. Cơ hội cho phát triển được mở ra sau chiến tranh.
Song khó khăn và những tình huống phức tạp cũng không ít. Đó là giải quyết những hậu quả nặng nề của chiến tranh, nhất là những hậu quả về mặt xã hội, khôi phục và phát triển kinh tế, giải quyết những nhu cầu bức xúc trong cuộc sống của nhân dân, khắc phục những khác biệt về đặc điểm, tính chất và trình độ phát triển giữa hai miền đất nước, đánh bại những âm mưu thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước Mười năm sau giải phóng miền Nam và cũng là 10 năm trước đổi mới là một giai đoạn hết sức khó khăn, phức tạp với không ít tình huống nảy sinh ngoài ý muốn, nhưng xét kỹ ra đó cũng lại chính là hệ quả của những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do chính chúng ta mắc phải. Phải nhận rõ điều này để hiểu đúng những nguyên nhân, cắt nghĩa đúng lý do phải đổi mới và tầm vóc của quyết sách chiến lược đổi mới do Đảng ta khởi xướng ở Đại hội VI (1986).
Có thể nêu vắn tắt mấy điểm dưới đây:
- Hai cuộc chiến tranh liên tiếp ở biên giới Tây Nam (1978) và phía Bắc (1979) tuy không dài nhưng hậu quả rất nặng nề về nhiều mặt mà phải mất nhiều năm sau nước ta mới bình thường hoá được quan hệ với Campuchia và Trung Quốc.
- Mỹ và phương Tây bao vây cấm vận đối với nền kinh tế nước ta, đặt nước ta vào một tình thế rất khó khăn.
Luận văn dài 54 trang, chia làm 3 chương
17 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 6938 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, nhìn từ thực tiễn Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ, NHÌN TỪ THỰC TIỄN VIỆT NAM
Hoàng Chí Bảo
GS.TS Triết học,
Hội đồng Lý luận Trung ương
_____
Kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực trọng yếu nhất của đời sống xã hội. Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị cũng là những nội dung quan trọng và nổi bật nhất trong tiến trình đổi mới ở nước ta trong hơn 20 năm nay và chắc chắn còn diễn ra lâu dài về sau.
Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong những mối quan hệ cốt lõi, chẳng những thuộc về lý luận đổi mới, phát triển và hiện đại hoá xã hội mà còn là nội dung hợp thành lý luận chủ nghĩa xã hội Việt Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hiểu đúng thực chất và giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị trong thực tiễn là vấn đề phức tạp, khó khăn nhất.
1- Tình hình kinh tế và chính trị nước ta trước đổi mới (75-85)
Sau giải phóng miền Nam (30-4-1975), Tổ quốc đã thống nhất, cả nước cùng quá độ tới chủ nghĩa xã hội. Đại hội IV của Đảng (1976) đã thông qua Nghị quyết quan trọng về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, bao gồm đường lối chung và đường lối xây dựng phát triển kinh tế.
Các văn kiện Đại hội nhấn mạnh tới những quan điểm lớn có tác dụng chỉ đạo và định hướng phát triển đất nước như xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng, trong đó cách mạng quan hệ sản xuất đi trước một bước, xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt và công nghiệp hoá là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ. Đại hội IV (và tiếp theo là Đại hội V vào năm 1981) còn đặc biệt nhấn mạnh vai trò của cách mạng tư tưởng văn hoá nhằm xây dựng con người mới, lối sống mới xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng lý tưởng, thực hiện chế độ làm chủ tập thể, coi đó là mục tiêu, động lực của phát triển, thể hiện bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Kèm theo đó là một hệ thống chỉ tiêu phát triển để phấn đấu thực hiện trong kế hoạch 5 năm (76-81), điển hình là sau kế hoạch 5 năm sẽ đạt 21 triệu tấn lương thực.
Một sự kiện quan trọng diễn ra tại Đại hội IV là đổi tên Đảng và đổi tên nước, từ tên gọi “Đảng Lao động Việt Nam” thành “Đảng Cộng sản Việt Nam”, từ nước “Việt Nam dân chủ Cộng hoà” thành nước “Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Có thể nói, thể chế chính trị và thể chế kinh tế – xã hội nước ta được xác lập theo đặc trưng chế độ xã hội chủ nghĩa và mô hình chủ nghĩa xã hội, mang những nét phổ biến của chủ nghĩa xã hội hiện thực thế giới lúc bấy giờ với những ảnh hưởng khá đậm nét của mô hình Xô viết.
Sau khi cách mạng miền Nam đã hoàn toàn thắng lợi, sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước suốt 30 năm (1945-1975) đã kết thúc, đất nước bước vào một kỳ mới, thuận lợi đan xen cùng khó khăn, tình hình mới, nhiệm vụ và yêu cầu mới đặt ra rất nhiều vấn đề trong bước chuyển tiếp lịch sử từ chiến tranh sang hoà bình.
Thuận lợi của cách mạng nước ta ở thời điểm đó chính là:
- Đất nước đã thống nhất, chiến tranh đã kết thúc, có thể tập trung mọi nguồn lực và mọi nỗ lực vào công cuộc tái thiết, đưa dân tộc ta đi lên trên con đường phát triển mới, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội để đem lại tự do, hạnh phúc cho toàn dân.
- Vị thế của Việt Nam sau thắng lợi có tầm vóc lịch sử của cách mạng, được nâng cao rõ rệt. Dân tộc ta đứng vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả của thời đại và thế giới nhân loại, vì hoà bình, độc lập, dân chủ, tiến bộ xã hội và chủ nghĩa xã hội. Cơ hội cho phát triển được mở ra sau chiến tranh.
Song khó khăn và những tình huống phức tạp cũng không ít. Đó là giải quyết những hậu quả nặng nề của chiến tranh, nhất là những hậu quả về mặt xã hội, khôi phục và phát triển kinh tế, giải quyết những nhu cầu bức xúc trong cuộc sống của nhân dân, khắc phục những khác biệt về đặc điểm, tính chất và trình độ phát triển giữa hai miền đất nước, đánh bại những âm mưu thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước… Mười năm sau giải phóng miền Nam và cũng là 10 năm trước đổi mới là một giai đoạn hết sức khó khăn, phức tạp với không ít tình huống nảy sinh ngoài ý muốn, nhưng xét kỹ ra đó cũng lại chính là hệ quả của những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do chính chúng ta mắc phải. Phải nhận rõ điều này để hiểu đúng những nguyên nhân, cắt nghĩa đúng lý do phải đổi mới và tầm vóc của quyết sách chiến lược đổi mới do Đảng ta khởi xướng ở Đại hội VI (1986).
Có thể nêu vắn tắt mấy điểm dưới đây:
- Hai cuộc chiến tranh liên tiếp ở biên giới Tây Nam (1978) và phía Bắc (1979) tuy không dài nhưng hậu quả rất nặng nề về nhiều mặt mà phải mất nhiều năm sau nước ta mới bình thường hoá được quan hệ với Campuchia và Trung Quốc.
- Mỹ và phương Tây bao vây cấm vận đối với nền kinh tế nước ta, đặt nước ta vào một tình thế rất khó khăn.
- Nền kinh tế trong nước sa sút nghiêm trọng, đời sống nhân dân, nhất là các tầng lớp cơ bản rất khó khăn do lạm phát và khủng hoảng, đặc biệt là từ khi tổng điều chỉnh giá - lương – tiền vào năm 1985. Bên thềm của đổi mới, lạm phát “phi mã” tới 3 con số (776%), giá cả leo thang, hàng hoá khan hiếm, sản xuất trì trệ, đình đốn, lưu thông phân phối ách tắc và rối loạn, tình trạng người lao động thiếu việc làm và thất nghiệp là phổ biến. Vào lúc đó, đã từng có nhận định rằng, nền kinh tế nước ta đã đứng trên bờ vực thẳm của sự sụp đổ.
Hầu hết các chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội mà Đại hội IV đề ra đã không thực hiện được. Chỉ tiêu 21 triệu tấn lương thực, phải nhiều năm sau, khi đất nước đi vào đổi mới, tháo dỡ được các rào cản từ cơ chế bao cấp, phân phối bình quân, các quy định trái tự nhiên, kìm hãm sản xuất - lưu thông - phân phối theo kiểu “ngăn sông cấm chợ” mới thực hiện được.
Với kinh tế kế hoạch hoá tập trung và phương thức quản lý tập trung quan liêu, hành chính mệnh lệnh, bao cấp và bình quân, làm trái quy luật, mang nặng tính chủ quan duy ý chí, chúng ta đã tạo ra tình trạng thừa – thiếu giả tạo cả trong sản xuất và tiêu dùng. Kinh tế nhà nước, khu vực quốc doanh trong một thời gian dài rơi vào tình cảnh “lãi giả lỗ thật”. Kinh tế tập thể, các hợp tác xã, nhất là ở miền Nam với chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa và tập thể hoá một cách nhanh chóng đã đổ vỡ hàng loạt.
Điểm sâu xa của tình hình kinh tế nước ta trong 10 năm sau giải phóng mà lạm phát thì không kiểm soát được, mức độ suy thoái thì đã đến đáy, nền kinh tế không có động lực để phát triển… chính là sức sản xuất (lực lượng sản xuất) bị kìm hãm, không giải phóng được nên không phát triển được. Nó chịu tác động tổng hợp từ nhận thức lý luận sai, chính sách lạc hậu, cơ chế hỏng, cùng với bộ máy (thiết chế) và thể chế kinh tế chẳng những không thúc đẩy mà còn kìm hãm phát triển. Cách giải quyết về đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn là một ví dụ. Xoá bỏ sản xuất nhỏ trái với quy luật và lôgíc phát triển tự nhiên của nó, lại tạo lập sản xuất lớn không phải bằng tất yếu kinh tế mà bằng ý chí chủ quan nên hậu quả là kinh tế không phát triển, ngược lại ngày càng giảm sút. Lợi ích của người lao động không thực hiện được, bởi phương thức quản lý kinh tế bằng những công cụ và biện pháp phi kinh tế. Thực trạng kinh tế đó, tất yếu dẫn tới những tiêu cực nặng nề về phương diện xã hội, làm tiềm ẩn những mâu thuẫn và xung đột, niềm tin của dân chúng đối với Đảng và Nhà nước giảm sút nghiêm trọng. Chính trị là hệ quả của kinh tế – xã hội, và thực trạng kinh tế – xã hội đó cho thấy chính trị nước ta trong 10 năm sau khi đất nước thống nhất không đóng được vai trò thúc đẩy kinh tế phát triển, chẳng những thế, khi cái giá đỡ vật chất của kinh tế non yếu thì thượng tầng chính trị không thể vững mạnh, ổn định. Tâm trạng xã hội nao núng, suy giảm niềm tin, ngay một bộ phận cán bộ đảng viên trong Đảng cũng vậy, là một thực tế chính trị cho thấy nhiều điều bất ổn và nhu cầu cần một sự thay đổi đã hình thành một cách bức xúc và phổ biến. Những khuyết điểm, sai lầm nghiêm trọng trong chủ trương, đường lối, chính sách đã bộc lộ rõ rệt với hậu quả nặng nề. Sau này, khi khởi xướng đường lối đổi mới, Đảng ta đã đánh giá và tự phê bình nghiêm khắc những khuyết điểm sai lầm đó, đòi hỏi phải dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Đó là lực đẩy, là xuất phát điểm mạnh mẽ nhất của đổi mới.
Tóm lại, 10 năm sau giải phóng miền Nam, 10 năm trước đổi mới, chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội phát triển, mắc sai lầm về lý luận, cùng với các chủ trương, chính sách, giải pháp sai đã dẫn tới khủng hoảng. Chỉ có đổi mới, mới có thể thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng đó. Những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo, quản lý đã phải trả giá bằng cuộc khủng hoảng đó nhưng cũng qua đó mới có thể làm cho chúng ta giác ngộ ra điều hệ trọng này: đổi mới hay là chết, tồn tại hay không tồn tại? Thực tế 10 năm trước Đổi mới làm sáng tỏ mấy điều cốt yếu sau đây:
Thứ nhất, khi cách mạng chuyển giai đoạn cần có đột phá, thì trước hết cần phải đột phá về lý luận. Một lý luận đúng đắn sáng tạo, dẫn đường cho sự phát triển phải là lý luận được phát hiện từ trong thực tiễn, được thực tiễn kiểm chứng, lại cũng từ thực tiễn mà thúc đẩy tìm tòi lý luận mới chứ không phải lý luận cứng nhắc, bám vào sách vở, lệ thuộc giáo điều. Đổi mới đòi hỏi phải “làm mới” và hiện đại hoá lý luận. Đổi mới đòi phải có lý luận về Đổi mới.
Thứ hai, khi tình hình mới, nhiệm vụ mới và yêu cầu phát triển mới đã xuất hiện, đòi hỏi phải nhanh chóng thích ứng và kịp thời thay đổi cách nhìn, cách tổ chức và cách hành động. Chỉ dẫn của Lênin là còn nguyên giá trị: không thể giải quyết nhiệm vụ của ngày hôm nay bằng kinh nghiệm, hiểu biết của ngày hôm qua. Kéo dài một cái hợp lý đã đến độ tới hạn của nó, lập tức nó trở thành cái phi lý, không được cuộc sống chấp nhận. Khuyết điểm chẳng qua chỉ là sử dụng ưu điểm một cách quá mức cần thiết.
Thứ ba, nền kinh tế hiện vật, kế hoạch, phi hàng hoá, phi thị trường là không thể có triển vọng. Hơn thế nữa, còn không thể tồn tại được vì nó trái quy luật. Một nền kinh tế mà không có động lực kinh tế thúc đẩy, không được quản lý bằng những công cụ, những phương tiện mang sức mạnh tất yếu kinh tế, lại không mở cửa, hợp tác, cạnh tranh với thế giới bên ngoài là nền kinh tế thiếu sức sống từ bên trong. Nó thiếu điều kiện cho tăng trưởng và phát triển, do đó suy thoái, lạm phát, khủng hoảng là tất yếu. Cùng với kinh tế, nền chính trị nước ta, nhất là hệ thống tổ chức bộ máy, phương thức và phương pháp hoạt động vốn chỉ phù hợp với giai đoạn trước, lãnh đạo, quản lý, điều hành trong chiến tranh lẽ ra phải kịp thời thay đổi thì lại giữ nguyên như cũ, chẳng những không thúc đẩy mà còn kìm hãm phát triển. Do đó, để đổi mới kinh tế thì phải đổi mới chính trị cho tương thích, phải dân chủ hoá để phát triển.
2- Nhận thức mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị
Cơ sở lý luận để giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là xuất phát từ vai trò của kinh tế đối với phát triển xã hội và các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như khả năng tác động trở lại của nhân tố chính trị đối với kinh tế và đời sống xã hội.
Ai nấy đều biết quan hệ này là biện chứng chứ không phải siêu hình. Điều quan trọng là không cường điệu hoá, tuyệt đối hoá một yếu tố nào, cũng không tách rời biệt lập chúng với nhau. Cần phải thấy hết tính chế ước, quy định và quyết định của những nhân tố đối với sự phát triển xã hội, trong đó kinh tế quyết định chính trị, đồng thời cũng phải nhận rõ khả năng rất to lớn của chính trị, cả mặt tích cực và tiêu cực của nó khi tác động vào kinh tế. Tác động tích cực của chính trị sẽ xuất hiện khi đường lối chính trị và các quyết sách chính trị của chủ thể lãnh đạo, quản lý là đúng đắn, có cơ sở khoa học, đúng quy luật, phù hợp với thực tiễn và đáp ứng kịp thời, đúng lúc những đòi hỏi của phát triển kinh tế, lại có sự đồng bộ của thể chế, chính sách, cơ chế. Tác động tiêu cực của chính trị sẽ xảy ra khi chủ trương, đường lối chính trị sai lầm, không phù hợp với thực tiễn, chính sách và cơ chế lạc hậu, chậm thay đổi, chủ thể chính trị hoặc chủ quan duy ý chí, năng lực lãnh đạo, quản lý không ngang tầm với tình hình và yêu cầu mới hoặc phiêu lưu, mạo hiểm trong các quyết sách, mất phương hướng trong những thời điểm phát triển bước ngoặt.
Sự trì trệ của bộ máy, sự bất cập so với yêu cầu của đội ngũ công chức, quan chức trong bộ máy các cấp, những sự thoái hoá, biến dạng của con người chính trị mà điển hình là quan liêu, tham nhũng cũng là những tác nhân làm suy giảm sự phát triển kinh tế và sự ổn định, phát triển lành mạnh của xã hội. Chúng ta chú ý tới những luận điểm quan trọng của các nhà kinh điển về vấn đề này.
Mác và Ăngghen ngay ở thời kỳ xây dựng học thuyết khoa học và cách mạng của mình đã nhấn mạnh:
- Mọi sự biến thiên của lịch sử dù rích rắc đến thế nào thì cuối cùng vẫn lần thấy sợi dây của tính tất yếu kinh tế chi phối sự vận động của lịch sử.
- Xét đến cùng, kinh tế là nhân tố quyết định mọi tiến bộ lịch sử. Nó là nhân tố quan trọng và quyết định cuối cùng chứ không phải là nhân tố duy nhất quyết định.
- Tách rời tư tưởng với lợi ích thì tư tưởng sẽ bị mất tín nhiệm, nghĩa là tự nó làm nhục bản thân nó (“Gia đình thần thánh”, 1845).
- Nhà nước chuyên chính vô sản sẽ còn có tác dụng gì nữa, một khi nó trở nên bất lực trong việc giải quyết các nhiệm vụ kinh tế. Đặc biệt là Lênin, từ kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng Tháng Mười Nga và những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước Nga Xô Viết, ông đã nêu lên những luận đề có tính tổng kết rất sâu sắc về vai trò của kinh tế, của chính trị và quan hệ tác động qua lại giữa chúng với nhau.
Theo Lênin, kinh tế quyết định chính trị đồng thời chính trị không hề thụ động mà tác động trở lại đối với kinh tế. Trên một ý nghĩa nào đó mà xem xét thì chính trị cũng quyết định kinh tế. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị là kinh tế cô đọng lại. Chính trị không thể không giữ vị trí ưu tiên hàng đầu khi nó quyết định phương hướng phát triển kinh tế.
Cũng theo Lênin, chính trị có lôgíc khách quan của nó và chính trị cũng còn có lôgíc chủ quan của nó nữa.
Sự thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau giữa kinh tế và chính trị đến mức mà Lênin nhận xét rằng, khi đi vào xây dựng kiến thiết chủ nghĩa xã hội ở nước Nga thì nhiệm vụ nổi bật ở hàng đầu là phát triển kinh tế. Bởi thế, cái chính trị quan trọng nhất, có ý nghĩa nhất, lý thú nhất lúc này (tức thời điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội, cải cách kinh tế - xã hội với NEP) là làm kinh tế.
Đối với những người lao động xây dựng xã hội mới, vấn đề không dừng lại ở những lời hô hào, động viên và tuyên truyền, cùng với những điều đó, phải quan tâm đem lại lợi ích chính đáng, thiết thực hàng ngày của họ, là đem lợi ích đến cho họ. Việc áp dụng các đòn bẩy kinh tế, tạo động lực thúc đẩy hoạt động kinh tế và đem lại lợi ích cho người lao động - đó là điều hết sức cần thiết để giữ vững chế độ, mà trong NEP, Lênin nói rằng, thông qua việc áp dụng NEP, chủ nghĩa xã hội sẽ định hình là một chế độ hợp tác của những người lao động, văn minh.
Với lôgíc kinh tế quyết định chính trị thì cải cách, đổi mới phải bắt đầu từ đâu? Phải bắt đầu từ đổi mới kinh tế, đồng thời đổi mới chính trị cho phù hợp, cho tương thích với đổi mới kinh tế, từ thể chế, bộ máy đến con người. Theo Lênin, người ta cần đến kinh tế để khỏi bị chết đói và cần đến chính trị (chính trị đúng đắn, sáng suốt) để khỏi tự giết chết mình. Nói rõ hơn, Lênin đã nhấn mạnh, đối với một Đảng (ở đây là Đảng Cộng sản, nhất là khi Đảng đã chấp chính, tức là cầm quyền) trong những thời điểm bước ngoặt mà mất phương hướng chính trị thì sẽ đưa chính trị tới chỗ tự sát.
Dù thời gian đã cách xa, những chỉ dẫn của các nhà kinh điển nêu trên, với Mác-Ăngghen cách chúng ta ngày nay trên 150 năm, với Lênin cũng đã gần 100 năm, nhưng cho đến nay vẫn còn giá trị, vẫn mang tính thời đại, có tác dụng chỉ dẫn và cảnh báo.
Xem xét mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong tiến trình Đổi mới ở Việt Nam ta thấy có không ít các vấn đề cần được làm sáng tỏ không chỉ về phương diện nhận thức lý luận mà còn trong hoạt động thực tiễn , liên quan tới chủ thể lãnh đạo, quản lý (Đảng, Nhà nước), chủ thể sản xuất – kinh doanh (các tổ chức đơn vị kinh tế, các doanh nghiệp, công ty, tập đoàn, các doanh nhân), chủ thể tham chính (Mặt trận, các đoàn thể trong hệ thống chính trị) và đông đảo chủ thể xã hội (nhân dân, mọi người lao động, mọi công dân, các dân tộc, tôn giáo, kể cả cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài). Đổi mới là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, tất cả mọi người đều nhập cuộc với đổi mới, đều quan tâm tới Đổi mới, bởi Đổi mới đem lại cơ hội cho sự phát triển, quyền và lợi ích cho tất cả mọi thành viên trong cộng đồng xã hội và dân tộc Việt Nam. Đổi mới là một quyết sách chiến lược kịp thời, đúng lúc, đáp ứng nguyện vọng sâu xa và những đòi hỏi bức xúc của toàn dân, là sự gặp gỡ, thống nhất giữa ý Đảng, lòng dân, giữa thực tiễn với lý luận. Do đó, hiếm có một chủ trương, đường lối nào nhanh chóng đi vào cuộc sống như đường lối, chủ trương Đổi mới. Nó đi vào cuộc sống của mọi người, mọi nhà, thành hành động ở mọi cấp, mọi ngành, mọi địa phương và cơ sở. Có cả một thế hệ sinh thành cùng Đổi mới, trưởng thành trong Đổi mới, là sản phẩm của thời Đổi mới, mở cửa, hội nhập với kinh tế thị trường và Dân chủ hoá. Đổi mới không chỉ là cải cách mà thực sự là một quá trình cách mạng, cải biến cách mạng sâu xa, triệt để mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan tới những thay đổi về tâm lý, tư duy, ý thức xã hội, lựa chọn giá trị, thay đổi mô hình phát triển, thay đổi cái cũ, tạo lập cái mới trên các phương diện thể chế, chính sách, cơ chế, tổ chức bộ máy, bố trí hợp lý các nguồn lực, nhất là chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển. Đổi mới còn liên quan tới những thay đổi thuộc về tầm nhìn và hành động trong việc giải quyết các quan hệ đối ngoại, đường lối đối ngoại và chính sách ngoại giao của Đảng và Nhà nước nhằm phát huy nội lực, khai thông các ngoại lực hướng vào phát triển, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chỉ nhờ có Đổi mới mà tư duy mới về đối ngoại mới hình thành: Việt Nam mong muốn là bạn của tất cả các nước, sẵn sàng mở rộng các quan hệ hợp tác song phương và đa phương trên cơ sở cùng có lợi, cùng tôn trọng chủ quyền của nhau, cùng tin cậy, hợp tác để phát triển, không để những khác biệt về ý thức hệ và thể chế cản trở quá trình hợp tác và phát triển đó. Có thể coi đây là thông điệp chính thức mà Việt Nam gửi tới các bạn bè quốc tế, trong khu vực và trên thế giới. Đó không chỉ là quan điểm và chính sách đối ngoại, đó là một nỗ lực tổng hợp của cả đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị và phát triển văn hoá với sự mở rộng, giao lưu, tiếp xúc, đối thoại văn hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập.
Phải từ nội dung lớn, tầm vóc và ý nghĩa nhiều mặt như vậy của Đổi mới để nhìn nhận mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta, hơn 20 năm qua cũng như hiện nay và trong 1,2 thập kỷ tới. Sự hình thành, phát triển nhận thức lý luận về mối quan hệ này cũng là một quá trình. Những nhận thức mà qua kiểm nghiệm của thực tiễn cho thấy tính đúng đắn, phù hợp, hợp lý của nó cần phải được khẳng định và phát huy.
Những nhận thức mà chưa ngang tầm với những biến đổi của thực tiễn cần phải được bổ sung, phát triển. Cũng có cả những nhận thức ban đầu, khi vừa mới khởi động Đổi mới, có thể phù hợp với bối cảnh lúc bấy giờ nhưng giờ đây tỏ ra không còn phù hợp nữa hoặc còn thiếu hụt thì phải được điều chỉnh. Nói tóm lại, phải có cách nhìn động chứ không tĩnh, mở chứ không đóng kín, tức là biện chứng chứ không siêu hình trong việc nhận thức và ứng xử với mối quan hệ này. Theo đó, cần tập trung làm rõ mấy vấn đề cốt yếu dưới đây:
Một, vì sao khi tiến hành Đổi mới, phải chú trọng đổi mới trước hết về kinh tế, nhất là đổi mới tư duy kinh tế?
Nhấn mạnh đổi mới kinh tế lên hàng đầu, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đổi mới tư duy kinh tế, đó là một cách nhìn thực tế, xuất phát từ quan điểm thực tiễn của Đảng ta.
Bên thềm của Đổi mới, trong tình hình đặc biệt khó khăn của nền kinh tế nước ta, Đảng và Nhà nước đã ra sức tìm tòi những giải pháp để tháo gỡ, tập trung vào những điều chỉnh chính sách, cơ chế quản lý kinh tế. Đó là những quyết định quản lý các xí nghiệp công nghiệp, giải quyết mối quan hệ giữa 3 lợi ích: Nhà nước - tập thể và cá nhân, nhằm mở rộng quyền tự chủ cho xí nghiệp và cải thiện đời sống cho công nhân. Vào đầu những năm 80, ngay các địa phương cũng có những tìm tòi giải pháp nhằm khắc phục sự suy giảm kinh tế, vực dậy nền kinh tế đang đình đốn và giảm bớt gánh nặng về đời sống khó khăn của người lao động. Giải pháp bù giá vào lương của Long An là một ví dụ. Khoán trong nông nghiệp ở Đồ Sơn, ở Vĩnh Phú cũng là một ví dụ. Những thử nghiệm tìm tòi đó đã dẫn đến chỉ thị 100 của Ban Bí thư và sau này là Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về khoán sản phẩm trong nông nghiệp, khoán tới hộ gia đình nông dân xã viên, coi như một đột phá. Giá trị và sức sống của những quyết định này đã được thực tiễn xác nhận và sự đánh giá rất cao của dân chúng với tên gọi khoán 100 và khoán 10.
Một trong những văn bản quan trọng ở tầm quan điểm và có giá trị chỉ đạo của một Nghị quyết, đó là kết luận của Bộ Chính trị Khoá V về những quan điểm kinh tế lớn nhằm thúc đẩy sản xuất, khắc phục lạm phát, khủng hoảng, ổn định đời sống nhân dân.
Có thể nói, đổi mới kinh tế để tìm lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế, trong đó có vấn đề kiềm chế lạm phát và khắc phục lạm phát, cải thiện tình trạng mức sống quá thấp của dân cư. Đây là một tình huống đang rất căng thẳng và bức xúc, cần tập trung vào những giải pháp tình thế. Có đảm bảo được an sinh thì mới yên dân và quy tụ được lòng dân, sức dân, nhờ đó mới ổn định được chính trị và ổn định xã hội. Việt Nam tiến hành đổi mới trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới đang lâm vào trì trệ, khủng hoảng. Liên Xô và Đông Âu đồng loạt cải tổ, Trung Quốc thì tiến hành cải cách. Khi cải tổ thất bại, Liên Xô và Đông Âu đổ vỡ thể chế, tình hình càng trở nên khó khăn, phức tạp, thách thức về tồn tại và phát triển càng nghiêm trọng. Vào thời điểm ấy (89-91-93), ở Việt Nam vẫn đang diễn ra khủng hoảng, còn đang thử nghiệm cơ chế thị trường và bước đầu đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hoá, xây dựng một cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần để giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Song sự biến ở Liên Xô và Đông Âu làm cho nước ta mất gần hết các thị trường, các bạn hàng truyền thống trong hoạt động kinh tế đối ngoại, xuất nhập khẩu. Đế quốc Mỹ và phương Tây vẫn tiếp tục bao vây cấm vận. Những khoản viện trợ không hoàn lại theo tinh thần chủ nghĩa quốc tế không còn nữa. Chúng ta phải tự lực, phải sống bằng chính sức lực của mình chứ không phải như trước đây, một thời gian dài, trong chiến tranh, sống bằng viện trợ quốc tế. Những yếu kém thực sự của nền kinh tế, của quản lý kinh tế ở nước ta mới bộc lộ đầy đủ, lại bộc lộ trong một tình thế nguy hiểm là mất chỗ dựa từ hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới với Liên Xô là thành trì và trụ cột. Trong tình thế nguy hiểm đó, thực tiễn đổi mới của Việt Nam dù mới khởi động vài ba năm đầu đã cho thấy, kiên trì và quyết tâm đổi mới, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của đổi mới là cực kỳ quan trọng, đó thực sự là phương hướng chính trị của đối mới. Đó cũng là nguyên tắc chính trị, đảm bảo chính trị của đổi mới. Liên Xô, Đông Âu thất bại, hệ thống xã hội chủ nghĩa tan vỡ vì đã xa rời định hướng và nguyên tắc đó. Đặc biệt là bài học phản diện từ cải tổ ở Liên Xô vừa thức tỉnh vừa cảnh báo cho Việt Nam. Liên Xô khi cải tổ đã bắt đầu bằng chiến lược tăng tốc trong kinh tế, trong kỹ thuật và công nghệ, trong việc thay đổi các chính sách xã hội. Không thấy có hiệu quả, cải tổ chuyển sang cải tổ chính trị, thay đổi xáo trộn tổ chức bộ máy và nhân sự trong lãnh đạo ở cấp cao (101 uỷ viên Trung ương, trong đó có nhiều uỷ viên Bộ Chính trị phải ra khỏi bộ máy). Rồi công khai hoá, dân chủ hoá đã không cân nhắc kỹ lưỡng dẫn tới rối loạn, hỗn loạn, làm thức dậy các thế lực cực đoan, phá hoại cải tổ, bới tung quá khứ, chối bỏ truyền thống mà người ta gọi là sự phỉ báng lịch sử, ném đá vào lịch sử, báo hiệu những nguy cơ tiềm ẩn của đổ vỡ, mà kết cục đúng là như vậy, hơn nữa đổ vỡ lại đồng loạt và đến rất nhanh.
Từ đây, đổi mới của Việt Nam đã làm rõ, phải tập trung đổi mới kinh tế, phải trên cơ sở ổn định để đổi mới kinh tế đem lại hiệu quả, có sức thuyết phục và củng cố được niềm tin của dân chúng thì mới tiến hành đổi mới chính trị.
Một khi đổi mới kinh tế chưa được chứng thực về kết quả, hiệu quả, mà đã vội vã, phiêu lưu đi vào cải cách xã hội, đổi mới chính trị như ở Liên Xô và Đông Âu thì không thể tránh khỏi thất bại. Nhấn mạnh đổi mới ở Việt Nam, trước hết là đổi mới kinh tế không chỉ dựa trên căn cứ thực tiễn là tình huống khủng hoảng của nền kinh tế nước ta mà còn xuất phát từ vai trò, tác động của đổi mới kinh tế đối với chính trị và xã hội, đặc biệt là giữ vững ổn định chính trị, sự bền vững của chế độ, giữ vững địa vị cầm quyền của Đảng, quyền kiểm soát xã hội của nhà nước, quyền sống và quyền làm chủ của nhân dân.
Đây còn là vấn đề bước đi của tiến trình đổi mới, là lôgíc của đổi mới, sao cho đổi mới phải góp phần vào ổn định chính trị tích cực, tạo được động lực phát triển, làm lành mạnh xã hội và các quan hệ xã hội. Chỉ có thành công (dù là bước đầu) trong đổi mới kinh tế thì mới có sự thuyết phục đối với người dân, mới tạo tiền đề cho phát triển, làm tăng thêm sức lực cho xã hội chứ không gây ra tổn thương xã hội. Thực tế đã cho thấy, tổn thương xã hội đã xảy ra ở Liên Xô và Đông Âu là do đã vội vã, chủ quan, phiêu lưu trong cải tổ chính trị và hệ thống chính trị không tính đến các nhân tố kinh tế và xã hội .
Đổi mới kinh tế còn là nội dung chủ yếu và chương trình hành động trực tiếp của đổi mới với bước chuyển quan trọng là chuyển sang thể chế, cơ chế thị trường, phát triển kinh tế thị trường.
Đổi mới ở nước ta trước hết là đổi mới tư duy và trong đổi mới kinh tế, Đảng ta lại nhấn mạnh phải chú trọng tới tư duy kinh tế. Đây là vấn đề của lý luận, của tư duy lý luận để hình thành nhận thức lý luận mới về chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là điểm cốt lõi của lý luận đổi mới, lý luận về phát triển và hiện đại hoá xã hội ở nước ta, mà ở thời điểm hiện nay chúng ta đang quan tâm nghiên cứu nhằm tổng kết, bổ sung, phát triển Cương lĩnh (1991), soạn thảo chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm (2011-2020) và Báo cáo chính trị Đại hội XI của Đảng (2011).
Tư duy kinh tế trong Đổi mới kinh tế ở nước ta lại bao gồm hàng loạt vấn đề của bước chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, thay đổi mô hình phát triển và phương thức quản lý, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp và bình quân để áp dụng cơ chế thị trường cạnh tranh, tuân theo quy luật giá trị, quy luật thị trường. Từ đó, phải thay đổi quan niệm về chính sách kinh tế, chính sách xã hội, về công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, nhất là xây dựng nhận thức mới về sở hữu, về thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thuộc về quy luật tổng quát của sự phát triển xã hội ở thời kỳ trước đổi mới đã nhận thức không đúng, vừa giáo điều vừa chủ quan duy ý chí, nhất là ở Đại hội IV (1976) phải được khắc phục triệt để.
Sâu xa của tư duy kinh tế trong đổi mới là giải phóng sức sản xuất, là vai trò của nhân tố con người, của nguồn lực con người trong phát triển. Nhờ tư tưởng giải phóng này mà mới có đột phá, mới hình thành nên triết lý của đổi mới: giải phóng – phát triển – sáng tạo. Đổi mới được thúc đẩy bởi những tư tưởng đó và cũng chỉ có thông qua đổi mới, mới có thể thực hiện được giải phóng lực lượng sản xuất, giải phóng ý thức xã hội, kết hợp hai tác nhân quan trọng: kinh tế hàng hoá với cơ chế thị trường và dân chủ hoá với cơ chế dân chủ. Những lực đẩy này đã đưa xã hội ra khỏi trạng thái sức ì và sự trì trệ, tăng trưởng nhanh, ổn định tích cực, phát triển, và ra khỏi khủng hoảng. Những điều đó cho thấy, đổi mới kinh tế dù là đặt lên tầm quan trọng hàng đầu và là bước đi trước tiên song sâu xa ra lại là đổi mới tư duy lý luận, làm cho lý luận có vai trò dẫn đường, soi sáng, hướng dẫn, thúc đẩy thực tiễn.
Thứ hai, đổi mới chính trị nhằm đảm bảo chính trị cho đổi mới kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo ổn định chính trị tích cực và xây dựng đời sống xã hội lành mạnh.
Chính trị là lĩnh vực quyền lực mà gắn với quyền lực là lợi ích, là tương quan giữa các nhóm lợi ích khác nhau, do đó chính trị là một vấn đề nhạy cảm và vô cùng phức tạp. Cũng do đó, khi xảy ra khủng hoảng chính trị thường rất dễ rơi vào tình trạng rối loạn, xã hội mất ổn định. Cải tổ, cải cách hay đổi mới chính trị, vì thế phải rất thận trọng. Những xử lý sai trong đổi mới chính trị thường dẫn xã hội lún sâu vào khủng hoảng và đổ vỡ.
Nhiều nước đã thành công trong cải cách kinh tế nhưng không dễ gì thành công trong cải cách chính trị, do xung đột, mâu thuẫn phe phái, tranh giành quyền lực mà dẫn tới đổ vỡ chế độ, trước hết là đổ vỡ cả thiết chế bộ máy lẫn thể chế.
Muốn đổi mới chính trị (hay đổi mới hệ thống chính trị) thành công thì phải có những tiền đề, điều kiện từ kinh tế, xã hội đến bản thân chính trị. Đổi mới chính trị, trong nhiều trường hợp đòi hỏi tính mạnh mẽ, quyết đoán, bản lĩnh dám chấp nhận và dám thay đổi song nhất thiết không được để những tính toán và hành động chính trị rơi vào phiêu lưu, tự phát.
Đổi mới chính trị có những đặc điểm phức tạp riêng của nó so với đổi mới kinh tế, có liên quan trực tiếp đến ý thức hệ của Đảng và xã hội, đến tổ chức bộ máy quyền lực, thể chế, đặc biệt là những ràng buộc pháp lý bởi Hiến pháp và pháp luật đang hiện tồn. Đó là chưa nói đến những con người chính trị, những nhân cách chính trị đã định hình, tâm trạng xã hội, truyền thống lịch sử và văn hoá, lối sống và tập quán và cả những động thái chính trị trong các quan hệ quốc tế. Cũng do đó, đổi mới chính trị không thể giản đơn, vội vã, nôn nóng và chủ quan. Những quyết định đưa ra trong đổi mới chính trị phải được cân nhắc, trù tính sao cho hợp lý, kịp thời và thực hiện được. Chủ thể cầm quyền và quản lý khi đưa ra quyết định cần phải biết rõ thái độ chính trị của các lực lượng xã hội, mức độ ủng hộ (thuận) và phản đối (nghịch) trong thực tế đến đâu, một khi quyết định được đưa ra. Sự sáng suốt và tính nhất quán trong chính trị đảm bảo cho nguyên tắc được giữ vững nhưng lại phải đi liền với tính linh hoạt, mềm dẻo sao cho nguyên tắc không trở thành cứng nhắc, cản trở những sự thay đổi, những đổi mới đã cần thiết, đã chín muồi.
Phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” mà Hồ Chí Minh đưa ra và nguyên tắc phương pháp luận của Lênin “Phân tích cụ thể một tình hình cụ thể” là những chỉ dẫn cần thiết trong thực hành chính trị. Dự báo những khả năng và những tình huống, lựa chọn các giải pháp, thiết kế các bước đi trong đổi mới chính trị là cả một vấn đề kết hợp giữa khoa học và nghệ thuật chính trị, phản ánh năng lực và bản lĩnh chính trị của chủ thể, ở đó trí tuệ khoa học được kết hợp nhuần nhuyễn với kinh nghiệm chính trị thực tiễn. Đổi mới chính trị còn đòi hỏi phải có những giải pháp và hình thức thích hợp nhất, bảo đảm hiệu quả tích cực khi thực thi các quyết định, hiệu ứng xã hội rộng lớn do các quyết định tạo ra, lại giảm thiểu được những hệ quả, hệ lụy tiêu cực có thể có xuống mức thấp nhất. Hồ Chí Minh luôn chú trọng tới yếu tố quyết định là nhân hoà, luôn nhấn mạnh tới đoàn kết, đồng thuận, cách ứng xử phải đúng lại phải khéo là vì vậy. Những đặc điểm và yêu cầu đó của đổi mới chính trị nếu được thể hiện và thực hiện tốt trong thực tiễn đổi mới thì đổi mới chính trị sẽ tạo ra nguồn xung lực mạnh mẽ để vừa đảm bảo vừa thúc đẩy đổi mới kinh tế, giữ vững được ổn định chính trị và góp phần làm lành mạnh xã hội.
Kinh nghiệm và thực tiễn cho thấy, đổi mới chính trị cần đến sự thống nhất và đồng bộ của một chỉnh thể các nhân tố:
- Hệ quan điểm và nguyên tắc (tầm nhìn).
- Các nhiệm vụ và các giải pháp (chương trình hành động).
- Các phương pháp, hình thức và bước đi (trình độ tổ chức thực hiện).
- Các điều kiện đảm bảo (những ràng buộc thực tế).
- Cơ sở xã hội để thực hiện và thúc đẩy (lòng dân, sức dân, sự ủng hộ của dân, sự đoàn kết và đồng thuận của xã hội hướng tới mục tiêu chung, lợi ích chung).
Rõ ràng, đổi mới chính trị là cần thiết, tất yếu trong tiến trình đổi mới xã hội, đổi mới kinh tế nhưng phải được chuẩn bị và quan trọng là kịp thời, đúng lúc. Không thể đi quá nhanh mà thiếu những đảm bảo, lại không thể chậm trễ làm mất đi tính tích cực của chính trị và làm nảy sinh những tình huống phức tạp bất lợi khi sự trì trệ, bảo thủ trong chính trị trở thành rào cản đối với đổi mới và phát triển, nhất là đối với đổi mới kinh tế.
Thường thấy, những bước tiến của đổi mới kinh tế, đổi mới xã hội sẽ tạo ra áp lực đối với đổi mới chính trị. Mặt khác, những tình huống phát sinh trong đổi mới kinh tế, xã hội (ví dụ: những chệnh hướng, sự phân hoá, phân tầng trong xã hội do phân hoá giàu – nghèo khi phát triển kinh tế thị trường, những bất công xã hội, tệ nạn và tiêu cực, “những điểm nóng” do mâu thuẫn, xung đột trong nội bộ xã hội và dân cư…) lại đòi hỏi chính trị phải có những quyết định điều chỉnh, xử lý, điều tiết hoặc định hướng.
Trong cả hai trường hợp đó, chính trị phải chủ động chứ không thể thụ động trước kinh tế và xã hội. Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị luôn luôn có các tác nhân xã hội và văn hoá. Giữa chúng vừa có tính thống nhất mà cũng vừa có những mâu thuẫn, những khác biệt và sự xung đột.
Tình huống chính trị phát triển theo chiều hướng xấu, có nguy cơ gây mất ổn định, rối loạn, khủng hoảng và đổ vỡ, có khi nảy sinh trong bản thân chính trị, cũng có khi là hệ quả từ những vấn đề kinh tế và xã hội chậm được giải quyết, giải quyết không đúng, hoặc bất lực không giải quyết được, các tình huống, sự kiện tự phát lan toả, gây ra rối loạn, hỗn loạn, ngoài tầm kiểm soát của chính trị; xã hội và thể chế xuất hiện những khoảng trống: khoảng trống ý thức hệ và khoảng trống quyền lực, kết cục ấy dẫn tới sự đổ vỡ, thất bại. Đó là điều mà chính trị và đổi mới chính trị phải chủ động phòng ngừa.
3- Khái lược sự phát triển nhận thức của Đảng về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta
Từ khi khởi xướng đường lối đổi mới ở Đại hội VI (1986) đến nay, trải qua hơn 2 thập kỷ đổi mới, nhận thức lý luận của Đảng về mối quan hệ nêu trên đã có những phát triển mới, quan trọng. Nhờ bám sát thực tiễn, tổng kết thực tiễn để kiểm chứng và phát triển lý luận, Đảng ta đã từng bước hình thành và phát triển lý luận về đổi mới, về chủ nghĩa xã hội Việt Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong đổi mới, về giải quyết các mối quan hệ liên quan trực tiếp tới đổi mới và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên trì lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Có thể nói tới những điểm căn bản sau đây:
- Đại hội VI (12-1986) khẳng định và nhấn mạnh những bài học nổi bật, chỉ đạo đường lối đổi mới, hành động đổi mới, phải tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức đúng vai trò của dân, phải xuất phát từ thực tiễn, có quan điểm, thái độ và phương pháp đúng trong đánh giá sự thật (nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật). Tinh thần cơ bản của đường lối Đại hội VI là giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế hàng hoá, áp dụng cơ chế thị trường và đẩy mạnh dân chủ hoá toàn diện các lĩnh vực đời sống xã hội.
- Đến Đại hội VII (1991) với việc thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và các Nghị quyết Trung ương sau Đại hội VII, Đảng ta đã định hình hệ quan điểm, nguyên tắc của đổi mới, nhấn mạnh hướng ưu tiên (đổi mới kinh tế), nhấn mạnh điều kiện tiên quyết (ổn định), nhấn mạnh nguyên tắc, phương châm; bước đi của đổi mới chính trị (thận trọng, từng bước, có kết quả, thúc đẩy kinh tế, tạo ổn định tích cực…). Nhấn mạnh đổi mới chính trị là đổi mới hệ thống chính trị, không phải là thay đổi chế độ mà là làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa phát triển đúng đắn, phát triển dân chủ, vì con người, vì quyền làm chủ của nhân dân. Xác định nội dung chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là đổi mới mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, là phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể. Những nguyên tắc được nhấn mạnh: hệ tư tưởng, vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của nhà nước, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giữ vững định hướng trong phát triển kinh tế, mở cửa, hợp tác song phương, đa phương.
- Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khoá VII, 1994) phân tích, đánh giá, cảnh báo 4 nguy cơ, đảm bảo cho đổi mới kinh tế, chính trị đúng hướng. Mô hình chính trị nhất nguyên một Đảng, đòi hỏi phải phát huy cao độ dân chủ.
- Đại hội VIII (1996) khẳng định, Việt Nam sau một thập kỷ Đổi mới (86-96) đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, dù một số tiền đề còn chưa vững chắc. Đất nước bước vào một thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chú trọng xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách hệ thống chính trị, thực hiện chiến lược cán bộ, đặc biệt là nghị quyết Trung ương 6, lần 2, Khoá VIII về đổi mới, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới.
- Đến Đại hội IX (2001), Đảng ta đã bổ sung mục tiêu dân chủ trong hệ mục tiêu của đổi mới, đã định hình nền kinh tế thị trường, thực hiện bước chuyển từ cơ chế thị trường sang kinh tế thị trường với kết cấu các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân, chú trọng thực hiện chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo, khắc phục những phân hoá giàu nghèo, có nguy cơ dẫn tới phân hoá giai cấp, giải quyết các điểm nóng, các xung đột, nhất là sự kiện Tây Nguyên (2001-2004), các tình huống về dân tộc, tôn giáo, về công nhân đình công, bãi công… Hệ thống chính trị cơ sở là một khâu xung yếu đã được đề cập trong nghị quyết Trung ương 5, Khoá IX cùng với các Nghị quyết về phát triển kinh tế hợp tác, về cổ phần hoá doanh nghiệp…
- Tổng kết lý luận - thực tiễn 20 năm đổi mới và văn kiện Đại hội X (2006), Đảng ta đã có những phát triển về đặc trưng chủ nghĩa xã hội, về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về quyết tâm sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, về Đảng lãnh đạo và cầm quyền. Hàng loạt các vấn đề về hệ thống chính trị, đổi mới hệ thống chính trị, đặc biệt là xây dựng Đảng, coi đó là khâu then chốt, về tổ chức cơ sở Đảng, về kiểm tra giám sát, về tư vấn phản biện, về đổi mới Mặt trận và các đoàn thể được đặt ra. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hình thành những đường nét cơ bản, nhất là thể chế kinh tế, thể chế luật pháp, thể chế chính trị – xã hội.
Sự phát triển của thực tiễn ở thời kỳ này còn có bước ngoặt lớn khi Việt Nam chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, nền kinh tế Việt Nam hoà nhập vào thị trường khu vực và thế giới.
Các vấn đề kinh tế, chính trị ngày càng thâm nhập vào nhau và đòi hỏi phải giải quyết tổng thể các vấn đề đó, nổi lên vấn đề tổ chức và cán bộ, chất lượng nguồn nhân lực, sự trong sạch của bộ máy, chống tham nhũng, tăng cường những đảm bảo chính trị hơn nữa cho sự phát triển kinh tế.
Thực tiễn phát triển hiện nay đòi hỏi có những đột phá mới, những phát triển nhận thức mới về mối quan hệ then chốt giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị.
4- Những vấn đề đặt ra
Từ nhận thức lý luận mới đã đạt được, từ phát triển thực tiễn hiện nay và trong bối cảnh, xu thế mới ở trong nước cũng như của thế giới và thời đại, có những vấn đề sau đây đang đặt ra đòi hỏi phải giải quyết xung quanh mối quan hệ nêu trên.
Một, về đổi mới kinh tế và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sở hữu xã hội để xác lập chế độ công hữu trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có nhận thức rõ ràng về sở hữu cá nhân, đó không chỉ là sở hữu tư liệu tiêu dùng mà trước hết là sở hữu tư liệu sản xuất. Quan hệ giữa sở hữu cá nhân với sở hữu xã hội, nhất là trong xu hướng phát triển mạnh mẽ sở hữu trí tuệ và hướng tới kinh tế tri thức. Vấn đề chủ đạo của kinh tế Nhà nước, vấn đề kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể là nền tảng của kinh tế quốc dân? Đặc biệt là nhận thức mới về kinh tế tư nhân để xác lập thái độ, quan điểm, chính sách phát triển kinh tế tư nhân.
Hai, từ thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta, từ chủ trương cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân, biến đổi cơ cấu xã hội nước ta, đòi hỏi một đánh giá chính thức về giai cấp (hay tầng lớp) tư sản ở Việt Nam trong kinh tế thị trường. Nhận diện, đánh giá và ứng xử như thế nào trong tình hình hiện nay?
Ba, trên thực tế, đổi mới chính trị ở nước ta không chỉ là đổi mới hệ thống chính trị như đã hiểu trước đây và hiện nay. Cần làm sáng tỏ quan niệm về đổi mới chính trị: mục tiêu, nội dung, đặc điểm, vai trò, thực chất và tác dụng của nó. Đổi mới chính trị có nội dung rộng hơn nhiều và càng ngày càng có tầm quan trọng trong phát triển. Khâu đột phá mới chính lại nằm ở lĩnh vực chính trị, đặc biệt là thể chế. Cái cốt lõi là Đảng Cộng sản cầm quyền, là nhà nước pháp quyền, là nền dân chủ và từ hệ thống chính trị mở rộng ra xã hội dân sự, phân định rõ hệ thống chính trị và hệ thống xã hội dân sự. Cùng với nó là vấn đề phản biện, giám sát xã hội trong một xã hội dân chủ, một nhà nước pháp quyền.
Bốn, vấn đề trình tự, bước đi của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Trong giai đoạn phát triển hiện nay, vấn đề đặt ra không còn là đổi mới kinh tế trước, đổi mới chính trị sau, mà là đồng thời, đồng bộ, hiệu quả, có đột phá mới. Cái gọi là bước đi chỉ mang tính tương đối, và trật tự ưu tiên, những điểm trọng yếu, mắt xích chủ yếu trong phát triển hiện nay, có khi lại là vấn đề chính trị, chính trị trong kinh tế, kinh tế trong chính trị.
Năm, thực chất mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị là ở đâu? Đó lại là vấn đề lý luận, tư duy lý luận, là lý luận – thực tiễn của phát triển, hiện đại hoá Việt Nam với hệ mục tiêu, động lực là con người – thể chế – tổ chức và chính sách phát triển./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doi_moi_kinh_te_va_doi_moi_chinh_tri_5045.doc