Mối quan hệ giữa hoạt động luật sư và thực hiện quyền tư pháp tại một số quốc gia trên thế giới

Khi hành nghề tại Tòa án, bằng các quy định khác nhau, các nước yêu cầu Luật sư còn phải đặc biệt tôn trọng Tòa án và việc thực hiện quyền tư pháp của Tòa án. Xuất phát từ yếu tố truyền thống – các tổ chức luật sư tranh tụng đầu tiên hình thành tại các tòa án theo mô hình “Inn of court”, mối quan hệ giữa tòa án với hoạt động nghề nghiệp của luật sư là tương đối chặt chẽ ở nhiều quốc gia trong việc cho phép luật sư hành nghề tại tòa án. Tại Anh: “Sau khi được công nhận, luật sư biện hộ phải ghi tên mình vào danh sách luật sư biện hộ tại một Tòa án, danh sách này do Tòa án tôi cao quản lý và được lưu giữ tại ́ “Inn of court”. Để được phép hành nghề, luật sư biện hộ phải tuyên thệ tại Tòa án nơi họ hành nghề”9. Quy định 8.01 của Liên đoàn Luật sư Newzealand trong Bộ quy tắc ứng xử nghề nghiệp đối với luật sư tranh tụng và luật sư tư vấn xác định: Nhiệm vụ quan trong nhất của luật sư tranh tụng tại các tòa án là, vì lợi ích của việc thực thi công lý. Do đó, người hành nghề có nghĩa vụ bảo đảm một cách tốt nhất các quyền lợi của khách hàng với các ràng buộc quan trọng hàng đầu: (1), không bao giờ được lừa dối hoặc gây nhầm lẫn cho Tòa án; (2) luôn luôn xử sự đúng mực trước Tòa án10. Ở Argetina, “có rất nhiều quy định về hoạt động của luật sư, nhiều trong số đó không chỉ xuất hiện trong các bộ quy tắc ứng xử hay các giới hạn mà đoàn luật sư đặt ra mà hiện diện khá phổ biến trong các đạo luật tố tụng. Vai trò của luật sư không chỉ giới hạn trong việc bảo vệ lợi ích của các bên, mà, rất quan trọng, còn là hỗ trợ Tòa án trong việc thực thi công lý”

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 83 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ giữa hoạt động luật sư và thực hiện quyền tư pháp tại một số quốc gia trên thế giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
80 MỐI QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG LUẬT SƯ VÀ THỰC HIỆN QUYỀN TƯ PHÁP TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI Lê Lan Chi1 Tóm tắt: Trong quá trình thực hiện quyền tư pháp, hoạt động luật sư có vai trò quan trọng, góp phần bảo đảm chất lượng, hiệu quả xét xử, nhất là khi phán quyết của tòa án phải dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa và nguyên tắc bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa đã được ghi nhận. Bài viết sau khái lược về quyền tư pháp, những vấn đề truyền thống và hiện đại của hoạt động luật sư, quản lý luật sư trên thế giới là những bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo trong quá trình thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Từ khóa: tư pháp, tòa án, thẩm phán, luật sư, nghề luật, tranh tụng, chống đối, xét xử, điều trần, nhân quyền, cải cách tư pháp. Nhận bài: 05/10/2017; Hoàn thành biên tập: 15/11/2017; Duyệt đăng: 28/11/2017. Abstract: The practice of legal professional of lawyers plays an important role to constitute to the quality and capacity of the judiciary, especially as the judicial judgments have to base on litigation and the principle of guarantee of litigation at hearing session has been enshrined. The traditional and contemporary of lawyers’ legal professional and the management thereof in the world are experiences for the exercising of judiciary in Vietnam. Keywords: judiciary, court, judges, lawyers, legal professional, litigation, adversarial, inquisitorial, adjudication, hearing, human rights, judicial reform. Date of receipt: 05/10/2017; Date of revision:15/11/2017; Date of approval: 28/11/2017. 1. Khái lược về quyền tư pháp Quan niệm truyền thống ở nước ta coi tòa án là một trong số các cơ quan tư pháp, hoạt động xét xử là một trong các hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, với cách đặt vấn đề tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp như Hiến pháp năm 2013: “Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”, như thế nào là “thực hiện quyền tư pháp”? cần hiểu khái niệm “tư pháp” và “quyền tư pháp” theo cách hiểu chung trên thế giới. Tư pháp là từ gốc Latin (Justitia) với ý nghĩa là công lý, công bằng, lẽ phải, cũng có nghĩa là việc phán xử mọi tranh chấp để đạt tới công lý, công bằng, lẽ phải. Với nguồn gốc Latin này, tư pháp không mang các nghĩa Hán Việt như lĩnh vực luật tư (tư pháp, để phân biệt với lĩnh vực luật công, công pháp) và cũng không phải là hoạt động giữ gìn, quản lý việc thực hiện pháp luật (tư: giữ gìn, quản lý; pháp: pháp luật). Sau này, “tư pháp” (Justitia) cũng được hiểu là hoạt động xét xử của quan toà, của toà án, là quyền xét xử của toà án. Về khái niệm “quyền tư pháp”, gắn với bối cảnh xuất hiện của khái niệm này trong tư tưởng Tam quyền phân lập của Montesquieu thế kỷ XVIII thì quyền tư pháp là một trong ba lĩnh vực/nhánh/chức năng của quyền lực nhà nước. Đồng thời, quyền tư pháp là thẩm quyền được trao cho duy nhất một hệ thống cơ quan trong bộ máy nhà nước là Toà án, để Toà án thực hiện quyền tư pháp là thực hiện chức năng tài phán, xem xét, đưa ra phán quyết phân xử những tranh chấp giữa các chủ thể trong đời sống xã hội, bao gồm cả các cơ quan nhà nước với tư cách là một bên của tranh chấp.Trong quá trình tiếp thu, tiếp biến tư tưởng chính trị - pháp lý của Montesquieu về tam quyền phân lập, từ quốc gia này sang quốc gia khác, hệ thống pháp luật này sang hệ thống pháp luật khác thì trong nhận thức và thực thi quyền tư pháp, quyền tư pháp trong tương quan với quyền lập pháp và quyền hành pháp còn bao gồm quyền đưa ra các giải thích pháp luật nếu các quy định của pháp luật dẫn tới nhiều cách hiểu khác nhau trong quá trình xét xử, quyền phán xét tính hợp hiến của các đạo luật và các chính sách của cơ quan hành pháp... 1 Tiến sỹ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội PHAÙP LUAÄT THEÁ GIÔÙI Soá 6/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 81 Ở Việt Nam, nội hàm khái niệm “tư pháp” được hiểu theo hướng mở rộng không chỉ là hoạt động xét xử, mà còn là các hoạt động tố tụng khác, hoạt động thi hành án, các hoạt động bổ trợ tư pháp... Độ vênh của khái niệm là tương đối lớn giữa cách sử dụng khái niệm này theo nghĩa hẹp hay theo nghĩa rộng như ở Việt Nam và nhiều quốc gia khác. Tất nhiên, độ vênh này không phải là tiêu cực, do có sự tiếp biến và tiếp cận khái niệm của mỗi quốc gia để phù hợp với văn hoá pháp lý và kể cả tập quán ngôn ngữ. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi hiểu quyền tư pháp là quyền xét xử và quyền này được trao cho tòa án. Các cơ quan tư pháp khác, luật sư và các chủ thể “bổ trợ” tư pháp khác không phải là chủ thể của quyền tư pháp, không thực hiện quyền tư pháp nhưng đều vận hành với mục tiêu chung là góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm cho “hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”2. 2. Hoạt động luật sư góp phần thực hiện quyền tư pháp – nhìn từ pháp luật một số quốc gia trên thế giới 2.1. Pháp luật của đa số các nước ghi nhận hoạt động luật sư với vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực thi quyền tư pháp, hiện thực hóa các mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người của Tòa án Hoạt động luật sư hay hoạt động hành nghề luật sư – người hành nghề của luật sư (practitioner) là một trong những điển hình của hoạt động hành nghề luật trong số những người theo đuổi nghề luật (legal professionals) bao gồm cả thẩm phán, kiểm sát viên/công tố viên, luật sư, công chứng viên Theo Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người:“bên cạnh các Thẩm phán, các Công tố viên độc lập và công bằng, Luật sư là trụ cột thứ ba để duy trì nền pháp quyền trong một xã hội dân chủ nhằm bảo vệ có hiệu quả quyền con người”3. Đối với việc thực hiện quyền tư pháp của tòa án, vai trò của luật sư thể hiện trước hết qua hoạt động tranh tụng: (1) trong vụ án hình sự, luật sư là chủ thể chính thực hiện chức năng gỡ tội - một trong ba chức năng của tố tụng hình sự; (2) trong vụ án phi hình sự, tham gia tranh tụng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các bên. Hoạt động tranh tụng của luật sư góp phần bảo đảm cho phán quyết của tòa án đem lại công lý cho các bên khách quan hơn, toàn diện hơn do được dựa trên kết quả tranh tụng của các bên tại phiên tòa. Nhìn lại lịch sử nghề luật sư và lịch sử tố tụng, hình ảnh những lần xuất hiện đầu tiên của luật sư tại các tòa án là hình ảnh vinh quang và cao quý của những hiệp sĩ, những “Advocatus”(người biện hộ)”, những người hùng bảo vệ kẻ yếu thế bị vướng vào vòng lao lý, bênh vực cho những người bị buộc tội trong hình thức tố tụng sơ khai đầu tiên của nhân loại – tố tụng tố cáo. Trải qua hàng ngàn năm, quyền bào chữa của người bị buộc tội trở thành một trong những quyền con người. Tuyên ngôn Nhân quyền của Cách mạng tư sản Pháp năm 1789 đã đề cập tới việc không ai bị xét xử nếu không có sự hỗ trợ pháp lý, đến năm 1966, Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự - chính trị đã ghi nhận: trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người đều có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng nhưng bảo đảm tối thiểu như: có đủ thời gian và điều kiện thuận lợi để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn, được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình... Luật sư - người biện hộ ngày càng tham gia với vai trò đáng kể hơn vào quá trình tố tụng và hoạt động biện hộ dần dần trở thành một chức năng của tố tụng hình sự, trong tố tụng tranh tụng và trong cả tố tụng xét hỏi hiện đại. Cùng với các chức năng buộc tội và chức năng xét xử thuộc về cơ quan công tố, Tòa án, chức năng gỡ tội mà luật sư là chủ thể chính tạo thành ba đỉnh của tam giác tố tụng. Luật sư bào chữa cho người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bên bị buộc tội trong thế đối tụng với bên công tố-buộc tội, tạo nên nguyên tắc/triết lý tố tụng: sự thật khách quan của vụ án được làm sáng tỏ qua tranh 2 Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 3 Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người, Quyền con người trong thi hành công lý, Sổ tay về quyền con người dành cho Thẩm phán, Công tố viên và luật sư (bản dịch của Vụ Hợp tác quốc tế, Tòa án nhân dân tối cao, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội, 2010, tr. 125 HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 82 tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội và phán quyết của tòa án trong việc thực hiện quyền tư pháp phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. 2.2. Luật sư hoạt động độc lập, hành nghề tự do để thể hiện vai trò phản biện, góp phần bảo đảm hiệu quả, sự minh bạch, dân chủ và độc lập trong thực hiện quyền tư pháp Tính độc lập của luật sư trở thành một trong những truyền thống, những giá trị của hệ thống tư pháp tại nhiều nước trên thế giới với triết lý: “sẽ không bao giờ có một hệ thống tư pháp độc lập nếu không có một hệ thống luật sư độc lập. Sự độc lập của hệ thống tư pháp không tồn tại trong chân không, được phản ánh qua sự độc lập của những người hành nghề luật sư”4. Luật sư được quan niệm là một nghề tự do và có tính độc lập rất cao. Tại Pháp, trước khi hành nghề, luật sư phải tuyên thệ khẳng định việc hành nghề trên tinh thần độc lập, trung thực và trách nhiệm như: “Với tư cách luật sư, tôi tuyên thệ sẽ thực hiện các nhiệm vụ của mình với tất cả danh dự, lương tâm, tinh thần trách nhiệm, độc lập, trung thực và nhân bản”. Tại Đức, nghê ̀luật sư được quan niêṃ là nghề tự do, luật sư hành nghê ̀độc lập không phụ thuộc vào cơ quan nhà nước, độc lập trong giải quyết các vấn đề pháp lý theo yêu cầu của khách hàng, còn tại Hồng Kông, tính độc lập của luật sư còn được thể hiện rõ nét trong mối quan hệ với chính các luật sư với nhau, luật sư tranh tụng phải hành nghề với danh nghĩa cá nhân mặc dù có thể cùng thuê chung phòng ốc nhưng điều này chỉ có ý nghĩa làm giảm các chi phí trong quá trình hành nghề5. Phương thức hành nghề tự do thể hiện ở việc luật sư không phải là một công chức, không phải là một chức vụ được đề cử hoặc đề bạt, mà là những người hội đủ điều kiện theo quy định của pháp luật và được cấp phép hành nghề luật sư. Sự tự do này phản ảnh quy luật cung cầu về dịch vụ pháp lý. Cá nhân, tổ chức nào cần và tìm đến dịch vụ luật sư thì luật sư sẽ cung cấp dịch vụ tương ứng, miễn là trong những giới hạn pháp lý và giới hạn đạo đức nghề nghiệp. Luật sư hoạt động trong lĩnh vực tranh tụng hay tư vấn là sự lựa chọn của luật sư và chất lượng hoạt động nghề nghiệp do khách hàng đánh giá. Sự tự do này bảo đảm cho tính độc lập của luật sư và tính phản biện từ hoạt động nghề nghiệp của luật sư đối với tính đúng đắn của các sản phẩm lập pháp, hành pháp và đặc biệt là tư pháp. Với quyền được áp dụng các biện pháp luật định để góp phần nhận diện sự thật của vụ án, đưa ra một cách nhìn khác về sự thật khách quan của vụ án cũng như quyền được đưa ra quan điểm đánh giá về tính hợp pháp và tính có căn cứ của các quyết định, hành vi tố tụng, hoạt động của luật sư mang tính phản biện rõ nét, sự phản biện này chỉ có thể có được khi họ có vị thế độc lập. Trong văn hóa nghề luật của nhiều nước trên thế giới, tính phản biện của luật sư được đề cao để giúp cho tòa án công minh hơn, khách quan hơn khi đưa ra phán quyết. Các bản án được Tòa án công bố công khai tạo nên một thành tố của văn hóa pháp luật, trong thành tố văn hóa đó, sự phản biện của luật sư, những lập luận của luật sư được tôn trọng và ghi lại cẩn thận, góp phần đưa lại những phán xử hợp lý của chủ thể thực hiện quyền tư pháp cho các vụ án sau này và cũng góp phần định hình tư duy luật học (legal – reasoning), tư duy phản biện cho các thế hệ hành nghề luật tương lai đang ngồi trong các giảng đường trường luật. 2.3. Hoạt động luật sư được thúc đẩy để mở rộng các cơ chế giải quyết tranh chấp khác, giảm tải áp lực cho Tòa án trong việc thực hiện quyền tư pháp Trong tố tụng hình sự, cùng với việc mở rộng mô hình tố tụng tranh tụng và tăng cường vai trò của luật sư tranh tụng tại phiên tòa như đã đề cập ở trên, cơ chế “mặc cả nhận tội” hay “thương lượng lời khai” (plea bargaining) cũng trở nên phổ biến hơn. Cơ chế này cho phép bên bị buộc tội và bên buộc tội thương lượng, thỏa thuận với nhau, nếu bên bị buộc tội nhận tội, họ có thể được rút bớt nội dung truy tố trong cáo trạng, 4 Charles E. Wyzanski, The new meaning of justice (Essay in judgemnet, ethics, and the law), Bantam Book, published by an arrangement with Little, Brown and Company in association with the Atlantic monthly Press,1966, p. 177 5 Denis G. Brock, Clifford Chance, Trial and Court Procedures in Hongkong, Trial and Court procedures world wide (paper from the 1990 Biannual Meeting of the International Bar Association held in NewYork, Editor: Charles Platto, Graham & Trotman and International Bar Association, ISBN 1-8533-608-4), p.17 Soá 6/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 83 được miễn truy tố bổ sung tương đương hoặc truy tố bố sung nặng hơn, được bên buộc tội đề xuất Tòa án áp dụng mức án nhẹ hơn... Quá trình đàm phán này thường không thể thiếu sự hiện diện của luật sư. Hoạt động của luật sư trong trường hợp này thể hiện vai trò của những nhà đàm phán chuyên nghiệp với bên công tố nhằm đạt tới một thỏa thuận có lợi nhất cho thân chủ, đồng thời, cũng giảm tải một khối lượng công việc đặc biệt lớn cho Tòa án. Tại Hoa Kỳ, “chỉ 10% hoặc ít hơn các vụ án được giải quyết bằng các phiên tòa xét xử”6. Con số 10% hoặc thậm chí ít hơn các vụ án hình sự chỉ đưa ra xét xử là kết quả của thương lượng giữa luật sư bào chữa và công tố viên trước khi xét xử nên gánh nặng của Tòa án đã được giảm đi rất đáng kể, vai trò của Tòa án sau đó chủ yếu là chỉ là kiểm tra tính có căn cứ, tính hợp pháp của thỏa thuận nhận tội. Vai trò của luật sư còn được thể hiện trong hoạt động tư vấn và cung cấp các dịch vụ pháp lý khác. Nhóm hoạt động tư vấn và cung cấp các dịch vụ pháp lý khác của luật sư góp phần giải tỏa áp lực công việc cho tòa án, giảm bớt số lượng vụ án, vụ việc được đưa ra giải quyết tại Tòa án. Do sự hữu hạn về thời gian và nhân lực, khi bớt đi áp lực về số lượng, chất lượng xét xử - chất lượng thực hiện quyền tư pháp cũng sẽ được bảo đảm hơn. 2.4. Về nội dung hoạt động nghề nghiệp, ranh giới phân định giữa luật sư biện hộ và luật sư tư vấn ngày càng mờ nhạt, luật sư được “chuyên môn hóa” theo các lĩnh vực pháp luật cụ thể, qua đó thể hiện vai trò đồng hành với xu thế chuyên môn hóa trong các phán quyết tư pháp Như đã nêu, hoạt động luật sư xuất hiện trước hết là hoạt động tranh tụng với vai trò biện hộ. Những danh từ chỉ riêng luật sư tranh tụng/biện hộ (advocat, advocatus, barrister) và sự tôn xưng của xã hội đối với luật sư tranh tụng vẫn hiện hữu trong xã hội hiện đại. Yếu tố truyền thống trong sự phân định nghề nghiệp còn thể hiện đậm nét tại Anh cho tới ngày nay. Nước Anh với truyền thống luật án lệ điển hình của việc chỉ tồn tại hai hình thức hành nghề luật sư: luật sư tư vấn (solicitor) và luật sư biện hộ. Luật sư tư vấn có quan hệ trực tiếp với khách hàng, thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu của khách hàng. Luật sư biện hộ không liên hệ trực tiếp với khách hàng mà chỉ biện hộ tại Tòa án để tập trung vào việc tranh tụng, thực hiện tốt công việc tranh tụng, điều này còn có tác động gián tiếp mang tính tích cực với chất lượng thực hiện quyền tư pháp. Tuy nhiên, bên ngoài nước Anh và các nước khác trong khối Thịnh vượng chung, ngày một nhiều hơn các quốc gia không có sự phân biệt đáng kể giữa hoạt động luật sư tranh tụng và luật sư tư vấn và đang có xu hướng xóa nhòa ranh giới hai loại hoạt động luật sư này7. Nhưng nhìn từ một giác độ khác, sự phân định các hoạt động nghề nghiệp của luật sư cũng trở nên ngày một rõ nét theo sự phân công lao động xã hội, khi hệ thống pháp luật ngày càng đồ sộ và tính phức tạp của các vụ án, vụ việc ngày càng gia tăng, một luật sư không thể giỏi tất cả các lĩnh vực pháp luật. Cũng như sự phân khoa trong nghề y, đối với nghề luật, sự ra đời của các Tòa án, các thẩm phán, các luật sư “chuyên khoa” để giải quyết những loại án phức tạp, trong một lĩnh vực pháp luật hẹp là tất yếu khách quan. Luật sư “chuyên khoa” xuất hiện ở cả lĩnh vực luật công và luật tư, đặc biệt là luật tư với các luật sư chuyên về hợp đồng, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thừa kế, hôn nhân gia đình, lao động, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm... Sự phân công lao động luật sư theo lĩnh vực pháp luật là cần thiết, phù hợp với xu thế thời đại, và cũng tác động tích cực tới chất lượng chuyên môn theo hướng ngày càng chuyên sâu của hoạt động xét xử. Sự phân công lao động nghề nghiệp chỉ với các dạng luật sư tư vấn và luật sư tranh tụng mang tính chất truyền thống vẫn còn cần thiết nhưng không còn linh hoạt và đáp ứng những yêu cầu của xã hội hiện đại. 2.5. Hoạt động luật sư tuy tự do nhưng phải chịu những hình thức quản lý nhất định nhằm bảo đảm quyền lợi của khách hàng và bảo đảm cho việc thực hiện quyền tư pháp 6 James B. Jacobs, Quá trình phát triển của Luật hình sự ở Hoa Kỳ, bài chọn đăng trên Tạp chí điện tử của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Xét xử hình sự tại Hoa Kỳ, Tập 6, số 1, tháng 7 năm 2011, tr.13 7 Xem thêm Nguyễn Hà, Quan niệm và đặc điểm chung của nghề luật sư, Số chuyên đề pháp luật về luật sư, Bộ Tư pháp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Hà Nội, 2011, tr.5 HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 84 Quản lý hoạt động luật sư là sự kết hợp quản lý nhà nước và quản lý của các tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư, quản lý bằng pháp luật và quản lý bằng các quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp. Sự quản lý này là nhu cầu tất yếu khách quan do tính chất và vai trò hoạt động nghề nghiệp của luật sư. Hoạt động luật sư mang tính tự do, theo quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, trong khi đó, nghề luật sư gắn với số phận pháp lý của con người và góp phần bảo vệ công lý. Quản lý nhà nước thường thể hiện ở: điều kiện hành nghề luật sư và thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, các nghĩa vụ và các hành vi bị cấm và quyền, trách nhiệm của các tổ chức hành nghề luật sư. Các nước đều quy định về phương thức hành nghề và các tổ chức hành nghề luật sư: luật sư hành nghề với tư các cá nhân, hành nghề trong các văn phòng luật sư cá nhân, các công ty luật hợp danh (partnership), hoặc công ty hợp danh (société en participation- công ty hành nghề nhân danh các thành viên) hay các công ty dân sự nghề nghiệp (société d’exercice liberal) với chủ đích luật sư phải chịu trách nhiệm cá nhân, luật sư chịu trách nhiệm đến cùng mà không phải chỉ mang tính hữu hạn như các mô hình doanh nghiệp khác. Về quản lý của các tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư, các tổ chức này có trách nhiệm đối với các tổ chức hành nghề và các luật sư thành viên. Ví dụ, tại Bồ Đào Nha, Luật sư phải được Liên đoàn luật sư Bồ Đào Nha (Ordem dos Advocado) chấp nhận việc hành nghề8. Cách quản lý thông qua các hiệp hội luật này cũng tương đối phổ biến trên thế giới. Khi hành nghề tại Tòa án, bằng các quy định khác nhau, các nước yêu cầu Luật sư còn phải đặc biệt tôn trọng Tòa án và việc thực hiện quyền tư pháp của Tòa án. Xuất phát từ yếu tố truyền thống – các tổ chức luật sư tranh tụng đầu tiên hình thành tại các tòa án theo mô hình “Inn of court”, mối quan hệ giữa tòa án với hoạt động nghề nghiệp của luật sư là tương đối chặt chẽ ở nhiều quốc gia trong việc cho phép luật sư hành nghề tại tòa án. Tại Anh: “Sau khi được công nhận, luật sư biện hộ phải ghi tên mình vào danh sách luật sư biện hộ tại một Tòa án, danh sách này do Tòa án tối cao quản lý và được lưu giữ tại “Inn of court”. Để được phép hành nghề, luật sư biện hộ phải tuyên thệ tại Tòa án nơi họ hành nghề”9. Quy định 8.01 của Liên đoàn Luật sư Newzealand trong Bộ quy tắc ứng xử nghề nghiệp đối với luật sư tranh tụng và luật sư tư vấn xác định: Nhiệm vụ quan trong nhất của luật sư tranh tụng tại các tòa án là, vì lợi ích của việc thực thi công lý. Do đó, người hành nghề có nghĩa vụ bảo đảm một cách tốt nhất các quyền lợi của khách hàng với các ràng buộc quan trọng hàng đầu: (1), không bao giờ được lừa dối hoặc gây nhầm lẫn cho Tòa án; (2) luôn luôn xử sự đúng mực trước Tòa án10. Ở Argetina, “có rất nhiều quy định về hoạt động của luật sư, nhiều trong số đó không chỉ xuất hiện trong các bộ quy tắc ứng xử hay các giới hạn mà đoàn luật sư đặt ra mà hiện diện khá phổ biến trong các đạo luật tố tụng... Vai trò của luật sư không chỉ giới hạn trong việc bảo vệ lợi ích của các bên, mà, rất quan trọng, còn là hỗ trợ Tòa án trong việc thực thi công lý”11. Như vậy, từ truyền thống tới hiện đại, luật sư có vai trò quan trọng với việc thực hiện quyền tư pháp, vai trò này mang tính khách quan xuất phát từ vị thế và hoạt động nghề nghiệp của luật sư. Những điểm chung về tổ chức hoạt động nghề nghiệp của luật sư của các quốc gia và truyền thống pháp luật trên thế giới tiếp tục là những tham chiếu hữu ích đối với Việt Nam trong quá trình thực hiện quyền tư pháp và hội nhập quốc tế./. 8 M.P. Barrocas, Trial and Court procedures in Portugal, Trial and Court procedures world wide (paper from the 1990 Biannual Meeting of the International Bar Association held in NewYork, Editor: Charles Platto, Graham & Trotman and International Bar Association, ISBN 1-8533-608-4), p.156 9 Học viện Tư pháp, Giáo trình luật sư và nghề luật sư, tr.24 10 Lyn L. Steven, Kerry W. Fulton, Trial and Court procedures in Newzealand civil cases, Trial and Court procedures world wide (paper from the 1990 Biannual Meeting of the International Bar Association held in NewYork, Editor: Charles Platto, Graham & Trotman and International Bar Association, ISBN 1-8533-608-4), p.63 11 Marcelo Eduardo Bombau, Trial and Court procedures in Argentina, Trial and Court procedures world wide (paper from the 1990 Biannual Meeting of the International Bar Association held in NewYork, Editor: Charles Platto, Graham & Trotman and International Bar Association, ISBN 1-8533-608-4), p.189

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmoi_quan_he_giua_hoat_dong_luat_su_va_thuc_hien_quyen_tu_pha.pdf
Tài liệu liên quan