Hoạt động khai thác cát sông đã góp phần làm cho
lòng dẫn sông Tiền đoạn chảy qua tỉnh Đồng
Tháp diễn biến rất phức tạp theo xu hướng mở
rộng lòng và hạ sâu đáy (Kết luận tương tự cũng
khẳng định trên sông Đồng Nai (Hà Quang Hải,
2007)). Hạ sâu đáy liên quan trực tiếp đến hoạt
động khai thác cát tập trung của các xáng cạp,
xáng guồng. Còn quá trình mở rộng lòng liên
quan đến quá trình xói lở bờ do lấy đi một lượng
lớn trầm tích, các vách bờ có nguy cơ đổ sập
xuống do mất cát sát ở chân bờ. Quá trình biến
động bờ sông, nhất là tình trạng xói lở ảnh hưởng
đến phạm vi, quy mô, sản lượng khai thác cát
sông Tiền. Mặt khác, quá trình biến động bờ sông
Tiền cũng ảnh hưởng đến quá trình khai thác cát.
Để giảm thiểu những tác động bất lợi do hoạt
động khai thác cát đến quá trình biến động bờ
sông cần có quy hoạch khoa học và thực hiện
nghiêm chỉnh quy hoạch các khu vực được khai
thác, cấm khai thác cát sông; thiết kế các quy trình
khai thác phù hợp cho từng thân cát. Ngoài ra,
công tác giáo dục, tuyên truyền nhận thức của
người dân cần được chú trọng
12 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 891 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ giữa khai thác cát với biến động bờ sông tiền tại tỉnh Đồng Tháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Journal of Science – 2016, Vol. 12 (4), 92 – 103 Part D: Natural Sciences, Technology and Environment
92
MỐI QUAN HỆ GIỮA KHAI THÁC CÁT VỚI BIẾN ĐỘNG BỜ SÔNG TIỀN
TẠI TỈNH ĐỒNG THÁP
Trịnh Phi Hoành1, Phạm Thế Hùng1
1Trường Đại học Đồng Tháp
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 03/04/2015
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
03/06/2015
Ngày chấp nhận đăng: 12/2016
Title:
The relationship between the
sand exploitation activities and
changes of Tien’s riverbank in
Dong Thap province
Keywords:
Wireless sensor network,
sensor, security
Từ khóa:
Mạng cảm biến không dây,
cảm biến, bảo mật
ABSTRACT
From the reality of riverbank changes (erosion and deposition) and sand
exploitation of Tien River in Dong Thap province, the article provides an
analysis of the relationship between these activities to determine their
interaction. The results show that the areas with intense sand mining activities
lead to the increase in riverbank changing. Reversely, the process of riverbank
erosion and deposition affects the sand reserve and the production of sand
mining. Therefore, to minimize the negative effects of sand mining to the
changes of Tien’s riverbank in Dong Thap province, Dong Thap officers need to
plan and efficiently manage the sand-mining-related activities in Tien river.
TÓM TẮT
Từ thực trạng biến động bờ sông (xói lở, bồi tụ) và khai thác cát ở sông Tiền
tỉnh Đồng Tháp, bài báo phân tích mối liên hệ giữa các hoạt động này nhằm
làm rõ tác động qua lại giữa chúng với nhau. Qua phân tích cho thấy, có mối
liên hệ giữa khai thác cát với xói lở, bồi tụ bờ sông: các khu vực có hoạt động
khai thác cát mạnh thì hiện tượng biến động bờ sông gia tăng. Ngược lại, quá
trình xói lở, bồi tụ bờ sông cũng ảnh hưởng đến trữ lượng, sản lượng khai thác
cát. Để hạn chế tác động tiêu cực của khai thác cát đến biến động bờ sông Tiền,
tỉnh Đồng Tháp cần quy hoạch, quản lý hiệu quả hoạt động khai thác cát sông.
1. GIỚI THIỆU
Sông Tiền là một trong hai chi lưu chính (cùng
với sông Hậu) của sông Mekong nên đặc điểm
thủy văn mang những đặc trưng chung của sông
Mekong ở vùng hạ lưu: chịu ảnh hưởng sâu sắc
của mưa trên lưu vực và thủy triều Biển Đông,
mùa lũ kéo dài khoảng 5 tháng (tháng 7 - tháng
11), mùa kiệt kéo dài 5 - 6 tháng (tháng 12 - tháng
4, 5 năm sau). Lưu lượng bình quân trung bình
năm đạt 11.500 m3/s, lưu lượng lớn nhất đạt
41.500 m3/s, lưu lượng nhỏ nhất là 2.000 m3/s.
Sông Tiền đoạn chảy qua tỉnh Đồng Tháp có
chiều dài khoảng 120 km, chiều rộng sông biến
đổi nhiều với chiều rộng từ 450 m (An Long, Tam
Nông) - 2.200 m (đầu cù lao Long Khánh, Hồng
Ngự); chiều sâu trung bình từ 10 m - 15 m; dòng
chính chảy qua 9/12 huyện/thị xã/thành phố (TP)
của tỉnh Đồng Tháp. Do đó, những sự thay đổi
của sông Tiền đều có tác động lớn đến sự phát
triển kinh tế - xã hội (KT - XH) của địa phương.
Trong những năm qua, biến động bờ sông Tiền
đoạn chảy qua tỉnh Đồng Tháp diễn biến khá phức
tạp, xu hướng chung là gia tăng quy mô, mức độ
chiếm ưu thế. Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy,
bên cạnh những nguyên nhân chính xuất phát từ tự
nhiên (động lực dòng chảy, cấu tạo của địa chất bờ
Journal of Science – 2016, Vol. 12 (4), 92 – 103 Part D: Natural Sciences, Technology and Environment
93
sông) thì các hoạt động KT - XH cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến quá trình biến động bờ sông,
nhất là hoạt động khai thác cát sạn bờ sông tại địa
phương (Trịnh Phi Hoành, 2014).
Do đó, đánh giá được mối quan hệ giữa hoạt động
khai thác cát sạn với hiện tượng xói lở, bồi tụ bờ
sông Tiền là rất cần thiết, nó cung cấp những cơ sở
khoa học cho việc quản lý, quy hoạch hoạt động
khai thác cát sạn, giảm thiểu những tác động bất lợi
làm gia tăng biến động bờ sông.
2. CƠ SỞ TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở tài liệu
Bài báo được hoàn thành từ kết quả nghiên cứu từ
đề tài cấp Bộ trọng điểm Nghiên cứu quy luật biến
động bờ sông Tiền đoạn chảy qua tỉnh Đồng
Tháp, đề xuất giải pháp ứng phó giảm nhẹ thiệt
hại do ThS. Trịnh Phi Hoành làm chủ nhiệm
(Trịnh Phi Hoành, 2015). Ngoài ra, còn sử dụng,
tham khảo một số tài liệu có liên quan như: báo
cáo của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng
Tháp, kết quả nghiên cứu của đề tài cấp Nhà nước
do Lê Mạnh Hùng làm chủ nhiệm (Lê Mạnh
Hùng, 2013).
2.2 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra thực địa
Tiến hành khảo sát trên toàn bộ tuyến sông Tiền
chảy qua tỉnh Đồng Tháp trong khoảng thời gian
từ 2013 - 2014. Mỗi năm tiến hành khảo sát 02
đợt (01 đợt trong mùa lũ và 01 đợt trong mùa
khô). Tại các điểm biến động bờ sông, tiến hành
đo đạc (chiều dài, chiều sâu) và quan sát trong
mối tương quan với hướng dòng chảy, cấu tạo bờ
sông, đặc điểm hoạt động KT - XH ven bờ.
- Phương pháp phỏng vấn nhanh
Tại các địa điểm biến động lớn chúng tôi tiến
hành phỏng vấn nhanh người dân sống xung
quanh theo các nội dung: thời gian xảy ra, mức độ
diễn biến và các hoạt động khai thác cát đoạn bờ
sông.
- Phương pháp tổng hợp, so sánh
Trên cơ sở kết quả thu được từ thực địa, phỏng
vấn tiến hành so sánh với báo cáo của Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Tháp. Đồng
thời, so sánh để thấy được mối tương quan giữa
khai thác cát sạn với biến động bờ sông Tiền.
- Phương pháp bản đồ, ứng dụng viễn thám và
GIS
Trên cơ sở các tài liệu, số liệu thu thập kết hợp
với phân tích ảnh viễn thám (Landsat, 1989 -
2013), chúng tôi tiến hành xử lý với sự hỗ trợ của
phần mềm Envi 5.0 và GIS để đánh giá thực trạng
biến động, tiến hành số hóa để thể hiện các kết
quả nghiên cứu trên bản đồ.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Hiện trạng biến động bờ sông Tiền tỉnh
Đồng Tháp
Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, hiện tượng
xói lở, bồi tụ bờ sông Tiền xảy ra khá phổ biến và
có xu hướng gia tăng ở tỉnh Đồng Tháp (xem
Hình 1).
3.1.1 Xói lở bờ sông
Sông Cửu Long nói chung và sông Tiền đoạn
chảy qua tỉnh Đồng Tháp nói riêng nằm ở khu vực
hạ lưu của đồng bằng châu thổ với địa hình thấp
và tương đối bằng phẳng, nền địa chất mềm yếu
nên dòng sông uốn khúc mạnh, có nhiều cù lao,
cồn bãi. Vì thế, quá trình diễn biến lòng dẫn xảy
ra thường xuyên. Trong giai đoạn 2000 - 2013,
xói lở bờ sông Tiền xảy ra trên phạm vi rộng: cả
9/9 huyện/thị xã/TP của tỉnh có sông Tiền chảy
ngang qua đều bị xói lở. Trong đó, xói lở bờ sông
xảy ra mạnh mẽ nhất tại các đoạn thuộc các huyện
Hồng Ngự, thị xã Hồng Ngự, huyện Thanh Bình,
TP. Cao Lãnh, TP. Sa Đéc. Theo kết quả nghiên
cứu của Trịnh Phi Hoành và cs. (2015), diễn biến
xói lở bờ sông Tiền tỉnh Đồng Tháp như sau:
- Đoạn sông Tiền chảy qua huyện Hồng Ngự và
thị xã Hồng Ngự
Đoạn sông Tiền thuộc khu vực huyện Hồng Ngự
và thị xã Hồng Ngự liên tục xảy ra xói lở trên diện
rộng từ năm 2000 đến nay. Biến động bờ sông
khu vực này liên quan mật thiết với sự phân chia
lượng nước qua các lạch (Bảng 1).
Journal of Science – 2016, Vol. 12 (4), 92 – 103 Part D: Natural Sciences, Technology and Environment
94
Bảng 1. Diễn biến phân chia lưu lượng sông Tiền ở cù lao Long Khánh theo các nhánh qua các thời kỳ
(Trần Bá Hoằng, 2014)
Năm
Lạch
Ghi chú
Hồng Ngự (%) Long Khánh (%) Cái Vừng (%)
1993 62,54 26,5 10,96 Hồng Ngự bị xói lớn
2003 48,93 48,68 5,39 Tương đối ổn định
2008 37,0 58,0 5,0 Long Khánh bị xói lớn
2010 32,4 62,6 5,0 Long Khánh bị xói lớn
2014 - - - Cái Vừng bị xói lớn
Trong giai đoạn này, xói lở bờ sông Tiền đoạn
chảy qua huyện Hồng Ngự xảy ra mạnh ở các xã
Thường Phước 1, Long Thuận, Long Khánh A,
Phú Thuận A, B với tổng chiều dài trên 30 km
trong khi chiều dài dòng chính sông Tiền chỉ
khoảng 25,6 km.
Tại xã Thường Phước 1, xói lở bờ sông xảy ra
mạnh ở Ấp I, II với chiều dài hơn 4,0 km, ăn
sâu vào bờ 2,0 m - 3,0 m.
Tại xã Long Thuận, xói lở bờ sông xảy ra
mạnh ở các ấp Long Hòa, Long Thạnh, Long
Hưng, Long Thời B với chiều dài bờ sông bị
xói lở 470 m, ăn sâu vào bờ từ 3,0 m - 40 m.
Năm 2014, xói lở bờ sông liên tiếp xảy ra (9
đợt) ở xã Long Thuận, nhất là các đợt xói lở
xảy ra cuối mùa lũ (đợt ngày cuối tháng 10,
đợt ngày 11/11/2014 ở ấp Long Thạnh).
Ở xã Phú Thuâṇ B, xói lở bờ sông thường diễn
ra ở đầu cù lao Châu Ma. Năm 2009, xảy ra
xói lở taị ấp Phú Trung, chiều dài 4.000 m, sâu
vào đất liền 2,0 m - 10 m, diêṇ tích mất đất 1,4
ha. Ngoài ra, xói lở đầu cù lao Tây thuộc xã
Phú Thuận B cũng diễn ra khá trầm trọng.
Tại Xa ̃Long Khánh A, xói lở maṇh ở ấp Long
Phước, chiều dài 5,5 km, xói sâu vào bờ 3,0 m
- 15 m.
Trong những năm gần đây, xói lở bờ sông ở
huyện Hồng Ngự còn xảy ra ở các xã Thường
Thới Hậu A, Thường Thới Hậu B thuộc sông
Sở Thượng - một phụ lưu của sông Tiền, hợp
lưu với sông Tiền tại thị xã Hồng Ngự.
Ở thị xã Hồng Ngự, trước năm 2000 tình trạng xói
lở bờ sông xảy ra khá mạnh ở các địa phương
thuộc thị xã Hồng Ngự (các phường An Lạc, An
Thành, An Lộc hiện nay) nhưng trong giai đoạn
sau năm 2000 tốc độ, phạm vi xói lở giảm (chủ
yếu ở các xã An Bình A, An Bình B) do sông
Tiền đang có xu hướng chuyển dòng chảy chính
theo hướng giữa cù lao Long Khánh và cù lao
Châu Ma cũng như dọc theo sông Cái Vừng. Vì
thế, xói lở xảy ra mạnh ở các xã thuộc cù lao
Long Khánh, cù lao Châu Ma còn bờ sông các
phường, xã thuộc thị xã Hồng Ngự ít xuất hiện
(chủ yếu ở xã An Bình A và phường An Lạc).
- Đoạn sông Tiền chảy qua huyện Thanh Bình
Dòng chính sông Tiền chảy qua huyện Thanh
Bình có chiều dài khoảng 26,2 km. Xói lở bờ sông
Tiền diễn ra mạnh và phức tạp ở các xã Tân Quới,
Tân Bình, An Phong, Tân Thạnh với tổng chiều
dài đường bờ sông bị xói lở từ 11,7 km (2009)
đến 14,9 km (2013). Trong đó, có những điểm bị
xói lở kéo dài từ 5,0 - 4.000 m, ăn sâu vào bờ 2,0
m - 15 m. Đoạn sông Tiền chảy qua huyện Thanh
Bình diễn biến khá phức tạp do sự tồn tại cù lao
Tây ở giữa dòng, sông Tiền phân thành 2 nhánh
gây xói lở cho các xã cù lao cũng như các xã nằm
ở tả ngạn sông Tiền thuộc huyện Thanh Bình (An
Phong, Tân Thạnh).
Journal of Science – 2016, Vol. 12 (4), 92 – 103 Part D: Natural Sciences, Technology and Environment
95
- Đoạn sông Tiền chảy qua TP. Cao Lãnh -
huyện Cao Lãnh
Đoạn sông dài khoảng 55 km, chảy qua TP. Cao
Lãnh và các huyện Cao Lãnh, Lấp Vò. Đoạn sông
này được xem một đỉnh của khúc sông cong hình
chữ S. Xói lở bờ xảy ra chủ yếu ở đầu cù lao như
ở cồn Trà xã Tân Thuận Đông và bờ trái thuộc các
xã Tân Thuận Tây thuộc TP. Cao Lãnh; xã Mỹ
Xương, huyện Cao Lãnh. Tháng 6/2014, một đợt
xói lở lớn xảy ra ở phường 11, TP. Cao Lãnh với
chiều dài gần 100 m, xoáy sâu xuống lòng sông
20 m, ăn sâu vào đất liền 25 m. Đợt xói lở đã
buộc Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Đồng Tháp
công bố tình trạng khẩn cấp và phê duyệt xây
dựng công trình khẩn cấp khắc phục sự cố sạt lở
với tổng vốn đầu tư hơn 9,9 tỷ đồng (UBND tỉnh
Đồng Tháp, 2014).
Ngoài ra, xói lở còn xảy ra ở xã Hòa An, Mỹ Tân,
phường 6, xã Mỹ An Hưng B, thị trấn Mỹ Thọ,
các xã Phong Mỹ, Mỹ Xương, Bình Hàng Trung,
Bình Hàng Tây, huyện Cao Lãnh với chiều dài xói
lở từ 250 m - 3.500 m. Trong đó, mạnh nhất ở xã
Mỹ Xương với tổng chiều dài trên 3.500 m, ăn
sâu vào bờ từ 1 m - 4 m.
- Đoạn sông Tiền TP. Sa Đéc - huyện Châu
Thành
Trước năm 2004, xói lở bờ sông xảy ra mạnh mẽ,
phức tạp trên địa bàn khu vực phường 3, TP. Sa
Đéc. Theo kết quả nghiên cứu của Guillaume
Brunier, Edward Anthony, Mireille Provancal &
Philippe Dussouillez (2012) cho thấy, giai đoạn
1989 - 2005, bờ phải sông Tiền thuộc Sa Đéc xói
lở ăn sâu vào bờ 670 m. Tuy nhiên, sau khi hoàn
thành công trình xây dựng bờ kè ở phường 3, 4
(giai đoạn 1, 2) tình hình xói lở diễn ra ở mức độ
ít nghiêm trọng hơn. Hiện nay, ở TP. Sa Đéc, xói
lở xảy ra khu vực xã Tân Quy Đông, phường 3
(đoạn chưa xây dựng kè chống xói lở) và khu vực
phường 4. Đến năm 2014, Sa Đéc có 40 hộ có nhà
nằm trong phạm vi cách mép sông 20 m cần phải
di dời, đến nay di dời được 22 hộ.
Còn ở huyện Châu Thành, xói lở bờ sông chủ yếu
xảy ra ở xã An Hiệp nhưng đang diễn biến phức
tạp. Khu vực này đang xây dựng bờ kè bảo vệ bờ
và đã thi công kè mỏ hàn nhằm hạn chế xói lở
nhưng tình trạng xói lở vẫn diễn ra. Tiêu biểu
như: ngày 13/7/2014, đợt xói lở ở ấp An Thạnh,
xã An Hiệp xảy ra cách bờ kè đang xây dựng
trong phạm vi ngắn; ngày 11 đến 13/5/2015 tại
ranh giới giữa ấp An Thuận và An Thạnh, xã An
Hiệp xói lở đã ăn sâu vào bờ 20 m - 30 m, kéo dài
hơn 50 m, làm lở gần 2.000 m2 đất, thiệt hại 5 căn
nhà. Đây là 2 trong số 7 đợt xói lở diễn ra ở khu
vực này trong hai năm 2014, 2015 (Lục Tùng,
2015).
3.1.2 Bồi tụ bờ sông
- Đoạn sông Tiền từ Tân Châu (An Giang) -
Thường Phước (Hồng Ngự, Đồng Tháp). Đây
là đoạn sông thuộc kiểu sông bện tết, lòng
sông mở rộng, có những doi cát ven và các doi
cát giữa dòng. Đoạn sông này, bồi tụ xảy ra
chủ yếu ở đuôi các cồn như cồn Cỏ (Mới), cồn
Chính Sách, cồn An Lạc, cồn Tào. Từ giai
đoạn 1995 - 2014, quá trình bồi tụ xảy ra mạnh
ở các cồn Cỏ, cồn Chính Sách, cồn An Lạc. Từ
năm 1995 - 2003, cồn Tào di chuyển mạnh về
phía Đông Nam và hình thành cồn Béo. Ngoài
ra, năm 2003, cồn Mới được hình thành, rộng
0,4 km do hai doi cát liền kề được hình thành.
Hiện nay, cồn Mới, cồn Chính Sách tiếp tục
được bồi đắp và mở rộng; cồn An Lạc, cồn
Béo tiếp tục được bồi đắp và nối liền với nhau,
kéo dài dọc sát bờ trái ở xã Thường Phước 2
(huyện Hồng Ngự). Quá trình xói lở ở đầu
cồn, cù lao; bồi đắp ở đuôi dẫn đến sự di
chuyển của cồn hay còn gọi hiện tượng “đảo
trôi”.
- Đoạn sông Tiền từ Thường Thới Tiền, Hồng
Ngự đến cù lao Long Khánh. Đây là đoạn sông
có sự phân nhánh: nhánh Bắc và nhánh Nam
cù lao Long Khánh. Ở nhánh Bắc, từ năm
2003 đến nay, quá trình bồi đắp đã hình thành
nên các doi cát thuộc ấp Long Phước, ấp
Thượng (xã Thường Thới Tiền). Ngoài ra, quá
trình bồi đắp còn diễn ra ở bãi bồi tụ lớn giữa
dòng sông - cù lao Thường Thới Tiền, hình
thành sau năm 1995 (Nguyễn Ngọc Lâm và
Journal of Science – 2016, Vol. 12 (4), 92 – 103 Part D: Natural Sciences, Technology and Environment
96
cs., 2010) có xu hướng nối vào cù lao Chà Vá
(Châu Ma) cũng như xuất hiện thêm hai doi
cát mới. Ở nhánh Nam, trước năm 2000 quá
trình bồi tụ chiếm ưu thế nhưng sau năm 2000,
xói lở xảy ra mạnh ở hai bờ (do sự hình thành
cù lao Thường Thới Tiền đẩy dòng chảy từ
nhánh Bắc chuyển sang nhánh Nam).
Hình 1. Bản đồ hiện trạng biến động bờ sông Tiền đoạn chảy qua tỉnh Đồng Tháp (thu nhỏ từ tỉ lệ 1:50.000)
- Sông Tiền đoạn chảy qua Sa Đéc. Khúc uốn
sông Tiền biến đổi nhiều lần hình thành nhiều
doi cát kế tiếp nhau ở bờ trái. Do đó, quá trình
bồi tụ xảy ra mạnh ở bờ trái kéo dài khoảng 13
km, mở rộng cồn Bình Thạnh, huyện Cao
Lãnh đối diện với xói lở ở bờ phải phía Sa
Đéc.
Ngoài các khu vực kể trên, bồi tụ lòng dẫn sông
Tiền còn xảy ra ở các đoạn ấp Phú Thành B, xã
Phú Thuận B, huyện Hồng Ngự; ấp Tân Bình Hạ,
Tân Huề Thượng thuộc xã Tân Hòa; ấp Thượng
xã Tân Quới; ấp Tân Phú A, xã Tân Bình huyện
Thanh Bình; (đầu cồn Lân, đuôi cồn Trà) xã Tân
Thuận Đông, TP Cao Lãnh.
3.2 Hiện trạng khai thác cát sạn trên sông
Tiền
3.2.1 Trữ lượng cát sông Tiền
Theo dự báo trữ lượng cát sông ở tỉnh Đồng Tháp
tập trung ở 14 thân cát là 191.831.924 m3 (gồm
135.273.573 m3 cát san lấp và 56.558.351 m3 cát
xây dựng). Trong đó, sông Tiền có 11 thân cát với
trữ lượng 173.835.776 m3, chiếm 90,6% trữ lượng
cát sông của Tỉnh (xem Bảng 2). Với trữ lượng
như vậy, Đồng Tháp được xem là tỉnh có trữ
lượng cát sông tương đối lớn ở vùng Đồng bằng
sông Cửu Long (ĐBSCL) (xem Hình 2).
Journal of Science – 2016, Vol. 12 (4), 92 – 103 Part D: Natural Sciences, Technology and Environment
97
Hình 2. Biểu đồ phân bố tài nguyên cát sông các tỉnh vùng ĐBSCL (Lê Mạnh Hùng, 2013)
Bảng 2. Trữ lượng cát sông Tiền tỉnh Đồng Tháp (UBND tỉnh Đồng Tháp, 2009)
Địa danh
Thân
cát
Diện tích
(m2)
Trữ lượng tài
nguyên (m3)
Trữ lượng cát
xây dựng (m3)
Trữ lượng cát
san lấp (m3)
Quy
mô
Hồng Ngự
C1 6.334.100 18.898.293 8.645.312 10.252.981 Lớn
C2 14.117.167 38.779.679 5.951.171 32.828.508 Lớn
C3 70.127 192.849 192.849 0 Nhỏ
C4 137.768 243.206 234.206 0 Nhỏ
C5 348.036 452.447 0 452.447 Nhỏ
Thanh Bình,
Hồng Ngự, Tam
Nông
C6 21.814.113 51.927.847 24.966.171 26.961.676 Lớn
Thanh Bình C7 82.826 99.391 0 99.391 Nhỏ
TP. Cao Lãnh,
Lấp Vò, Thanh
Bình
C8 10.030.759 24.982.904 12.951.382 12.031.522 Lớn
TP. Cao Lãnh,
Lấp Vò, Cao
Lãnh, Sa Đéc
C9 10.646.258 30.870.465 0 30.870.465 Lớn
Cao Lãnh, Châu
Thành
C10 2.179.735 5.313.104 0 5.313.104 Vừa
Châu Thành C11 548.577 2.084.593 0 2.084.593 Vừa
Tổng 66.309.466 173.835.776 52.941.091 120.894.685
Journal of Science – 2016, Vol. 12 (4), 92 – 103 Part D: Natural Sciences, Technology and Environment
98
3.2.2 Hiện trạng khai thác
Theo thống kê sơ bộ của Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF), tổng lượng cát và sỏi khai thác từ
sông Mekong năm 2011 vào khoảng 27 triệu m3, tương đương 43 triệu tấn, tổng lượng bùn cát khai thác
tại sông Mekong khu vực biên giới Campuchia - Việt Nam khoảng 18 triệu tấn. P. Jean & G. Marc
(2012) đã nêu rõ về thực trạng hoạt động khai thác cát trên thượng nguồn sông Mekong ở hội thảo của
Ủy hội sông Mekong quốc tế (MRC) tổ chức ngày 22 - 23 tháng 5 năm 2012 tại Phnom Penh,
Campuchia. Theo đó, tình trạng khai thác cát, sỏi diễn ra rất phổ biến ở các nước Lào, Thái Lan và
Campuchia. Có khoảng 54 khu vực ở Lào và Campuchia đã khai thác trong thời gian dưới 10 năm (tính
đến năm 2012). Khối lượng khai thác các loại vật liệu lòng sông; trong đó, cát vẫn là loại vật liệu được
khai thác nhiều nhất, khoảng trên 23 triệu m3/năm, chiếm 86,5%. Campuchia là nước khai thác nhiều
nhất trên sông Mekong, so với Lào và Thái Lan, chiếm khoảng 67,4%.
Riêng ở tỉnh Đồng Tháp, theo quy hoạch sản lượng khai thác cát sông hàng năm của tỉnh (giai đoạn 2009 -
2015) khoảng 10,1 triệu m3/năm, trong đó chủ yếu là khai thác từ sông Tiền (9,3 triệu m3, chiếm khoảng
92%). Đến giai đoạn 2016 - 2020, sản lượng khai thác trung bình hàng năm với công suất đạt 11,655 triệu
m3 (sông Tiền là 10,255 triệu m3, chiếm 88% sản lượng).
So với sản lượng khai thác theo quy hoạch thì sản lượng khai thác cát sông (sản lượng khai thác hàng
năm giai đoạn 2010 - 2013 trung bình khoảng 6 triệu m3/năm, Hình 3) ở tỉnh Đồng Tháp chưa tương
ứng. Hiện nay, ở tỉnh Đồng Tháp có 10 doanh nghiệp được cấp phép hoạt động với diện tích khai thác là
1.573,68 ha. Trong đó, chủ yếu là khai thác cát từ sông Tiền (Sở Tài nguyên và Môi trường (TN&MT)
tỉnh Đồng Tháp, 2013).
Bảng 3. Khối lượng khai thác vật liệu đáy sông ở thượng lưu sông Mekong (Jean, P & Marc, P., 2012)
Đoạn sông
Khối lượng khai thác
(1.000 m3/năm)
Cát Sỏi Đá Cộng
Thượng lưu Vientiane 87,0 0,0 7,0 94,0
Vientiane - Savanaketh 4.154 1.107 367 5.628
Savanaketh - Champasak 31,0 29,0 80,0 450
Campuchia: thượng lưu Kongpong Cham 580 2.038 0 2.618
Campuchia - Biên giới Việt Nam 18.160 7,0 0 18.167
Tổng cộng 23.322 3.171 454 26.957
Journal of Science – 2016, Vol. 12 (4), 92 – 103 Part D: Natural Sciences, Technology and Environment
99
Hình 3. Sản lượng khai thác cát sông ở tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2010 - 2013
Hình 4. Khai thác cát trái phép bị cảnh sát bắt trên sông
Tiền đoạn chảy qua huyện Hồng Ngự (ảnh Trà Giang)
Hình 5. Thuyền đang hút cát trên sông Tiền đoạn qua
TP. Sa Đéc
Hình 6. Khai thác cát bằng công nghệ hút thổi lên bờ
Hình 7. Khai thác cát bằng công nghệ hút thổi lên ghe
Sản lượng (m3)
Năm
Journal of Science – 2016, Vol. 12 (4), 92 – 103 Part D: Natural Sciences, Technology and Environment
100
Hình 8. Khai thác cát bằng công nghệ xáng cạp (Lê
Mạnh Hùng, 2013)
Hình 9. Khai thác cát bằng công nghệ xáng guồng trên
sông Tiền, xã Phú Thuận B, Hồng Ngự,
tỉnh Đồng Tháp
Tuy nhiên, trong thực tế sản lượng khai thác nhiều
hơn so với sản lượng báo cáo bởi nạn khai thác
cát lậu - không được cấp phép hay vượt quá
ngưỡng cho phép đang diễn ra rất phức tạp ở
Tỉnh. Chỉ tính riêng trong năm 2009, các lực
lượng chức năng ở Đồng Tháp đã phát hiện gần
100 trường hợp khai thác cát trái phép. Trong đó
điểm nóng khai thác cát trái phép tập trung chủ
yếu trên sông Tiền thuộc địa phận các xã Phú
Thuận B, Long Khánh A, Long Thuận của huyện
Hồng Ngự, khu vực có cát chất lượng tốt, dùng
làm vật liệu xây dựng. Gần đây nhất, theo nhiều
bản tin của các cơ quan thông tin đại chúng, ngày
4/6/2013, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm PC46,
Công an tỉnh Đồng Tháp đã tống đạt quyết định
khởi tố bị can đối với một số cán bộ huyện, lãnh
đạo công ty trong huyện Hồng Ngự về hành vi vi
phạm các quy định về khai thác cát. Theo báo cáo
của cơ quan chức năng phát hiện số phương tiện
khai thác cát trái phép trên sông Tiền tại khu vực
xã Thường Thới Tiền (huyện Hồng Ngự) lúc cao
điểm có khoảng 200 phương tiện (trong đó 10 sà
lan có trọng tải từ 100 đến 450 tấn, 50 ghe sắt từ
50 đến 150 tấn, ghe gỗ 15 đến 80 tấn) của các
doanh nghiệp, cá nhân thuê mướn hoạt động
“chui”, ngày đêm thi nhau “cào xé” lòng sông (Lê
Mạnh Hùng, 2013).
Bên cạnh vấn đề khai thác cát không theo quy
hoạch, trái phép thì tình trạng khai thác với những
công nghệ còn thủ công, chủ yếu là hút thổi (Hình
6, 7), xáng cạp (Hình 8) và xáng guồng (Hình 9).
Trong đó, khai thác bằng công nghệ hút thổi thì
gọn nhẹ, linh hoạt còn bằng xáng cạp, xáng guồng
thì có công suất lớn nhưng thường gây lãng phí
cát.
Như vậy, trong những năm qua tình hình khai thác
cát sông ở tỉnh Đồng Tháp đang có chiều hướng
gia tăng. Bên cạnh những khu vực được quy
hoạch để khai thác cát thì hoạt động khai thác cát
không theo quy hoạch, khai thác trái phép đang
diễn biến phức tạp. Trong những năm tới, tình
hình khai thác cát có chiều hướng gia tăng do nhu
cầu lớn. Theo Sở Xây dựng tỉnh Đồng Tháp, nhu
cầu cát cho xây dựng của Tỉnh giai đoạn 2011 -
2020 là 127,9 triệu m3, chưa kể khai thác cát để
xuất khẩu cũng như vận chuyển cho các tỉnh khác.
3.3 Tác động của khai thác cát đến biến động
bờ sông Tiền tỉnh Đồng Tháp
Hoạt động khai thác cát sông ở tỉnh Đồng Tháp
nói chung và trên sông Tiền nói riêng nếu được
quy hoạch và khai thác hợp lý sẽ mang lại những
tác động tích cực như giải quyết nhu cầu vật liệu
xây dựng cho địa phương và các tỉnh khác, tạo
công ăn việc làm cho người dân, góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế, khai thông luồng lạch, góp
phần gia tăng khả năng thoát lũ, giảm thiểu xói lở
bờ sông. Tuy nhiên, thực tế tại địa phương cho
thấy những tác động tiêu cực do khai thác cát
sông mang lại như cản trở hoạt động giao thông
đường thủy, gây ô nhiễm nước, không khí và
tiếng ồn, tác động xấu đến hệ sinh thái thủy, gây
mất an ninh, trật tự xã hội và tình trạng biến động
lòng dẫn, nhất là xói lở bờ sông.
Journal of Science – 2016, Vol. 12 (4), 92 – 103 Part D: Natural Sciences, Technology and Environment
101
Hình 10. So sánh cao độ lòng dẫn sông Tiền giữa các năm 1998 và 2008 (Brunier và cs., 2012)
Kết quả nghiên cứu của Brunier và cs. (2012) cho
thấy, có “dấu hiệu” của việc khai thác cát quá
mức làm cho lòng dẫn bị hạ thấp trong giai đoạn
1998 - 2008, trên sông Tiền từ 1 đến 1.8 m (Hình
10).
Ở cù lao Tân Phong (Thanh Bình) tình trạng xói
lở bờ đã diễn biến rất phức tạp, khó kiểm soát, có
những đoạn xói lở ăn sâu vào bờ từ 20 đến 30 m.
Qua kết quả khảo sát cho thấy, đây là khu vực
hoạt động khai thác cát diễn ra rất mạnh mẽ, các
hộ dân sống quanh các mỏ cát cho biết ban ngày
các phương tiện thường khai thác trong phạm vi
mỏ nhưng ban đêm tiến sát vào bờ để khai thác.
Các hoạt động khai thác cát không đúng quy định
gây ảnh hưởng xấu đến môi trường tự nhiên, KT -
XH là rất lớn: làm thay đổi lòng dẫn, dòng chảy,
gây xói lở bờ sông, làm ô nhiễm nguồn nước, ảnh
hưởng việc nuôi trồng thủy sản ở các bãi bồi.
Đối với hiện tượng xói lở, bồi tụ bờ sông: khi khai
thác gần bờ, độ sâu khai thác quá lớn dẫn đến mái
bờ bị mất ổn định và gây ra sạt lở. Việc khai thác
tập trung, ồ ạt tại một vị trí gần bờ hình thành nên
hố xói sâu, kết cấu dòng chảy bị thay đổi tạo ra
dòng xoáy gây ra xói lở đáy và bờ. Việc khai thác
ở các khu vực đầu bãi và hạ thấp độ sâu đầu bãi
có thể ảnh hưởng đến xói lở khu vực lân cận và
đuôi bãi do nhận được ít phù sa hơn.
Như vậy, với khối lượng vật chất khai thác ở lòng
sông, nhất là đoạn chảy qua hạ lưu như sông Tiền
tỉnh Đồng Tháp một mặt làm tăng tốc độ dòng
chảy mùa lũ (do sự tương phản độ dốc giữa
thượng và hạ lưu) và dòng chảy ngược của triều
(do thay đổi độ dốc tự nhiên của sông). Mặt khác,
sự khai thác cát còn làm thay đổi trắc diện (trắc
diện dọc, trắc diện ngang) tự nhiên lòng sông,
nhất là thay đổi đường tụ thủy tạo nên sự bất
thường của dòng chảy, gây xói lở bờ nhanh và bất
quy luật (Trịnh Phi Hoành & Lê Văn Ân, 2012).
3.4 Ảnh hưởng của biến động bờ sông đến
khai thác cát ở tỉnh Đồng Tháp
Bên cạnh sự ảnh hưởng của việc khai thác cát đến
biến động bờ sông thì ngược lại quá trình biến
động bờ sông Tiền cũng tác động đến quá trình
khai thác cát.
- Thuận lợi: sự biến động, nhất là quá trình bồi
tụ bờ sông, lòng sông là nguồn dự trữ cát lớn
(như đã nêu ở mục 3.2.1). Hiện nay, các khu
vực khai thác cát tập trung ở các bãi bồi như
Thường Phước 1, Thường Phước 2, Thường
Thới Tiền, cồn Mới (Hồng Ngự); xã An Bình
A (thị xã Hồng Ngự); xã Tân Thạnh (Thanh
Bình); cồn Linh (xã Bình Thạnh, Cao Lãnh)
(Sở TN&MT tỉnh Đồng Tháp, 2013).
- Khó khăn: quá trình biến động bờ, nhất là tình
trạng xói lở ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt
động khai thác cát về quy mô, phạm vi, trữ
lượng Hiện nay, một số khu vực cấm khai
thác trên sông Tiền như khu vực thị xã Hồng
Ngự, phà Tân Châu, cảng Đồng Tháp, phà Cao
Lãnh nhằm phòng tránh xói lở bờ các đoạn
Journal of Science – 2016, Vol. 12 (4), 92 – 103 Part D: Natural Sciences, Technology and Environment
102
sông có các công trình kinh tế, dân sinh quan
trọng.
4. KẾT LUẬN
Hoạt động khai thác cát sông đã góp phần làm cho
lòng dẫn sông Tiền đoạn chảy qua tỉnh Đồng
Tháp diễn biến rất phức tạp theo xu hướng mở
rộng lòng và hạ sâu đáy (Kết luận tương tự cũng
khẳng định trên sông Đồng Nai (Hà Quang Hải,
2007)). Hạ sâu đáy liên quan trực tiếp đến hoạt
động khai thác cát tập trung của các xáng cạp,
xáng guồng. Còn quá trình mở rộng lòng liên
quan đến quá trình xói lở bờ do lấy đi một lượng
lớn trầm tích, các vách bờ có nguy cơ đổ sập
xuống do mất cát sát ở chân bờ. Quá trình biến
động bờ sông, nhất là tình trạng xói lở ảnh hưởng
đến phạm vi, quy mô, sản lượng khai thác cát
sông Tiền. Mặt khác, quá trình biến động bờ sông
Tiền cũng ảnh hưởng đến quá trình khai thác cát.
Để giảm thiểu những tác động bất lợi do hoạt
động khai thác cát đến quá trình biến động bờ
sông cần có quy hoạch khoa học và thực hiện
nghiêm chỉnh quy hoạch các khu vực được khai
thác, cấm khai thác cát sông; thiết kế các quy trình
khai thác phù hợp cho từng thân cát. Ngoài ra,
công tác giáo dục, tuyên truyền nhận thức của
người dân cần được chú trọng.
LỜI CẢM TẠ
Chân thành cảm ơn Vụ Khoa học, Công nghệ và
Môi trường, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phê duyệt
để nhóm tác giả có thể thực hiện đề tài NCKH cấp
Bộ mã số: B2013.20.01.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Brunier, G., Anthony, E., Provancal., M. &
Dussouillez, P. (2012). Morphological
evolution of Mekong channel in the delta area:
natural or disrupted functioning?. Knowledge
of sediment transport and discharges in the
relation to fluvial geomorphology for detecting
the impact of large-scale hydropower projects
in the Mekong River basin. Phnom Penh,
Campuchia.
Hà Quang Hải. (2007). Biến động lòng sông Đồng
Nai do hoạt động khai thác cát sạn. Tạp chí
Các Khoa học về Trái Đất. 29(3), tr. 261-266.
Jean, P., & Marc, G. (2012). Sand and gravel
mining in the Mekong river, result of the 2011
WWF survey. Knowledge of the sediment
transport and discharges in the relation to
fluvial geomorphology for detecting the
impact of large - scale hydropower projects in
the Mekong river basin. Phnom Penh,
Campuchia.
Lê Mạnh Hùng. (2013). Nghiên cứu ảnh hưởng
của hoạt động khai thác cát đến thay đổi lòng
dẫn sông Cửu Long (sông Tiền, sông Hậu) và
đề xuất giải pháp quản lý, quy hoạch hợp lý.
Báo cáo tổng kết đề tài KHCN cấp Nhà nước,
mã số: ĐTĐL.2010/T29, Viện Khoa học Thủy
lợi miền Nam, TP Hồ Chí Minh.
Lục Tùng (ngày 14 tháng 5, 2015). Sạt lở công
trình chống sạt lở. Lao Động. Truy cập từ
Nguyễn Ngọc Lâm và cs. và nnk. (2010). Sử dụng
ảnh viễn thám độ phân giải cao các thời kỳ để
đánh giá biến động đường bờ sông Tiền, sông
Hậu tại hai tỉnh An Giang, Đồng Tháp. Báo cáo
đề tài KHCN cấp Bộ, Trung tâm Viễn thám
Quốc gia, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Sở TN & MT tỉnh Đồng Tháp. (2013). Bản đồ
khu cấm khai thác, khu vực đấu giá và không
đấu giá quyền khoáng sản (cát sông) tỉnh
Đồng Tháp. Tỉ lệ 1:100.000. Đồng Tháp: Văn
phòng Sở TN & MT.
Trần Bá Hoằng. (2014). Nghiên cứu diễn biến và
giải pháp chỉnh trị sông phân lạch - ứng dụng
cho Đồng bằng sông Cửu Long. (Luận án tiến
sĩ không xuất bản). Viện Khoa học Thủy lợi
miền Nam, Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Trịnh Phi Hoành & Lê Văn Ân. (2012). Tính bất
thường trong sự biến động bờ sông Tiền đoạn
chảy qua tỉnh Đồng Tháp. Tạp chí Khoa học
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh. 36(70), tr. 131-140.
Journal of Science – 2016, Vol. 12 (4), 92 – 103 Part D: Natural Sciences, Technology and Environment
103
Trịnh Phi Hoành. (2014). Tác động của các hoạt
động kinh tế - xã hội đến biến động lòng dẫn
sông Tiền đoạn chảy qua tỉnh Đồng Tháp. Tạp
chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh. (64)/98, 127-138.
Trịnh Phi Hoành và cs. (2015). Nghiên cứu quy
luật biến động bờ sông Tiền đoạn chảy qua
tỉnh Đồng Tháp, đề xuất giải pháp ứng phó
giảm nhẹ thiệt hại. Báo cáo tổng kết đề tài
KHCN cấp Bộ, mã số: B2013.20.01, Trường
Đại học Đồng Tháp.
UBND tỉnh Đồng Tháp. (2009). Quyết định phê
duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến
và sử dụng khoáng sản vật liệu xây dựng thông
thường (cát, đất sét) và than bùn trên địa bàn
tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020. Đồng Tháp:
Văn phòng UBND Tỉnh.
UBND tỉnh Đồng Tháp. (2014). Quyết định phê
duyệt phương án xây dựng công trình khẩn
cấp khắc phục sự cố sạt lở bờ sông Tiền khu
vực phường 11, TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
(Số 548). Đồng Tháp: Văn phòng UBND
Tỉnh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10_trinh_phi_hoanh_0_6345_2096551.pdf