Nghiên cứu, bỏ Chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội:
Mặc dù, Hiến pháp năm 2013 đã bỏ
thẩm quyền của Quốc hội quyết định Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh, nhưng Luật
Ban hành VBQPPL năm 2015 vẫn tiếp tục
duy trì thẩm quyền này của Quốc hội đối
với Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
hằng năm (chỉ bỏ Chương trình nhiệm kỳ
và Chương trình dự phòng). Việc Luật tiếp
tục quy định Quốc hội, UBTVQH có thẩm
quyền quyết định ban hành và điều chỉnh
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh là
chưa bảo đảm tính hợp hiến, có dấu hiệu
vi phạm quyền hiến định của các chủ thể
có quyền chủ động xây dựng, trình dự án
luật trước Quốc hội, dự án pháp lệnh trước
UBTVQH3.
Với quy định của Luật Ban hành
VBQPPL về Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh, cho thấy việc thực hiện quyền
hành pháp còn bị kiểm soát quá rộng và quá
mức cần thiết bởi Quốc hội. Do vậy, Chính
phủ chưa thực sự có quyền chủ động, linh
hoạt trong nghiên cứu, soạn thảo và đề nghị
Quốc hội thảo luận và thông qua dự án luật
để đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành.
Chính vì vậy, trên thực tế, việc đề xuất, xây
dựng, ban hành hoặc sửa đổi một đạo luật
không như Chính phủ mong muốn.
Khi hệ thống luật, pháp lệnh mới bắt
đầu hình thành thì yêu cầu tất yếu cần phải
có Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
(hằng năm và nhiệm kỳ Quốc hội) để thực
hiện sự phối hợp cụ thể; gắn kết chặt chẽ giữa
nhu cầu lập pháp rất lớn của Chính phủ với
khả năng lập pháp của Quốc hội có thể đáp
ứng trong xây dựng, ban hành luật, pháp lệnh
theo mục tiêu, yêu cầu xây dựng, từng bước
hoàn thiện hệ thống luật, pháp lệnh. Đến nay,
hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống
luật, pháp lệnh nói riêng đã cơ bản được hình
thành đầy đủ, đang bước sang một giai đoạn
chiến lược mới là hoàn thiện thì Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội
đã hoàn thành sứ mệnh của nó, để quan hệ
giữa Chính phủ và Quốc hội trong hoạt động
lập pháp quay về đúng với bản chất của nó.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 241 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ phối hợp giữa chính phủ với quốc hội trong hoạt động lập pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỐI QUAN HỆ PHỐI HỢP GIỮA CHÍNH PHỦ VỚI QUỐC HỘI
TRONG HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP
Tóm tắt:
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam XHCN, mối quan hệ lớn nhất, quan trọng
nhất giữa Chính phủ với Quốc hội là phối hợp trong hoạt động lập
pháp. Bên cạnh những tiến bộ, kết quả đạt được, việc nhận thức và
thực hiện mối quan hệ tương đối phức tạp này vẫn còn một số hạn
chế, bất cập, cần tiếp tục đổi mới để nâng cao hơn chất lượng, hiệu
quả phối hợp, góp phần bảo đảm tính kịp thời, chất lượng, khả thi
của các luật, pháp lệnh được ban hành.
Nguyễn Phước Thọ*
* Văn phòng Chính phủ
Abstract
With the leadership of the Communist Party, for
development of a rule-of-law state of the Socialist of
Vietnam, the most significant and important relationship
between the Government and the National Assembly
is their coordination in legislative activities. Besides
the progress and results achieved, the awareness and
deployment of this relatively complicated relationship
still has some limitations and shortcomings, which
need to be innovated for further improvement of the
quality and efficiency of coordination and to ensure
the timeliness, quality and feasible enforcement of the
promulgated laws and ordinances.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: phối hợp quyền lực, hoạt
động lập pháp, vai trò lập pháp của
Chính phủ, phối hợp trong lập pháp,
phối hợp giữa Chính phủ và Quốc hội.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 12/02/2019
Biên tập : 23/02/2019
Duyệt bài : 01/03/2019
Article Infomation:
Keywords: coordination of power,
legislative activities, the legislative
role of the Government, legislative
coordination; coordination between the
Government and the National Assembly.
Article History:
Received : 12 Feb. 2019
Edited : 23 Feb. 2019
Approved : 01 Mar. 2019
1. Vị trí, vai trò của phối hợp giữa Chính
phủ và Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội trong hoạt động lập pháp
Hoạt động lập pháp của Nhà nước ta
trong nhiều chục năm qua cho thấy, có trên
90% các dự án luật, pháp lệnh thuộc Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội
là do Chính phủ đề xuất và chủ trì nghiên cứu,
soạn thảo trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội (UBTVQH). Trong quan hệ phối
hợp này, Quốc hội có vai trò, trách nhiệm
là cơ quan thực hiện quyền lập pháp; Chính
phủ có vai trò chủ động tổng kết thực tiễn,
đề xuất các chính sách quốc gia và xây dựng,
trình các dự án luật, pháp lệnh chứa đựng các
chính sách này để Quốc hội, UBTVQH xem
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 7(383) T4/2019
xét, thông qua. Trong quá trình thực hiện các
vai trò, trách nhiệm này, Chính phủ và Quốc
hội, UBTVQH trao đổi, bổ sung, hỗ trợ lẫn
nhau, có cùng lợi ích và mục tiêu chung là
xây dựng, ban hành các luật, pháp lệnh một
cách kịp thời, đúng tiến độ, bảo đảm chất
lượng, tính khả thi, đáp ứng yêu cầu của
quản trị quốc gia. Do vậy, sự phối hợp giữa
Chính phủ với Quốc hội, UBTVQH trong
hoạt động lập pháp là tất yếu khách quan,
thể hiện tính thống nhất, gắn bó chặt chẽ
không thể tách rời giữa hai nhánh quyền lực
nhà nước lập pháp và hành pháp trong phân
công và phối hợp thực hiện quyền lực nhà
nước thống nhất. Thông qua việc tham gia
chủ động, tích cực vào công tác lập pháp,
Chính phủ với tư cách là cơ quan thực hiện
quyền hành pháp có thể tác động đến hoạt
động lập pháp của Quốc hội trên nhiều khía
cạnh tích cực. Nhu cầu lập pháp của Chính
phủ là động lực và định hướng cho hoạt động
lập pháp của Quốc hội. Tiến độ công tác lập
pháp của Quốc hội bị chi phối bởi nhu cầu
lập pháp của Chính phủ.
Phối hợp giữa Chính phủ và Quốc hội
còn là tiền đề để thực hiện một mối quan hệ
mới, rất quan trọng theo quy định của Hiến
pháp năm 2013, đó là thực hiện kiểm soát
quyền lực của Chính phủ đối với Quốc hội
trong việc thực hiện quyền lập pháp. Ngược
lại, thông qua mối quan hệ phối hợp với
Chính phủ trong việc xây dựng, thực hiện
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh,
Quốc hội đồng thời thực hiện quyền kiểm
soát đối với Chính phủ và các cơ quan của
Chính phủ trong việc đề xuất, xây dựng
chính sách.
Dự án luật, pháp lệnh, dù ở công đoạn
nào trong quy trình xây dựng, ban hành, thì
vấn đề tiến độ và chất lượng, tính khả thi đều
phụ thuộc vào vai trò, trách nhiệm của cả
Chính phủ và Quốc hội, UBTVQH. Không
thể nói vấn đề này hoàn toàn do khâu nghiên
cứu, soạn thảo của Chính phủ quyết định
hoặc phụ thuộc chủ yếu vào quá trình Quốc
hội, UBTVQH xem xét, thông qua. Nói điều
này để nhấn mạnh một thực tế, một tất yếu
khách quan là chất lượng, hiệu quả phối hợp
giữa Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ
với Quốc hội, UBTVQH và các cơ quan của
Quốc hội ngay từ đầu và trong suốt quá trình
nghiên cứu, soạn thảo và xem xét, thông qua
là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng rất lớn
đến tiến độ, chất lượng dự án luật, pháp lệnh.
Chất lượng và hiệu quả của mối quan
hệ phối hợp này phụ thuộc vào một trong
những động lực quan trọng nhất là sự tương
tác mạnh mẽ giữa Chính phủ và Quốc hội
được xác lập và duy trì liên tục dưới những
hình thức và cấp độ khác nhau. Chính vì
vậy, việc phân định hợp lý, minh bạch chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa Quốc hội,
UBTVQH, các cơ quan của Quốc hội với
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ
quan của Chính phủ trong các công đoạn của
quy trình lập pháp; đồng thời xác lập chế độ
trách nhiệm phù hợp, rõ ràng, nhất quán của
từng chủ thể trong từng công đoạn là cơ sở
tiền đề quan trọng nhất để có sự phối hợp
hiệu quả thực chất về lập pháp giữa Chính
phủ với Quốc hội.
Mặt khác, về bản chất, trong bất cứ bối
cảnh nào, cũng cần phải thấy rằng mối quan
hệ giữa hành pháp và lập pháp là mối quan
hệ có tính chất chính trị. Vì vậy, quan hệ phối
hợp giữa Chính phủ và Quốc hội trong hoạt
động lập pháp có tạo ra kết quả thực chất
hay không phụ thuộc nhiều vào động lực và
ý chí chính trị của cả hai bên, cũng như sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong việc định
hướng và xử lý kịp thời vướng mắc đối với
những vấn đề lớn, quan trọng của dự án luật,
pháp lệnh có ý kiến khác nhau mà trong
khuôn khổ mối quan hệ phối hợp không thể
xử lý được.
2. Thực trạng
Trong nhiều nhiệm kỳ, nhất là từ đầu
nhiệm kỳ khóa XIV đến nay, với tinh thần
xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển,
phục vụ người dân và doanh nghiệp, xây
dựng và hoàn thiện thể chế luôn được Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm và xác
định là nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 7(383) T4/2019
trong công tác lãnh đạo điều hành. Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ thường xuyên chỉ
đạo các bộ, cơ quan ngang bộ rà soát, nghiên
cứu để đề xuất xây dựng và hoàn thiện thể
chế, nhất là các dự án luật, pháp lệnh, trong
đó trọng tâm, khâu đột phá chiến lược là
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN, trước hết là cải cách thể chế
về môi trường đầu tư, kinh doanh.
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan
trọng của công tác xây dựng thể chế, trong
thời gian qua, Chính phủ đã phối hợp ngày
càng chặt chẽ, hiệu quả và thực chất hơn
với Quốc hội, UBTVQH, Hội đồng Dân tộc
và các Ủy ban của Quốc hội trong công tác
xây dựng pháp luật, nhất là trong việc lập và
triển khai thực hiện Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh. Thông qua đó, tiến độ, chất
lượng xây dựng, trình các dự án luật, pháp
lệnh từng bước được nâng cao, tính dân chủ,
pháp quyền, công khai, minh bạch trong hoạt
động lập pháp của cả Quốc hội và Chính phủ
ngày càng được coi trọng và tăng cường.
Trong thời gian qua, Chính phủ, các bộ,
cơ quan ngang bộ đã có nhiều nỗ lực, cố gắng
trong việc cải tiến, đổi mới việc đề xuất và
thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh, thể hiện trên các khía cạnh sau:
- Việc đề xuất xây dựng và đề nghị
điều chỉnh Chương trình có sự chủ động
hơn, luôn bám sát yêu cầu của thực tiễn,
quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quan
điểm, chủ trương của Đảng, bảo đảm tính
hợp lý, khả thi, có trọng tâm, ưu tiên.
- Việc thực hiện Chương trình đã có
nhiều chuyển biến tích cực. Đã dành nhiều
thời gian và công sức để thực hiện; số lượng
các dự án luật, pháp lệnh xin lùi, xin rút
khỏi Chương trình đã giảm rõ rệt so với các
năm của nhiệm kỳ trước; việc nghiên cứu,
soạn thảo, trình các dự án bảo đảm đúng
thẩm quyền, trình tự, thủ tục, đầy đủ hồ sơ
theo quy định mới của Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); tiến
độ chuẩn bị và trình dự án có tiến bộ; chất
lượng các dự án được nâng lên
Tuy nhiên, cũng phải thẳng thắn nhìn
nhận, bên cạnh những kết quả đạt được,
việc thực hiện Chương trình cũng còn
những tồn tại, hạn chế, thiếu sót chậm được
khắc phục, thể hiện:
- Nhiều dự án luật chưa được soạn
thảo, trình, xem xét, thông qua theo đúng kế
hoạch phân công. Tình trạng xin lùi, xin rút
các dự án luật chưa được khắc phục triệt để;
- Chất lượng một số dự án luật chưa
được Quốc hội, UBTVQH đánh giá cao,
dẫn đến phải rút ra khỏi Chương trình hoặc
chuyển từ quy trình 2 kỳ họp thành 3 kỳ
họp. Hồ sơ của nhiều dự án luật, pháp lệnh
chưa bảo đảm yêu cầu về chất lượng;
- Việc thể chế hóa một số chủ trương,
chính sách của Đảng chưa kịp thời, đồng bộ;
cụ thể hóa một số quy định của Hiến pháp
năm 2013 còn chậm so với yêu cầu;
- Trong nghiên cứu đề xuất, soạn thảo,
chỉnh lý các dự án luật, nhất là một số dự
án lớn, phức tạp, nhạy cảm, việc chủ động
thông tin truyền thông, tham vấn ý kiến
rộng rãi các chuyên gia, các nhà khoa học
cũng như các đối tượng chịu tác động trực
tiếp còn hạn chế, hiệu quả chưa cao, dẫn
đến chưa tạo được đồng thuận cao, làm ảnh
hưởng đến tiến độ ban hành và chất lượng.
Tình trạng này dẫn đến đối với một số dự
án luật, Chính phủ chủ động đề nghị hoặc
Quốc hội, UBTVQH yêu cầu phải thay đổi
cơ bản phạm vi sửa đổi, bổ sung, như dự
án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Thi hành án hình sự thành dự án Luật
Thi hành án hình sự (sửa đổi), dự án Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo
dục thành Luật Giáo dục (sửa đổi) hoặc
Chính phủ phải chủ động xin rút lại như dự
án Luật Công an xã, hoặc phải đề nghị tạm
dừng chưa thông qua như dự án Luật Đơn
vị hành chính - kinh tế đặc biệt...
Chính phủ cũng đã nghiêm túc kiểm
điểm, rút kinh nghiệm về những tồn tại,
hạn chế này tại các Phiên họp thường kỳ và
Phiên họp chuyên đề của Chính phủ; đồng
thời yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ phải
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 7(383) T4/2019
ưu tiên tập trung nguồn lực; chủ động phối
hợp chặt chẽ với các cơ quan của Quốc hội
trong nghiên cứu, soạn thảo, trình các dự án
luật, pháp lệnh bảo đảm tiến độ, chất lượng
theo quy định. Thủ tướng Chính phủ thường
xuyên đôn đốc, nhắc nhở và kiểm điểm
trách nhiệm các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ để xảy ra tình trạng trình dự
án luật, pháp lệnh không bảo đảm tiến độ,
chất lượng.
Nhìn tổng thể, mối quan hệ phối hợp
giữa Chính phủ với Quốc hội, UBTVQH
trong việc nghiên cứu đề xuất, soạn thảo,
tiếp thu, chỉnh lý, thông qua các dự án luật,
pháp lệnh, cũng như trong công tác lập
pháp nói chung, bên cạnh những tiến bộ
nhất định, vẫn còn một số hạn chế, bất cập
sau đây:
Một là, chưa liên tục, còn bị cắt khúc;
hiệu quả chưa cao:
Cả cơ quan của Chính phủ chủ trì soạn
thảo và cơ quan chủ trì thẩm tra của Quốc hội
trong nhiều trường hợp chưa thật sự chủ động,
tích cực trong phối hợp. Khi dự án đang trong
các công đoạn ở Chính phủ, các cơ quan của
Quốc hội chưa thực sự tham gia phối hợp
chặt chẽ, thực chất, hiệu quả, ngay từ đầu,
liên tục, trong suốt trong quá trình nghiên
cứu, soạn thảo, cho đến khi Chính phủ xem
xét, thông qua dự án luật, pháp lệnh. Về cơ
bản, việc phối hợp có phần thực chất chỉ sau
khi dự án luật, pháp lệnh được Chính phủ
trình Quốc hội, UBTVQH.
Trên thực tế, các cơ quan của Quốc hội
cũng đã được cơ quan của Chính phủ chủ
trì soạn thảo mời tham gia vào thành phần
các Ban soạn thảo, Tổ biên tập nhiều dự án
luật, pháp lệnh; mời tham dự các cuộc hội
thảo, toạ đàm, khảo sát; mời tham gia các
cuộc họp tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện dự
án; được Bộ Tư pháp mời tham gia thẩm tra.
Ngược lại, đối với một số dự án luật, pháp
lệnh, Thường trực một số cơ quan của Quốc
hội đã chủ động làm việc cơ quan chủ trì
soạn thảo nghe báo cáo và tham gia ý kiến
về một số vấn đề thuộc nội dung dự án. Tuy
nhiên, các hoạt động này của các cơ quan
của Quốc hội chưa thường xuyên, liên tục;
còn hình thức, chưa thực chất, chủ yếu là để
lắng nghe, tìm hiểu, nắm tình hình, có thông
tin phục vụ cho công tác thẩm tra của mình,
mà chưa thực sự chia sẻ quan điểm, nhận
thức, tham gia ý kiến về nội dung, để góp
phần tạo dựng sự thống nhất, đồng thuận
giữa Chính phủ và Quốc hội ngay từ đầu về
quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và những nội
dung cơ bản của dự án luật, pháp lệnh.
Hai là, thực hiện ủy quyền của Thủ
tướng thay mặt Chính phủ tham gia các hoạt
động lập pháp chưa nghiêm túc:
Việc Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ thực hiện ủy quyền của Thủ tướng
thay mặt Chính phủ trong quan hệ với Quốc
hội, UBTVQH về việc trình dự án luật, pháp
lệnh chưa thật sự nghiêm túc theo đúng quy
định; không ít Bộ trưởng đã ủy quyền lại cho
Thứ trưởng. Trong một số trường hợp, lãnh
đạo bộ, cơ quan ngang bộ tham dự các cuộc
họp của Quốc hội, UBTVQH, của các cơ
quan của Quốc hội thảo luận về dự án luật,
pháp lệnh còn nói khác với nghị quyết của
Chính phủ, với ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng.
Trong quá trình phối hợp tiếp thu, chỉnh lý,
hoàn thiện dự án luật, pháp lệnh, một số cơ
quan của Chính phủ còn có biểu hiện vận
động hành lang để bảo vệ hay cài cắm lợi ích
cục bộ của bộ, ngành, lợi ích nhóm.
Ba là, chưa phân định rõ trách nhiệm
giữa các cơ quan của Chính phủ trong quan
hệ phối hợp với các cơ quan liên quan của
Quốc hội:
Trên thực tế, Chính phủ chưa phân
công, phân định minh bạch về vai trò, trách
nhiệm giữa cơ quan chủ trì soạn thảo, Bộ Tư
pháp và Văn phòng Chính phủ trong quan
hệ phối hợp với các cơ quan của Quốc hội
đối với việc thẩm tra, tiếp thu, chỉnh lý đối
với dự án luật, pháp lệnh sau khi Chính phủ
trình Quốc hội, UBTVQH. Theo quy định
của Luật Ban hành VBQPPL và thực tiễn
công tác lập pháp, thì đối với 01 dự án luật,
pháp lệnh, có 03 cơ quan nêu trên của Chính
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 7(383) T4/2019
phủ cùng có trách nhiệm phối hợp với các
cơ quan của Quốc hội. Tuy nhiên, giữa 03
cơ quan này còn thiếu sự phân công, phối
hợp với nhau, không phân định rõ vai trò,
trách nhiệm của từng cơ quan trong quan hệ
với UBTVQH, nhất là trong phối hợp với cơ
quan chủ trì thẩm tra, giúp UBTVQH tiếp
thu, chỉnh lý sau khi dự án luật, pháp lệnh
được Quốc hội, UBTVQH cho ý kiến và với
các cơ quan khác của Quốc hội, trong đó
có Ủy ban Pháp luật trong việc thẩm tra lần
cuối về bảo đảm tính hợp hiến, tính thống
nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật của dự
thảo luật, pháp lệnh, trước khi được Quốc
hội, UBTVQH thông qua.
Bốn là, chưa có quan điểm, nhận thức
thống nhất trong thực hiện Chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh:
Theo quy định của Luật Ban hành
VBQPPL năm 2015 và thực tiễn xây dựng
và thực hiện Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh những năm gần đây cho thấy, việc
xây dựng và thực hiện Chương trình ngày
càng phải linh hoạt, mềm dẻo, uyển chuyển
để đáp ứng yêu cầu quản lý điều hành của
Chính phủ và phù hợp với vị trí, vai trò mới
của Chính phủ trong quan hệ với Quốc hội
theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Nói
cách khác, việc điều chỉnh Chương trình
là cần thiết, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn
và đã được Luật Ban hành VBQPPL cho
phép1. Tuy nhiên, cho đến nay các cơ quan
của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội vẫn giữ
quan điểm, thái độ phê bình, chất vấn Chính
phủ về việc Chính phủ đề nghị điều chỉnh
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, còn
để tình trạng đề nghị xin rút ra, đưa vào các
dự án luật, pháp lệnh Đây không chỉ là do
1 “UBTVQH tự mình hoặc theo đề nghị của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, pháp lệnh quyết định
điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh trong các trường hợp sau đây: a) Đưa ra khỏi chương trình các dự án
luật, pháp lệnh không cần thiết phải ban hành do có sự thay đổi về tình hình kinh tế - xã hội hoặc điều chỉnh thời điểm
trình trong trường hợp cần thiết; b) Bổ sung vào chương trình các dự án luật, pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu cần thiết
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, tính mạng, tài sản của nhân dân; các dự án luật, pháp lệnh cần
sửa đổi theo các văn bản mới được ban hành để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật hoặc để thực hiện điều
ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên” (Khoản 1 Điều 51 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015).
2 Theo quy định tại Điều 74 và Điều 75 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015.
nhận thức chưa theo kịp với tinh thần quy
định của Luật và thực tiễn mối quan hệ phối
hợp trong xây dựng và thực hiện Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh giữa Quốc hội
và Chính phủ, mà còn chưa nhận thức đầy đủ
mối quan hệ kiểm soát quyền lực giữa Chính
phủ với Quốc hội, theo đó việc Chính phủ đề
nghị điều chỉnh Chương trình, thậm chí xin
rút hoặc đề nghị dừng việc xem xét, thông
qua dự án luật là biểu hiện cụ thể của kiểm
soát quyền lực của cơ quan thực hiện quyền
hành pháp đối với cơ quan thực hiện quyền
lập pháp theo quy định của Hiến pháp.
Một trong những nguyên nhân chủ
yếu của thực trạng trên đây là do cơ chế phối
hợp chưa được quy định đầy đủ, cụ thể; có
một số bất hợp lý trong quy trình xây dựng
luật, pháp lệnh chậm được khắc phục, nhất
là việc phân định hợp lý, rõ ràng nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của từng cơ quan.
Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 mới chỉ
quy định mang tính nguyên tắc chung về
mối quan hệ phối hợp giữa Chính phủ với
Quốc hội; trong các VBQPPL liên quan của
Chính phủ cũng thiếu các quy định cụ thể
về vấn đề này. Quy trình 2 giai đoạn2 trong
việc Quốc hội, UBTVQH xem xét, cho ý
kiến, thông qua luật, pháp lệnh theo đó có
sự chuyển đổi vai trò, trách nhiệm chủ trì
từ Chính phủ sang cho UBTVQH là yếu tố
quan trọng làm chia cắt, làm mất động lực
của mối quan hệ phối hợp giữa Chính phủ
và Quốc hội, UBTVQH. Bài học từ những
sai sót, bất cập của Bộ luật Hình sự năm
2015 và một số đạo luật khác là những minh
chứng rất rõ cho vấn đề này.
Một nguyên nhân khác là xuất phát từ
quan điểm nhận thức chưa đầy đủ về vai trò,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 7(383) T4/2019
ý nghĩa mối quan hệ phối hợp giữa Chính
phủ với Quốc hội, với UBTVQH; về vai
trò, trách nhiệm của mỗi bên, dẫn đến trách
nhiệm chưa cao, chưa chủ động, chưa đầy
đủ, thực chất trong phối hợp, thậm chí có
trường hợp đùn đẩy, lảng tránh trách nhiệm.
3. Một số kiến nghị
Để tiếp tục đổi mới, nâng cao chất
lượng, hiệu quả mối quan hệ phối hợp
về lập pháp giữa Chính phủ và Quốc hội,
UBTVQH, chúng tôi đề xuất một số kiến
nghị sau đây:
- Xác lập cơ chế phối hợp thường xuyên
giữa Chính phủ và Quốc hội, UBTVQH
trong công tác xây dựng luật, pháp lệnh;
giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các
Bộ trưởng với các cơ quan của Quốc hội
trong việc xây dựng, ban hành các văn bản
quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh.
Thường xuyên, định kỳ tổ chức các
cuộc họp chung giữa tập thể Chính phủ với
UBTVQH; giữa lãnh đạo Chính phủ với
lãnh đạo Quốc hội để trao đổi, phối hợp
chỉ đạo cho ý kiến về những vấn đề lớn,
phức tạp, nhạy cảm, kịp thời tháo gỡ những
khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy tiến độ,
định hướng chỉnh lý các dự án luật, pháp
lệnh, tạo sự đồng thuận giữa Chính phủ
với UBTVQH, giữa các cơ quan của Chính
phủ với các cơ quan của Quốc hội trước khi
trình Quốc hội, UBTVQH xem xét, thông
qua, trong đó có việc xây dựng và thực hiện
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
Những cuộc họp chung này là hình thức
phối hợp cao nhất, quan trọng nhất giữa
Quốc hội và Chính phủ, có ý nghĩa tạo ra và
duy trì động lực thúc đẩy cải tiến, đổi mới,
nâng cao chất lượng, hiệu quả các hình thức
của mối quan hệ phối hợp chung giữa hai
nhánh quyền lực.
Lãnh đạo Quốc hội cần thường xuyên
quán triệt và chỉ đạo yêu cầu các cơ quan
của Quốc hội chủ động phối hợp, tham gia
thực chất, có chất lượng ngay từ đầu và liên
tục của quá trình đề xuất, nghiên cứu, soạn
thảo dự án luật, pháp lệnh trong phạm vi
của Chính phủ. Ngược lại, Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ
chủ trì soạn thảo cũng cần chủ động phối
hợp chặt chẽ với UBTVQH, Hội đồng Dân
tộc và các Ủy ban của Quốc hội.
Trong các phiên họp của Chính phủ,
nhất là phiên họp chuyên đề, Văn phòng
Chính phủ cần tham mưu, đề xuất với Thủ
tướng Chính phủ mời lãnh đạo Quốc hội và
lãnh đạo các cơ quan của Quốc hội tham
dự và tại các phiên họp này cũng trân trọng
đề nghị lãnh đạo Quốc hội và cơ quan của
Quốc hội tham gia thảo luận, cho ý kiến đối
với các dự án luật, pháp lệnh.
Để tiếp tục đổi mới, tăng cường và
đưa mối quan hệ phối hợp đi vào trật tự, nền
nếp, cần nghiên cứu, ban hành Quy chế phối
hợp giữa Chính phủ với UBTVQH trong
hoạt động lập pháp. Đây là việc rất cần thiết,
vừa cơ bản, vừa cấp bách.
- Cơ quan của Chính phủ chủ trì soạn
thảo dự án luật, pháp lệnh chủ động, ngay
từ đầu cần phối hợp chặt chẽ, thực chất với
cơ quan của Quốc hội được phân công thẩm
tra dự án và Ủy ban Pháp luật của Quốc
hội; phân công, cử lãnh đạo, chuyên viên
có thẩm quyền về chuyên môn tham dự
đầy đủ, đúng thành phần vào các hoạt động
trong quá trình Quốc hội, UBTVQH thảo
luận, cho ý kiến, cũng như trong quá trình
thẩm tra, tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện dự
án luật, pháp lệnh. Lãnh đạo cơ quan chủ
trì soạn thảo chủ động làm việc, trao đổi với
lãnh đạo và đại diện cơ quan của Quốc hội
để thống nhất xử lý những vấn đề có liên
quan cả về nội dung và trình tự, thủ tục,
tiến độ, hồ sơ liên quan đến dự án luật, pháp
lệnh. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan
chủ trì soạn thảo phối hợp với Bộ Tư pháp,
Văn phòng Chính phủ thống nhất, chủ động
đề xuất với lãnh đạo Chính phủ, lãnh đạo
Quốc hội chủ trì hoặc đồng chủ trì cuộc họp
liên tịch để thống nhất quan điểm, phương
án xử lý những nội dung quan trọng, phức
tạp của dự án luật để báo cáo xin ý kiến của
Bộ Chính trị, trình Quốc hội, UBTVQH.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 7(383) T4/2019
Các bộ, cơ quan ngang bộ không phải
là cơ quan chủ trì soạn thảo cần chủ động
hoặc theo đề nghị của cơ quan liên quan của
Quốc hội tham gia tích cực vào quá trình
thẩm tra, tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện các
dự án luật, pháp lệnh; cung cấp đầy đủ thông
tin, đánh giá về mặt chuyên môn những vấn
đề thuộc ngành, lĩnh vực quản lý được phân
công để phục vụ cho thẩm tra, chỉnh lý dự
án luật, pháp lệnh; kiến nghị xử lý kịp thời
những quy định của dự thảo luật, pháp lệnh
chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với
các luật, pháp lệnh và văn bản dưới luật
thuộc ngành, lĩnh vực được phân công.
- Cơ quan của Quốc hội được giao
chủ trì thẩm tra dự án luật, pháp lệnh cần
phải chủ động nghiên cứu, theo dõi; chủ
động, tích cực phối hợp chặt chẽ ngay từ
đầu và liên tục với các cơ quan của Chính
phủ trong lập đề nghị xây dựng luật, pháp
lệnh, nghiên cứu, soạn thảo dự án luật,
pháp lệnh để nắm bắt đầy đủ thông tin; kịp
thời đôn đốc tiến độ soạn thảo, trình dự
án, thông báo kế hoạch, tiến độ thẩm tra,
chỉnh lý đối với cơ quan của Chính phủ
chủ trì soạn thảo; chủ động tổ chức khảo
sát thực tiễn, tổ chức hội thảo, tọa đàm để
tham khảo, lấy ý kiến đóng góp của chuyên
gia, nhà khoa học, các đối tượng chịu tác
động giúp nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác thẩm tra, tiếp thu, chỉnh lý, hoàn
thiện dự án luật, pháp lệnh.
Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc
hội phát huy hơn nữa trách nhiệm của tập
thể Thường trực và của toàn thể Hội đồng
và Ủy ban trong việc thẩm tra và tham gia
thẩm tra dự án luật, pháp lệnh; tiếp thu,
chỉnh lý dự án luật, pháp lệnh sau khi Quốc
hội, UBTVQH cho ý kiến. Hội đồng, Ủy
ban cần khách quan, thẳng thắn, kiên quyết
trong việc thể hiện quan điểm của mình đối
với những vấn đề của dự án còn ý kiến khác
nhau. Tạo điều kiện cho các đại biểu Quốc
hội không phải là thành viên của Hội đồng,
Ủy ban, cũng như lãnh đạo và đại diện của
Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các
cơ quan có liên quan của Chính phủ được
tham gia hoạt động thẩm tra (các phiên họp
thẩm tra và các cuộc hội thảo, tọa đàm, khảo
sát thực tiễn phục vụ cho việc thẩm tra).
- Chính phủ đang triển khai nghiên
cứu, soạn thảo dự án Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Ban hành VBQPPL.
Đây là một dự án Luật rất quan trọng để xử
lý những vướng mắc, bất cập hiện nay trong
quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL,
trong đó có sự phối hợp giữa Quốc hội với
Chính phủ. Do vậy, cần thiết phải có phối
hợp, tham gia thực chất, ngay từ đầu của
tất cả các Ủy ban của Quốc hội. Phối hợp
trong nghiên cứu, xây dựng, xem xét, thông
qua dự án Luật này phải trở thành hình mẫu
cho mối quan hệ phối hợp giữa Quốc hội và
Chính phủ trong công tác lập pháp.
- Xác định cơ chế phối hợp chặt chẽ,
thường xuyên giữa Bộ Tư pháp, Văn phòng
Chính phủ và Bộ chủ trì soạn thảo luật, pháp
lệnh; phân công rõ vai trò, trách nhiệm của
từng cơ quan trong việc phối hợp với các cơ
quan của Quốc hội trong quá trình Quốc hội,
UBTVQH xem xét, cho ý kiến, thông qua
luật, pháp lệnh.
Trong quá trình Quốc hội, UBTVQH
thảo luận, cho ý kiến, xem xét, thông qua,
nếu có đề xuất chỉnh lý, bổ sung nội dung của
dự án luật, pháp lệnh khác với quan điểm, tư
tưởng chỉ đạo và nội dung cơ bản của dự án
mà Chính phủ đã trình thì Văn phòng Chính
phủ, Bộ Tư pháp phối hợp với cơ quan chủ
trì soạn thảo hoặc chủ động báo cáo kịp thời
với Thủ tướng Chính phủ xem xét, cho ý kiến
chỉ đạo.
- Trong sửa đổi, bổ sung Luật Ban
hành VBQPPL tới đây, cần bỏ quy trình 2
giai đoạn theo quy định của Luật. Trên cơ
sở đó, xác định đầy đủ, rõ ràng vai trò, trách
nhiệm của Chính phủ trong toàn bộ quy trình
Quốc hội, UBTVQH xem xét, thông qua các
dự án luật, pháp lệnh theo hướng phân công
hợp lý, bảo đảm kiểm soát quyền lực, chịu
trách nhiệm đến cùng của Chính phủ trong
việc soạn thảo, tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện
cho đến khi Quốc hội, UBTVQH thông qua
luật, pháp lệnh do Chính phủ chủ trì soạn
thảo, trình.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 7(383) T4/2019
Do phải chịu trách nhiệm đến cùng đối
với dự án Luật, Chính phủ có điều kiện giải
trình và bảo vệ chính sách lập pháp của mình
qua tất cả các lần thẩm tra, thảo luận và xem
xét tại Quốc hội. Trong quá trình này, các cơ
quan của Quốc hội cũng có trách nhiệm liên
tục, ngay từ đầu, nhưng đó là trách nhiệm
thẩm tra, phản biện, giám sát, đánh giá việc
tiếp thu, chỉnh lý, giải trình của Chính phủ
đối với dự án luật, pháp lệnh. Việc tương tác
xuyên suốt, liên tục này giữa cơ quan chủ trì
soạn thảo và cơ quan thẩm tra sẽ tạo ra và
duy trì động lực cho quy trình, phát huy tối
đa trách nhiệm của các cơ quan liên quan,
do vậy sẽ bảo đảm chất lượng, tính khả thi
của dự án luật, pháp lệnh trình Quốc hội,
UBTVQH thông qua.
- Nghiên cứu, bỏ Chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội:
Mặc dù, Hiến pháp năm 2013 đã bỏ
thẩm quyền của Quốc hội quyết định Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh, nhưng Luật
Ban hành VBQPPL năm 2015 vẫn tiếp tục
duy trì thẩm quyền này của Quốc hội đối
với Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
hằng năm (chỉ bỏ Chương trình nhiệm kỳ
và Chương trình dự phòng). Việc Luật tiếp
tục quy định Quốc hội, UBTVQH có thẩm
quyền quyết định ban hành và điều chỉnh
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh là
chưa bảo đảm tính hợp hiến, có dấu hiệu
vi phạm quyền hiến định của các chủ thể
có quyền chủ động xây dựng, trình dự án
luật trước Quốc hội, dự án pháp lệnh trước
UBTVQH3.
Với quy định của Luật Ban hành
VBQPPL về Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh, cho thấy việc thực hiện quyền
hành pháp còn bị kiểm soát quá rộng và quá
mức cần thiết bởi Quốc hội. Do vậy, Chính
phủ chưa thực sự có quyền chủ động, linh
hoạt trong nghiên cứu, soạn thảo và đề nghị
Quốc hội thảo luận và thông qua dự án luật
3 Theo quy định hiện hành, Chính phủ muốn soạn thảo một dự án luật thì phải xin phép và được UBTVQH và Quốc
hội đồng ý, cho phép theo quy trình, thủ tục được quy định chặt chẽ. Nói cách khác, theo quy định của Luật Ban hành
VBQPPL, Chính phủ ở nước ta không có quyền chủ động soạn thảo và yêu cầu Quốc hội thảo luận và thông qua dự án
luật để đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành.
để đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành.
Chính vì vậy, trên thực tế, việc đề xuất, xây
dựng, ban hành hoặc sửa đổi một đạo luật
không như Chính phủ mong muốn.
Khi hệ thống luật, pháp lệnh mới bắt
đầu hình thành thì yêu cầu tất yếu cần phải
có Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
(hằng năm và nhiệm kỳ Quốc hội) để thực
hiện sự phối hợp cụ thể; gắn kết chặt chẽ giữa
nhu cầu lập pháp rất lớn của Chính phủ với
khả năng lập pháp của Quốc hội có thể đáp
ứng trong xây dựng, ban hành luật, pháp lệnh
theo mục tiêu, yêu cầu xây dựng, từng bước
hoàn thiện hệ thống luật, pháp lệnh. Đến nay,
hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống
luật, pháp lệnh nói riêng đã cơ bản được hình
thành đầy đủ, đang bước sang một giai đoạn
chiến lược mới là hoàn thiện thì Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội
đã hoàn thành sứ mệnh của nó, để quan hệ
giữa Chính phủ và Quốc hội trong hoạt động
lập pháp quay về đúng với bản chất của nó.
Bỏ Chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh của Quốc hội không có nghĩa là việc xây
dựng luật, pháp lệnh không có chương trình.
Vấn đề là cần thay đổi, đổi mới về thẩm quyền
và phương pháp lập và thực hiện chương
trình. Cần giao cho Chính phủ chủ động xây
dựng và thực hiện Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh của mình và chủ động phối
hợp, thống nhất với Quốc hội, UBTVQH
trong việc trình các dự án luật, pháp lệnh. Dự
án luật, pháp lệnh nào được chuẩn bị xong,
thì Chính phủ chủ động trình Quốc hội và có
quyền đề nghị Quốc hội xem xét, thông qua
trong thời gian nhất định theo quy định để
đáp ứng yêu cầu quản lý điều hành của Chính
phủ. Ngược lại, thực hiện thẩm quyền được
giao, Quốc hội có quyền chưa thông qua dự
án luật do Chính phủ trình nếu dự án đó chưa
được Chính phủ tuân thủ đúng quy định về
thẩm quyền, trình tự, thủ tục, chưa bảo đảm
yêu cầu về chất lượng, tính khả thi
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 7(383) T4/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- moi_quan_he_phoi_hop_giua_chinh_phu_voi_quoc_hoi_trong_hoat.pdf