Hàm ý chính sách
Để hoàn thiện hơn nữa môi trường
thể chế nhằm thu hút FDI phục vụ phát
triển kinh tế nhằm thỏa mãn nhu cầu hiện
tại và tương lai, hệ thống thể chế cần hoàn
thiện theo hướng: (i) Nâng cao chất lượng
văn bản pháp luật để giảm bớt những nội
dung không tương thích với luật pháp
quốc tế, tránh sự chồng chéo và không
nhất quán giữa các bộ luật; các khái niệm
phải rõ ràng để tránh việc diễn giải khác
nhau, cản trở các hoạt động đầu tư; (ii)
Đơn giản hóa hơn nữa quy trình cấp phép,
có thể gộp các quy trình cấp phép hiện
thời thành một hoặc hai bước, đồng thời
các thông tin chi tiết cần được củng cố,
đơn giản hóa hơn nữa và cho phép nộp
hồ sơ điện tử; (iii) Nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật: cơ quan thuế và hải
quan phải cập nhập chính sách thuế và hải
quan, đồng thời thường xuyên tập huấn
để phổ biến đến cán bộ hành thu. Cơ quan
thuế phải chịu trách nhiệm về những kết
luận, quyết định mình đưa ra, chứ không
nên đổ trách nhiệm lên người nộp thuế./.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
7 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 469 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Môi trường thế chế và đầu tư nước ngoài cho phát triển bền vững, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VẤN ĐỀ HÔM NAY
15Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
1. Cơ sở lý thuyết
1.1. Khái niệm phát triển bền vững
Phát triển bền vững là sự phát triển 
thỏa mãn nhu cầu hiện tại mà không ảnh 
hưởng đến khả năng thỏa mãn nhu cầu 
của các thế hệ tương lai (Liên Hiệp Quốc, 
1987). Hội nghị Thế giới năm 2005 của 
Liên Hiệp Quốc đề cập đến ba trụ cột phụ 
thuộc lẫn nhau và củng cố lẫn nhau của 
phát triển bền vững là phát triển kinh tế, 
phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. 
Theo tuyên bố chung về đa dạng văn hóa 
(UNESCO, 2001) thì sự đa dạng văn hóa 
trở thành lĩnh vực chính sách thứ tư của 
phát triển bền vững.
1.2. Khái niệm thể chế và vai trò của 
thể chế đối với sự phát triển kinh tế 
Những khác biệt to lớn trong mức 
sống giữa các quốc gia được giải thích 
bởi sự khác biệt năng suất. Năng suất của 
mỗi quốc gia lại được quyết định bởi các 
yếu tố tư bản (hay vốn), lao động, công 
MÔI TRƯỜNG THẾ CHẾ VÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
CHO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
PGS. TS. Cao Thúy Xiêm * 
PGS. TS. Trương Đoàn Thể **
Tóm tắt: Nhằm thu hút FDI phục vụ mục tiêu phát triển bền vững cần đảm bảo 
môi trường thể chế thuận lợi. Bài viết này nghiên cứu cơ sở lý thuyết là các quan điểm 
khác nhau về phát triển bền vững và kinh tế học thể chế để vận dụng phân tích quá 
trình hoàn thiện môi trường thể chế ở Việt nam thời gian qua. Đã có nhiều thay đổi tích 
cực trong các thể chế chính thức, thể chế phi chức thức và việc thực thi các thể chế đó, 
đồng thời vẫn tồn tại những hạn chế trong các bộ phận cấu thành môi trường thể chế. 
Đó là cơ sở cho việc đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm tiếp tục hoàn thiện môi 
trường thể chế trong tương lai. 
Từ khóa: đầu tư nước ngoài, phát triển bền vững, thu hút, hoàn thiện thể chế.
Abstract: In order to attract FDI for sustainable development, it is necessary to 
ensure a favorable institutional environment. This paper examines the theoretical basis 
of different points of view on sustainable development and institutional economics to 
apply the analysis of the institutional environment improvement process in Vietnam 
over the past time. There have been many positive changes in formal institutions, 
informal institutions and their implementation; and there are still limitations in the 
components of the institutional environment. That is the basis for proposing a number 
of policy implications to further improve the institutional environment in the future.
Keywords: foreign investment, sustainable development, attraction, institutional 
improvement.
* ,** Giảng viên trường Đại học Kinh tế quốc dân.
VẤN ĐỀ HÔM NAY
16Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
nghệ, kỹ năng, tài nguyên thiên nhiên và 
sự thay đổi cơ cấu. Lịch sử phát triển của 
xã hội loài người đã chứng kiến những 
tiến bộ lớn lao về công nghệ và tổ chức. 
Những tiến bộ đó phụ thuộc vào sự tiến 
hóa của các thể chế, tạo điều kiện thuận 
lợi cho việc tích lũy tư bản và thực hiện 
các giao dịch thị trường. Sự tự do kinh tế, 
dân sự, chính trị và các khung thể chế tạo 
thuận lợi cho sự tin tưởng lẫn nhau, nhờ 
đó tạo ra sự thịnh vượng kinh tế. 
Vậy thể chế là gì? 
Thể chế là các ràng buộc do con 
người nghĩ ra; những ràng buộc đó định 
hình tương tác chính trị, kinh tế và xã 
hội” (North 1991, trang 97). Thể chế bao 
gồm các quy tắc chính thức, các chuẩn 
mực phi chính thức và các đặc trưng thực 
thi các quy tắc chính thức và chuẩn mực 
phi chính thức và hỗn hợp của các quy 
tắc, các chuẩn mực và các đặc trưng thực 
thi. Hệ thống thể chế tốt sẽ giúp giảm bớt 
chi phí, nâng cao hiệu quả, thúc đẩy tăng 
trưởng và nhờ đó nâng cao mức sống của 
quốc gia. 
3. Hoàn thiện môi trường thể chế 
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở 
Việt Nam 
3.1. Những cải thiện thể chế chính thức
Luật Đầu tư ở Việt Nam được ban 
hành lần đầu vào năm 1996. Năm 1999 
Luật Doanh nghiệp đã thay thế Luật Công 
ty 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân 
1990; Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003 
đã thay thế Luật Doanh nghiệp nhà nước 
1995. Luật Doanh nghiệp 2005 thống nhất 
các quy định về thành lập và quản lý doanh 
nghiệp bất thuộc mọi loại hình sở hữu và 
Luật Đầu tư 2005 đã tạo ra sân chơi bình 
đẳng cho các doanh nghiệp. Hai Luật này 
sau đó được Luật Doanh nghiệp 2014 và 
Luật Đầu tư 2014 thay thế, tạo ra khung 
khổ pháp lý phù hợp với các thông lệ quốc 
tế và đáp ứng các đòi hỏi của các hiệp định 
thương mại đã ký kết. Năm 2016, Bộ Tư 
pháp đã rà soát Luật Doanh nghiệp 2014 
và Luật Đầu tư 2014, loại bỏ các điều kiện 
kinh doanh không còn phù hợp, nhưng mới 
đây Viện Nghiên cứu Kinh tế và Quản lý 
Trung ương đã khuyến nghị loại bỏ thêm 
3.000 điều kiện kinh doanh. 
Luật Kinh doanh bất động sản 2014 
và Luật Nhà ở 2014 đã giúp lĩnh vực bất 
động sản có được nhiều khoản đầu tư hơn 
nhờ việc giảm bớt các rào cản về đầu tư 
và mở rộng khả năng tiếp cận bất động 
sản tại Việt Nam, tạo môi trường đầu tư 
thân thiện để các nhà kinh doanh trong 
và ngoài nước cùng gia đình sống và làm 
việc trong bầu không khí an toàn, thoải 
mái, có đủ các dịch vụ trường học, bệnh 
viện, hoạt động vui chơi, giải trí cho họ 
lựa chọn. Bộ luật Lao động sửa đổi cho 
phép tăng giờ làm thêm, hỗ trợ thành lập 
Viện Nhân sự cũng tạo điều kiện thuận 
lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài tăng 
năng suất và hiệu quả kinh doanh. 
Các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm tới 
các quy định pháp luật về xã hội hóa lĩnh 
vực hàng không, điện và năng lượng và 
về đầu tư hợp tác công - tư (PPP). Nhờ 
thế, các doanh nghiệp nước ngoài có thể 
tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng ở Việt 
Nam, tạo nên những chuyển biến tích cực 
(theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2018 
cần 68 tỷ USD vốn FDIđể xây dựng kết 
cấu hạ tầng).
3.2. Những thay đổi trong các thể 
chế phi chính thức 
Trong thời kỳ đổi mới, khu vực kinh 
tế tư nhân phát triển mạnh mẽ đã đem lại 
những thành tựu đáng kể trong việc nâng 
cao mức sống của quốc gia, nhưng cũng 
có những hệ lụy không mong muốn, đặc 
biệt trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh 
thực phẩm và nạn vi phạm bản quyền. 
VẤN ĐỀ HÔM NAY
17Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các 
thể chế phi chính thức cũng chuyển biến 
mạnh mẽ, các hệ thống giá trị của Việt 
Nam thay đổi theo xu hướng hội nhập với 
khu vực và thế giới, nơi công việc kinh 
doanh và doanh nhân Việt Nam được 
đánh giá cao, được tôn trọng. Những hành 
vi kinh doanh gian lận có xu hướng giảm, 
những hành động tử tế, tuân thủ các quy 
tắc chính thức, các chuẩn mực đạo đức xã 
hội được khuyến khích, nêu gương trên 
các phương tiện truyền thông. 
3.3. Các đặc trưng thực thi các thể 
chế (quản trị và liêm chính)
Các doanh nghiệp ngày càng chú ý tới 
việc xây dựng các quy tắc ứng xử theo tập 
quán tối ưu và đặc biệt là nhiệm vụ giám 
sát, thực thi các quy định. Nghị quyết 35/
NQ-CP về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp 
đến năm 2020 (01/4/2016) đề ra nhiệm 
vụ cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho 
doanh nghiệp, tạo dựng môi trường hỗ trợ 
doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp 
đổi mới sáng tạo, bảo đảm quyền kinh 
doanh, quyền bình đẳng tiếp cận nguồn lực 
và cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, 
giảm chi phí kinh doanh, bảo vệ quyền và 
lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp.
Ngân hàng Nhà nước luôn phối hợp 
chặt chẽ với nhóm công tác ngân hàng của 
Diễn dàn Doanh nghiệp Việt Nam trong 
việc rà soát, giải quyết các vấn đề kỹ thuật, 
mang lại nhiều cải thiện tích cực và loại bỏ 
nhiều trở ngại, đã rất nỗ lực trong việc tái 
cơ cấu ngành, tích cực tham gia xây dựng 
và ban hành nghị quyết xử lý nợ xấu và sửa 
đổi luật về các tổ chức tín dụng. 
Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra quyết 
định tập trung vào việc giảm chi phí cho 
các hoạt động kinh doanh, đặc biệt là 
chi phí tuân thủ. Chỉ thị 20/CT-TTg quy 
định việc chấn chỉnh các hoạt động thanh 
tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp và có 
những biện pháp cải cách mạnh mẽ trong 
lĩnh vực hải quan và thanh toán thuế.
Những cải thiện trong môi trường thế 
chế đã có ảnh hưởng trực tiếp đến FDI vào 
Việt Nam (H. 1: Nguồn: World Bank).
Hình 1. FDI vào Việt nam (BoP), tỷ USD (giá hiện hành)
3.4. Những tồn tại của việc hoàn 
thiện thể chế thời gian qua
a) Về các thể chế chính thức
Mặc dù đã được hoàn thiện đáng kể, 
nhưng các quy định về mặt pháp luật vẫn 
còn nhiều hạn chế, tác động không tốt đến 
việc thu hút FDI.
Thứ nhất, trong luật có sự phân biệt 
đối xử, sự không thống nhất giữa các luật 
và còn những khoảng trống. 
VẤN ĐỀ HÔM NAY
18Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp 
vẫn phân biệt đối xử doanh nghiệp có vốn 
FDI và doanh nghiệp trong nước (Nghị 
định 102/2010/NĐ-CP). Các hoạt động 
nhập khẩu của doanh nghiệp FDI cũng 
bị bất lợi so với các doanh nghiệp trong 
nước (Nghị định 23/2007/NĐ-CP), khi 
quy định chi tiết trong Luật Thương mại 
rằng các doanh nghiệp FDI tham gia nhập 
khẩu và phân phối sản phẩm phải có giấy 
phép kinh doanh (ngoài giấy chứng nhận 
đăng ký đầu tư và giấy chứng nhận đăng 
ký doanh nghiệp đã có). Nghĩa là, các 
doanh nghiệp nước ngoài phải xin giấy 
phép con, nhưng các tiêu chí để được cấp 
không rõ ràng, nên được xem như hàng rào 
phi thuế quan. Việc áp mã hồ sơ cho hàng 
nhập khẩu thể hiện sự lúng túng, không 
nhất quán của Hải quan, gây những phiền 
toái và vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc 
gia (National Treatment). Chính sách thuế 
không rõ ràng làm cho không xác định 
được chính xác nghĩa vụ thuế của doanh 
nghiệp. Muốn tham gia thị trường, các 
nhà bán lẻ nước ngoài phải tuân thủ kiểm 
tra nhu cầu kinh tế (ENT). Tuy nhiên, 
không có tiêu chuẩn khách quan nào cho 
việc áp dụng ENT. Các nhà đầu tư nước 
ngoài tham gia vào dịch vụ logistics bị áp 
mức trần đối với vốn đầu tư vào dịch vụ 
bưu chính: tỷ lệ góp vốn không được quá 
51% (Luật Bưu chính số 49/2010/QH12). 
Luật Đất đai và Luật Nhà ở không thống 
nhất về quyết định chấp thuận đầu tư. Dự 
thảo Nghi định về bảo hiểm xã hội bắt 
buộc đối với người lao động nước ngoài 
làm việc tại Việt Nam gây sự lo ngại về 
gia tăng chi phí, vì họ đã tham gia ở công 
ty gốc ở nước ngoài. 
Ngân hàng Nhà nước quy định, đối 
với FDI các khoản thanh toán được thanh 
toán vào tài khoản vốn trực tiếp của công 
ty, còn đối với đầu tư nước ngoài gián tiếp 
(FII) các khoản thanh toán được thanh toán 
vào tài khoản bằng VND của nhà đầu tư. 
Quy định này dễ lận lộn và bị ngân hàng 
diễn giải khác nhau. Luật Doanh nghiệp 
không có quy định về việc hoán đổi cổ 
phần. Còn những yêu cầu không thực tế, 
như yêu cầu góp vốn trong vòng 90 ngày, 
công ty bị yêu cầu giảm vốn điều lệ khi 
mua lại cổ phần của mình. Theo Luật Nhà 
ở 2005, các nhà đầu tư dự án nhà ở có thể 
huy động vốn từ tất cả các nguồn hợp pháp 
theo quy định của pháp luật, nhưng Luật 
Nhà ở mới lại giới hạn bằng cách bỏ đi nội 
dung “các nguốn khác theo quy định của 
pháp luật” trong danh sách các nguồn vốn 
dành cho phát triển nhà ở. Có nghĩa là các 
nhà đầu tư phát triển nhà ở bị hạn chế khi 
vay vốn từ các tổ chức tín dụng và các tổ 
chức phi tín dụng nước ngoài.
Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử 
dụng đất cho đối tượng nước ngoài bị trì 
hoãn. Nghị định 99/2015 quy định Bộ 
Quốc phòng và Bộ Công an gửi UBND 
các tỉnh, thành văn bản thông báo về khu 
vực cần đảm bảo an ninh quốc phòng 
ở địa phương. Sau đó, UBND các tỉnh, 
thành chỉ đạo Sở Xây dựng ban hành 
danh mục dự án xây dựng nhà ở thương 
mại ở nơi người nước ngoài không được 
quyền sở hữu nhà ở. Tuy nhiên, danh 
mục này vẫn chưa được ban hành, nên Sở 
Tài nguyên và Môi trường chưa cấp giấy 
chứng nhận quyền sử dụng đất cho người 
nước ngoài đã ký hợp đồng mua nhà, gây 
khó khăn cho họ và chủ đầu tư thị trường 
bất động sản ở Việt Nam. Còn những yêu 
cầu không cần thiết nữa, như khi thay đổi 
người sử dụng đất trong trường hợp mua 
bán chuyển nhượng cổ phần/phần vốn 
góp trong doanh nghiệp, thì phải làm thủ 
tục chuyển quyền sử dụng đất, đăng ký 
biến động về đất, tài sản gắn liền với đất 
(Nghị định 01/2017).
VẤN ĐỀ HÔM NAY
19Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
Thứ hai, trong luật còn có những nội 
dung mơ hồ làm cho cán bộ và các tổ 
chức hành chính hiểu và diễn giải khác 
nhau. Định nghĩa “doanh nghiệp có vốn 
đầu tư nước ngoài” ở Luật Đất đai, Luật 
Đầu tư và Luật Kinh doanh bất động sản 
không rõ ràng, dẫn đến việc vận dụng 
không thống nhất. Có sự chồng chéo 
trong các luật: Luật Đầu tư, Luật Nhà 
ở, Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật 
Bất động sản và Luật Thị trường chứng 
khoán, Hay Thông tư 32 về mở tài 
khoản dường như đã giới hạn loại hình 
pháp nhân mở tài khoản chỉ còn hai loại: 
cá nhân và doanh nghiệp được thành lập 
theo luật doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong 
thực tế thực hiện thông tư này, các ngân 
hàng diễn giải một cách bảo thủ, khi 
nhận định rằng các văn phòng đại diện, 
tổ chức phi chính phủ, hiệp hội doanh 
nghiệp và các tổ chức không có tư cách 
pháp nhân không còn năng lực pháp lý 
để mở tài khoản ngân hàng.
Thứ ba, các quy định pháp luật chậm 
ban hành. Luật Nhà ở dù đã ban hành 
các quy định cho phép bán có giới hạn 
một số loại căn hộ chung cư và biệt thự 
nhất định cho người nước ngoài, nhưng 
các quy định ban hành chậm và dẫn đến 
nhiều nhầm lẫn, rủi ro cho các nhà đầu tư 
nước ngoài. Những khái niệm, định nghĩa 
không rõ ràng và chồng chéo, không thống 
nhất dẫn đến lúng túng và thiếu niềm tin 
trong lĩnh vực bất động sản.
Thứ tư, quy định pháp luật không tương 
thích với thông lệ quốc tế. Cụ thể, Thông 
tư 39 về cách tính lãi vừa cứng nhắc vừa 
không thống nhất với các thông lệ quốc tế 
(do bất cập trong Bộ luật Dân sự).
Tài khoản vốn đầu tư trực tiếp được 
đưa ra nhằm giúp các nhà chức trách theo 
dõi luồng vốn ra và vào Việt Nam. Nhưng 
việc thực hiện không suôn sẻ vì các ngân 
hàng diễn giải vấn đề này khác nhau. Quy 
định tài chính và dịch vụ thanh toán yêu 
cầu tất cả các giao dịch phải định tuyến 
qua Công ty cổ phần Thanh toán Quốc gia 
Việt Nam (NAPAS) gây cản trở đáng kể 
an ninh, tốc độ và độ tin cậy của các giao 
dịch, làm giảm khả năng cạnh tranh của 
các công ty thanh toán nước ngoài. Quy 
định này đã loại bỏ tất cả các kết nối trực 
tiếp giữa các tổ chức thẻ quốc tế và các 
ngân hàng khách hàng của họ ở Việt Nam, 
tạo sự bất bình đẳng trong cuộc chơi.
b) Về thực thi các thể chế chính thức 
Việc thực thi các quy tắc chính thức 
và phi chính thức có vai trò rất quan trọng. 
Những tồn tại trong việc thực thi các quy 
tắc chính thức bao gồm:
Thứ nhất, phải thực hiện nhiều bước 
để xin chấp thuận, cấp giấy phép và yêu 
cầu nhiều tài liệu gây lãng phí thời gian 
và tiền bạc. Một công ty nước ngoài hoạt 
động ở Việt Nam cần ba loại giấy phép 
khác nhau: Giấy chứng nhận đăng ký 
đầu tư, Giấy chứng nhận đăng ký doanh 
nghiệp và Giấy phép kinh doanh (H. 2).
Hình 2. Quy trình cấp phép
 1. Nộp hồ sơ 2. Cấp Giấy 3. Nộp hồ sơ 4. Cấp Giấy 5. Nộp hồ sơ 6. Cấp
 xin cấp chứng nhận xin cấp ch. nhận đ. ký xin cấp Giấy Giấy phép
 GCNĐKĐT đ. ký đầu tư GCNĐKDN doanh nghiệp phép k.doanh kinh doanh
 15 ngày 3 ngày Trong thời gian
 Trong thời gian sớm nhất làm việc sớm nhất () ngày
 có thể có thể làm việc
VẤN ĐỀ HÔM NAY
20Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
Quy trình này đòi hỏi phải chuẩn bị 
rất nhiều tài liệu và phải hợp pháp hóa 
lãnh sự đối với số tài liệu được lập ngoài 
lãnh thổ Việt Nam và phải được sứ quán 
Việt Nam ở nước ngoài chứng thực và chỉ 
được nhận trong vòng ba tháng. Không 
có ràng buộc đối với người thực thi, nên 
thường gây phiền toái và tốn kém chi phí 
cho các nhà đầu tư nước ngoài. Chẳng 
hạn, Nghị định 118/2015 quy định nhà 
đầu tư nước ngoài phải có chấp thuận của 
Sở Kế hoạch và Đầu tư, khi: (i) mua cổ 
phần trong lĩnh vực kinh doanh có điều 
kiện hoặc (ii) từ 51% cổ phần trong công 
ty Việt Nam. Nhưng thực tế luôn yêu cầu 
có chấp thuận của Sở Kế hoạch và Đầu tư 
trong mọi trường hợp.
Thứ hai, cơ quan thuế và hải quan 
cố ý diễn giải từ ngữ trong văn bản pháp 
luật theo hướng bất lợi cho doanh nghiệp 
nhằm tăng số thu. Nhiều cơ quan cấp phép 
không cho phép công ty hợp nhất vốn của 
chi nhánh vào giấy chứng nhận đăng ký 
đầu tư của trụ sở chính.
Thứ ba, vì có những quy định không 
rõ ràng dẫn đến không xác định được chính 
xác nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp, nên 
khi xảy ra lỗi, các cơ quan thuế thường đổ 
trách nhiệm lên người nộp thuế. Cơ quan 
thuế đưa ra lỗi sai về hành chính để áp đặt 
thuế một cách không hợp lý, làm mất đi 
quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp 
Hải quan điện tử (E-customs) được 
triển khai năm 2014, nhưng việc chậm trễ 
thường xuyên xảy ra do một số quy trình 
hải quan còn làm thủ công và không hiệu 
quả; kiểm tra hàng hóa thiếu minh bạch 
và thiếu nhất quán.
Những hạn chế trong việc thực thi 
các thể chế chính thức dẫn đến những 
cải thiện không đáng kể trong chỉ số 
tham nhũng của Việt Nam, thậm chí từ 
2012 đến 2015 không hề có sự thay đổi 
(B. 1).
Bảng 1. Chỉ số tham nhũng của Việt Nam - điểm 1-10, sau năm 2011 là 0-100 điểm 
(điểm càng nhỏ, tham nhũng càng cao)
Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Chỉ số 2.7 2.9 31 31 31 31 33 35
Hạng 116/178 112/182 123/176 116/176 119/175 112/168 113/176 107/175
Nguồn: Transperancy International.
4 Kết luận và khuyến nghị chính sách
4.1. Kết luận
Trong thời gian qua Chính phủ Việt 
Nam đã thực hiện nhiều nỗ lực hoàn thiện 
môi trường thể chế đối với hoạt động đầu 
tư và kinh doanh nói chung và thu hút FDI 
nói riêng. Môi trường thể chế kinh doanh 
ngày càng được cải thiện, tạo thuận lợi 
cho mọi chủ thể kinh doanh hợp pháp: (i) 
Các thể chế chính thức – các bộ luật được 
sửa đổi cho phù hợp với nhu cầu thực tế, 
các văn bản dưới luật được rà soát để loại 
bỏ những đòi hỏi không cần thiết, cản trở 
các nhà đầu tư trong và ngoài nước; (ii) 
Các thể chế phi chính thức cũng có những 
chuyển biến tích cực: quan niệm về kinh 
doanh và doanh nhân đã thay đổi theo 
hướng đánh giá cao các hoạt động kinh 
doanh trung thực, có đóng góp tích cực 
cho sự phát triển bền vững của xã hội; 
(iii) Việc thực thi các thể chế chính thức 
cũng có sự thay đổi đáng kể: đơn giản hóa 
quy trình, giảm bớt, rút ngắn thời gian 
thực hiện các thủ tục hành chính, Môi 
VẤN ĐỀ HÔM NAY
21Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
trường thể chế được cải thiện đã đóng góp 
tích cực, nhờ đó, FDI năm 2017 cao gấp 
8,8 lần FDI năm 2005.
Tuy nhiên, môi trường thể chế đối 
với hoạt động đầu tư trong và nước ngoài 
vẫn tồn tại một số vấn đề: (i) Thủ tục 
hành chính liên quan đến việc cấp phép 
còn phức tạp; (ii) Văn bản pháp luật còn 
những khái niệm, định nghĩa mơ hồ, gây 
khó cho nhà đầu tư, các cơ quan thi hành 
diễn giải khác nhau. (iii) Các cơ quan thực 
thi pháp luật thường không chịu trách 
nhiệm về những sai sót khi áp dụng các 
quy định pháp luật, mà đổ lỗi cho những 
chủ thể kinh doanh.
4.2. Hàm ý chính sách 
Để hoàn thiện hơn nữa môi trường 
thể chế nhằm thu hút FDI phục vụ phát 
triển kinh tế nhằm thỏa mãn nhu cầu hiện 
tại và tương lai, hệ thống thể chế cần hoàn 
thiện theo hướng: (i) Nâng cao chất lượng 
văn bản pháp luật để giảm bớt những nội 
dung không tương thích với luật pháp 
quốc tế, tránh sự chồng chéo và không 
nhất quán giữa các bộ luật; các khái niệm 
phải rõ ràng để tránh việc diễn giải khác 
nhau, cản trở các hoạt động đầu tư; (ii) 
Đơn giản hóa hơn nữa quy trình cấp phép, 
có thể gộp các quy trình cấp phép hiện 
thời thành một hoặc hai bước, đồng thời 
các thông tin chi tiết cần được củng cố, 
đơn giản hóa hơn nữa và cho phép nộp 
hồ sơ điện tử; (iii) Nâng cao hiệu quả 
thực thi pháp luật: cơ quan thuế và hải 
quan phải cập nhập chính sách thuế và hải 
quan, đồng thời thường xuyên tập huấn 
để phổ biến đến cán bộ hành thu. Cơ quan 
thuế phải chịu trách nhiệm về những kết 
luận, quyết định mình đưa ra, chứ không 
nên đổ trách nhiệm lên người nộp thuế./. 
Tài liệu tham khảo 
1. Luật Đầu tư 1996, 2000, 2005, 2014; Luật Doanh nghiệp nhà nước 1995, 2003; 
Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990: Luật Doanh nghiệp 1999, 2005, 2015; Luật Bất 
động sản 2014, Luật Đất đai 2013; Luật Nhà ở; Luật Bưu chính 2010, Nghị quyết 35/
NQ-CP; các Nghị định Chính phủ số 76/2015/NĐ-CP, số 99/2015/NĐ-CP, số 01/2015/
NĐ-CP; số 102/2010/NĐ-CP, số 23/2007/NĐ-CP, số 01/2017NQ-CP (06/01/2017); 
Thông tư số 32/2016 TT-NHNN. 
2. Michael Thomas Needham (2012). The road toward sustainable development. 
RIO+20, 
rio20.html 
3. United Nations (2011). World Commission on Environment and Development.”Our 
Common Future, Chapter 2: Towards Sustainable Development”. Un-documents.net. 
Retrieved 2011-09-28. 
Ngày nhận bài: 17/07/2019
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
moi_truong_the_che_va_dau_tu_nuoc_ngoai_cho_phat_trien_ben_v.pdf