Đây là báo cáo đầu tiên ở Việt Nam tìm hiểu mối
tương quan giữa số ngày kiêng xuất tinh và tỷ lệ thai
lâm sàng trên các bệnh nhân điều trị IUI. Dựa trên kết
quả nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng không có mối tương
quan giữa tỷ lệ thai lâm sàng với số ngày kiêng xuất tinh
khác nhau. Mặc dù, tỉ lệ có thai có khuynh hướng cao
hơn khi kiêng xuất tinh dài ngày (> 2 ngày), sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này có sự khác biệt
so với hai nghiên cứu trước đó trên thế giới. Nghiên cứu
của Marshburn và cộng sự (2010) khi đánh giá ngày
kiêng xuất tinh lên tỷ lệ thai lâm sàng của bệnh nhân IUI
cho kết quả kiêng thời gian ≤ 2 ngày cho tỷ lệ thai lâm
sàng đạt 11,27%; trong khi đó kiêng từ 3 - 5 ngày cho
kết quả 6,07% và > 5 ngày cho tỷ lệ 7,25% [6]. Nghiên
cứu của Jurema và cộng sự (2005) cũng cho kết quả
kiêng xuất tinh thời gian ngắn hơn 2 ngày cho tỷ lệ thai
lâm sàng cao hơn so với kiêng dài ngày [2]. Nhưng nhìn
chung, tỷ lệ thai lâm sàng trong nghiên cứu này ở các
nhóm đều lớn hơn 10%, tương đương với tỷ lệ thai lâm
sàng trong IUI trên thế giới. Và nghiên cứu của chúng
tôi cũng có số bệnh nhân tham gia nhiều hơn với những
nghiên cứu trước đó.
Khi tìm hiểu kết quả của các chỉ số tinh dịch đồ như
thể tích tinh dịch, mật độ và độ di động của tinh trùng
trước lọc rửa thì có sự khác biệt về các chỉ số này với số
ngày kiêng xuất tinh. Kết quả này phù hợp với nhiều nghiên cứu trước đó về ảnh hưởng của thời gian kiêng xuất
tinh lên các chỉ số tinh dịch đồ. Các nghiên cứu cho thấy
việc kiêng dài ngày (> 7 ngày) cho thể tích tinh dịch và
mật độ tinh trùng cao, tuy nhiên độ di động của tinh trùng
tốt nhất ở thời gian kiêng xuất tinh ngắn hơn [4,7]. Kết
quả của chúng tôi cho thấy rằng thời gian kiêng xuất tinh
ngắn (≤ 2 ngày) cho tỷ lệ tinh trùng di động cao hơn, mặc
dù tổng số tinh trùng di động giảm. Và từ nghiên cứu
có thể thấy tổng số tinh trùng di động trước lọc không
ảnh hưởng đến kết quả của IUI, thể hiện qua tỷ lệ có thai
không có sự khác biệt giữa các nhóm ngày kiêng xuất
tinh khác nhau. Thay vào đó, việc kiêng xuất tinh ngắn
ngày có thể giúp cải thiện chất lượng tinh trùng, giảm sự
tiếp xúc của tinh trùng cới các gốc oxy hóa tự do từ bạch
cầu, tinh trùng chết [8,9].
Điểm yếu của nghiên cứu là nghiên cứu hồi cứu nên
không ghi nhận thông tin của bệnh nhân về tần suất xuất
tinh hay giao hợp trước khi kiêng xuất tinh 2 ngày cho IUI.
Đồng thời, chúng tôi cũng chưa xác định tỷ lệ hình thái
tinh trùng bình thường cho mẫu bơm. Tuy nhiên, các báo
cáo trước đó cũng không cho thấy thời gian kiêng xuất
tinh có ảnh hưởng đáng kể đến hình thái tinh trùng.
Nghiên cứu này cung cấp những thông tin cần thiết
về việc kiêng xuất tinh cho bệnh nhân để áp dụng tư vấn
cho các phương pháp điều trị khác nhau trong hỗ trợ
sinh sản, cũng như đây là tiền đề cho những nghiên cứu
khác đánh giá vô sinh nam thông qua thời gian kiêng
xuất tinh. Trong IUI, việc kiêng xuất tinh vẫn được khuyến
cáo cho các bệnh nhân từ 2 - 7 ngày. Việc kiêng xuất
tinh ngắn ngày (≤ 2 ngày) trước khi IUI cho độ di động
tinh trùng cao hơn mặc dù tổng số tinh trùng di động
trong mẫu thấp hơn. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng khuyến
khích bệnh nhân nên giao hợp trong ngày IUI nếu có thể.
Mặc dù chưa có dữ liệu để chỉ ra tần suất giao hợp tối
ưu trong chu kỳ IUI, tuy nhiên có thể không cần hạn chế
giao hợp khi IUI.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối tương quan giữa thời gian kiêng xuất tinh và tỷ lệ thai lâm sàng của phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
61
Mối tương quan giữa thời gian kiêng xuất tinh và tỷ lệ thai lâm sàng của
phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung
Lê Thị Thu Thảo, Dương Nguyễn Duy Tuyền, Nguyễn Minh Tài Lộc, Nguyễn Thị Mai
Trung tâm Nghiên cứu HOPE, Bệnh viện Mỹ Đức
Tóm tắt
Mục tiêu: Xác định mối tương quan giữa thời gian kiêng xuất tinh và tỷ lệ thai lâm sàng của phương pháp IUI.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu thực hiện tại bệnh viện Mỹ Đức từ tháng 4/2016
đến tháng 12/2017. Bệnh nhân hiếm muộn có chỉ định IUI được thực hiện theo phác đồ điều trị tại bệnh viện. Vào ngày
chỉ định IUI, các thông tin về số ngày kiêng xuất tinh, chất lượng tinh trùng trước và sau khi lọc rửa được ghi nhận lại.
Yếu tố đánh giá kết quả là thai lâm sàng trong mỗi chu kỳ.
Kết quả: Có 988 trường hợp thỏa mãn tiêu chuẩn nhận loại được đưa vào nghiên cứu. Kết quả của nghiên cứu cho thấy
không có sự khác biệt về tỷ lệ thai lâm sàng ở các nhóm bệnh nhân có số ngày kiêng xuất tinh khác nhau. Tuy nhiên, các
chỉ số tinh dịch đồ (thể tích tinh dịch, mật độ, độ di động và tổng số tinh trùng di động) trước lọc rửa có sự khác biệt ở
các nhóm ngày kiêng xuất tinh khác nhau và không làm ảnh hưởng đến kết quả thai. Thời gian kiêng xuất tinh càng lâu
thì thể tích tinh dịch, mật độ tinh trùng trước lọc cao hơn nhưng tỷ lệ tinh trùng di động giảm dần và ngược lại (p < 0,05).
Kết luận: Kết quả IUI không bị ảnh hưởng bởi thời gian kiêng xuất tinh nhưng có thể ảnh hưởng đến chất lượng tinh trùng.
Từ khóa: Bơm tinh trùng vào buồng tử cung, thời gian kiêng xuất tinh, thai lâm sàng, chất lượng tinh dịch.
Revisiting the relationship between the abstinence period and the clinical
pregnancy rate of intrauterine insemination
Le Thi Thu Thao, Duong Nguyen Duy Tuyen, Nguyen Minh Tai Loc, Nguyen Thi Mai
HOPE Research Center, My Duc Hospital
Abstract
Objective: To revisit the influence of the abstinence period on the clinical pregnancy rate of IUI.
Materials and Methods: This was a retrospective cohort study conducted at My Duc Hospital from April 2016 to De-
cember 2017. Infertility patients with IUI indications were treated according to the hospital treatment regimen. On the
date of IUI appointment, information of abstinence period, sperm quality in the native and post-preparation was record-
ed. The main outcome was the clinical pregnancy rate.
Results: The ejaculatory abstinence period had no influence on the clinical pregnancy rate of intrauterine insemination.
However, abstinence period had a significant impact on semen parameters (volume, concentration, motility and total
motile sperm).
Conclusions: The abstinence period has no effect on the clinical pregnancy rate of intrauterine insemination, but could
affect the semen parameters.
Key words: Intrauterine insemination, abstinence period, clinical pregnancy, semen analysis.
doi:10.46755/vjog.2020.1.793
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Lê Thị Thu Thảo, email: thaoivf.ltt@myduchospital.vn
Nhận bài (received) 05/12/2019 - Chấp nhận đăng (accepted) 20/04/2020
Lê Thị Thu Thảo và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(1):61-65. doi: 10.46755/vjog.2020.1.793
NGHIÊN CỨU VÔ SINH
62
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, bơm tinh trùng vào buồng tử cung (Intra-
uterine insemination - IUI) là một trong những kỹ thuật
được áp dụng khá phổ biến tại các trung tâm thụ tinh
trong ống nghiệm (TTTON) ở Việt Nam. Tuy nhiên, sự
thành công của kỹ thuật phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
tuổi vợ, thời gian vô sinh, tổng số tinh trùng di động, thời
gian kiêng xuất tinh[1]. Trong đó, tổng số tinh trùng di
động được coi là yếu tố quan trọng cho sự thành công
của IUI, quy định với số lượng tinh trùng tối thiểu sau lọc
rửa để IUI là 1 triệu tinh trùng di động [2,3]. Tổng số tinh
trùng di động có liên quan đến số ngày kiêng xuất tinh,
tuy nhiên chưa có sự thống nhất về thời gian kiêng xuất
tinh cho chất lượng tinh trùng tối ưu. Theo khuyến cáo
của WHO (2010) và một số nghiên cứu cho thấy thời gian
kiêng từ 2 - 7 ngày là khoảng thời gian cần thiết để thu
được tổng số tinh trùng di động cao [2,4]. Nghiên cứu
của Magnus (1991) cũng cho thấy tổng số tinh trùng di
động cao nhất khi kiêng xuất tinh từ 3 - 4 ngày và lượng
này giảm dần khi thời gian kiêng xuất tinh trên 4 ngày.
Tuy nhiên, vài nghiên cứu gần đây cho rằng thời gian xuất
tinh ngắn (trong vòng 40 phút kể từ lần xuất tinh đầu
tiên) cho nhiều tinh trùng di động và thời gian kiêng xuất
tinh từ 0 - 2 ngày cho tỷ lệ hình dạng bình thường cao
hơn [5]. Gần đây, một số nghiên cứu hồi cứu cũng nhận
thấy thời gian kiêng xuất tinh có ảnh hưởng đến kết quả
IUI. Nghiên cứu của Jurena (2005) báo cáo rằng số ngày
kiêng xuất tinh ít hơn hoặc bằng 3 ngày cho kết quả có
thai sau IUI cao hơn so với nhóm kiêng xuất tinh hơn 3
ngày [2]. Trong khi đó, tác giả Marshburn (2010) khuyến
cáo số ngày kiêng xuất tinh ít hơn 2 ngày cho kết quả IUI
cao nhất [6].
IUI là một kỹ thuật đơn giản và có tỷ lệ thành công
chấp nhận được, là chỉ định đầu tay trong các trường
hợp rối loạn phóng noãn có chất lượng tinh trùng bình
thường hoặc yếu nhẹ. Mặc dù tỷ lệ thành công không
cao, nhưng việc tối ưu hóa các điều kiện trong đó có thời
gian kiêng xuất tinh, sẽ giúp bệnh nhân có cơ hội cao hơn
với phương pháp điều trị này. Tuy nhiên, số nghiên cứu về
mối tương quan giữa số ngày kiêng xuất tinh và kết quả
IUI còn hạn chế và chưa đưa ra được chứng cứ thuyết
phục. Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm
mục đích tìm ra mối tương quan giữa số ngày kiêng xuất
tinh và tỷ lệ thai lâm sàng sau khi bơm tinh trùng vào
buồng tử cung. Kết quả của nghiên cứu có thể đưa ra
khuyến cáo về số ngày kiêng xuất tinh phù hợp để cho
kết quả IUI tối ưu nhất, giúp các nhân viên y tế có thể tư
vấn cho bệnh nhân.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu: Đoàn hệ hồi cứu.
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân có chỉ định thực hiện bơm tinh trùng vào
buồng tử cung tại IVFMD, bệnh viện Đa khoa Mỹ Đức,
từ tháng 4/2016 đến tháng 12/2017, thỏa mãn các tiêu
chuẩn nhận bệnh gồm: tuổi vợ ≤ 35 tuổi, chồng có tinh
trùng bình thường hoặc thiểu tinh (oligozoospermia),
tổng tinh trùng di động sau lọc rửa ≥ 1 triệu tinh trùng.
Tiêu chuẩn loại trừ: Thể tích tinh dịch thu được < 0,5
ml và tinh trùng trữ đông.
Phương pháp tiến hành
Kích thích buồng trứng: bệnh nhân được kích thích
buồng trứng bằng FSH/hMG tái tổ hợp vào ngày 2 - ngày
5 của chu kỳ. Nang noãn được theo dõi bằng siêu âm ngã
âm đạo. Gây phóng noãn thực hiện khi có nang trưởng
thành đạt đường kính từ 18mm. Sử dụng hCG 5.000 -
10.000 IU hoặc Diphereline 0,1 mg (nếu có > 3 nang kích
thước ≥ 14mm). Chu kỳ bị hủy nếu có > 6 nang ≥ 14mm
phát triển và giải thích bệnh nhân chuyển sang IVF.
Chuẩn bị tinh trùng: mẫu tinh dịch được thu nhận vào
lọ vô trùng bằng phương pháp thủ dâm, ghi nhận số ngày
kiêng xuất tinh. Số ngày kiêng xuất tinh được chia theo
nhóm: ≤ 2, 3 - 4, 5 - 7, > 7 ngày. Chất lượng tinh trùng
trước và sau khi lọc rửa được ghi nhận vào hồ sơ (thể
tích, mật độ, độ di động tinh trùng).
Bơm tinh trùng vào buồng tử cung: sau khi tiêm hCG
36 - 40 giờ, bệnh nhân được bơm tinh trùng. Sau 14 ngày
bơm tinh trùng vào tử cung, bệnh nhân được làm xét
nghiệm máu định lượng nồng độ beta-hCG trong máu.
Bệnh nhân có thai được thực hiện siêu âm 3 tuần sau đó.
Thai lâm sàng trong nghiên cứu được ghi nhận khi có ít
nhất một tim thai khi siêu âm ở tuần thứ 8.
Hỗ trợ hoàng thể: bệnh nhân được chỉ định dùng
thuốc progesterone đường âm đạo (Cyclogest, ACTAVIS
UK LTD, United Kingdom) 100 mg hai lần một ngày từ lúc
IUI đến ngày thử thai.
Yếu tố đánh giá kết quả
Tỷ lệ thai lâm sàng trên chu kỳ. Chất lượng tinh trùng
trước lọc rửa: thể tích tinh dịch, mật độ, độ di động và
tổng số tinh trùng di động.
Số liệu được xử lý bằng phần mềm thống kê R 3.3.3.
Lê Thị Thu Thảo và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(1):61-65. doi: 10.46755/vjog.2020.1.793
63
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian từ tháng 4/2016 đến tháng 12/2017, tổng cộng có 988 chu kỳ IUI thỏa mãn điều kiện tham gia
nghiên cứu.
Bảng 1. Đặc điểm nền của bệnh nhân tham gia nghiên cứu
Đặc điểm n = 988
Tuổi vợ (năm) 29,45 ± 3,77
Tuổi chồng (năm) 32,27 ± 4,66
BMI vợ (kg/m2) 20,62 ±3,30
AMH vợ (ng/mL) 5,90 ± 3,68
AFC vợ (n) 16,54 ± 8,94
Độ dày NMTC ngày chuyển phôi (mm) 11,21 ± 1,71
Ngày kiêng xuất tinh (ngày)
≤ 2 245 (24,8%)
3 – 4 446 (45,1%)
5 – 7 224 (22,7%)
> 7 73 (7,4%)
Tỷ lệ thai lâm sàng 139 (14,1%)
Tuổi bệnh nhân trung bình trong nghiên cứu này là 29,45 ± 3,77 (tuổi).
Bảng 2. Sự khác biệt về tỷ lệ thai lâm sàng ở các nhóm có số ngày kiêng khác nhau
Kết quả
≤ 2
(n = 245)
3 – 4
(n = 446)
5 – 7
(n = 224)
> 7
(n = 73)
p
Tỷ lệ thai lâm sàng, n (%) 30 (12,2) 66 (14,8) 32 (14,3) 11 (15,1) 0,82
Không có sự khác biệt về ý nghĩa thống kê về tỷ lệ thai lâm sàng ở các nhóm này (p = 0,82). Cụ thể, tỷ lệ thai lâm
sàng ở các nhóm có số ngày kiêng ≤ 2, 3 - 4, 5 - 7, > 7 ngày tương ứng 12,2%; 14,8%; 14,3%; 15,1%, p = 0,082.
Bảng 3. So sánh đặc điểm tinh dịch ở các nhóm ngày kiêng khác nhau
Kết quả
≤ 2
(n = 245)
3 – 4
(n = 446)
5 – 7
(n = 224)
> 7
(n = 73)
Thể tích (mL) 2,36 (1,09) (2),(3),(4) 2,82 (1,25) (1),(3),(4) 3,09 (1,41) (1),(2),(4) 3,64 (1,64) (1),(2),(3)
Mật độ trước lọc
(x 106/mL)
44,07 (23,39) (3),(4) 48,60 (29,21) (4) 51,85 (29,88) (1) 61,10 (42,48) (1),(2)
Di động trước lọc (%) 39,25 (10,44) (2),(3),(4) 36,72 (9,61) (1),(3),(4) 33,78 (10,34) (1),(2),(4) 30,03 (9,87) (1),(2),(3)
Tổng tinh trùng di động
trước lọc
(x 106 tinh trùng)
36,44 (21,23) (2),(3),(4) 45,00 (26,85) (1),(4) 51,17 (35,29) (1) 60,43 (43,35) (1),(2)
Số liệu được trình bày dưới dạng trung bình (độ lệch chuẩn).
Chú thích:
(1) P-values hiệu chỉnh < 0,05 khi so sánh với nhóm “ngày kiêng ≤ 2”
(2) P-values hiệu chỉnh < 0,05 khi so sánh với nhóm “ngày kiêng từ 3 – 4”
(3) P-values hiệu chỉnh < 0,05 khi so sánh với nhóm “ngày kiêng từ 5 – 7”
(4) P-values hiệu chỉnh 7”
So sánh đặc điểm tinh dịch (thể tích, mật độ, độ di
động, tổng số tinh trùng di động) ở các nhóm có ngày
kiêng khác nhau được thể hiện qua bảng 3. Thể tích
tinh dịch có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở các ngày
kiêng xuất tinh khác nhau, trong đó thời gian kiêng càng
lâu thì thể tích tinh dịch càng nhiều (kiêng xuất tinh ≤ 2
ngày là 2,36 ml và kiêng xuất tinh > 7 ngày là 3,64 ml, p
< 0,05). Về mật độ tinh trùng trước lọc, có sự khác biệt
Lê Thị Thu Thảo và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(1):61-65. doi: 10.46755/vjog.2020.1.793
64
ở các nhóm ≤ 2 ngày và 5 - 7 ngày; nhóm ≤ 2 ngày và > 7
ngày; 3 - 4 ngày và > 7 ngày, cụ thể kết quả cho thấy thời
gian kiêng xuất tinh càng dài thì mật độ càng tăng (≤ 2
ngày là 44,07 x 106 tinh trùng/ml và > 7 ngày là 61,1 x 106
tinh trùng/ml, p < 0,05).
Độ di động tinh trùng có sự khác biệt giữa các nhóm
với nhau, số ngày kiêng càng dài tỷ lệ tinh trùng di động
càng giảm (≤ 2 ngày là 39,25% và > 7 ngày là 30,03%, p <
0,05). Từ những yếu tố trên, kết quả cũng cho thấy tổng
số tinh trùng di động có sự khác biệt ở các nhóm. Thời
gian kiêng xuất tinh dài cho tổng số tinh trùng di động
trước lọc cao hơn, với thời gian > 7 ngày cho kết quả cao
nhất đạt 60,43 triệu tinh trùng.
4. BÀN LUẬN
Đây là báo cáo đầu tiên ở Việt Nam tìm hiểu mối
tương quan giữa số ngày kiêng xuất tinh và tỷ lệ thai
lâm sàng trên các bệnh nhân điều trị IUI. Dựa trên kết
quả nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng không có mối tương
quan giữa tỷ lệ thai lâm sàng với số ngày kiêng xuất tinh
khác nhau. Mặc dù, tỉ lệ có thai có khuynh hướng cao
hơn khi kiêng xuất tinh dài ngày (> 2 ngày), sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này có sự khác biệt
so với hai nghiên cứu trước đó trên thế giới. Nghiên cứu
của Marshburn và cộng sự (2010) khi đánh giá ngày
kiêng xuất tinh lên tỷ lệ thai lâm sàng của bệnh nhân IUI
cho kết quả kiêng thời gian ≤ 2 ngày cho tỷ lệ thai lâm
sàng đạt 11,27%; trong khi đó kiêng từ 3 - 5 ngày cho
kết quả 6,07% và > 5 ngày cho tỷ lệ 7,25% [6]. Nghiên
cứu của Jurema và cộng sự (2005) cũng cho kết quả
kiêng xuất tinh thời gian ngắn hơn 2 ngày cho tỷ lệ thai
lâm sàng cao hơn so với kiêng dài ngày [2]. Nhưng nhìn
chung, tỷ lệ thai lâm sàng trong nghiên cứu này ở các
nhóm đều lớn hơn 10%, tương đương với tỷ lệ thai lâm
sàng trong IUI trên thế giới. Và nghiên cứu của chúng
tôi cũng có số bệnh nhân tham gia nhiều hơn với những
nghiên cứu trước đó.
Khi tìm hiểu kết quả của các chỉ số tinh dịch đồ như
thể tích tinh dịch, mật độ và độ di động của tinh trùng
trước lọc rửa thì có sự khác biệt về các chỉ số này với số
ngày kiêng xuất tinh. Kết quả này phù hợp với nhiều ng-
hiên cứu trước đó về ảnh hưởng của thời gian kiêng xuất
tinh lên các chỉ số tinh dịch đồ. Các nghiên cứu cho thấy
việc kiêng dài ngày (> 7 ngày) cho thể tích tinh dịch và
mật độ tinh trùng cao, tuy nhiên độ di động của tinh trùng
tốt nhất ở thời gian kiêng xuất tinh ngắn hơn [4,7]. Kết
quả của chúng tôi cho thấy rằng thời gian kiêng xuất tinh
ngắn (≤ 2 ngày) cho tỷ lệ tinh trùng di động cao hơn, mặc
dù tổng số tinh trùng di động giảm. Và từ nghiên cứu
có thể thấy tổng số tinh trùng di động trước lọc không
ảnh hưởng đến kết quả của IUI, thể hiện qua tỷ lệ có thai
không có sự khác biệt giữa các nhóm ngày kiêng xuất
tinh khác nhau. Thay vào đó, việc kiêng xuất tinh ngắn
ngày có thể giúp cải thiện chất lượng tinh trùng, giảm sự
tiếp xúc của tinh trùng cới các gốc oxy hóa tự do từ bạch
cầu, tinh trùng chết [8,9].
Điểm yếu của nghiên cứu là nghiên cứu hồi cứu nên
không ghi nhận thông tin của bệnh nhân về tần suất xuất
tinh hay giao hợp trước khi kiêng xuất tinh 2 ngày cho IUI.
Đồng thời, chúng tôi cũng chưa xác định tỷ lệ hình thái
tinh trùng bình thường cho mẫu bơm. Tuy nhiên, các báo
cáo trước đó cũng không cho thấy thời gian kiêng xuất
tinh có ảnh hưởng đáng kể đến hình thái tinh trùng.
Nghiên cứu này cung cấp những thông tin cần thiết
về việc kiêng xuất tinh cho bệnh nhân để áp dụng tư vấn
cho các phương pháp điều trị khác nhau trong hỗ trợ
sinh sản, cũng như đây là tiền đề cho những nghiên cứu
khác đánh giá vô sinh nam thông qua thời gian kiêng
xuất tinh. Trong IUI, việc kiêng xuất tinh vẫn được khuyến
cáo cho các bệnh nhân từ 2 - 7 ngày. Việc kiêng xuất
tinh ngắn ngày (≤ 2 ngày) trước khi IUI cho độ di động
tinh trùng cao hơn mặc dù tổng số tinh trùng di động
trong mẫu thấp hơn. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng khuyến
khích bệnh nhân nên giao hợp trong ngày IUI nếu có thể.
Mặc dù chưa có dữ liệu để chỉ ra tần suất giao hợp tối
ưu trong chu kỳ IUI, tuy nhiên có thể không cần hạn chế
giao hợp khi IUI.
5. KẾT LUẬN
Kết quả của nghiên cứu cho thấy thời gian kiêng xuất
tinh không ảnh hưởng đến tỷ lệ thai lâm sàng khi thực
hiện IUI. Tuy nhiên, thời gian kiêng xuất tinh có thể ảnh
hưởng đến các chỉ số tinh dịch đồ. Để đạt được độ mạnh,
nghiên cứu nên tiếp tục thực hiện tiến cứu với việc loại
trừ sự ảnh hưởng từ các yếu tố khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cohlen B, Bijkerk A, Van der Poel S, and Ombelet W.
IUI: review and systematic assessment of the evidence
that supports global recommendations. Hum Reprod Up-
date. 2018 May; 24(3):1–20.
2. Jurema M, Vieira A, Bankowski B. Effect of ejaculatory
abstinence period on the pregnancy rate after intrauter-
ine insemination. Fertil Steril. 2005; 84(3):678-681.
3. Marshburn P, Giddings A, Causby S. Influence of ejac-
ulatory abstinence on seminal total antioxidant capaci-
ty and sperm membrane lipid peroxidation. Fertil Steril.
2014; 102(3): 705-710.
4. Levitas E, Lunenfeld E, Weiss N. Relationship between
the duration of sexual abstinence and semen quality:
analysis of 9,489 semen samples. Fertil Steril. 2005 Jun;
83(6): 1680–1686.
5. Bahadur G, Almossawi O, Zeirideen Zaid, Ilahibuccus
A. Semen characteristics in consecutive ejaculates with
Lê Thị Thu Thảo và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(1):61-65. doi: 10.46755/vjog.2020.1.793
65
short abstinence in subfertile males. Reprod Biomed On-
line. 2016; 32(3): 323–328.
6. Marshburn PB, Alanis M, Matthews ML, Usadi R. A
short period of ejaculatory abstinence before intrauter-
ine insemination is associated with higher pregnancy
rates. Fertil Steril. 2010; 93(1): 286–288.
7. Ayad BM, Van der Horst G, Du Plessis G. Revisiting the
relationship between the ejaculatory abstinence period
and semen characteristics. International Journal of Fer-
tility and Sterility. 2018; 11(4): 238–246.
8. Aitken, R.J., Clarkson, J.S., Hargreave, T.B., Irvine,
D.S., and Wu, F.C. Analysis of the relationship between
defective sperm function and the generation of reac-
tive oxygen species in cases of oligozoospermia. J An-
drol. 1989; 10: 214–220.
9. Agarwal, A., Saleh, R.A., and Bedaiway, M.A. Role of re-
active oxygen species in the pathophysiology of human
reproduction. Fertil Steril. 2003; 79: 829–843.
Lê Thị Thu Thảo và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(1):61-65. doi: 10.46755/vjog.2020.1.793
Các file đính kèm theo tài liệu này:
moi_tuong_quan_giua_thoi_gian_kieng_xuat_tinh_va_ty_le_thai.pdf