Một cách quảng bá du lịch các tỉnh Miền Trung thời Pháp thuộc

Trong cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động du lịch ở Việt Nam hiện nay, chỉ thấy Tổng cục Du lịch (thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) là cấp cao nhất trong ngành. Dưới đó là cấp tỉnh với đơn vị chủ quản là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, chứ không có cấp liên tỉnh (vùng miền). Nếu không có cấp chủ quản trung gian giữa bộ máy du lịch quốc gia và địa phương (tỉnh) thì không ai có trách nhiệm làm tập gấp quảng bá du lịch liên tỉnh như trường hợp miền Trung vừa thấy ở trên. Như vậy, trong tình hình hiện nay, trách nhiệm làm tập gấp quảng bá du lịch vùng miền như thế phải được đẩy lên cho Tổng cục Du lịch. Riêng ở miền Trung, thực tế đang cần một tập gấp chỉ dẫn du lịch chung như vậy. Hành trình đường bộ của khách du lịch, nhất là du khách quốc tế, thường không bị xé lẻ bởi ranh giới hành chính của một tỉnh thành nào, mà tiếp diễn liên tục suốt cả một vùng miền văn hóa với giá trị đặc thù chung của nó. Tất nhiên, ngày nay, nếu Tổng cục Du lịch hoặc một tổ chức hay cá nhân nào đó đứng ra làm một tập gấp như vậy cho miền Trung chẳng hạn, thì với các vật liệu giấy má cao cấp và phương tiện ấn loát hiện đại, chắc hẳn tập gấp sẽ được thực hiện một cách khoa học, chính xác, đầy đủ, chất lượng, cập nhật, tiện lợi và hấp dẫn hơn xưa. Hy vọng bài viết này cung cấp kinh nghiệm về một cách quảng bá du lịch Trung Kỳ từ thời quá khứ cần tham khảo, đồng thời đóng góp một ý kiến nhỏ vào việc định hướng liên kết giữa các tỉnh trong sự nghiệp phát triển du lịch ở miền Trung Việt Nam

pdf6 trang | Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 563 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một cách quảng bá du lịch các tỉnh Miền Trung thời Pháp thuộc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
40 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên Các hoạt động dịch vụ du lịch chưa hề có ở Việt Nam trước khi người Pháp đến xâm lược nước ta. Sau khi họ chiếm xong các nước Đông Dương làm thuộc địa vào những năm đầu thế kỷ XX, ngành kỹ nghệ không khói này mới được thành lập một cách chính thức tại đây. Càng ngày họ càng phát hiện ra rằng ba nước Đông Dương nói chung, miền Trung Việt Nam nói riêng, là nơi ẩn tàng nhiều giá trị lịch sử, tiềm năng văn hóa và danh lam thắng cảnh. Để khai thác các vốn quý ấy, họ đã tổ chức guồng máy hoạt động du lịch một cách có bài bản và có hệ thống từ trung ương đến địa phương. Về hoạt động quảng bá du lịch, có những việc họ làm cách đây bảy, tám chục năm, ngày nay chúng ta vẫn chưa làm được. Chúng tôi muốn nêu ra ở đây một ví dụ cụ thể nhất, là việc họ đã nghiên cứu, biên soạn, ấn loát và phát hành tập gấp chỉ dẫn hành trình du lịch miền Trung bằng đường bộ dọc theo Quốc lộ số 1. Trong bài viết này, chúng tôi xin đề cập đôi nét về tổ chức hoạt động du lịch ở Trung Kỳ thời Pháp thuộc, giới thiệu một số ấn phẩm họ đã thực hiện và đưa ra một đề nghị liên quan đến “con đường du lịch miền Trung”. 1. Đôi nét về du lịch miền Trung thời Pháp thuộc Gần một năm sau khi kinh đô Huế thất thủ vào tay thực dân (1885), Tổng thống Pháp ký sắc lệnh ngày 3.2.1886 thiết lập Tòa Khâm sứ Trung Kỳ (Résidence Supérieure de l’Annam) đóng tại bờ nam sông Hương (nay là địa điểm của trường Đại học Sư phạm Huế). Một năm sau, Tổng thống Pháp lại ký sắc lệnh ngày 17.10.1887 thành lập Liên bang Đông Dương1 đóng thủ phủ tại Sài Gòn, rồi sau đó dời ra Hà Nội. Tất nhiên, Tòa Khâm sứ Trung Kỳ ở dưới quyền của Phủ Toàn quyền Đông Dương. Những năm cuối thập niên 1880 là lúc thực dân Pháp bắt đầu chính sách khai thác mọi loại MỘT CÁCH QUẢNG BÁ DU LỊCH CÁC TỈNH MIỀN TRUNG THỜI PHÁP THUỘC ? PHaN THUẬN aN* * Nhà nghiên cứu, thành phố Huế. tài nguyên kinh tế ở xứ thuộc địa này. Từ đó trở đi, bộ máy hành chính tại Đông Dương nói chung, Trung Kỳ (Annam) nói riêng, được tổ chức ngày càng chặt chẽ và có hệ thống. Trong cơ cấu tổ chức của Phủ Toàn quyền Đông Dương, có một cơ quan gọi là Sở Nghiên cứu các vấn đề kinh tế (Service des Affaires Économiques) được thành lập vào ngày 21.12.1911. Trực thuộc cơ quan này có một bộ phận mang tên là Cục Du lịch và Tuyên truyền Đông Dương (Office Indochinoise du Tourisme et de la Propagande).2 Đồng thời, trong cơ cấu tổ chức của Tòa Khâm sứ Trung Kỳ đóng tại kinh đô triều Nguyễn có thiết lập một phòng liên quan đến vấn đề đang đề cập là Phòng Du lịch Trung Kỳ (Bureau Officiel du Tourisme en Annam), nằm ngay trong khuôn viên của Tòa Khâm sứ Huế. Sau một thời gian tiếp cận với các nước Đông Dương nói chung, Trung Kỳ nói riêng, người Pháp nhận ra rằng đây là vùng đất có lịch sử lâu đời, có nhiều di sản văn hóa đặc biệt và nhiều cảnh đẹp thiên nhiên 41Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên hấp dẫn. Do đó, vào ngày 9.11.1921, Phủ Toàn quyền Đông Dương đã thành lập Ủy ban Danh thắng (Commission des Sites). Ủy ban này có nhiệm vụ tư vấn cho Toàn quyền Đông Dương về những vấn đề liên quan đến việc phát hiện, bảo tồn và khai thác các danh lam thắng cảnh cũng như các di tích kiến trúc nghệ thuật trên toàn cõi Đông Dương. Hoạt động của Ủy ban được đặt dưới sự chỉ đạo của Toàn quyền với sự tham gia của các cơ quan chức năng như Cục Du lịch và Tuyên truyền, Trường Viễn Đông Bác Cổ (E.F.E.O.).3 Sau đó gần hai năm, vào ngày 17.7.1923, Phủ Toàn quyền còn thành lập Ủy ban Du lịch Đông Dương (Comité Central du Tourisme) với nhiệm vụ tư vấn cho Toàn quyền về ngành du lịch, việc bảo tồn các danh thắng, tổ chức các khu nghỉ mát, xây dựng các khách sạn, các công viên. Ủy ban này cũng do Toàn quyền đứng đầu với các thành viên gồm thủ hiến các xứ, giám đốc Tài chính, thanh tra Công chính, cục trưởng Cục Du lịch và Tuyên truyền, giám đốc Trường Viễn Đông Bác Cổ.4 Cục Du lịch và Tuyên truyền Đông Dương được hoàn chỉnh về tổ chức bằng một nghị định do Toàn quyền tại đây ký ngày 3.4.1928. Vẫn trực thuộc văn phòng Toàn quyền, Cục này chuyên trách hai công tác chính là tổ chức du lịch (như khai thác hệ thống khách sạn, tổ chức các tuyến điểm du lịch, phát hiện và bảo tồn các di tích danh thắng) và tuyên truyền về vùng Đông Dương ra nước ngoài bằng nhiều hình thức khác nhau.5 Cho đến bấy giờ, tuyệt đại đa số các du khách đến Đông Dương nói chung, miền Trung Việt Nam nói riêng, đều là người Tây phương, đặc biệt là người Pháp. Họ đã đến đây từ các thế kỷ trước đó, nhưng phần lớn với tư cách là các giáo sĩ Thiên chúa giáo, các nhà ngoại giao, thương nhân, sĩ quan Phải đến những thập niên đầu thế kỷ XX, khi guồng máy du lịch ở Đông Dương nói chung, Trung Kỳ nói riêng được hình thành chính thức và tổ chức chu đáo, số lượng du khách ấy mới đến đây ngày càng nhiều. Quyển sách đầu tiên giới thiệu và tuyên truyền về du lịch Trung Kỳ là quyển Guide de l’Annam của Philippe Eberhardt được in tại Paris vào năm 1914. Chức vụ của tác giả được ghi trên bìa sách là “Délégué du Tourisme colonial” (Ủy viên Du lịch thuộc địa). Bấy giờ, ông đã viết: “Nay là lúc các du khách bắt đầu tăng lên mỗi năm một nhiều trên các chiếc tàu đi Viễn Đông, cần làm ra những sách hướng dẫn để họ đến tham quan thuộc địa của chúng ta bằng những phương cách tiện lợi nhất, và chỉ trong một thời gian hạn chế, nhưng thu nhận được những hiểu biết chính xác và rõ ràng về cả phương diện lịch sử và kinh tế lẫn vẻ đẹp của các phong cảnh”.6 Bấy giờ, Huế là trung tâm du lịch quan trọng nhất của cả miền Trung. Ngoài sự hấp dẫn của các công trình kiến trúc cung đình và dân gian cũng như vẻ đẹp thơ mộng của các thắng cảnh ở đất Thần kinh, Huế còn là nơi tọa lạc của Tòa Khâm sứ, thủ phủ hành chính của chính quyền bảo hộ Pháp tại Trung Kỳ. Khi du khách đến thăm thú miền núi Ngự sông Hương, điều đầu tiên họ làm là đến tiếp xúc ngay với Phòng Du lịch Trung Kỳ được thiết lập bên trong khuôn viên Tòa Khâm sứ để nắm bắt mọi thông tin cần thiết liên quan đến việc tham quan kinh đô triều Nguyễn. Phòng này còn chỉ dẫn cho họ biết về các khách sạn, nhà hàng, các điểm tham quan, khoảng cách từ trung tâm thành phố Huế đến các điểm, thời lượng đi tham quan từng điểm, các phương tiện đi lại (xe kéo, ô-tô, tàu thuyền). Ngoài ra, Phòng Du lịch Trung Kỳ còn cung cấp thêm cho du khách những thông tin cơ bản liên quan đến việc đi du lịch các tỉnh miền Trung. 2. Tập gấp chỉ dẫn hành trình du lịch miền Trung Dưới thời Pháp thuộc, guồng máy hoạt động du lịch tại Đông Dương đã được tổ chức một cách hợp lý và vận hành một cách có hiệu quả. Bấy giờ, ngoài Phòng Du lịch Trung Kỳ ở Huế, người Pháp còn thiết lập một Phòng Du lịch Nam Kỳ ở Sài Gòn và một Phòng Du lịch Bắc Kỳ ở Hà Nội.7 Dưới đây chỉ chú trọng đến Phòng Du lịch Trung Kỳ ở Huế với một vài hoạt động liên quan đến du lịch tại các tỉnh miền Trung mà thôi. Tên hành chính của cơ quan này là Le Bureau Officiel du Tourisme en Annam de la Résidence Supérieure de Hué (Phòng Du lịch Trung Kỳ thuộc Tòa Khâm sứ Huế). Tên gọi đó cho biết rõ văn phòng này tuy đóng tại Huế nhưng địa bàn quản lý và hoạt động du lịch bao trùm cả xứ An Nam, tức là tất cả các tỉnh duyên hải và cao nguyên miền Trung: từ Thanh Hóa đến Bình Thuận lên đến các tỉnh vùng cao mà ngày nay được gọi là Tây Nguyên. Ngoài việc điều hành các hoạt động du lịch trên địa bàn Trung Kỳ, Phòng Du lịch Trung Kỳ còn có chức năng tuyên truyền và quảng bá du lịch miền Trung đến mọi du khách ở khắp nơi bằng những hình thức khác nhau. Một trong những hình thức tuyên truyền và quảng bá ấy là lưu hành các tập gấp do Phòng biên soạn và xuất bản. Căn cứ vào nội dung của chúng, chúng tôi tạm chia các tập gấp bấy giờ ra làm 3 loại: loại từng tỉnh, loại riêng từng điểm tham quan và loại chung cho cả miền Trung. Chúng tôi may mắn sưu tầm được hầu hết 42 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên các tập gấp của cả 3 loại ấy. 1.1. Tập gấp giới thiệu từng tỉnh Từ năm 1935, Phòng Du lịch Trung Kỳ đã bắt đầu biên soạn và ấn hành một loạt những tập gấp thuộc một kế hoạch quảng bá du lịch dài hơi gọi là Collection de Notices touristiques sur les Provinces de l’Annam (Bộ sưu tập các bản chỉ dẫn du lịch các tỉnh Trung Kỳ). Mỗi tập gấp giới thiệu một tỉnh hoặc hai tỉnh liền kề nhau. Bấy giờ, Trung Kỳ được chia thành 17 tỉnh sau đây: 1. Thanh Hóa, 2. Nghệ An, 3. Hà Tĩnh, 4. Quảng Bình, 5. Quảng Trị, 6. Thừa Thiên, 7. Quảng Nam, 8. Quảng Ngãi, 9. Bình Định, 10. Phú Yên, 11. Khánh Hòa, 12. Ninh Thuận, 13. Bình Thuận, 14. Đồng Nai Thượng (tức là tỉnh Lâm Đồng ngày nay), 15. Darlac, 16. Pleiku, 17. Kontum. Về hình thức, các tập gấp đều được thực hiện bằng giấy dày màu xám nhạt, in mực đen, xếp gọn lại thành 6 trang, 8 trang hoặc 12 trang, trang cỡ 23 x 10,5 cm. Các tập đều có ghi số trang theo thứ tự, ghi tên nhà in (hoặc I.D.E.O. HANOI tức là nhà in Trường Viễn Đông Bác Cổ tại Hà Nội, hoặc nhà in A.J.S. tại Huế), có ghi năm xuất bản hoặc không ghi. Nhưng, tất cả các tập gấp đều có ghi rằng đây là xuất bản phẩm của Phòng Du lịch Trung Kỳ thuộc Tòa Khâm sứ Huế (Éditions du Bureau Officiel du Tourisme en Annam de la Résidence Supérieure de Hué). Tính đến thời điểm hiện nay, chúng tôi đã sưu tầm được 10 tập gấp trong số các tỉnh nói trên: 1. Tỉnh Thanh Hóa: 6 trang, không đề năm xuất bản. 2. Tỉnh Nghệ An và tỉnh Hà Tĩnh: 12 trang, không đề năm xuất bản. 3. Tỉnh Quảng Bình: 6 trang, không đề năm xuất bản. 4. Tỉnh Thừa Thiên: 8 trang, in tại nhà in Trường Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội vào năm 1935. 5. Tỉnh Quảng Nam và Nhượng địa Pháp ở Đà Nẵng: 6 trang, không đề năm xuất bản. 6. Tỉnh Phú Yên: 6 trang, in tại Nhà in A.J.S. ở Huế vào năm 1942. 7. Tỉnh Khánh Hòa: 8 trang, in tại Nhà in A.J.S. ở Huế, không đề năm xuất bản. 8. Tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Bình Thuận: 8 trang, in tại nhà in Trường Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội, không đề năm xuất bản. 9. Tỉnh Đồng Nai Thượng (Province du Haut - Donnai): 6 trang, không đề năm xuất bản. 10. Tỉnh Kontum và tỉnh Pleiku: 8 trang, in tại nhà in Trường Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội, không đề năm xuất bản. Như vậy, chỉ có 4 tỉnh Quảng Trị, Quảng Ngãi, Bình Định và Darlac là chưa ấn hành tập gấp như các tỉnh khác, hoặc đã ấn hành rồi nhưng chúng tôi chưa sưu tầm được. Mỗi tập gấp đều mang những nội dung chủ yếu sau đây: - Một bản đồ tỉnh sở tại với tỷ lệ xích 1/500.000 hoặc 1/1.000.000, giới thiệu về giao thông (đường sá đi lại), vị trí các danh thắng và các địa điểm cần biết khác. - Lời chỉ dẫn phương tiện đi đến tỉnh bằng đường bộ, đường tàu hỏa hoặc đường hàng không. - Những thông tin tổng quát về tỉnh: dân số, các chủng tộc, các sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, các đặc sản địa phương - Các tour tuyến du lịch, các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử hấp dẫn và nổi tiếng trong tỉnh. - Những khu giải trí, tiêu khiển: săn bắn, câu cá, tắm biển, nghỉ mát, rạp chiếu phim, rạp hát - Khách sạn, nhà nghỉ, nhà ga, bến xe, chỗ cho thuê xe ô-tô để đi chơi xa 1.2. Tập gấp giới thiệu từng điểm tham quan Trong hai năm 1938 và 1939, Phòng Du lịch Trung Kỳ đã biên soạn và ấn hành 3 tập gấp giới thiệu 3 khu lăng tẩm của 3 vua nhà Nguyễn ở Huế. Đó là lăng Gia Long, lăng Tự Đức và lăng Khải Định, 3 trong những công trình kiến trúc âm phần tiêu biểu nhất của hoàng gia tại kinh đô triều Nguyễn. Về hình thức, 3 tập gấp này có cùng cỡ 23 x 10,5 cm như các tập gấp từng tỉnh nói trên; mỗi tập gấp có 6 trang nhưng không đánh số trang; đều in trên giấy trắng, nhưng giấy mỏng hơn loại giấy in các tập gấp chỉ dẫn du lịch các tỉnh. Riêng tập gấp giới thiệu về lăng Gia Long chỉ được thể hiện bằng 2 màu đen trắng và không đóng khung ở chung quanh từng trang, còn hai tập kia thì có sử dụng thêm màu đỏ ở một số dòng chữ quan trọng và ở khung của mỗi trang. Ở cuối trang 3 và trang 6 của mỗi tập gấp đều ghi một dòng chữ vắn tắt cho biết đây là xuất bản phẩm của Phòng Du lịch Huế (Édition du Bureau Officiel du Tourisme de Hué) hoặc Published by the Official Tourist Bureau of Hue chứ không ghi nhận gì về tòa Khâm sứ Trung Kỳ cả. Nhưng, cũng tại dòng cuối 2 trang ấy, ở tập lăng Gia Long có ghi thêm 43Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên con số 1938 là năm ấn hành; tương tự, ở dòng cuối 2 trang ấy của 2 tập kia đều ghi là năm 1939. Về nội dung, cả 3 tập đều chứa đựng những phần tương tự nhau, bao gồm: - Trang 1: Một ảnh đen trắng chụp khu vực tiêu biểu nhất của lăng. - Trang 2: Mô tả khu lăng bằng tiếng Pháp. - Trang 3: Sơ đồ khu lăng, vẽ khá đầy đủ các công trình kiến trúc tại đó và được chú thích bằng cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. - Trang 4: Mô tả khu lăng bằng tiếng Anh. - Trang 5: Mô tả chung về lăng tẩm các vua nhà Nguyễn ở Huế bằng tiếng Anh. - Trang 6: Mô tả chung về lăng tẩm các vua nhà Nguyễn ở Huế bằng tiếng Pháp. Về nội dung lời giới thiệu bằng tiếng Pháp lẫn tiếng Anh ở cả 3 tập gấp đều được các tác giả của chúng ghi rõ là đã dựa theo sách của Eberhardt8 hoặc sách của Madrolle.9 Việc 3 tập gấp này có thêm phần tiếng Anh chứng tỏ vào những năm cuối thập niên 1930, du khách nói tiếng Anh đến miền Trung đã khá nhiều. Chúng tôi không biết bấy giờ, Phòng Du lịch Trung Kỳ có ấn hành thêm tập gấp giới thiệu điểm tham quan nào nữa hay không. 1.3. Tập gấp chỉ dẫn hành trình du lịch miền Trung So với hai loại tập gấp vừa đề cập trên đây thì loại tập gấp thứ ba này đáng quan tâm hơn nhiều, vì nó mang tính liên tỉnh miền Trung. Dưới thời Pháp thuộc, ở Trung Kỳ, loại này chỉ được ấn hành một lần duy nhất. Thật vậy, vào năm 1937, Phòng Du lịch Trung Kỳ đã biên soạn, in ấn và phát hành tập gấp nhan đề là Annam, Itinéraire de la Route Mandarine (Route Coloniale No1), nghĩa là “Hành trình theo Quan lộ ở Trung Kỳ, tức là đi theo Đường Thuộc địa số 1A”10 (nay là đường Quốc lộ 1A). Về hình thức, tập gấp chỉ dẫn hành trình du lịch Trung Kỳ có kích cỡ lớn hơn 2 loại trên đây: 24 x 12,8 cm. Giấy tương đối dày với màu xám nhạt. Chữ in bằng mực đen và chỉ dùng mực đỏ ở những chỗ quan trọng. Tập gấp này có 8 trang (không đánh số thứ tự). Trang 1 được dùng để ghi tiêu đề của tập gấp như vừa nói, ghi năm ấn hành (1937), nơi xuất bản (Éditions du Bureau Officiel du Tourisme de la Résidence Supérieure de Hué, nghĩa là “Xuất bản phẩm của Phòng Du lịch Trung Kỳ thuộc Tòa Khâm sứ Huế” và lời giới thiệu ngắn gọn về cách sử dụng tập gấp. Từ trang 2 đến trang 8 được chia làm 2 cột: cột bên trái dùng để vẽ bản đồ Trung Kỳ với tỷ lệ xích 1/1.500.000 và cột bên phải dùng để chỉ dẫn về những địa điểm và địa danh được thể hiện trên bản đồ. Nội dung lời giới thiệu ở trang 1 xin được tạm dịch như sau: “Hành trình dọc theo Quan lộ (Đường Thuộc địa số 1) Tập gấp chỉ dẫn hành trình này gồm một bản đồ và một lời thuyết minh, ở đó biểu thị tất cả những điều chỉ dẫn tóm tắt nhưng rõ ràng và chính xác, có thể làm cho du khách thích thú khi đi qua miền Trung bằng đường Thuộc địa số 1. Những điểm cây số (Points kilométriques) chỉ dẫn đến vị trí các thắng cảnh và các di tích đều nằm trên con đường này, Những điểm cây số chỉ dẫn đến các đường nhánh của đường Thuộc địa số 1 với các tỉnh lộ đều có biểu thị lối đi đến các điểm tham quan, Các ga tàu hỏa, Các trạm điện tín (Stations télégraphiques), Các khách sạn và các nhà nghỉ (bungalow), Các xưởng sửa chữa xe ô-tô, Các bến đò, Các bệnh viện, các bệnh xá hay các trạm cấp cứu, Các cây xăng. Những điểm cây số chỉ dẫn đến các thắng cảnh và các di tích, cũng như những điểm cây số chỉ rõ các đường nhánh đều được biểu thị trên bản đồ hành trình này và được miêu tả trong lời thuyết minh, tương ứng với một tín hiệu đặc biệt trên đường Quan lộ. Tín hiệu này được thiết lập bằng những cột chỉ đường màu trắng và màu 44 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên xanh lục cắm dọc theo đường Thuộc địa số 1. Trên mỗi cột chỉ đường này đều có các chỉ dẫn du lịch cần thiết”. Tuy diện tích của tập gấp khi trải ra là không lớn, nhưng các tác giả của nó đã tỏ ra khéo léo trong phần vẽ bản đồ cũng như trong phần chú dẫn. Từ trang 2 đến trang 5, phần bên trái tờ giấy là nơi dùng để thể hiện bản đồ liên tỉnh Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh - Quảng Bình - Quảng Trị - Thừa Thiên - Quảng Nam; phần còn lại bên phải được dùng để in lời chú dẫn. Từ trang 5 đến trang 8, tức là mặt sau của tờ giấy, là nơi dùng để thể hiện bản đồ liên tỉnh Quảng Ngãi - Bình Định - Phú Yên - Khánh Hòa - Ninh Thuận - Bình Thuận - Đồng Nai Thượng - Darlac - Pleiku - Kontum. Vì ở đây có cả các tỉnh cao nguyên miền Trung, cho nên, bề ngang phần vẽ bản đồ rộng hơn gấp đôi so với bề ngang của phần in lời chú dẫn ở bên phải. Dù sao đi nữa, trên bản đồ cũng như ở lời chú dẫn, trung tâm thành phố Huế cũng đã được chọn làm cây số 0 để tính ra phía bắc hoặc vào phía nam. Từ Huế ra đến tỉnh lỵ của tỉnh Thanh Hóa là 501 km và từ Huế vào đến Phan Thiết (tỉnh lỵ của tỉnh Bình Thuận) là 878,8 km. Sở dĩ Huế được chọn làm cây số 0 vì đây vừa là kinh đô của triều Nguyễn, vừa là nơi đóng Tòa Khâm sứ, được xem như là thủ phủ của chính quyền Bảo hộ Pháp ở Trung Kỳ. Bản đồ vẽ đậm nét con đường Quốc lộ 1A và đường tàu hỏa từ Thanh Hóa đến Bình Thuận. Đường bộ và đường sắt này chạy hầu như song song nhau từ đầu đến cuối miền Trung. Ngoài Quan lộ (Route Mandarine), bản đồ còn vẽ các tuyến đường quốc lộ thứ yếu và các tỉnh lộ Đáng quan tâm nhất ở đây là các tác giả của tập gấp đã chỉ dẫn cho du khách biết về các công trình kiến trúc nghệ thuật, di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh của cả Trung Kỳ. Các di tích danh thắng ấy đều được thể hiện tên gọi, địa điểm, khoảng cách từ trung tâm thành phố tỉnh lỵ hoặc tại km bao nhiêu ở Quốc lộ 1A, đi bằng phương tiện gì (ô-tô, xe kéo, tàu thuyền...), mất thời gian bao lâu, giá trị của điểm tham quan,... Xin nêu một ví dụ cụ thể là lời chú dẫn về các điểm tham quan du lịch ở Huế, tỉnh lỵ của Thừa Thiên, tạm dịch từ nguyên văn như sau: “ĐIỂM CÂY SỐ 0. - Huế - Ở đây có ga tàu hỏa, có trạm điện tín, có bệnh viện, có cây xăng. a/ Tham quan Kinh thành, Bảo tàng Khải Định11, Bảo tàng Kinh tế12, các khu ngoại ô thương mại xinh đẹp Gia Hội và Đông Ba. b/ Đường nhánh địa phương số 89 dẫn lên chùa Thiên Mụ và Văn Miếu (km 3,5). c/ Đường nhánh địa phương số 80 đưa về bãi tắm biển Thuận An (km 14). d/ Đường nhánh địa phương số 78 dẫn lên đàn Nam Giao (km 3,8), núi Ngự Bình (km 4,8) là chỗ tuyệt vời để ngắm toàn cảnh Huế và Kinh thành; lên lăng Tự Đức (km 5,7), lăng Đồng Khánh (km 5,8), đồi Vọng Cảnh (km 6,8) là nơi ngắm toàn cảnh hùng tráng bao quanh cả vùng lăng tẩm, và cũng là khoảng không gian thơ mộng để ngắm cảnh sông Hương; lăng Thiệu Trị (km 6,9), lăng Khải Định (km 9), lăng Minh Mạng (km 11,7 - qua đò ngang), lăng Gia Long (km 13,5 - qua đò ngang. Từ bến đò lăng Gia Long, người ta có thể đi ngược dòng sông Hương bằng thuyền tam bản để đến Suối Nước Nóng).13 ĐIỂM CÂY SỐ 30. - Đá Bạc - Ở đây có ga tàu hỏa. Đi thuyền tam bản ngang qua đầm Cầu Hai để đến chùa Túy Vân (cách Đá Bạc 8 km - Chùa ở trên một ngọn đồi nhỏ). ĐIỂM CÂY SỐ 40. - Cầu Hai - Ở đây có cây xăng. Một đường nhánh dẫn lên núi cao Bạch Mã14 (đi 3 km bằng ô-tô và 10 km bằng kiệu - Nhìn toàn cảnh đầm Cầu Hai; khí hậu miền biển; cao độ 1.450 m). ĐIỂM CÂY SỐ 66,5. - Bãi tắm biển Lăng Cô15 - Cách đường Quan lộ 200 m. ĐIỂM CÂY SỐ 77,3. - Đèo Hải Vân - Điểm tuyệt vời để ngắm toàn cảnh vịnh Đà Nẵng - Cao độ 495 m”. Đó chỉ mới là nội dung của 5 trong số 94 “điểm cây số” (points kilométriques) được thể hiện trên bản đồ cũng như trong phần chỉ dẫn bằng lời từ điểm cực bắc là Bỉm Sơn ở tỉnh Thanh Hóa đến điểm cực nam là cây số 946,46 tiếp giáp với Nam Kỳ. Trên con đường thiên lý ấy, du khách đi bằng đường bộ hoặc bằng tàu hỏa có thể ghé thăm hàng trăm di tích và danh thắng nằm ở hai bên đường, phía biển cũng như phía núi. Tập gấp này rất gọn nhẹ và tiện lợi, có thể xếp lại để vào túi áo, nhưng nó cung cấp cho lữ khách một lượng thông tin hết sức phong phú về hàng trăm tài sản văn hóa và thiên nhiên ở miền Trung. Thay lời kết bằng một đề nghị Du khách thời hiện đại, đặc biệt là thế hệ trẻ, trước khi bắt đầu một cuộc viễn du, thường tìm hiểu lộ trình mình sẽ đi qua mạng internet, và trong suốt cuộc hành trình, đi đến tham quan ở đâu cũng có hướng dẫn viên du lịch (tour guide) đưa đường dẫn lối và thuyết minh cặn kẽ. Thêm vào đó, ở bất cứ đâu cũng có sách hướng 45Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên dẫn du lịch (guide book). Vậy phải chăng tập gấp liên tỉnh như trên đã trở nên lỗi thời? Chắc hẳn là không, vì với sự tiện ích phổ cập và sự hữu dụng đặc biệt của nó, không một thiết bị máy móc hoặc con người phục vụ nào có thể thay thế nó được. Mặc dù tập gấp chỉ dẫn hành trình du lịch Trung Kỳ đã được người Pháp làm ra cách đây đúng 75 năm (1937 - 2012), nhưng, theo thiển ý, tập gấp này vẫn còn có một giá trị nhất định cho đến hiện tại. Từ đó đến nay, chúng tôi chưa hề thấy cá nhân hoặc tổ chức người Việt Nam nào thực hiện được một ấn phẩm mang hình thức và nội dung tương tự. Trong mấy thập niên vừa qua, đã xuất hiện rất nhiều tập gấp quảng bá du lịch, nhưng nội dung chỉ giới hạn hoặc trong từng tỉnh thành hoặc trong từng khu danh thắng riêng lẻ. Những tập gấp này đều là những ấn phẩm thuộc dạng “mạnh ai nấy làm” cho từng địa phương, chứ không có sự liên kết giữa các tỉnh, thành hoặc vùng miền như 75 năm về trước. Trong cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động du lịch ở Việt Nam hiện nay, chỉ thấy Tổng cục Du lịch (thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) là cấp cao nhất trong ngành. Dưới đó là cấp tỉnh với đơn vị chủ quản là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, chứ không có cấp liên tỉnh (vùng miền). Nếu không có cấp chủ quản trung gian giữa bộ máy du lịch quốc gia và địa phương (tỉnh) thì không ai có trách nhiệm làm tập gấp quảng bá du lịch liên tỉnh như trường hợp miền Trung vừa thấy ở trên. Như vậy, trong tình hình hiện nay, trách nhiệm làm tập gấp quảng bá du lịch vùng miền như thế phải được đẩy lên cho Tổng cục Du lịch. Riêng ở miền Trung, thực tế đang cần một tập gấp chỉ dẫn du lịch chung như vậy. Hành trình đường bộ của khách du lịch, nhất là du khách quốc tế, thường không bị xé lẻ bởi ranh giới hành chính của một tỉnh thành nào, mà tiếp diễn liên tục suốt cả một vùng miền văn hóa với giá trị đặc thù chung của nó. Tất nhiên, ngày nay, nếu Tổng cục Du lịch hoặc một tổ chức hay cá nhân nào đó đứng ra làm một tập gấp như vậy cho miền Trung chẳng hạn, thì với các vật liệu giấy má cao cấp và phương tiện ấn loát hiện đại, chắc hẳn tập gấp sẽ được thực hiện một cách khoa học, chính xác, đầy đủ, chất lượng, cập nhật, tiện lợi và hấp dẫn hơn xưa. Hy vọng bài viết này cung cấp kinh nghiệm về một cách quảng bá du lịch Trung Kỳ từ thời quá khứ cần tham khảo, đồng thời đóng góp một ý kiến nhỏ vào việc định hướng liên kết giữa các tỉnh trong sự nghiệp phát triển du lịch ở miền Trung Việt Nam. P.T.a. cHú THÍcH 1 Dương Kinh Quốc, Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam, (Hà Nội: Khoa học Xã hội, 1988), 110, 166. 2 Dương Kinh Quốc, Việt Nam, những sự kiện lịch sử (1858 - 1918), (Hà Nội: Giáo dục, 2001), 331, 434. 3, 4, 5 Dương Trung Quốc, Việt Nam những sự liện lịch sử (1919 - 1945), (Hà Nội: Giáo dục, 2000), 37, 57, 143. 6 Philippe Eberhardt, Guide de l’Annam, (Paris: Augustin Challamel, 1914), 7. 7 R.E. Hector, Tourisme en Indochine (1940), in lại trong sách Les Grands Dossiers de l’Illustration, L’Indochine, Histoire d’un siècle, 1843-1944 , (Paris: Le Livre de Paris, 1993), 191. 8 Philippe Eberhardt, Sách đã dẫn. 9 Vào những thập niên đầu thế kỷ XX, người ta đã thấy xuất hiện một bộ sách hướng dẫn du lịch Đông Dương khá dày dặn do Madrolle biên soạn, gọi tắt là Guides Madrolle. Bộ sách gồm 2 quyển: Indochine du Nord (Bắc Đông Dương) và Indochine du Sud (Nam Đông Dương) do Nhà sách Hachette xuất bản lần thứ 3 tại Paris vào năm 1932. 10 Vào ngày 18.6.1918, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định xếp loại các tuyến đường bộ chính ở Đông Dương và gọi là Đường Thuộc địa (Routes Coloniales). Trong đó, quan trọng nhất là Đường Thuộc địa số 1A, dài 2.578 km, chạy từ biên giới Việt - Trung, qua Lạng Sơn, Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Phnom Penh, đến biên giới Campuchia - Thái Lan (Dương Kinh Quốc, Sách đã dẫn, 258 - 259). 11 Bảo tàng Khải Định (Musée Khai Dinh) được thành lập vào năm 1923. Bảo tàng này đã trải qua nhiều lần thay đổi tên gọi, nay là Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, tọa lạc tại số 3, đường Lê Trực, thành phố Huế. 12 Bảo tàng Kinh tế (Musée Économique) được thành lập vào năm 1915 ở dãy nhà bên trái trước sân Viện Cơ Mật để trưng bày “những nguyên liệu động vật và thực vật của Trung Kỳ” (Richard Orband, “Éphémérides annamites”, B.A.V.H., 334). Bảo tàng này hoạt động ngót 30 năm từ ngày 14.5.1915 đến ngày 9.3.1945 là thời điểm Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương. 13 Suối Nước Nóng: Đây là một trong 20 thắng cảnh ở vùng Huế (Thần kinh nhị thập cảnh) mà vua Thiệu Trị (1841 - 1847) đã chọn lựa và làm thơ để ca ngợi. Nhan đề của bài thơ là Tây lãnh thang hoằng (Suối nước nóng ở núi tây). Xem: Phan Thuận An, Phạm Đức Thành Dũng, Phan Thanh Hải, Nguyễn Phước Hải Trung, Thần kinh nhị thập cảnh, thơ vua Thiệu Trị, (Huế: Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế - Thuận Hóa, 1997) 251-258. 14 Núi Bạch Mã: Đây là một vùng núi nghỉ mát lý tưởng, do kỹ sư trưởng Girard ở Sở Công chánh Trung Kỳ phát hiện vào năm 1932. Địa điểm này nằm cách trung tâm thành phố Huế 59 km đường bộ, ngày nay đã có thể lên đến Vọng Hải Đài ở đỉnh núi bằng ô-tô. 15 Bãi biển Lăng Cô: Do vua Khải Định phát hiện vào năm 1916, đây vừa là một bãi tắm biển lý tưởng, vừa là khu nghỉ dưỡng tuyệt vời, vừa là một thắng cảnh. Lăng Cô đã được xếp vào hàng những vịnh biển đẹp nhất thế giới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdulichcactinhmientrungthoiphapthuoc_7551.pdf
Tài liệu liên quan