Bất cập về kỹ thuật viết luật
Ai cũng hiểu rằng, điều luật không nhất
thiết phải có tên. Vấn đề này đã được khẳng
định tại nhiều bộ luật nổi tiếng trên thế giới
(ví dụ như Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804),
cũng như nhiều điều ước quốc tế (chẳng hạn
như ngay Công ước của Liên hiệp quốc về
Các quyền của trẻ em năm 1989). Và chúng
ta cũng hiểu rằng, tên của điều luật không
có giá trị pháp lý (hay giá trị quy định) mà
chỉ có giá trị về tra cứu hay dẫn chiếu. Song
gần đây, các đạo luật (mà điển hình là Luật
Trẻ em năm 2016) có nhiều điều khoản viết
không có chủ ngữ và lấy ngay tên điều luật
làm thành phần của một câu văn, do đó, rất
khó trích dẫn nguyên văn khi viết nghiên
cứu hoặc tuyên truyền. Chẳng hạn, nếu trích
dẫn nguyên văn như sau thì không ai hiểu
điều luật này viết về cái gì, nhưng có thể
khẳng định ngay câu văn này sai tiếng Việt
nghiêm trọng: “Điều 3 của Luật Trẻ em quy
định: “Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị
sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ sở
giáo dục, gia đình, công dân Việt Nam; cơ
quan, tổ chức quốc tế, tổ chức nước ngoài
hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, cá nhân
là người nước ngoài cư trú tại Việt Nam (sau
đây gọi chung là cơ quan, tổ chức, cơ sở
giáo dục, gia đình, cá nhân)”.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 272 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số bất cập của luật trẻ em năm 2016, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Thể chế hóa các quy định của Hiến pháp, ngày 05/4/2016, Quốc hội
khóa XIII đã thông qua Luật Trẻ em năm 2016 (có hiệu lực từ ngày
01/6/2017), trong đó quy định cụ thể các quyền và bổn phận của trẻ
em; các chính sách và biện pháp cơ bản về chăm sóc, giáo dục, văn
hóa, thông tin, đặc biệt là về bảo vệ và thúc đẩy sự tham gia của trẻ
em. Luật Trẻ em đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho công tác bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, thúc đẩy việc thực hiện ngày càng tốt
hơn những quyền cơ bản của trẻ em. Tuy nhiên, đạo luật này còn có
một số bất cập (ngay cả với những vấn đề được cho là mới) cần phải
xem xét kỹ khi thi hành.
MOÄT SOÁ BAÁT CAÄP CUÛA LUAÄT TREÛ EM NAÊM 2016
Ngô Huy Cương*
Abstract:
The Law on Children of 2016 (effective June 1, 2017) passed by the
XIII National Assembly on April 5, 2016 which specifies the rights
and the duty of the children; Basic policies and measures on care,
education, culture and information, especially on the protection and
promotion of the participation of children. Children’s Law has created
an important legal framework for the protection, care and education
of children, promoting the better realization of the basic rights of
children. However, there are some shortcomings (even with new
supposed issues) that require careful consideration.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Luật Trẻ em, bất cập của
Luật Trẻ em; quyền của trẻ em; bổn
phận của trẻ em
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 20/06/2017
Biên tập: 28/06/2017
Duyệt bài: 01/07/2017
Article Infomation:
Keywords:
Law on Children, Inadequacy of
Law on Children, Rights of Children,
Duties of Children
Article History:
Received: 20 Jun 2017
Edited: 28 Jun 2017
Appproved: 01 Jul. 2017
* PGS, TS, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Không ít ý kiến cho rằng, ngược đãi
trẻ em hiện nay là một cuộc khủng hoảng
toàn cầu. Theo các con số thống kê chưa
được cập nhật, hàng năm có khoảng 150
triệu trẻ em gái và 73 triệu trẻ em trai bị hãm
hiếp hoặc là nạn nhân của bạo lực tình dục,
1 ChildFund, Better Care Network, Consortium for Street Children, Family for Every Child, Keeping Children Safe,
Plan, Save the Children, SOS Children’s Villages, Terre des Hommes International Federation, World Vision, Protect
my Future - Why Child Protection Matters - In the Post - 2015 Development Agenda, April 2013, p. 5.
và 115 triệu trẻ em đang bị bóc lột sức lao
động trong những công việc cực kỳ độc hại,
0,5 - 1,5 tỷ trẻ em phải nếm trải bạo lực1.
Ngược đãi trẻ em xảy ra ở hầu hết các nước
và đang là một chủ đề rất được quan tâm
không chỉ ở những nước kém phát triển,
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
33Số 13(341) T7/2017
đang phát triển, mà ngay cả ở những nước
phát triển tại khu vực Châu Âu và Bắc Mỹ.
Ở Việt Nam hiện nay, ngược đãi trẻ
em đang ở mức độ báo động cao, thể hiện sự
xuống cấp nghiêm trọng của đạo đức xã hội
và sự sa sút về hiệu lực của công tác quản
lý nhà nước. Tại cuộc tọa đàm về việc thi
hành các quy định pháp luật về đấu tranh
phòng, chống tội phạm xâm hại tình dục
trẻ em do Ủy ban Tư pháp phối hợp cùng
Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh, Thiếu
niên và Nhi đồng của Quốc hội tổ chức, bà
Đào Hồng Lan (Thứ trưởng Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội) cho biết, trong 5
năm, kể từ năm 2012 đến năm 2016, cả nước
phát hiện trên 8.200 vụ xâm hại trẻ em, với
gần 10.000 nạn nhân, trong đó số vụ xâm hại
tình dục chiếm tới 5.300 vụ2. Nhiều vụ việc
mặc dù đã được phát hiện nhưng chưa xử lý
kịp thời, đúng mức nên đã gây bức xúc trong
xã hội. Điển hình là những vụ xảy ra gần
đây tại Vũng Tàu; Cà Mau và Hà Nội. Điều
này cho thấy, nhận thức về vấn đề ngược đãi
trẻ em, thậm chí trong đội ngũ cán bộ, công
chức nhà nước, còn rất nhiều hạn chế, mặc
dù Việt Nam đã phê chuẩn từ rất sớm (ngày
20/2/1990) Công ước về Các quyền của Trẻ
em năm 1989 - một Công ước chỉ ra cách
tiếp cận đúng đắn nhất về trẻ em trên phạm
vi toàn cầu.
“Bảo vệ trẻ em chính là bảo vệ cho
tương lai của loài người” có lẽ là ý tưởng
chủ đạo để xây dựng nên Công ước này
với đoạn viết: “Xét rằng, trẻ em cần được
chuẩn bị đầy đủ để có thể sống một cuộc
2 Xem Báo điện tử Thanhtra online, ngày 27/3/2017, 3:45:08.
3 Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Những điểm mới của Luật Trẻ em, Trang thông tin điện tử của Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội, ngày 18/ 4/ 2016.
sống riêng trong xã hội và cần được nuôi
dưỡng theo tinh thần các lý tưởng được nêu
ra trong Hiến chương Liên hiệp quốc, nhất
là tinh thần hòa bình, phẩm giá, khoan dung,
tự do, bình đẳng và đoàn kết” (Lời nói đầu).
Ghi nhận các quyền của trẻ em và thực thi
các nghĩa vụ quốc tế về quyền con người nói
chung và quyền của trẻ em nói riêng, Hiến
pháp năm 2013 của Việt Nam, tại Điều 37,
khoản 1, tuyên bố: “Trẻ em được Nhà nước,
gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em.
Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi,
bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và
những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”.
Tiếp đó Luật Trẻ em được Quốc hội thông
qua ngày 5/4/2016 trên cơ sở kế thừa Luật
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm
1991 và Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em năm 2004.
Luật Trẻ em năm 2016 cụ thể hóa Hiến
pháp năm 2013 với một số vấn đề được cho
là mới liên quan tới tên gọi của Luật; khái
niệm, nguyên tắc thực hiện quyền trẻ em và
các hành vi bị nghiêm cấm; các quyền và
bổn phận của trẻ em; việc bảo đảm thực hiện
chăm sóc và giáo dục trẻ em; bảo vệ trẻ em;
sự tham gia của trẻ em vào các vấn đề về trẻ
em; và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức,
cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân trong việc
thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em3.
Tuy nhiên đạo luật này còn có một số bất
cập (ngay cả với những vấn đề được cho là
mới) nên cần phải xem xét kỹ lưỡng để tìm
kiếm giải pháp thi hành.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
34 Số 13(341) T7/2017
1. Bất cập về cách tiếp cận và nội dung
1.1 Bất cập về cách tiếp cận
Về mặt pháp lý, có hai cách tiếp cận
quan trọng để xây dựng luật về trẻ em: thứ
nhất, trân trọng coi trẻ em là chủ thể của các
quyền và xuất phát từ đó để xây dựng luật; thứ
hai, coi trẻ em là đối tượng được chăm sóc
và bảo vệ đặc biệt để xây dựng luật. Hai cách
thức tiếp cận này sẽ có các hệ quả logic khác
nhau về các nội dung chủ yếu của đạo luật.
Với cách tiếp cận thứ nhất, đạo luật
tập trung vào việc lý giải các quyền của trẻ
em và bảo đảm cho các quyền đó của trẻ em
được tôn trọng và thực hiện. Các câu hỏi từ
đó đặt ra buộc nhà làm luật phải có câu trả
lời - ít nhất đó là: Trẻ em có những quyền
gì? Chúng được phân nhóm ra làm sao?
Điều kiện thực hiện các quyền đó bao gồm
những gì? Làm thế nào để thực hiện được
những quyền đó? Các quyền đó có thể bị vi
phạm hay không? Có những dạng vi phạm
nào? Làm thế nào để phòng tránh được các
vi phạm đó? Khi vi phạm như vậy xảy ra, cơ
chế giải quyết là gì? Những chế tài nào có
thể áp dụng? Và điều kiện để áp dụng chế tài
là gì?... Tuy nhiên, tất cả sự trả lời các câu
hỏi đó không nhất thiết phải bao gồm trong
đạo luật này, nhưng phải có được trong
những đạo luật khác liên quan tùy thuộc vào
mô hình hệ thống pháp luật của quốc gia xây
dựng. Chẳng hạn như ở nước ta hiện nay, tất
cả các chế tài hình sự được tập trung vào chỉ
một đạo luật - đó là Bộ luật Hình sự. Cách
này có lẽ được khởi xướng bởi Công ước về
Các quyền của Trẻ em năm 1989. Điều 2,
khoản 1, Công ước này quy định: “Các quốc
gia thành viên phải tôn trọng và bảo đảm
những quyền được nêu ra trong Công ước
này đối với mỗi trẻ em thuộc quyền tài phán
của mình mà không có bất cứ sự phân biệt
đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính,
ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc
quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc, sắc tộc
hay xã hội, tài sản, khuyết tật, thành phần
xuất thân hay địa vị khác của trẻ em hoặc
cha mẹ hay người giám hộ hợp pháp của trẻ
em đó”. Điều này cho thấy, các quyền này là
các quyền tự nhiên của trẻ em mà bất kỳ nhà
nước nào cũng phải thừa nhận, tôn trọng và
bảo đảm. Vì vậy Công ước của Châu Âu về
việc Thực hiện Các quyền của trẻ em năm
1996 (nhằm mục đích thống nhất việc thi
hành các quyền của trẻ em quy định trong
Công ước về Các quyền của Trẻ em năm
1989 trong các nước thành viên) quy định
ngay trong Điều 1 về phạm vi và mục tiêu
của Công ước rằng “Công ước này áp dụng
cho trẻ em mà chưa đủ 18 tuổi” (khoản 1), và
“Mục tiêu của Công ước này là, với các lợi
ích tốt nhất của trẻ em, thúc đẩy các quyền
của trẻ em, cho trẻ em các quyền tố tụng và
tạo điều kiện thuận lợi thực hiện các quyền
này bởi bảo đảm rằng trẻ em, tự mình hoặc
thông qua những người hoặc những tổ chức
khác, được thông báo và cho phép tham gia
quá trình tố tụng có ảnh hưởng tới họ trước
nhà chức trách có thẩm quyền” (khoản 2).
Qua các quy định này có thể thấy rõ ràng
vấn đề trước hết là quyền của trẻ em, rồi sau
đó là sự hỗ trợ của nhà nước cho trẻ em thực
hiện quyền của mình.
Khác hơn hẳn, với cách tiếp cận thứ
hai, Luật Trẻ em năm 2016 quy định: Đối
tượng áp dụng của đạo luật này là “Cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp,
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
35Số 13(341) T7/2017
đơn vị vũ trang nhân dân, cơ sở giáo dục, gia
đình, công dân Việt Nam; cơ quan, tổ chức
quốc tế, tổ chức nước ngoài hoạt động trên
lãnh thổ Việt Nam, cá nhân là người nước
ngoài cư trú tại Việt Nam (sau đây gọi chung
là cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình,
cá nhân)” (Điều 3). Điều luật này cho thấy
trẻ em - chủ thể của quyền lại còn bị quy
định gánh bổn phận - bị loại ra ngoài các
đối tượng áp dụng. Điều luật này thể hiện
rõ rằng: đạo luật này là một đạo luật quản
lý nhà nước về trẻ em và coi trẻ em là đối
tượng cần được chăm sóc và bảo vệ.
Cách tiếp cận này thường kéo theo rất
nhiều quy định về quyền và nghĩa vụ của
các cơ quan nhà nước và các tổ chức khác
nhau liên quan tới trẻ em, và đặc biệt biến
các cơ quan, tổ chức này, thậm chí cả nhà
trường và gia đình trở thành các cấp giám
sát hành chính đối với việc thực hiện quyền
của trẻ em.
1.2 Bất cập về nội dung
a) Trước hết, xuất phát từ việc lấy
quyền của trẻ em làm trung tâm, có thể thấy
Mục 2, Chương II của Luật Trẻ em năm
2016 thể hiện những bất cập ngay về cách
tiếp cận. Một mặt không tiếp cận xây dựng
đạo luật này từ việc trân trọng xác định trẻ
em là chủ thể của các quyền tự nhiên vốn có
của mình, nhưng lại gắn cho các em “bổn
phận” giống như sự quy định của Hiến pháp
năm 2013: “Quyền công dân không tách rời
nghĩa vụ công dân” (Điều 15, khoản 1). Quy
định về các bổn phận này của các em hoàn
toàn không có ý nghĩa pháp lý, bởi các em
có không tuân thủ thì người ta lại nhìn thấy
trách nhiệm của người lớn, của Nhà nước
hay của gia đình, nhà trường Chẳng hạn:
Điều 41, khoản 5 của Luật này quy định:
“Không sử dụng, trao đổi sản phẩm có nội
dung kích động bạo lực, đồi trụy; không sử
dụng đồ chơi hoặc chơi trò chơi có hại cho
sự phát triển lành mạnh của bản thân”. Các
em ở tuổi quá nhỏ thì chưa thể có sự phân
biệt sản phẩm nào có nội dung kích động
bạo lực, đồi trụy, và đồ chơi hoặc chơi trò
chơi nào có hại cho sự phát triển lành mạnh
của bản thân. Câu hỏi sẽ được đặt ra trong
tình huống này là: ai và tại sao lại để sản
phẩm, đồ chơi hoặc trò chơi đó lọt vào tay
trẻ em. Với các em đã có nhận thức về điều
đó, thì chắc hẳn câu hỏi được đặt ra sẽ là: tại
sao Nhà nước, nhà trường, gia đình và người
lớn lại thiếu quan tâm tới việc kiểm soát các
sản phẩm, đồ chơi và trò chơi đó. Hơn nữa,
khó có thể có một chế tài pháp lý nào có thể
áp dụng cho việc vi phạm bổn phận này. Có
lẽ các bổn phận tại đạo luật này nên dành
cho những bài giảng về đạo đức.
b) Mặc dù Luật Trẻ em năm 2016 có
nhiều điều khoản quy định về quyền của trẻ
em không bị các hành vi xâm hại tình dục,
bạo lực, lạm dụng, bóc lột, bỏ rơi, bỏ mặc,
mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt.
Nhưng khó có thể tìm thấy trong đạo luật
này việc thể hiện đầy đủ các điểm chiến lược
phòng, chống các hành vi đó hay xây dựng
môi trường xã hội để các hành vi đó không
thể xuất hiện.
Những vấn đề chiến lược cần chú ý để
bảo đảm phòng, chống lạm dụng, bóc lột, bỏ
mặc và bạo lực đối với trẻ em thông thường
bao gồm: (1) tăng cường hỗ trợ kinh tế đối
với các gia đình; (2) thay đổi các quy phạm
xã hội nhằm khuyến khích các bậc cha mẹ
vào việc nuôi dạy con cái tích cực; (3) cung
cấp chăm sóc và giáo dục có chất lượng từ
khi đầu đời; (4) nâng cao kỹ năng nuôi dạy
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
36 Số 13(341) T7/2017
trẻ để thúc đẩy trẻ phát triển lành mạnh; (5)
can thiệp làm giảm bớt tác hại và phòng
ngừa rủi ro tương lai4. Với những điểm này,
Luật Trẻ em năm 2016 dường như chú ý
nhiều tới vấn đề can thiệp nhằm làm giảm
bớt tác hại và phòng ngừa rủi ro tương lai.
Còn các vấn đề khác chưa được làm rõ. Vấn
đề hỗ trợ kinh tế gia đình (ví dụ đối với gia
đình đông con hay gia đình mà bố mẹ không
lao động được) và thay đổi quy phạm xã
hội (như liên quan tới phong tục) chưa
được chú ý. Đồng ý rằng, một đạo luật về trẻ
em khó có thể giải quyết tất cả các vấn đề
chiến lược, song những điểm này cần phải
ghi nhận phần nào, rồi dẫn chiếu sang các
đạo luật khác. Công ước về Các quyền của
Trẻ em năm 1989, tại Lời nói đầu có nhắc
tới các điểm chiến lược này như sau:
“Tin tưởng rằng, gia đình, với ý nghĩa
là tế bào xã hội cơ bản và môi trường tự
nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của
mọi thành viên, nhất là trẻ em, cần được sự
bảo vệ và giúp đỡ cần thiết để đảm đương
được đầy đủ trách nhiệm của mình trong
cộng đồng;
Thừa nhận rằng, để phát triển đầy
đủ và hài hòa nhân cách của mình, trẻ em
cần được lớn lên trong môi trường gia đình,
trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương
và cảm thông”.
c) Luật Trẻ em năm 2016 còn thiếu
tính pháp lý. Các chế tài chủ yếu để bảo
đảm các quyền và các cơ chế giải quyết
tranh chấp không được quy định. Trong khi
đó, nhiều cơ chế giải quyết tranh chấp có
ảnh hưởng tới em cần phải được chú trọng.
4 CDC National Center for Injury Prevetion and Control, Child abuse and neglect: A Technical Package for Policy, Norm,
and Programmatic Activities, Atlanta - Georgia - USA, 2016, p. 10.
Chẳng hạn, Điều 13 của Công ước của Châu
Âu về việc Thực hiện các quyền của trẻ em
năm 1996 quy định khuyến khích phương
thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải và
các phương thức giải quyết tranh chấp khác
ngoài tòa án vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.
Trong Luật vẫn còn khá nhiều quy
định có tính chất hô hào và mang tính đạo lý,
thiếu chú ý tới thực tiễn thi hành. Chẳng hạn,
Luật Trẻ em năm 2016 quy định “Nguồn tài
chính thực hiện quyền trẻ em bao gồm ngân
sách nhà nước; ủng hộ của cơ quan, tổ chức,
gia đình, cá nhân trong nước, nước ngoài;
nguồn thu từ hoạt động cung cấp dịch vụ;
viện trợ quốc tế và các nguồn thu hợp pháp
khác” (Điều 7, khoản 2). Vấn đề quan trọng
của Luật là khi có các nguồn thu như vậy thì
phải chú ý tới việc ai là người nắm giữ; quản
trị và chi tiêu như thế nào; và nếu thu chi vi
phạm các quy tắc liên quan thì chế tài gì sẽ
được áp dụng và làm thế nào để áp dụng chế
tài đó. Các quy định về tài chính thì quy định
thiếu, trong khi lại quy định rất chi tiết về cơ
sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em.
Nhìn chung, Luật Trẻ em năm 2016
vẫn còn gần gũi với một chương trình hành
động vì trẻ em hơn là một đạo luật. Trong
“chương trình” này rất nhiều điều, nhiều
khoản bắt đầu với các cam kết như “Nhà
nước có chính sách...”, “Nhà nước khuyến
khích...”, “Nhà nước bảo đảm...”, “Nhà
nước ưu tiên...”... Nhưng với một đạo luật
thực sự thì vấn đề đặt ra là: nếu Nhà nước
không thực hiện được những cam kết đó thì
có cơ chế nào để xem xét việc vi phạm của
Nhà nước và chế tài nào sẽ được áp dụng.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
37Số 13(341) T7/2017
2. Bất cập về phạm vi và các định nghĩa
khái niệm quan trọng
3. Bất cập về phạm vi của Luật Trẻ em
năm 2016
Nhìn tổng quát có thể nói, điều chỉnh
các mối quan hệ liên quan tới trẻ em là nhiệm
vụ của cả hệ thống pháp luật mà trong đó ít
nhất các đạo luật trong các lĩnh vực pháp
luật sau không thể không quy định: luật dân
sự, luật hôn nhân và gia đình, luật hình sự,
luật tố tụng hình sự, luật tố tụng dân sự, luật
giáo dục, luật giao thông, luật thương mại
Một đạo luật trẻ em không thể bao gồm tất
cả các quy định thuộc các lĩnh vực pháp luật
này. Nếu Luật Trẻ em cố đưa các quy định
nhẽ ra thuộc các ngành luật khác vào, thì các
quy định đó ắt sẽ trở nên lạc lõng, bởi không
có giải pháp thích hợp để thi hành. Chẳng
hạn: Điều 6, khoản 4 của Luật Trẻ em 2016
có quy định cấm “Tổ chức, hỗ trợ, xúi giục,
ép buộc trẻ em tảo hôn” trong khi đó Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cũng có
quy định cấm tảo hôn và các hành vi can
thiệp bất hợp pháp vào kết hôn. Người ta có
thể phát hiện ra độ chênh của các quy định
của Luật Trẻ em 2016 với Luật Hôn nhân và
Gia đình năm 2014 trong khi đó Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2014 có các chế tài
liên quan. Ví dụ thêm rằng Luật Trẻ em năm
2016 lấn sang cả lĩnh vực luật dân sự với
quy định như sau:
“Điều 101. Bảo đảm quyền dân sự
của trẻ em
1. Cha, mẹ, người giám hộ của trẻ
em và các thành viên trong gia đình có trách
nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
trẻ em; đại diện cho trẻ em trong các giao
dịch dân sự theo quy định của pháp luật;
chịu trách nhiệm trong trường hợp để trẻ em
thực hiện giao dịch dân sự trái pháp luật.
2. Cha, mẹ, người giám hộ của trẻ
em phải giữ gìn, quản lý tài sản của trẻ em
và giao lại cho trẻ em theo quy định của
pháp luật.
3. Trường hợp trẻ em gây thiệt hại cho
người khác thì cha, mẹ, người giám hộ của
trẻ em phải bồi thường thiệt hại do hành vi
của trẻ em đó gây ra theo quy định của pháp
luật”.
Các quy định này không đầy đủ và
thiếu chính xác. Và như vậy chúng có thể
gây rắc rối cho việc áp dụng luật.
Luật Trẻ em năm 2016 vẫn chủ yếu
đưa ra chính sách về trẻ em và bao gồm
những tuyên bố khó áp dụng trong thực tiễn,
có nghĩa là phần kỹ thuật pháp lý để đưa các
chính sách và tuyên bố này vào cuộc sống
khá mờ nhạt. Chẳng hạn, đạo luật này tuyên
bố rất đạo lý rằng: “Nhà nước có chính sách
phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế -
xã hội từng thời kỳ để hỗ trợ, bảo đảm mọi
trẻ em được chăm sóc sức khỏe, ưu tiên
cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em
thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, trẻ em dân
tộc thiểu số, trẻ em đang sinh sống tại các
xã biên giới, miền núi, hải đảo và các xã có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”
(Điều 43, khoản 1); và rằng “Nhà nước có
chính sách hỗ trợ, bảo đảm mọi trẻ em được
đi học, giảm thiểu tình trạng trẻ em bỏ học;
có chính sách hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt, trẻ em thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo,
trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em đang sinh
sống tại các xã biên giới, miền núi, hải đảo
và các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn được tiếp cận giáo dục phổ
cập, giáo dục hòa nhập, được học nghề và
giới thiệu việc làm phù hợp với độ tuổi và
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
38 Số 13(341) T7/2017
pháp luật về lao động” (Điều 44, khoản 1).
Thế nhưng, các quy định có tính hiến pháp
này lại không dễ thi hành khi mà hàng loạt
các chính sách mới về y tế, về giáo dục đang
được bàn thảo chưa tính đếm đến một cách
cụ thể đối với trẻ em nói chung chứ chưa kể
tới trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trong khi
ngân sách còn eo hẹp. Và nếu như Nhà nước
không có hoặc chưa có một chính sách thích
hợp liên quan thì giải pháp pháp lý gì có thể
được áp dụng?
4. Bất cập về các định nghĩa khái niệm
quan trọng trong Luật Trẻ em năm 2016
Xét các định nghĩa khái niệm cần
thiết mà nếu các khái niệm này không được
làm rõ thì khó có thể xác định được hành vi
ngược đãi trẻ em để can thiệp và áp dụng
các biện pháp cần thiết theo luật định, có thể
thấy, Luật Trẻ em năm 2016 có khá nhiều
vấn đề phải bàn. Hiện nay có hai cách để
làm rõ các khái niệm như vậy.
Cách thứ nhất làm rõ khái niệm ngược
đãi trẻ em (child maltreatment) - một khái
niệm chung chỉ tất cả các hành vi xâm phạm
tới đời sống của trẻ em, rồi sau đó phân loại
các hành vi này để tiến hành định nghĩa chi
tiết về từng hành vi trong số chúng. Chẳng
hạn các nhà hoạt động vì trẻ em ở Úc đưa
ra định nghĩa: “Ngược đãi trẻ em là bất kỳ
hành vi ứng xử nào không ngẫu nhiên bởi
cha mẹ, những người chăm sóc, những người
lớn khác, hoặc của những thanh niên lớn tuổi
hơn mà nằm ngoài quy tắc ứng xử và đưa
đến những rủi ro đáng kể gây ra thiệt hại
về thể chất hoặc tình cảm của trẻ em hoặc
những người trẻ tuổi. Những hành vi ứng xử
5 Sally Robinson, Centre for Children and Young People, Southern Cross University, Enabling and Protecting - Proactive
Approaches to Dressing the Abuse and Neglect of Children and Young People with Disability, Australia, p. 4.
như vậy có thể cố ý hoặc vô ý và có thể bao
gồm các hành vi bất cẩn (ví dụ: bỏ mặc) và
phạm tội (ví dụ: lạm dụng). Ngược đãi trẻ em
thông thường được chia thành các tiểu phân
loại chủ yếu như: lạm dụng thể chất; ngược
đãi về tình cảm; bỏ mặc; lạm dụng tình dục;
hoặc chứng kiến bạo lực gia đình”5.
Định nghĩa này làm rõ: về mặt khách
quan của ngược đãi bao gồm hai thành tố:
(1) hành xử không bình thường (có nghĩa là
không phù hợp với pháp luật, tập quán hay
lẽ thường mà ai cũng có thể nhận biết); và
(2) gây thiệt hại về thể chất hoặc tinh thần
của trẻ em hoặc đưa tới khả năng có thể dẫn
đến kết quả không mong đợi đối với trẻ em;
về chủ thể của hành vi ngược đãi trẻ em bao
gồm cha mẹ, những người chăm sóc, những
người lớn khác, hoặc của những thanh niên
lớn tuổi hơn (lưu ý: thanh niên lớn tuổi hơn
so với nạn nhân trẻ em phải kể đến ở đây
khi thanh niên này là chủ thể của hành vi
ngược đãi trẻ em bởi nó còn liên quan tới độ
tuổi phải chịu trách nhiệm về hành vi ngược
đãi); về mặt chủ quan của ngược đãi liên
quan tới các hình thức lỗi. Hành vi ngược
đãi này được chia thành các loại hành vi có
đặc thù riêng nhưng vẫn có bản chất chung
của ngược đãi đã được xác định.
Cách định nghĩa khái niệm này mang
đầy tính pháp lý và có khả năng áp dụng
thực tiễn, làm rõ được bản chất pháp lý của
những hành vi xâm hại trẻ em, đồng thời rất
dễ nhớ theo hệ thống. Nó làm nền tảng cho
việc giải thích các hành vi phạm tội hay vi
phạm hành chính, cũng như xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
39Số 13(341) T7/2017
Cách thứ hai không định nghĩa hành
vi ngược đãi một cách khái quát mà chú ý
tới việc định nghĩa các hành vi xâm hại cụ
thể. Đó là cách mà Luật Trẻ em năm 2016
lựa chọn. Tuy nhiên, đạo luật này tại Điều 4,
khoản 5 có định nghĩa khái niệm “xâm hại
trẻ em” nhưng ở dạng liệt kê các loại hành
vi được xem là xâm hại như sau: “Xâm hại
trẻ em là hành vi gây tổn hại về thể chất, tình
cảm, tâm lý, danh dự, nhân phẩm của trẻ em
dưới các hình thức bạo lực, bóc lột, xâm hại
tình dục, mua bán, bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em và
các hình thức gây tổn hại khác”. Định nghĩa
này không cho thấy bản chất pháp lý chung
của các hành vi xâm hại cụ thể và không làm
rõ các yếu tố cấu thành của cái gọi là “xâm
hại trẻ em”. Vì vậy khi xem các định nghĩa
khái niệm “bạo lực trẻ em”, “bóc lột trẻ em”,
“xâm hại tình dục trẻ em”, “bỏ rơi, bỏ mặc
trẻ em”, có thể thấy các yếu tố pháp lý của
các hành vi này không được mô tả rõ ràng,
mặc dù nhiều từ ngữ nói về khách thể chung
của hành vi “xâm hại trẻ em” được nhắc lại
trong đó, chẳng hạn định nghĩa “Bạo lực
trẻ em là hành vi hành hạ, ngược đãi, đánh
đập; xâm hại thân thể, sức khỏe; lăng mạ,
xúc phạm danh dự, nhân phẩm; cô lập, xua
đuổi và các hành vi cố ý khác gây tổn hại
về thể chất, tinh thần của trẻ em”. Đặc biệt,
đạo luật này không có định nghĩa về “mua
bán trẻ em” (dù trên đã nhắc tới) vì có thể
viện lý do rằng, đã có giải thích về khái niệm
đó ở ít nhất một đạo luật khác, nhưng trong
khi đó lại định nghĩa “xâm hại tình dục trẻ
em là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực,
ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào
các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm
6 Khoản 8 Điều 5 Luật Trẻ em năm 2016.
hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với
trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích mại
dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức”6 nhưng
lại có độ chênh với luật hình sự.
Như vậy, khi định nghĩa các hành vi
ngược đãi hay xâm hại trẻ em không thực sự
rõ ràng, chính xác về mặt pháp lý, có nghĩa
là không xác định chắc chắn được hành vi
nào bị cấm, thì có thể ảnh hưởng tới việc bảo
vệ và chăm sóc trẻ em. Chẳng hạn các hành
vi bị cấm theo đạo luật này bao gồm: “Bỏ
rơi, bỏ mặc, mua bán, bắt cóc, đánh tráo,
chiếm đoạt trẻ em”; “Xâm hại tình dục, bạo
lực, lạm dụng, bóc lột trẻ em”; “Không cung
cấp hoặc che giấu, ngăn cản việc cung cấp
thông tin về trẻ em bị xâm hại hoặc trẻ em có
nguy cơ bị bóc lột, bị bạo lực cho gia đình,
cơ sở giáo dục, cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền”; “Lợi dụng việc nhận chăm sóc thay
thế trẻ em để xâm hại trẻ em; lợi dụng chế
độ, chính sách của Nhà nước và sự hỗ trợ,
giúp đỡ của tổ chức, cá nhân dành cho trẻ em
để trục lợi”; “Từ chối, không thực hiện hoặc
thực hiện không đầy đủ, không kịp thời việc
hỗ trợ, can thiệp, điều trị trẻ em có nguy cơ
hoặc đang trong tình trạng nguy hiểm, bị tổn
hại thân thể, danh dự, nhân phẩm”... (Điều
6). Trong khi đó, định nghĩa về “xâm hại trẻ
em” của đạo luật này chỉ liệt kê rõ ràng các
hành vi “bạo lực, bóc lột, xâm hại tình dục,
mua bán, bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em”, còn các
hành vi còn lại mà bị cấm như “mua bán, bắt
cóc, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em” lại không
được liệt kê. Hơn nữa trong định nghĩa về
“xâm hại trẻ em” đang nói dường như xếp
các hành vi “bạo lực, bóc lột, xâm hại tình
dục, mua bán, bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em” vào
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
40 Số 13(341) T7/2017
một nhóm, trong khi đó Điều 6 về nghiêm
cấm nói trên lại xếp “bỏ rơi, bỏ mặc, mua
bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em”
vào một nhóm. Việc không phân biệt giữa
“bỏ mặc” và “bỏ rơi” trẻ em sẽ ảnh hưởng
phần nào tới việc xác định hành vi “chiếm
đoạt trẻ em” là gì.
3. Bất cập về kỹ thuật viết luật
Ai cũng hiểu rằng, điều luật không nhất
thiết phải có tên. Vấn đề này đã được khẳng
định tại nhiều bộ luật nổi tiếng trên thế giới
(ví dụ như Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804),
cũng như nhiều điều ước quốc tế (chẳng hạn
như ngay Công ước của Liên hiệp quốc về
Các quyền của trẻ em năm 1989). Và chúng
ta cũng hiểu rằng, tên của điều luật không
có giá trị pháp lý (hay giá trị quy định) mà
chỉ có giá trị về tra cứu hay dẫn chiếu. Song
gần đây, các đạo luật (mà điển hình là Luật
Trẻ em năm 2016) có nhiều điều khoản viết
không có chủ ngữ và lấy ngay tên điều luật
làm thành phần của một câu văn, do đó, rất
khó trích dẫn nguyên văn khi viết nghiên
cứu hoặc tuyên truyền. Chẳng hạn, nếu trích
dẫn nguyên văn như sau thì không ai hiểu
điều luật này viết về cái gì, nhưng có thể
khẳng định ngay câu văn này sai tiếng Việt
nghiêm trọng: “Điều 3 của Luật Trẻ em quy
định: “Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị
sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ sở
giáo dục, gia đình, công dân Việt Nam; cơ
quan, tổ chức quốc tế, tổ chức nước ngoài
hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, cá nhân
là người nước ngoài cư trú tại Việt Nam (sau
đây gọi chung là cơ quan, tổ chức, cơ sở
giáo dục, gia đình, cá nhân)”.
Nhưng nếu trích dẫn cả tên điều (mặc
dù không có giá trị pháp lý hay quy định)
như sau, thì người ta cũng có thể luận ra mục
đích của điều này, mặc dù có thể khẳng định
ngay câu văn này vẫn sai tiếng Việt:
“Điều 3. Đối tượng áp dụng
Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị
sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ sở
giáo dục, gia đình, công dân Việt Nam; cơ
quan, tổ chức quốc tế, tổ chức nước ngoài
hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, cá nhân
là người nước ngoài cư trú tại Việt Nam (sau
đây gọi chung là cơ quan, tổ chức, cơ sở
giáo dục, gia đình, cá nhân)”.
Nếu viết cho đúng thì phải là:
“Điều 3. Đối tượng áp dụng
Đối tượng áp dụng của Luật này bao
gồm (là):...”.
Rất nhiều điều trong Luật Trẻ em năm
2016 viết không đúng với kỹ thuật văn bản
và sai tiếng Việt.
4. Kiến nghị
Muốn cho Luật Trẻ em năm 2016 thi
hành đầy đủ trên thực tiễn thì cần thiết phải
sửa đổi, bổ sung khá cơ bản và phải đồng bộ
hóa với các đạo luật khác, đồng thời phải có
hướng dẫn thi hành rất chi tiết. Trong quá
trình thi hành Luật, cần đúc rút kinh nghiệm
thực tiễn, khẳng định các điểm ưu việt và chỉ
ra thêm các bất cập.
Luật thể hiện đời sống, văn hóa và trí
tuệ của một đất nước. Bởi thế, nên tiếp tục
nghiên cứu để sửa đổi, hoàn thiện Luật Trẻ
em năm 2016, dù nó mới có hiệu lực
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
41Số 13(341) T7/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_bat_cap_cua_luat_tre_em_nam_2016.pdf