Một số bất cập của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và giải pháp hoàn thiện

Tuy nhiên khi TPĐ có đơn kháng cáo, trong quá trình xét xử phúc thẩm, TANDTC lại huỷ án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án về cấp sơ thẩm xét xử lại đối với các yêu cầu phản quy định bị đơn phải nộp tiền án phí. Thiết nghĩ, xuất phát từ nguyên tắc: mọi công dân và pháp nhân đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật, tạm ứng án phí là một nghĩa vụ và Toà án chỉ thụ lý vụ án, nghĩa là chỉ xem xét các yêu cầu của nguyên đơn khi nguyên đơn xuất trình chứng từ đã nộp tiền tạm ứng án phí với cơ quan thi hành án. Vậy tại sao bị đơn lại được ưu đãi, không phải nộp tiền án phí đối với các yêu cầu độc lập hoặc các yêu cầu có liên quan tới yêu cầu của nguyên đơn, mặc dù theo điều 21 PLTTGQCVAKT thì họ cũng có quyền “ đề đạt yêu cầu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn”. Điều 21 PLTTGQCVAKT còn quy định: “ người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có thể yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố tụng với bên đương sự khác” Tính chất của yêu cầu độc lập này không khác gì yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Việc nộp tiền tạm ứng án phí không chỉ xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật về quyền và nghĩa vụ mà còn nhằm đề cao trách nhiệm khi yêu cầu của các đương sự, hạn chế việc “kiện gian” trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ của đương sự. Bởi vậy, quy định tại Điều khoản 1, Điều 17- NĐ70/CP: “Nguyên đơn hoặc bị đơn có yêu cầu độc lập đối với nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập trong các vụ án kinh tế phải nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm là 50% của mức án phí theo thông báo của Toà án” là hoàn toàn đúng đắn.

doc101 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1009 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số bất cập của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u nại đối với bản án quyết định có hiệu lực pháp luật mà chỉ quy định thủ tục kháng nghị, theo đó thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là 9 tháng (khoản 1 Điều 77), theo thủ tục tái thẩm là 1 năm (khoản 1 Điều 83). Thời hạn có quyền kháng nghị như vậy xem ra có vẻ rộng rãi, nhưng thực tế còn có nhiều đơn khiếu nại không giải quyết được, nguời khiếu nại thường khiếu nại nhiều lần, gửi đơn khiếu nại đi nhiều nơi song vẫn không có kết quả. Sở dĩ có tình trạng này là do sau khi nhận được đơn khiếu nại, người có thẩm quyền giải quyết đơn khiếu nại ở Toà án và viện kiểm sát phải gửi phiếu mượn hồ sơ vụ án bị khiếu nại đến Toà án đang giữ hồ sơ đó. Chỉ khi đã nhận được và xem xét hồ sơ, người có thẩm quyền mới có căn cứ để giải quyết đơn khiếu nại. Có trường hợp nhận được đơn khiếu nại vào thời điểm đã gần hết thời hạn được quyền kháng nghị thì cũng không giải quyết được khiếu nại vì thời gian cho việc mượn và cho mượn hồ sơ đã dẫn đến hết thời hạn được quyền kháng nghị. Có trường hợp đòi hỏi phải xác minh thu thập chứng cứ, khi chưa xong việc này thì cũng đã hết thời hạn được quyền kháng nghị. Như vậy là đơn khiếu nại đã không được giải quyết nhưng trách nhiệm của người khiếu nại hay người giải quyết khiếu nại thì không rõ, do pháp luật chưa quy định thủ tục giải quyết khiếu nại. Do đó, nên có quy định về thủ tục giải quyết khiếu nại đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, tương tự như thủ tục giải quyết khiếu nại tại Luật khiếu nại tố cáo. Trong đó cần quy định rõ thời hạn kháng nghị, thời hạn gửi phiếu mượn hồ sơ, thời hạn Toà án đang giữ hồ sơ vụ án cho mượn hồ sơ. Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm nên tính từ ngày nhận được hồ sơ, và vì đã có những quy định về thủ tục khiếu nại như trên nên không cần phải kéo dài từ 9 tháng cho đến 1 năm. Cũng nên có quy định trường hợp có trở ngại khách quan, bất khả kháng cản trở việc kháng nghị. Sau khi phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm kết thúc, Toà án phải gửi bản sao bản án, quyết định cho người khiếu nại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Có như vậy thì người khiếu nại và người giải quyết khiếu nại mới có quyền hạn và nhiệm vụ rõ ràng, tránh được những việc làm tuỳ tiện, bảo đảm cho việc khiếu nại và kháng nghị diễn tién nhanh chóng đúng pháp luật. 8. Về giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài Điều 87 PLTTGQCVAKT quy định: “các quy định của Pháp lệnh này cũng được áp dụng đối với việc giải quyết tranh chấp kinh tế tại Việt nam, nếu một hoặc các bên là cá nhân, pháp nhân nước ngoài, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hoà XHCN Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác”. Tại Điểm c khoản 4 mục III Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 07/01/1995 của TANDTC- VKSNDTC có hướng dẫn: “các tranh chấp kinh tế tại Việt Nam bao gồm: + Tranh chấp về việc thực hiện HĐKT tại Việt Nam không phụ thuộc vào HĐKT đó được ký kết tại Việt Nam hoặc ở nước ngoài...” Có thể thấy hướng dẫn chỉ giải quyết tranh chấp HĐKT như trên là chưa đầy đủ. Theo quy định tại Điều 87 thì Toà án còn có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế tại Việt Nam đối với quan hệ không phải là HĐKT. Đó là các tranh chấp kinh tế giữa: cá nhân với cá nhân nước ngoài, hoặc pháp nhân với pháp nhân nước ngoài không có đăng ký kinh doanh. Thiếu sót như vậy sẽ dẫn đến tình trạng khi phát sinh tranh chấp nêu trên, các đương sự sẽ không biết giải quyết ở đâu, tại Toà chuyên trách nào. Nếu các tranh chấp này lại được đưa ra giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự thì không thực sự phù hợp, không chỉ vì mục đích kinh tế của các tranh chấp mà còn ở tính đặc thù của việc giải quyết tranh chấp kinh tế. Hơn nữa, để đảm bảo cho việc triệu tập đương sự và thi hành án, trong trường hợp các bên đều là cá nhân, pháp nhân nước ngoài, chỉ nên giới hạn giải quyết đối với các đương sự đang ở tại Việt Nam. Song song với sửa đổi này, cũng nên mở rộng thêm hình thức giải quyết bằng Toà án bằng việc quy định các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận chỉ định Toà án nước ngoài hoặc Toà án quốc tế giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Một vấn đề khác khá nhạy cảm là khi Toà án phải áp dụng không những pháp luật quốc tế và Toà án nước ngoài mà cả tập quán thương mại quốc tế- một loại nguồn pháp luật ngày càng được các nước áp dụng nhiều trong khi Việt Nam lại chưa coi đó là một nguồn luật chính thức. Theo khoản 3 Điều 14 Luật thương mại 1997 thì: “ các bên trong hợp đồng được thoả thuận áp dụng tập quán thương mại quốc tế nếu các tập quán thương mại quốc tế đó không trái với pháp luật Việt Nam”. Nhưng đó chỉ là quy định của luật thực định, còn trong thực tiễn xét xử nhiều khi Toà án Việt Nam cũng gặp khó khăn khi không hề có một văn bản pháp luật nào quy định giải quyết kinh tế áp dụng tập quán thương mại quốc tế và chính bản thân quan hệ pháp luật kinh tế gây ra tranh chấp cũng đang có những khoảng trống luật pháp. VD: Tranh chấp HĐBH giữa công ty TNHH Tân Hiệp (Tân Hiệp) và công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện (PTT). Ngày 01/10/1999, Tân Hiệp ký hợp đồng số SCTU-VA 011099 mua của công ty United Pacific, Hà Lan hai lô hàng thiết bị kiểm tra ô tô của Italia và thiết bị phân tích khí của công ty Opus Prodox AB (Thụy Điển) với tổng trị giá 25.264 USD. Tân Hiệp đã uỷ thác cho công ty Đức Việt đưa hàng về bằng máy bay. Công ty Đức Việt lại uỷ thác cho công ty Nordisk Transport Sverage, Thuỵ Điển, ký hợp đồng với hãng hàng không Malaysia vận chuyển hàng từ sân bay Gothenborg về Hà Nội. Ngày 22/11/1999, Nordisk đã được hãng hàng không Malaysia cấp vận đơn sơ cấp số 23293887172. Vì công ty Nordisk chỉ là đại lý vận chuyển cho Đức Việt và công ty này được Tân Hiệp- chủ hàng hợp pháp uỷ thác đưa hàng về Việt Nam, nên theo thông lệ giao nhận quốc tế, Nordisk đã cấp các vận đơn thứ cấp số 02082401- ghi tên người nhận là Tân Hiệp và 02082349- ghi tên người nhận là Đức Việt, trên cơ sở vận đơn sơ cấp. Ngày 28/11/1999, Đức Việt đã có thông báo cho Tân Hiệp dự kiến hàng về Hà Nội ngày 29/11, đồng thời gửi kèm theo vận đơn thứ cấp số 02082349 để công ty này chuẩn bị làm thủ tục nhận hàng. Do lô hàng không về đúng dự kiến, sợ có nhiều rủi ro nên ngày 14/12/99, Tân Hiệp đã gửi đơn yêu cầu mua bảo hiểm cho lô hàng tới PTT, trong đó có gửi kèm theo vận đơn số 02082349 ghi tên công ty Đức Việt và nêu rõ tình trạng trên. NGày 15/12/99, PTT đã chấp nhận bán bảo hiểm và phát hành đơn bảo hiểm số 00690 cho Tân Hiệp, theo đó PTT có trách nhiệm đền bù bảo hiểm khi hàng bị mất hoặc tổn thất và việc giải quyết bồi thường bảo hiểm theo quy định của điều khoản bảo hiểm hàng hoá vận đơn chuyển bằng hàng không của Hiệp hội bảo hiểm London (quy tắc ICC 1982). NGày 22/12/99, hãng hàng không Maylaysia gửi văn bản thông báo lô hàng bị thất lạc trong quá trình trung chuyển chính thức có văn bản công ty Đức Việt, xác nhận trách nhiệm về lô hàng đã bị mất và cam kết giải quuyết khiếu nại theo quy định của Công ước Vacsava 1929 về vận chuyển hàng hoá bằng hàng không. Về phía Tân Hiệp, sau khi công ty Đức Việt thông báo hàng bị thất lạc, vào ngày 14/01/00 đã gửi hồ sơ yêu cầu PTT đền bù hàng bị mất theo HĐBH số 00690 với giá trị khai trong đơn BH là 14.000 USD. PTT đã liên tiếp gửi văn bản từ chối bồi thường với nhiều lý do: số vận đơn ghi trong đơn bảo hiểm khác với số vận đơn ghi tên Tân Hiệp, tại sao lô hàng có 3 vận đơn, Tân Hiệp biết hàng bị thất lạc rồi mới mua bảo hiểm... và cuối cùng là hàng mất trong quá trình chuyển tải mà Tân Hiệp không thông báo trước nên không chịu trách nhiệm bảo hiểm. Do không thương lượng được nên Tân Hiệp đã quyết định khởi kiện ra TAND thành phố Hà Nội. Trong quá trình giải quyết, Toà án đã có hai quan điểm khác nhau cơ bản. Quan điểm thứ nhất cho rằng, PTT không có trách nhiệm bồi thường vì việc đền bù bảo hiểm chỉ tuân theo vận đơn, mà vận đơn ghi trong HĐBH lại ghi tên người nhận là công ty Đức Việt. Tân Hiệp cũng đã mắc lỗi, không khai báo hàng chuyển tải và khi hàng về chậm lại không thông báo cho PTT biết. Quan điểm thứ hai nêu ý kiến hoàn toàn ngược lại. PTT phải có trách nhiệm đền bù bảo hiểm cho hàng hoá vì đã có xác nhận hàng mất trong quá trình vận chuyển của hãng hàng không. Theo quy định của ICC 1982 thì người BH có trách nhiệm đối với hàng hoá “trong suốt quá trình vận chuyển bình thường” và ICC cũng không hề có định nghĩa về chuyển tải. Như vậy nghĩa là việc chuyển tải không phải căn cứ miễn trách cho PTT vì chuyển tải vẫn nằm trong “quá trình vận chuyển bình thường”. Và nếu PTT coi chuyển tải là quan trọng thì tại sao không yêu cầu Tân Hiệp khai báo bổ sung trước khi ký HĐBH. Về việc một lô hàng có 3 vận đơn thì Tân Hiệp cũng đã xuất trình xác nhận của đại lý hãng Nordisk- đã được hãng hàng không Malaysia cấp vận đơn sơ cấp và cũng đã cấp 2 vận đơn thứ cấp cho Đức Việt và Tân Hiệp. Việc phát hành vận đơn cho lô hàng hoàn toàn phù hợp với tập quán vận chuyển hàng không quốc tế. Xác nhận này cũng phù hợp với cách giải thích về việc sử dụng vận đơn trong giáo trình “Vận tải và giao nhận trong ngoại thương” của trường Đại Học Ngoại Thương và tài liệu “Sổ tay giao nhận hàng hoá” của tổ chức kinh tế và xã hội Châu á-Thái Bình Dương-Liên Hợp Quốc (ESCAP) năm 1990. Tuy nhiên, những tài liệu này chưa được Toà án Việt Nam coi là nguồn luật chính thức có thể áp dụng. Như vậy, việc quy định hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được áp dụng tập quán thương mại, thông lệ quốc tế song lại không quy định việc giải quyết tranh chấp kinh tế chấp nhận các tập quán thông lệ đó là hoàn toàn bất cập. Thực tế cũng không hề có tiêu chuẩn rõ ràng về việc nhận định quy định của tập quán thương mại trái với hay phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam cụ thể là như thế nào. Trong thời kì vận động sôi nổi của các mối quan hệ kinh tế như hiện nay, chắc chắn những quy định về tài phán kinh tế thiếu đồng bộ và không phù hợp trên phải thay đổi cho phù hợp với luật pháp quốc tế và chiến lược hội nhập kinh tế của Việt Nam, góp phần tạo nên một môi trường đầu tư lý tưởng cho các nhà đầu tư trong nước và quốc tế . Chương III Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết các vụ án kinh tế I. Định hướng hoàn thiện pháp luật giải quyết các vụ án kinh tế 1. Định hướng hoàn thiện pháp luật giải quyết các vụ án kinh tế Thực tiễn cho thấy, các quy định pháp luật về giải quyết các tranh chấp kinh tế hiện nay chưa đáp ứng được với hoạt động sôi nổi trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần. Các cơ chế giải quyết đôi khi không hiệu quả, mâu thuẫn, không tạo được sự tin tưởng cho các chủ thể kinh doanh. Kết quả là, các trung tâm trọng tài kinh tế và các Toà kinh tế TAND đều rất ít việc làm, nhàn rỗi, lãng phí thời gian và nhân lực trong khi mỗi năm có hàng chục ngàn tranh chấp kinh tế đủ loại, đa dạng và phức tạp diễn ra. Điều này phản ánh nhu cầu bổ sung và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đã trở nên bức xúc và cấp bách. Trước hết, pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế cần phải hoàn thiện theo hướng giải quyết đồng bộ cả việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và hệ thống pháp luật về kinh tế. Đây là các yếu tố chi phối cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế. Thật vậy, thể chế kinh tế thị trường và hệ thống pháp luật kinh tế, đặc biệt là các lĩnh vực pháp luật về tài chính, ngân hàng, thuế, bảo hiểm, đất đai... là những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các chủ thể, cũng là những lĩnh vực nhạy cảm dễ phát sinh tranh chấp. Theo Nghị quyết của Đại hội Đảng IX, trong 10 năm tới, chúng ta phải phấn đấu để hình thành về cơ bản thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây là một quá trình phát triển đồng bộ các loại thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường vốn và tiền tệ, thị trường sức lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ...; phát triển và hoàn thiện cơ cấu thành phần của nền kinh tế, đặc biệt là tạo ra sự đan xen và kết hợp giữa các thành phần. Đây cũng là quá trình tăng cường và nâng cao hiệu lực của Nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế thị trường. Thể chế kinh tế được hoàn thiện sẽ tạo ra môi trường thuận lợi giải phóng triệt để lực lượng sản xuất, phát huy mọi nguồn lực của xã hội, tạo ra động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế. Việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị truờng phải gắn liền với việc bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế, bởi khi và chỉ khi tồn tại một hệ thống khung pháp luật chặt chẽ, đồng bộ và hợp lý làm nền tảng cho việc điều tiết nền kinh tế, các quan hệ kinh tế và chủ thể kinh tế của Nhà nước thì lúc đó kinh tế thị trường mới có thể phát triển mạnh mẽ mà vẫn theo đúng định hướng XHCN mà không vi phạm trật tự pháp luật, trật tự công cộng và an toàn xã hội. Và khi đó, pháp luật về tài phán kinh tế mới thực sự phát huy được vai trò của nó trong bức tranh vừa đa dạng vừa sôi động của giao lưu kinh tế và hội nhập quốc tế dưới sự phát triển cả hệ thống luật pháp kinh tế. Việc hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế cũng phải xuất phát từ quyền tự do kinh doanh của các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế. Bản chất của quan hệ kinh tế là sự tự do thoả thuận của các chủ thể kinh doanh, các thỏa thuận này phù hợp với các quy định của Nhà nước về “luật chơi chung”, chứ hoàn toàn không phải là sự sắp đặt theo ý chí của Nhà nước. Thể chế kinh tế thị trường cho phép các chủ thể kinh doanh có quyền tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật không cấm, vì thế trong pháp luật của những nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì pháp luật kinh tế - thương mại là “pháp luật tự hành”. Các chủ thể kinh doanh có thể có những hành vi và thỏa thuận mà pháp luật không dự liệu nhưng vẫn không bị xem là trái pháp luật. Khi có sự vi phạm những thoả thuận trên, tức là vi phạm các quy phạm pháp luật mà Nhà nước ban hành, Nhà nước lại thể hiện sự tôn trọng quyền tự do thỏa thuận phù hợp pháp luật của các chủ thể bằng cách cho phép họ có quyền lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế của Việt Nam phải tôn trọng quyền tự do kinh doanh của các chủ thể để phù hợp hơn với thông lệ của luật pháp quốc tế. 2. Mục tiêu hoàn thiện pháp luật giải quyết các vụ án kinh tế Một là, việc hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế nhằm đảm bảo sự phù hợp giữa các nguồn luật. Trong hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về tài phán kinh tế vừa phải tuân theo những quy định chung, thống nhất áp dụng cho tất các ngành luật khác như hình sự, dân sự, lao động, hành chính, hôn nhân và gia đình...vừa phải có những quy định đặc thù, giải quyết được các vấn đề bức xúc, phức tạp của các quan hệ kinh tế. Hai là, pháp luật tố tụng kinh tế phải phù hợp và đáp ứng đựoc những yêu cầu điều kiện của nền kinh tế thị trường phát triển. Theo đường lối và chiến lược phát triển kinh tế xã hội khẳng định tại Đại hội IX của Đảng: “Nhà nước phải tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển”. Từ đó có thể thấy được rằng pháp luật tố tụng kinh tế phải thực sự đồng bộ, hoàn thiện để có thể giải quyết được những vướng mắc tranh chấp phát sinh từ những lĩnh vực nhạy cảm và năng động của một nền kinh tế thị trường mới nổi. Pháp luật kinh tế nói chung cũng như tố tụng kinh tế nói riêng cần hướng tới mục tiêu là công cụ quản lý đắc lực, hiệu quả của Nhà nước trong quá trình quản lý và điều tiết nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Có như vậy thì pháp luật giải quyết tranh chấp mới thực sự bảo vệ có hiệu quả những quyền và lợi ích xứng đáng của các bên trong tranh chấp kinh tế, bảo đảm sự ổn định về xã hội và góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế thị trường Việt Nam. Ba là, pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế phải đảm bảo sự phù hợp với luật pháp quốc tế, với các thông lệ, các Điều ước quốc tế. Trong bối cảnh hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, các quốc gia đều hướng tới tự do hoá, toàn cầu hoá thì việc chủ động kinh tế quốc tế vào khu vực, mở cửa nền kinh tế ở một nước XHCN là hoàn toàn tất yếu. Với tinh thần phát huy tối đa nội lực, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, pháp luật về tài phán kinh tế phải thể hiện vai trò của mình trong việc đảm bảo môi trường giải quyết tranh chấp kinh tế thông thoáng, nhanh gọn, phù hợp trong quỹ đạo chung của pháp luật tài phán kinh tế khu vực và thế giới, đồng thời vẫn cần chặt chẽ, kín kẽ nhằm bảo vệ lợi ích dân tộc, lợi ích của các chủ thể kinh tế trong nước. Với định hướng hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế đảm bảo nhũng mục tiêu trên, chắc chắn pháp luật về tài phán kinh tế của Việt Nam sẽ phát huy được vai trò và sức mạnh vốn có của nó đối với sự phát triển kinh tế thị trường, tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. II.Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết các vụ án kinh tế 1. Các giải pháp lâu dài 1.1. Thống nhất pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế Trong bài phát biểu tại Hội nghị tập huấn chuyên đề công tác tư pháp tháng 03/1993, thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói: “ hệ thống pháp luật mà chhúng ta cần xây dựng trong những năm trước mắt phải là một hệ thống đồng bộ, nhất quán, năng động, thể chế hoá được chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước trên tất cả mọi lĩnh vực, đời sống xã hội, thực sự có tác dụng thúc đẩy từng bước hình thành ở nước ta nền kinh tế thị trường”. Với quan niệm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về công tác xây dựng pháp luật như trên, việc thống nhất tập trung thủ tục tố tụng, dân sự, kinh tế, lao động vào một Bộ luật tố tụng dân sự chung là hết sức cần thiết. Thật vậy, sự ra đời của BLDS với những định chế về tài sản, hợp đồng, giao dịch dân sự đã làm cho các yếu tố phân biệt giữa HĐDS và HĐKT không còn mấy ý nghĩa. Hơn nữa, các tranh chấp về kinh tế, lao động, dân sự đều được tiến hành giải quyết theo một trình tự chung là tố tụng tư pháp bằng con đường Toà án. Các Toà kinh tế, Toà lao động nằm trong hệ thống TAND. Trong quá trình xây dựng và soạn thảo Bộ luật tố tụng dân sự, việc Nhà nước ban hành các văn bản riêng lẻ về tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, lao động chỉ là công việc của giai đoạn quá độ, là bước đệm, là giải pháp tình thế. Qua thực tế, các công trình nghiên cứu cụ thể đã cho thấy có đến 80% các quy định trong các thủ tục tố tụng nêu trên là giống nhau. Các quy định khác nhau chỉ chiếm 20% và chủ yếu khác nhau về các thời hạn (thời hạn giải quyết các vụ án, thời hạn kháng cáo, kháng nghị...) Từ trước đến nay, đại đa số các tranh chấp kinh tế, tranh chấp lao động đều được điều chỉnh bằng hàng loạt các văn bản pháp luật tố tụng dân sự. Nhiều vụ tranh chấp về lao động, kinh tế trước đây đã thuộc thẩm quyền của Toà dân sự và được tiến hành giải quyết theo thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Như vậy, hoàn toàn có thể và cần phải quy định các vấn đề chung về tố tụng dân sự, kinh tế lao động trong một số chương của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, để đảm bảo tính đặc thù tương đối của các loại tố tụng, ngoài phần quy định chung, thống nhất như trên, cần xây dựng các chương, mục riêng cho các loại hình tố tụng này. Việc thống nhất pháp luật giải quyết tranh chấp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tư pháp và cho người dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia kiện tụng trước Toà án. Nó cũng sẽ góp phần đơn giản hoá, giảm sự cồng kềnh của các văn bản pháp luật quy định về từng loại tố tụng khác nhau, hướng tới một sự thống nhất và đồng bộ cho hệ thống pháp luật tố tụng. Từ đó, Bộ luật tố tụng dân sự ra đời sẽ nâng cao hiệu quả của hoạt động tư pháp, tạo thuận lợi trong việc sử dụng các cơ sở giám định tư pháp, luật sư cũng như thủ tục thi hành án. Trong bối cảnh chúng ta đang mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực, việc từng bước vận dụng có chọn lọc, những thành tựu kinh nghiệm tiên tiến trong khoa học pháp lý ở các nước, trong khu vực và trên thế giới là một xu thế tất yếu. Hầu hết các nước đều áp dụng một thủ tục tố tụng chung để giải quyết các tranh chấp về dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình. 1.2.Thống nhất pháp luật về hợp đồng Xét về bản chất, có thể thấy gốc rễ, căn nguyên sâu xa của những bất cập trong thủ tục tố tụng kinh tế chính là ở sự hiện diện bất hợp pháp của hai hệ thống pháp luật về hợp đồng ở nước ta là pháp luật về HĐKT và pháp luật về HĐDS. Hầu hết các nước đều có quan niệm đúng đắn rằng HĐTM là một loại HĐDS đặc biệt, phái sinh từ HĐDS. Bởi vậy, khi giải quyết các tranh chấp về một hợp đồng nào đó, các nước đều vận dụng các quy định pháp luật chuyên ngành, tức là pháp luật trực tiếp điều chỉnh quan hệ hợp đồng đó, khi cần thiết mới áp dụng các quy định chung của pháp luật về HĐDS để xử lý các vấn đề phái sinh. Các luật dân sự, do đó, có vai trò quan trọng và bao trùm trong các lĩnh vực khác. Trong khi đó, ở Việt Nam do có sự phân biệt một cách cứng nhắc, máy móc, không khoa học giữa HĐKT và HĐDS, coi chúng như hai loại hợp đồng độc lập, hoàn toàn khác nhau về tính chất nên nguyên tắc được quốc tế thừa nhận nêu trên đã không được áp dụng. Đó là chưa kể đến sự tồn tại của khái niệm HĐTM, dễ làm cho các chủ thể kinh tế hiểu là một loại hợp đồng điều chỉnh quan hệ hàng hoá- tiền tệ riêng biệt, độc lập với hai loại hợp đồng trên. Thực chất, theo định nghĩa hoạt động thương mại tại khoản 2 Điều 5 và theo phạm vi điều chỉnh thương mại tại Điều 1 Luật thương mại Việt Nam thì Luật thương mại chỉ là luật về hoạt động thương nghiệp với tư cách là một lĩnh vực hoạt động, một ngành kinh tế; và hành vi thương mại chỉ là một hành vi kinh doanh; khái niệm thương mại hẹp hơn khái niệm kinh tế. Đây chính là một điểm khác biệt cơ bản, tương phản với Bộ luật thương mại của các nước TBCN. Trong các bộ luật đó, thương mại được hiểu theo nghĩa rất rộng, bao gồm tất cả các hành vi được các thương nhân thực hiện nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận, bất kể chúng thực hiện ở đâu, trong lĩnh vực nào. Cho nên, xét đến cùng, Luật thương mại Việt Nam chỉ là luật về một lĩnh vực hoạt động cụ thể, lĩnh vực thương mại theo nghĩa hẹp, có vị trí khiêm tốn như các luật chuyên ngành mà thôi. Sự tồn tại quan niệm về HĐKT như một loại hợp đồng song song và độc lập với HĐDS mới làm phức tạp hoá vấn đề áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử tranh chấp. Trong tương lai, cần xoá bỏ sự phân biệt giữa HĐKT và HĐDS như những khái niệm khoa học. Nội dung của quan hệ HĐKT trong điều kiện nền kinh tế thị trường đã thay đổi cơ bản. Thành phần các chủ thể tham gia kinh doanh đã được mở rộng đáng kể, do đó, HĐKT không còn là một loại hợp đồng dành riêng cho các chủ thể kinh doanh XHCN, cũng không còn là loại hợp đồng mang tính kế hoạch Nhà nước đơn thuần. HĐKT không thể tồn tại như một khái niệm độc lập và ngang hàng với HĐDS khi nó đã mất đi những giá trị nội dung to lớn của nó. Hệ thống pháp luật về HĐKT hiện nay cũng cần được xoá bỏ. Có như vậy mới đảm bảo được tính khoa học của pháp luật Việt Nam, mới làm cho hệ thống pháp luật về hợp đồng của Việt Nam trở lại với quỹ đạo chung của thế giới là: trong mối quan hệ với BLDS thì các quy định về hợp đồng trong mọi lĩnh vực hoạt động cụ thể đều chỉ là các quy định có tính chất chuyên ngành. Đây là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay. Pháp luật Việt Nam không chỉ thể hiện những đặc thù của nền kinh tế-xã hội Việt Nam mà còn phải thể hiện được những thông lệ, quy định có tính chất chung đã được nhièu nước thừa nhận. Nếu không tuân thủ nguyên tắc này thì về mặt lập pháp, chúng ta đã tự gây trở ngại cho chính mình trong việc hội nhập khu vực và quốc tế như một tiền đề để phát triển đất nước. Muốn vậy, các quy định về hợp đồng trong BLDS hiện hành cần sớm được hoàn thiện nhằm đảm bảo có sở pháp luật cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh. Các quy định phải trở thành nguồn pháp luật có tính chất nền tảng của pháp luật về hợp đồng ở nước ta. Bên cạnh đó, cũng cần làm cho các văn bản điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong các lĩnh vực cụ thể như: đấu thầu, xây dựng, vận tải, bảo hiểm, tín dụng... quy định được các vấn đề có tính chất đặc thù. Một khi những nét chung về hợp đồng đã có BLDS giải quyết còn các vấn đề đặc thù đã được các văn bản chuyên ngành ghi nhận thì việc thực hiện hợp đồng và giải quyết ta phát sinh sẽ thuận tiện và chặt chẽ hơn rất nhiều so với hiện nay. Tóm lại, khái niệm HĐKT sau này vẫn tồn tại nhưng không phải với tư cách là một khái niệm khoa học, cũng không phải là một chế định pháp luật mà chỉ đóng vai trò là một công cụ giúp phân định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng. Cần đưa ra một khái niệm HĐKT, chẳng hạn như khái niệm của tiến sỹ luật học Dương Đăng Huệ: “HĐKT là hợp đồng được ký kết giữa các chủ thể kinh doanh nhằm thực hiện các công việc thuộc nghề nghiệp của họ” làm căn cứ để giao việc giải quyết tranh chấp hợp đồng cho Toà án kinh tế. Đây cũng là phương thức của luật pháp các nước TBCN. Lấy ví dụ ở Trung Quốc, Trung Quốc không có pháp luật về HĐKT, cũng không có Toà kinh tế song những tranh chấp phát sinh giữa các nhà kinh doanh lại được giao cho một số Thẩm phán giỏi về lĩnh vực kinh tế giải quyết. ở các nước TBCN, các tranh chấp HĐTM được xét xử sơ thẩm ở Toà án thương mại. Để làm được như vậy đòi hỏi thời gian và công sức, bởi HĐKT và Pháp lệnh HĐKT đã gắn bó mật thiết với các chủ thể tham gia kinh doanh trong suốt thời gian dài vừa qua, song chắc chắn nó sẽ mang lại cho pháp luật tố tụng Việt Nam một gương mặt mới, một hướng đi mới khoa học hơn và thống nhất hơn với hướng đi chung của pháp luật và thông lệ quốc tế. 1.3. Nâng cao kiến thức về pháp luật kinh tế cho các chủ thể tham gia quan hệ kinh tế Thực tiễn xét xử cho thấy, mặc dù trong những năm gần đây, trình độ hiểu biết pháp luật của các chủ thể kinh tế có tăng, song chủ yếu họ vẫn chưa thực sự nắm vững pháp luật có liên quan đến lĩnh vực kinh doanh của mình. Thông thường, các đương sự chưa thu thập đầy đủ các thông tin về đối tác đã ký kết hợp đồng kinh doanh với mình như: thông tin về tài sản, đăng ký kinh doanh, giấy phép hành nghề, người đại diện hợp pháp, uy tín trong kinh doanh... Trong quá trình thực hiện HĐKT, nhiều trường hợp đương sự khi thấy bị vi phạm đã không yêu cầu đối tác xác nhận bằng văn bản, chưa giải quyết kịp thời, có khi thường trao đổi bằng miệng hoặc qua điện thoại nên không có bằng chứng để chứng minh. Các bên đương sự cũng thường để tranh chấp kéo dài, đến khi khởi kiện thì đã hết thời hiệu khởi kiện. Có khi đơn khởi kiện lại được gửi đến các cơ quan không có thẩm quyền, mà không gửi ngay đến Toà án yêu cầu giải quyết, đến khi Toà án nhận được thì thời hiệu khởi kiện đã hết. Đơn kháng cáo, khiếu nại có khi gửi đi rất nhiều nơi mà không đến Toà án có thẩm quyền. Chính vì vậy mà vấn đề nâng cao kiến thức về pháp luật kinh tế cho các chủ thể được đặt ra. Nhà nước cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức phong phú, sinh động, và bằng những phán quyết công minh để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân. Các cơ quan tư pháp cũng phải chú trọng đến công tác nghiên cứu khoa học về tư pháp để giải đáp những vấn đề bức xúc hiện nay trong công tác tư pháp. Cần tổ chức những cuộc hội thảo, tiếp xúc với các doanh nghiệp, các cá nhân tham gia kinh doanh nhằm trao đổi, hướng dẫn và giải đáp những vướng mắc về pháp luật kinh tế của các chủ thể. Đối với những Bộ luật, Pháp lệnh mới có hiệu lực, cần kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn, tổ chức hội thảo hướng dẫn thi hành. Về phía doanh nghiệp, cũng cần có ý thức tích cực, chủ động tham gia tìm hiểu luật pháp kinh tế bên cạnh việc đầu tư cho hoạt động tư vấn pháp luật. Có những hành động song trùng từ hai phía như vậy mới mong việc nâng cao kiến thức pháp luật kinh tế cho các chủ thể đạt kết quả. 2. Các giải pháp tạm thời 2.1. Mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Toà án kinh tế 2.1.1.Mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của TAND cấp huyện Theo mô hình tổ chức hiện nay, Toà kinh tế TAND cấp tỉnh được pháp luật tố tụng kinh tế giao đủ các thẩm quyền từ sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm tất cả các vụ án kinh tế. Tình trạng trên dẫn đến công tác xét xử của Toà án cấp tỉnh rất nặng, tập trung quá nhiều vụ việc. Bởi vậy, cần thiết phải có “sự sắp xếp lại hệ thống TAND, phân định hợp lý thẩm quyền của Toà án các cấp”(Văn kiện đại hội Đảng IX, trang 134, NXB chính trị quốc gia, Hà Nọi 2001) nhằm “tăng thẩm quyền xét xử cho TAND cấp huyện, quận theo hướng: việc xét xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở Toà án cấp này. Toà án cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm, TANDTC chủ yếu xét xử giám đốc thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn TAND địa phương thực hiện xét xử thống nhất theo pháp luật.”(Văn kiện đại hội Trung ương lần thứ 8 Ban chấp hành khoá VII, Hà Nội 1995). Trong lĩnh vực giải quyết án kinh tế, cần mở rộng thẩm quyền của Toà án cấp huyện, không phụ thuộc vào giá trị tranh chấp kinh tế dưới 50 triệu VND. Việc tổng kết công tác giải quyết tranh chấp trong những năm qua cho thấy, con số 50 triệu là quá nhỏ bé vì hầu hết giá trị tranh chấp là trên 50 triệu. Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, việc thua lỗ, mất mát 50-100 triệu VND được các doanh nghiệp coi là “con số cho phép”, “chi phí cơ hội”. Hơn nữa, quy định tại khoản 1, Điều 13 PLTTGQCVAKT lấy giá trị tranh chấp làm căn cứ phân định thẩm quyền cũng chưa thực sự phù hợp. Trên thực tế, việc các doanh nghiệp quyết định có đưa vụ kiện ra Toà án hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố quan trọng như: uy tín, giữ mối quan hệ kinh doanh... trong đó giá trị tranh chấp cũng là một yếu tố. Tuy nhiên, việc giải quyết trước mắt vấn đề thẩm quyền của Toà án cấp huyện cũng có tác dụng mạnh đối với sự chồng chéo trong xét xử, với việc ứ đọng, lưu cữu vụ án kinh tế ở Toà án cấp tỉnh và việc dư thừa, lãng phí nguồn lực ở Toà án cấp huyện. 2.1.2. Hoàn thiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Toà án kinh tế Bên cạnh thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế (tranh chấp hợp đồng), Toà án kinh tế cũng phải “được” có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTM, các tranh chấp có hậu quả gắn liền với việc thực hiện HĐKT. Các tranh chấp kinh tế giữa các cá nhân đăng ký kinh doanh, mà cụ thể là giữa các doanh nghiệp tư nhân, các công ty hợp danh với nhau cần được coi là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa kinh tế trong thời kỳ kinh tế phát triển, đa dạng hoá các thành phần kinh tế như hiện nay. Xét về bản chất, các loại hình tranh chấp trên đều là tranh chấp về HĐKT, phát sinh giữa các chủ thể kinh tế vì mục đích lợi nhuận nên sẽ không phù hợp nếu được coi là HDDS và giải quyết theo thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Ngoài thẩm quyền xét xử các vụ án kinh tế, tuyên bố phá sản doanh nghiệp, cần bổ sung thêm chức năng đăng ký kinh doanh cho Toà kinh tế. Đăng ký kinh doanh là một hoạt động mang tính hành chính - tư pháp, cần phải giao cho một cơ quan tư pháp thực hiện. Tham khảo kinh nghiệm ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì việc đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp, cá nhân đều do Toà án thương mại thực hiện. Chức năng đăng ký kinh doanh được giao cho Toà kinh tế sẽ tạo nên sự thuận lợi, thống nhất thành một mối trong việc quản lý hồ sơ, theo dõi hoạt động của các doanh nghiệp. Tòa kinh tế vừa làm nhiệm vụ “ khai sinh”- đăng ký kinh doanh vừa làm nhiệm vụ “khai tử”- tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Mặt khác, chức năng này sẽ tạo thuận lợi cho việc tra cứu, cung cấp số liệu thông tin về các doanh nghiệp khi Toà kinh tế tiến hành xét xử các vụ án và tuyên bố phá sản doanh nghiệp. 2.2. Nâng cao năng lực hoạt động cho bộ máy TAND các cấp Trong quá trình Đổi mới tư pháp ở nước ta hiện nay, vấn đề nâng cao chất lượng và năng lực hoạt động của bộ máy TAND các cấp đang được Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học, các cán bộ làm công tác tư pháp quan tâm. Vấn đề này đòi hỏi trước hết là nỗ lực và tinh thần trách nhiệm của các Toà án. Khi xét xử, các Toà án phải đảm bảo cho mọi công dân đều binh đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm dộc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục trong thời hạn pháp luật quy định. Các Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện cho luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ, tranh luận dân chủ tại phiên toà...Trình độ và phẩm chất của đội ngũ cán bộ Thẩm phán xét xử cũng cần được nâng cao bởi nó phản ánh năng lực xét xử của Toà án, đảm bảo chất lượng và hiệu quả thực tế của việc xét xử, tạo niềm tin cho các chủ thể kinh doanh khi lựa chọn hình thức giải quyết hữu hiệu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh sự phối kết hợp giữa Toà án các cấp, các cơ quan tư pháp khác trong hoạt động tố tụng trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, không hữu khuynh, đùn đẩy trách nhiệm. Các cơ quan điều tra, kiểm sát cần thực hiện đúng thời hạn tố tụng như luật định. Các Toà án phải hỗ trợ nhau trong quá trình tố tụng: lập hồ sơ vụ án, thu thập thêm chứng cứ, lấy ý kiến chỉ đạo từ cấp trên, phát hiện các tình tiết mới của vụ án v.v. TANDTC phải thực hiện vai trò đầu tàu, hướng dẫn các TAND cấp tỉnh, cấp huyện trong quá trình giải quyết các vụ án kinh tế phức tạp hay khó phân định thẩm quyền; đưa ra các quyết định, các văn bản hướng dẫn kịp thời, hợp lý. TANDTC cần tích cực tham gia nghiên cứu để thực hiện chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước, trong đó có việc nghiên cứu, soạn thảo dự án Luật tổ chức TAND trình Quốc hội xem xét. Trước mắt, TANDTC phải đảm bảo biên chế tổ chức, đặc biệt là việc bổ sung tương đối đủ số lượng Thẩm phán để tăng cường hơn nữa công tác xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, phấn đấu giải quyết tốt hơn nữa tình trạng án tồn đọng. Bên cạnh đó, TANDTC tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng,tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ Toà án và coi đây là công tác thường xuyên của ngành Toà án. TANDTC cần phối hợp tốt với các cơ quan hữu quan trong việc quản lý Toà án địa phương và xây dựng các Toà án địa phương trong sạch, vững mạnh. 2.3. Đơn giản hoá thủ tục xét xử Đây cũng là một vấn đề cấp bách cần thực hiện nhằm đảm bảo và phát huy tính ưu việt của pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế là nhanh gọn, kịp thời. Trong công tác giải quyết tranh chấp, cần phải quan tâm đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án đúng hạn định, hạn chế đến mức thấp nhất việc giải quyết chậm trễ, kéo dài vụ án. Toà án cần nghiên cứu để quy định và thực hiện thủ tục tố tụng rút gọn đối với những vụ án đơn giản, sự việc đã rõ ràng, có đủ chứng cứ được các bên thừa nhận bằng văn bản, hậu quả ít nghiêm trọng. Thủ tục này cũng nên được áp dụng trong việc “xử lý vi phạm pháp luật HĐKT”, tức là xử lý hợp đồng vô hiệu, nằm trong thẩm quyền giải quyết của Toà án. Trên thực tế, những vướng mắc trong quá trình xét xử án kinh tế, từ khâu thụ lý vụ án, tống đạt đến đương sự, thu thập chứng cứ cho đến đưa ra kết luận, bản án và thi hành án; đã xoá nhoà đi chủ trương áp dụng thủ tục rút gọn trong pháp luật tài phán kinh tế. Sự yếu kém này càng hạ thấp vai trò của Toà án như là một hình thức giải quyết tranh chấp kinh tế so với trọng tài kinh tế. Bên cạnh những nhược điểm đặc thù như: công khai, làm giảm uy tín kinh doanh doanh nghiệp, nó còn làm mất thời gian và tiền bạc của các chủ thể kinh tế. Trong khi đó, đã từ lâu Điều 22 Pháp lệnh trọng tài kinh tế quy định: “ trọng tài viên quyết định giải quyết tranh chấp HĐKT, xử lý vi phạm pháp luật HĐKT mà không cần triệu tập phiên họp khi sự việc đã rõ ràng, có đủ chứng cứ được các bên thừa nhận bằng văn bản.” Tuy nhiên, vấn đề đơn giản hoá thủ tục không nên chỉ xem xét phiến diện, một chiều. Đã là đơn giản hoá thì cũng cần phải cân nhắc kỹ lưỡng xem việc đơn giản hoá như vậy có thực hiện được hay không. Các nhà soạn thảo PLTTGQCVAKT đôi khi có hơi quá nhấn mạnh về tính ưu việt, rút gọn của chế định tài phán mà bỏ qua khả năng thực hiện của nó. Cho nên, những quy định về thời hiệu tố tụng quá ngắn, quá rút gọn như: thời hiệu khởi kiện (6 tháng), thời hạn chuẩn bị xét xử (40 - 60 ngày)... cần phải được điều chỉnh cho phù hợp hơn với quy trình xét xử. Bên cạnh đó, cũng nên có các văn bản như “quyết định thụ lý vụ án”, văn bản trả lại đơn kiện... nhằm bảo vệ quyền lợi của các đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Làm được như vậy chính là việc góp phần hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án, bởi chỉ khi các khâu trong quá trình tố tụng được tiến hành trơn tru, thuận lợi thì thủ tục xét xử mới thực sự được rút gọn. 2.4. Hướng dẫn các cấp Toà án thống nhất thi hành một số điều trong Pháp lệnh Công tác chỉ đạo, hướng dẫn áp dụng pháp luật là một công tác trọng tâm của TANDTC nên phải luôn được quan tâm, coi trọng. Việc thống nhất nhận thức, thống nhất áp dụng pháp luật để giải quyết các loại vụ án và công tác thi hành án luôn là một đòi hỏi cấp thiết. TANDTC phải tự mình ban hành và phối hợp tốt hơn nữa với các ngành bảo vệ pháp luật ở Trung ương, các ngành hữu quan khác để nhanh chóng ban hành các Thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng pháp luật trong công tác giải quyết tranh chấp. Thông qua thực tiễn xét xử, TANDTC phải tổng kết kinh nghiệm để tham gia xây dựng các văn bản pháp luật quan trọng về tài phán kinh tế. Các văn bản này nên đảm bảo được tính nhất quán, khách quan, cụ thể, gắn với những vấn đề bất cập của pháp luật giải quyết tranh chấp như: thẩm quyền của Toà án cấp huyện; mở rộng thẩm quyền của Toà kinh tế (về đăng ký kinh doanh, về xử lý các tranh chấp HĐTM, tranh chấp có hậu quả gắn liền với HĐKT); kéo dài thời hiệu khởi kiện, quy định lại thời điểm tính “ngày phát sinh tranh chấp”; cách tuyên bố và xử lý hợp đồng vô hiệu; quy định chặt chẽ về án phí; hợp nhất thủ tục tái thẩm với giám đốc thẩm; xác định rõ hơn vai trò của tập quán thương mại quốc tế, thông lệ quốc tế với giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài v.v... Bên cạnh đó, các văn bản này cũng nên hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh hơn nữa, chẳng hạn như về vấn đề xét xử công khai. Đây là một tiến bộ của pháp luật tố tụng kinh tế, song nên chăng nguyên tắc này được “mềm hoá” nhiều hơn bởi việc xét xử công khai đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín kinh doanh của doanh nghiệp, do đó bộc lộ rõ hạn chế của việc giải quyết tranh chấp bằng Toà án so với trọng tài. Tóm lại, trước khi PLTTGQCVAKT được sửa đổi hoặc được xoá bỏ để hợp nhất vào Bộ luật tố tụng dân sự, những bất cập của nó, như đã đề cập ở Chương II và trên thực tế, cần phải được giải quyết tạm thời, được hướng dẫn thống nhất cách xử lý cho hệ thống Toà án các cấp. Có như vậy thì khi Bộ luật tố tụng dân sự ra đời, các chủ thể tham gia kinh doanh mới giữ vững được niềm tin vào cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế, để tiếp tục khởi kiện các tranh chấp ra Toà kinh tế vì còn coi đó là công cụ đắc lực của công lý và công bằng xã hội. Về phía Toà án các cấp, cũng cần phải tuyệt đối chấp hành thực thi các hướng dẫn của TANDTC về một số bất cập trong PLTTGQCVAKT. Đồng thời, các Toà án nên có tinh thần trách nhiệm thực hiện đầy đủ, áp dụng chính xác vào công tác giải quyết tranh chấp. Các văn bản hướng dẫn một khi được ban hành đã thể hiện rõ ý chí và mục đích của các nhà hoạch định; song thực hiện nó như thế nào cho thiết thực và hiệu quả lại hoàn toàn phụ thuộc vào Toà án các cấp, vào đội ngũ Thẩm phán, cán bộ Toà án. Vậy nên, Toà án các cấp phải tiến hành thực thi nghiêm chỉnh, chính xác, kịp thời và tổ chức rút kinh nghiệm công tác xét xử thường xuyên, liên tục. 2.5. Nâng cao trình độ và phẩm chất của đội ngũ cán bộ, Thẩm phán xét xử. Trong hoạt động của Toà án, Thẩm phán giữ một vị trí trung tâm, quyết định hiệu quả của hoạt động xét xử. Để nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tài phán kinh tế, Nhà nước đã có chủ trương chuyên môn hoá nghiệp vụ xét xử bằng cách bồi dưỡng và đào tạo Thẩm phán theo chuyên ngành. Để được bổ nhiệm làm Thẩm phán kinh tế, ngoài việc phải có đủ điều kiện theo quy định tại điều 37 Luật tổ chức TAND năm 1992 và Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội Thẩm TAND, họ cần phải trải qua các lớp tập huấn, bồi dưỡng về pháp luật kinh tế. Trong quá trình lựa chọn cán bộ để trình lên Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán kinh tế, các hội đồng tuyển chọn Thẩm phán đã ưu tiên và chú trọng đến những cán bộ có thêm bằng đại học kinh tế, tài chính. Tuy nhiên, tình hình thực trạng đội ngũ Thẩm phán kinh tế hiện nay cho thấy cần phải có giải pháp tổng thể về công tác đào tạo mới có thể sớm khắc phục tình trạng trên. Xét xử các tranh chấp kinh tế là một vấn đề mới và phức tạp. Ngoài việc nắmvững luật nội dung (pháp luật HĐKT) và luật hình thức (luật tố tụng kinh tế), người Thẩm phán phải có kiến thức, hiểu biết nhất định về các lĩnh vực kinh tế, tài chính, thương mại, ngân hàng, bảo hiểm...thì mới có thể đưa ra những phán quyết chính xác. Kinh nghiệm giải quyết những tranh chấp kinh tế ở một số nước cho thấy: Thẩm phán kinh tế (Thẩm phán thương mại) phải là những thương gia (như ở Pháp) hoặc là những doanh nghiệp, nhà kinh tế (như ở Anh, Đức). Do đó, để nâng cao chất lượng xét xử các tranh chấp kinh tế, phù hợp với thông lệ chung, ngoài các quy định chung về tiêu chuẩn Thẩm phán, cần bổ sung thêm tiêu chuẩn có bằng đại học về kinh tế và khoa học tự nhiên hoặc chứng chỉ về các lớp bồi dưỡng, tập huấn pháp luật kinh tế đối với Thẩm phán kinh tế. Giải pháp trước mắt là cần tổ chức tốt các lớp bồi dưỡng cán bộ Toà án dự kiến bổ nhiệm làm Thẩm phán kinh tế tại trung tâm đào tạo Thẩm phán thuộc trường Đại học Luật Hà Nội. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm TAND đưa ra các quy định về tiêu chuẩn, yêu cầu để được bổ nhiệm làm thẩm phán TAND các cấp (trình độ, thời gian công tác, tư cách đạo đức)... về bản chất chưa hàm chứa được yêu cầu đáp ứng sự kế thừa và luân chuyển của đội ngũ Thẩm phán ở nước ta. Các tiêu chuẩn dòi hỏi để được bổ nhiệm làm thẩm phán TAND cấp huyện, cấp tỉnh và TANDTC chỉ khác biệt cơ bản về thời gian công tác 4 năm trở lên đối với Thẩm phán cấp huyện, từ 6 năm trở lên đối với Thẩm phán cấp tỉnh, 8 năm đối với Thẩm phán TANDTC. Theo các nhà nghiên cứu luật học, nên sửa đổi theo trình tự bổ nhiệm từ dưới lên trên, từ thấp lên cao. Để được bổ nhiệm làm Thẩm phán cấp tỉnh, đòi hỏi cán bộ đó là Thẩm phán cấp huyện hoặc bắt buộc phải công tác tại Toà án cấp huyện từ 3 đến 5 năm. Đối với Thẩm phán TANDTC phải là người đã làm Thẩm phán TAND cấp tỉnh hoặc công tác tại Toà án cấp tỉnh từ 4 đến 6 năm. Quy trình này sẽ tạo ra được một sự luân chuyển độị ngũ Thẩm phán một cách khoa học, hợp lý, tạo điều kiện tăng cường kiến thức thực tiễn và nghiệp vụ xét xử của người Thẩm phán. Sự trưởng thành từ cơ sở và trải qua các cấp của Toà án từ thấp lên cao, bản thân nó đã là cả một quá trình chọn lọc, đào thải khắt khe đối với người Thẩm phán. Cũng cần chú ý tới việc nâng cao tiêu chuẩn về chính trị và đạo đức nghề nghiệp cho các thẩm phán kinh tế, khi đề bạt các chức vụ lãnh đạo trong các Toà án các cấp, cần chú ý đến quan điểm chính trị, nhân cách, văn hoá nghề nghiệp, lối sống... của các Thẩm phán bên cạnh yếu tố trình độ chuyên môn và kinh nghiệm trong thực tiễn công tác. Vấn đề trình độ và năng lực của đội ngũ Hội thẩm nhân dân cũng cần được quan tâm. Hội thẩm là một chế định quan trong thể hiện tính chất dân chủ trong hoạt động xét xử của Toà án. Chế định Hội thẩm đã được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân ngày 26/05/1993 đã đặt những cơ sở pháp lý cho quá trình đổi mới công tác Hội thẩm. Theo Điều 17 PLTTGQCVAKT, thành phần Hội đồng xét xử án kinh tế gồm 2 Thẩm phán và 1 Hội thẩm, tức là số lượng Hội thẩm ít hơn 1 người so với Hội đồng xét xử án dân sự, hình sự. Quy định như vậy là hợp lý, bởi mục đích cơ bản của việc giải quyết tranh chấp kinh tế là đảm bảo quyền lợi về kinh tế cho các bên tham gia tố tụng, nên không đòi hỏi cao sự tham gia của xã hội (do Hội thẩm đại diện). Thành phần Hội đồng xét xử, do đó có thể nâng cao tính chuyên nghiệp của việc giải quyết các vụ án kinh tế khi trên thực tế, trình độ kiến thức pháp lý, nghiệp vụ xét xử của đội ngũ Hội thẩm hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu của việc tham gia xét xử các tranh chấp kinh tế ngày càng đa dạng và phức tạp cùng với đội ngũ Thẩm phán chuyên nghiệp. Đối với Hội thẩm, ngoài các quy định hiện hành, cần đáp ứng một số yêu cầu cho phù hợp với nội dung cải cách tư pháp và thực tiễn hoạt động sôi nổi của kinh tế thị trường hiện nay. Các Hội thẩm nên chăng đã là các nhà doanh nghiệp, hoặc thành viên ban điều hành công ty là cán bộ quản lý kinh tế hoặc các thương gia. Họ cũng phải có kinh nghiệm làm công tác quản lý kinh tế, hoặc tham gia điều hành sản xuất kinh doanh từ 3-5 năm. Có như vậy thì đội ngũ Hội thẩm mới có thể có những hiểu biết tương đối sâu sắc về các lĩnh vực kinh tế, quản trị kinh doanh và nắm vững đựoc một số quy định cơ bản của pháp luật kinh tế, nhằm đảm bảo cho tư cách tham gia xét xử và góp phần làm cho bản án của Toà án kinh tế đúng đắn và có sức thuyết phục. Kết luận Cũng như các chế định tài phán khác, chế định tài phán trong kinh doanh có vai trò quan trọng bởi nó góp phần điều chỉnh và hoàn thiện các hoạt động kinh tế trong một nền kinh tế thị trường mở cửa ngày càng sôi động và đa dạng. Trong thời đại toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò ấy càng được nhấn mạnh bởi một trong những xu thế phát triển cơ bản của pháp luật các nước là quốc tế hoá, là sự tăng cường ảnh hưởng của yếu tố bên ngoài đến sự phát triển của hệ thống pháp luật quốc gia. Pháp luật tài phán kinh tế trực tiếp chịu ảnh hưởng của xu thế này, vì chỉ có nó mới tạo ra được một môi trường pháp lý về giải quyết tranh chấp hoàn thiện, tạo nhiều thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Điều chỉnh và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế nói riêng và đẩy mạnh công cuộc Đổi mới tư pháp nói chung không chỉ là yêu cầu của tương lai mà còn là vấn đề bức xúc trong hiện tại. Thực tiễn xét xử đă chỉ rõ những bất cập của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế; những lúng túng, sai sót, nhầm lẫn trong việc áp dụng pháp luật ở các Toà án kinh tế; sự mơ hồ, thiếu hiểu biết về pháp luật của các chủ thể kinh doanh và sự giảm sút niềm tin vào quy trình xét xử bằng con đường Toà án của các doanh nghiệp trong và ngòai nước. Việc xây dựng một khung pháp luật tài phán kinh tế hoàn chỉnh và đồng bộ, do đó, chính là một thách thức và cũng là một cơ hội lớn cho các nhà hoạch định chính sách và làm luật Việt Nam. ý thức được vai trò to lớn đó của pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế, Đảng và Nhà nước đã không ngừng nhấn mạnh, khẳng định và chỉ đạo công cuộc Đổi mới tư pháp, trong đó có sửa đổi và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế. Các cơ quan tư pháp, hành pháp cũng đưa ra các công trình nghiên cứu, tổ chức nhiều cuộc hội thảo trong nước và quốc tế về vấn đề này. Và sự ra đời của khoá luận này cũng chính là để thể hiện mong muốn của người viết, được đóng góp vào nỗ lực chung nhằm điều chỉnh những bất cập của chế định về tài phán trong kinh doanh. Khóa luận mới chỉ là những kết quả nghiên cứu bước đầu về thực trạng hoạt động giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án ở nước ta cùng những khó khăn của nó. Tác giả cũng đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp với mong muốn những giải pháp này sẽ được áp dụng phần nào hoặc có giá trị gợi mở cho quá trình sửa đổi pháp luật tài phán kinh tế. Với đường lối chỉ đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, với nỗ lực không ngừng của các cơ quan và cán bộ tư pháp, có thể thấy mặc dù thực tiễn xét xử hiện nay cho thấy con đường giải quyết tranh chấp bằng Toà án còn nhiều khúc mắc, nhiều bất lợi, song chắc chắn cơ chế tài phán kinh tế đang và sẽ ngày càng hoàn thiện nhằm tạo ra một sự tương thích nhất định với pháp luật quốc tế và tập quán thương mại quốc tế, hỗ trợ đắc lực cho một nền kinh tế nhỏ bé song năng động và phức tạp, cho xu thế hội nhập kinh tế thế giới. Tài liệu tham khảo Tính đặc thù trong thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, lao động, những vấn đề lý luận và thực tiễn, Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ, TANDTC, 2001 Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại, Nguyễn Thị Mơ-Hoàng Ngọc Thiết, Trường đại học Ngoại thương Hà Nội, 1997. HĐKT và các chế định tài phán trong kinh doanh tại Việt Nam, Bùi Thị Khuyên- Phạm Văn Phấn- Phạm Thị Thuỳ Dương-NXB Thống kê, 2000 Giáo trình Tư pháp quốc tế, Trường đại học Luật Hà Nội Giải quyết tranh chấp bằng Toà án, Đào Văn Hội, NXB giáo dục, 1999 HĐKT và giải quyết tranh chấp kinh tế, Toà kinh tế TAND TPHCM, NXB TPHCM, 1999 Tìm hiểu thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế và thi hành án, Lê Kim Quế, NXB chính trị quốc gia, 2002 Thông tin khoa học pháp lý, Bộ tư pháp, 2000- 2001 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng cộng sản Việt Nam, NXB chính trị quốc gia, 2001. Các báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án từ năm 1994-2001 Một số vụ án từ trích lục của TAND thành phố Hà Nội Pháp lệnh HĐKT 25/09/1989 PLTTGQCVAKT 16/03/1994 Luật thương mại Việt Nam 1997 Bộ luật dân sự Việt Nam 1995 Luật doanh nghiệp Việt Nam 1999 Thông tư liên ngành số 04/ TTLN ngày 07/01/1995 của TANDTC –VKSNDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của PLTTGQCVAKT. Thông tư liên ngành số 04/ TTLN ngày 26/08/1996 hướng dẫn áp dụng Điều 12 PLTTGQCVAKT. Công văn số 11/ KHXX ngày 23/01/1996 của TANDTC hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế. Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, các số từ 1995-2002 Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, các số từ 1996-2002 Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ tư pháp, các số năm 1997-2002 Tạp chí TAND, TANDTC, các số từ 1996-2002 Tạp chí Thương mại, Bộ thương mại, các số từ 1999-2002 Tạp chí Pháp lý, Trung ương Hội luật gia Việt Nam, các số năm 2002 Tạp chí Kiểm sát, VKSNDTC, các số năm 2001, 2002 Báo Công lý, TANDTC, các số năm 2002 Báo Pháp luật, Bộ tư pháp, các số năm 2002

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKLTN- Trieu Thu Huyen.DOC
  • docBia khoa luan.doc
Tài liệu liên quan