Vấn đề có liên quan mật thiết với thời
hiệu thanh tra lại là một cuộc thanh tra có
thể bị thanh tra lại mấy lần. Pháp luật thanh
tra hiện hành không quy định việc thanh tra
lại được tiến hành chỉ một lần hay có thể
nhiều hơn. Chẳng hạn, đối với hoạt động do
Thanh tra huyện tiến hành có thể bị thanh
tra lại bởi Thanh tra tỉnh, sau đó Thanh tra
bộ được thanh tra lại kết quả làm việc của
Thanh tra tỉnh, một lần nữa Thanh tra Chính
phủ có thể thanh tra lại nội dung này. Do
không quy định số lần thanh tra lại nên sự
việc thanh tra sẽ diễn tiến lâu dài cho đến
khi cơ quan cuối cùng là Thanh tra Chính
phủ thực hiện thì mới chấm dứt. Nếu căn
cứ vào thời hiệu thanh tra lại để xác định
khi nào dừng việc thanh tra lại cũng không
được. Bởi lẽ pháp luật quy định chung
chung rằng, thời hiệu này tính từ ngày kết
15 Do Nghị định số 86/2011/NĐ-CP quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành chung cho Luật Thanh tra năm 2010 chứ không
phải chỉ hướng dẫn về thanh tra hành chính.
16 Khoản 3 Điều 156 Luật Ban hành VBQPPL 2015.
luận thanh tra mà không làm rõ là kết luận
thanh tra lần đầu hay kết luận của bất kỳ lần
thanh tra lại nào sau đó. Trong khi đó. một
quy trình mang tính tố tụng như thanh tra
cần có điểm dừng hợp lý để kết thúc. Ngoài
ra, nguồn lực thanh tra luôn hạn chế, hàng
năm không thể thực hiện được việc thanh
tra tất cả các đối tượng thuộc quyền quản lý
của mình mà chỉ mang tính xác suất, do đó,
cần tập trung để thực hiện các hoạt động sao
cho thiết thực, hiệu quả hơn, tránh tình trạng
dồn lực lượng thanh tra lặp lại nhiều lần với
cùng một đối tượng và cùng một nội dung.
Vì vậy, theo chúng tôi, cần sửa đổi
Luật Thanh tra năm 2010 theo hướng quy
định chính thức về thời hiệu thanh tra lại là
01 năm đối với hoạt động thanh tra chuyên
ngành và 02 năm đối với hoạt động thanh tra
hành chính. Ngoài ra, cần bổ sung quy định
về thời hiệu thanh tra lại được tính từ ngày
ký kết luận thanh tra của lần thanh tra đầu
tiên. Các hoạt động thanh tra lại có thể được
thực hiện nhiều lần bởi nhiều cơ quan nhưng
phải trong thời hiệu này.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 244 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số bất cập trong quy định về hoạt động thanh tra lại và kiến nghị hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH VỀ HOẠT ĐỘNG
THANH TRA LẠI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
Tóm tắt:
Các quy định điều chỉnh đối với hoạt động thanh tra lại hiện nay
đang tồn tại một số điểm bất cập trên cả phương diện lý luận,
thẩm quyền và thời hiệu tiến hành, đã làm ảnh hưởng đáng kể
đến kết quả thanh tra. Về lý luận, không xác định được thanh tra
lại thuộc loại hình nào của thanh tra nhà nước. Về thẩm quyền,
việc thanh tra lại chưa bao phủ đối với tất cả các kết quả thanh
tra. Bên cạnh đó, pháp luật thanh tra chưa có quy định đầy đủ cho
quy trình tiến hành một cuộc thanh tra lại. Do đó, cần phải nghiên
cứu, hoàn thiện các quy định của pháp luật thanh tra, đặc biệt là
Luật Thanh tra về những vấn đề này.
Nguyễn Nam Phương*
Võ Nguyễn Nam Trung**
* ThS GV. Khoa Luật - Trường Đại học Cần Thơ.
** ThS GV. Khoa Luật - Trường Đại học Cần Thơ.
Abstract
There are a lot of shortcomings of the regulations on re-
inspection activities. Such shortcomings are in terms of both
theory, authority and time limitation for re-inspection, which
have significantly affected the inspection results. In theory, it
is not possible to classify the re-inspection to any type of the
state inspection. In terms of authority, the re-inspection does not
cover all inspection results. In addition, the legal regulations on
inspection do not provide sufficient provisions for process of
conducting re-inspection. Therefore, it is necessary to review
for further improvement of the legal regulations on inspection,
especially the Law on Inspection.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Luật thanh tra, thanh tra nhà
nước, thanh tra lại.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 14/12/2018
Biên tập : 22/09/2019
Duyệt bài : 23/09/2019
Article Infomation:
Keywords: law on inpsection, state
inspection, re-inspection.
Article History:
Received : 14 Dec. 2019
Edited : 22 Sep. 2019
Approved : 23 Sep. 2019
Hoạt động thanh tra có tính chất tài phán do kết quả thanh tra là đánh giá sự tuân thủ pháp luật của đối
tượng thanh tra, xử lý hoặc kiến nghị xử
lý những vi phạm pháp luật (VPPL). Các
hoạt động tài phán đều có cơ chế xem xét
lại phán quyết như việc phúc thẩm lại bản
án sơ thẩm trong hoạt động xét xử hay
giải quyết khiếu nại, khiếu kiện đối với
quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Đối với thanh tra, cơ chế để kiểm tra tính
chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra,
quyết định xử lý sau thanh tra là hoạt động
thanh tra lại.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
35Số 19(395) T10/2019
Thuật ngữ “phúc tra” trong Pháp lệnh
Thanh tra năm 1990 là dùng để chỉ các hoạt
động mà hiện nay được hiểu là thanh tra lại1.
Sau khi Pháp lệnh này hết hiệu lực, Luật
Thanh tra năm 2004 không quy định thẩm
quyền kiểm tra lại kết quả thanh tra cho cơ
quan quản lý nhà nước cùng cấp hoặc cơ
quan thanh tra cấp trên như quy định trước
đó. Hoạt động phúc tra được khôi phục ở
Luật Thanh tra năm 2010 với tên gọi chính
thức là thanh tra lại. Luật Thanh tra năm
2010 dành 04 Điều để quy định về hoạt động
này và Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày
22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật
Thanh tra; Nghị định số 07/2012/NĐ-CP
09/02/2012 của Chính phủ quy định về cơ
quan được giao thực hiện chức năng thanh
tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra
chuyên ngành hướng dẫn thêm ở 11 Điều.
Các quy định này là cơ sở để kiểm tra tính
chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra
và quyết định xử lý sau thanh tra. Tuy nhiên,
các quy định hiện nay còn nhiều điểm chưa
đầy đủ, chưa hợp lý như sau:
Thứ nhất, chưa xác định rõ thanh
tra lại thuộc loại hình thanh tra hành chính
hay thanh tra chuyên ngành trong hoạt động
thanh tra nhà nước.
Thứ hai, chưa đảm bảo được nguyên
tắc tất cả các kết luận thanh tra đều thuộc
diện có thể bị thanh tra lại.
Thứ ba, chưa quy định số lần thanh tra
lại đối với cùng một vụ việc.
1 Xem các Điều 11, 17, 21 Pháp lệnh Thanh tra năm 1990.
2 Điều 1 Luật Thanh tra năm 2010.
3 Khoản 1 Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010.
4 Khoản 2 Điều 3 và Điều 18, 19, 24, 25 Luật Thanh tra năm 2010.
5 Điểm a khoản 2 Điều 15 Luật Thanh tra năm 2010.
6 Điểm đ khoản 5 Điều 2 Nghị định số 50/2018/NĐ-CP ngày 09/4/2018 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ.
7 Điều 20 Luật Thanh tra năm 2010.
1. Loại hình của thanh tra lại
Luật Thanh tra năm 2010 quy định
về tổ chức, hoạt động thanh tra nhà nước
và thanh tra nhân dân2. Thanh tra lại là một
phần trong các hoạt động thanh tra nhà nước
bởi chủ thể tiến hành là các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Về loại hình, thanh tra
nhà nước chỉ bao gồm thanh tra hành chính
và thanh tra chuyên ngành3. Vấn đề đặt ra là
thanh tra lại không thuộc loại hình nào trong
hai loại hình của thanh tra nhà nước.
Đối tượng của hoạt động thanh tra
hành chính là các cơ quan, tổ chức, cá nhân
có quan hệ trực thuộc hoặc thuộc quyền
quản lý trực tiếp4. Thanh tra lại không thuộc
loại hình thanh tra hành chính, đối tượng
của thanh tra lại thường không có quan hệ
về mặt trực thuộc (ví dụ, Thanh tra Chính
phủ tiến hành thanh tra hành chính đối với
Đài truyền hình Việt Nam là cơ quan thuộc
Chính phủ)5. Trong hoạt động thanh tra lại,
Thanh tra Chính phủ tiến hành thanh tra vụ
việc đã được Chánh Thanh tra tỉnh kết luận
nhưng phát hiện có dấu hiệu VPPL6. Các
đối tượng thuộc quyền tiến hành thanh tra
của Thanh tra tỉnh bao gồm cơ quan chuyên
môn thuộc Ủy ban nhân dân (UBND) cấp
tỉnh, UBND cấp huyện và doanh nghiệp
nhà nước do Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết
định thành lập7. Các đối tượng này có quan
hệ trực thuộc đối với UBND cấp tỉnh chứ
không có quan hệ trực thuộc đối với Thanh
tra Chính phủ hay Chính phủ. Về nội dung,
cơ quan có thẩm quyền thanh tra lại được
tiến hành kiểm tra kết luận thanh tra của
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
36 Số 19(395) T10/2019
cấp dưới mà không phân biệt kết luận đó là
của cuộc thanh tra hành chính hay thanh tra
chuyên ngành. Ví dụ: Thanh tra Chính phủ
kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết
luận thanh tra và quyết định xử lý sau thanh
tra của Bộ trưởng khi cần thiết8 mà kết luận
hay xử lý của Bộ trưởng có thể mang nội
dung chuyên ngành.
Thanh tra lại cũng không thuộc loại
hình thanh tra chuyên ngành. Hoạt động
thanh tra lại do nhiều cơ quan thực hiện trong
đó có cả Thanh tra Chính phủ và Thanh tra
tỉnh. Tuy nhiên, hai cơ quan này không có
thẩm quyền thực hiện hoạt động thanh tra
chuyên ngành do thanh tra chuyên ngành
phải được thực hiện bởi các cơ quan quản lý
nhà nước theo ngành, lĩnh vực9.
Từ phân tích trên, có thể thấy rằng,
mặc dù là thanh tra nhà nước, hoạt động
thanh tra lại có đặc thù riêng, mang tính chất
kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới đã
vượt khỏi khuôn khổ thanh tra hành chính
và thanh tra chuyên ngành. Do đó, cần xác
định, đây là loại hình thanh tra riêng biệt
nhằm kiểm tra lại hoạt động của thanh tra
hành chính và thanh tra chuyên ngành. Xuất
phát từ sự lẫn lộn giữa các loại hình như vậy
mà pháp luật thanh tra đã thiếu sót trong các
quy định về thẩm quyền, thủ tục của thanh
tra lại. Do đó, chúng tôi kiến nghị sửa đổi
câu cuối của khoản 1 Điều 3 Luật Thanh tra
năm 2010 thành: “thanh tra nhà nước bao
gồm thanh tra hành chính, thanh tra chuyên
ngành và thanh tra lại”.
2. Thẩm quyền thanh tra lại
Thứ nhất, đang thiếu đồng bộ giữa
Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản
hướng dẫn. Luật Thanh tra năm 2010 quy
8 Điểm d khoản 2 Điều 15 Luật Thanh tra năm 2010.
9 Khoản 3 Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010.
10 Điểm b khoản 2 Điều 16 Luật Thanh tra năm 2010.
định, cơ quan thanh tra cấp trên được thanh
tra lại đối với vụ việc đã được thủ trưởng cơ
quan quản lý nhà nước cấp dưới kết luận mà
không quy định việc thanh tra lại đối với kết
luận của thủ trưởng cơ quan thanh tra cấp
dưới. Chẳng hạn, Tổng Thanh tra Chính phủ
quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Bộ
trưởng kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu
VPPL khi được Thủ tướng Chính phủ giao;
quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Chủ
tịch UBND cấp tỉnh kết luận nhưng phát
hiện có dấu hiệu VPPL10. Tuy nhiên, khoản 2
Điều 47 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày
22/9/2011 của Chính phủ bổ sung đối tượng
của thanh tra lại bao gồm cả kết luận của thủ
trưởng cơ quan thanh tra cấp dưới là Chánh
Thanh tra bộ và Chánh Thanh tra tỉnh. Theo
đó, “Tổng Thanh tra Chính phủ quyết định
thanh tra lại vụ việc đã được Bộ trưởng kết
luận nhưng phát hiện có dấu hiệu VPPL khi
được Thủ tướng Chính phủ giao; quyết định
thanh tra lại vụ việc đã được Chủ tịch UBND
cấp tỉnh, Chánh Thanh tra Bộ, Chánh Thanh
tra tỉnh kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu
VPPL”. Các quy định về thẩm quyền thanh
tra lại của Thanh tra bộ, Thanh tra tỉnh cũng
tương tự. Chúng tôi cho rằng, để đảm bảo
tính khả thi của Luật Thanh tra, đồng thời
bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp
luật, cần sửa đổi Luật Thanh tra năm 2010
theo hướng quy định cơ quan thanh tra cấp
trên được quyền thanh tra lại đối với kết
luận của thủ trưởng cơ quan thanh tra và thủ
trưởng cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới.
Thứ hai, thiếu quy định việc thanh tra
lại đối với kết luận thanh tra, quyết định xử
lý sau thanh tra của thủ trưởng cơ quan được
giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên
ngành thuộc Tổng cục hoặc thuộc Cục.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
37Số 19(395) T10/2019
Điều 33 Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày
09/02/2012 của Chính phủ khi quy định
về cơ quan được giao thực hiện chức năng
thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh
tra chuyên ngành quy định Chánh Thanh tra
bộ quyết định thanh tra lại vụ việc đã được
Tổng cục trưởng, Cục trưởng thuộc bộ kết
luận khi được Bộ trưởng giao hoặc Chánh
thanh tra sở quyết định thanh tra lại vụ việc
đã được Chi cục trưởng thuộc sở kết luận khi
được Giám đốc sở giao. Như vậy, Luật Thanh
tra năm 2010 và Nghị định số 07/2012/NĐ-
CP chưa quy định đối với trường hợp hoạt
động thanh tra do các Chi cục thuộc Cục,
Cục thuộc Tổng cục tiến hành thì cơ quan
nào sẽ thanh tra lại. Đối với quy định cụ
thể ở các nghị định về thanh tra ngành, lĩnh
vực như nghị định về thanh tra ngành nông
nghiệp và phát triển nông thôn, thanh tra
ngành nội vụ lại có những quy định khác
nhau. Có nghị định quy định về việc giao
cho Cục, Tổng cục được thanh tra lại đối với
kết quả thanh tra của cơ quan cấp dưới; có
một số nghị định lại không quy định. Điểm
a, b khoản 1 Điều 19 Nghị định số 82/2012/
NĐ-CP ngày 09/10/2012 của Chính phủ
quy định về tổ chức và hoạt động thanh tra
ngành tài chính quy định Tổng cục trưởng
quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Cục
trưởng cục thuộc Tổng cục kết luận nhưng
phát hiện có dấu hiệu VPPL; Cục trưởng
Cục thuế quyết định thanh tra lại vụ việc đã
được Chi cục trưởng Chi cục thuế kết luận
nhưng phát hiện có dấu hiệu VPPL. Khoản 2
Điều 4 Nghị định số 126/2013/NĐ-CP ngày
24/12/2013 của Chính phủ quy định về tổ
chức và hoạt động thanh tra ngành kế hoạch
và đầu tư quy định cơ quan được giao thực
hiện chức năng thanh tra chuyên ngành lĩnh
11 Điểm b khoản 2 Điều 19 Luật Thanh tra năm 2010.
vực kế hoạch và đầu tư bao gồm Tổng cục
Thống kê và Cục thống kê. Tuy nhiên, về
thẩm quyền thanh tra lại, khoản 1 Điều 27
Nghị định này chỉ quy định Chánh Thanh tra
Bộ Kế hoạch và Đầu tư quyết định thanh tra
lại vụ việc đã được Tổng cục trưởng Tổng
cục Thống kê, Chủ tịch UBND cấp tỉnh kết
luận thuộc phạm vi, thẩm quyền quản lý nhà
nước của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Tương tự
như đối với thẩm quyền của Thanh tra bộ,
chúng tôi cho rằng, nên giao cho Cục được
thanh tra lại đối với hoạt động thanh tra do
các Chi cục trực thuộc thực hiện và Tổng cục
được thanh tra lại đối với hoạt động thanh
tra do Cục trực thuộc thực hiện. Tương ứng
với nó là thẩm quyền ra quyết định thanh tra
lại của Cục trưởng, Tổng cục trưởng.
Thứ ba, thẩm quyền thanh tra lại của
Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh chưa
hợp lý. Thẩm quyền ra quyết định thanh tra
lại và đối tượng bị thanh tra lại được xác
định theo mối quan hệ cấp trên, cấp dưới
hoặc chịu sự quản lý chứ không chú trọng
đến nội dung sẽ bị thanh tra lại trong mối
quan hệ với thẩm quyền của cơ quan tiến
hành. Điều này dẫn đến có sự mâu thuẫn
nhất định trong hoạt động thanh tra lại và
quan trọng hơn là sẽ rất khó khăn trong việc
thực hiện hoạt động này. Thậm chí, có thể
làm mất đi hiệu quả và ý nghĩa của hoạt
động thanh tra lại bởi không nắm được về
hoạt động chuyên môn. Đơn cử, theo quy
định hiện nay, Thanh tra bộ chỉ được thanh
tra lại vụ việc đã được cơ quan được giao
thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành
thuộc Bộ hoặc Thanh tra tỉnh thực hiện khi
phát hiện có dấu hiệu VPPL nếu trong phạm
vi quản lý nhà nước của Bộ11. Do đó, hoạt
động thanh tra do Thanh tra sở thực hiện chỉ
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
38 Số 19(395) T10/2019
do Thanh tra tỉnh tiến hành thanh tra lại12.
Trong khi đó, về hoạt động thanh tra, Thanh
tra sở được thực hiện cả hoạt động thanh
tra hành chính và thanh tra chuyên ngành13.
Vấn đề đặt ra là, nếu hoạt động do Thanh
tra sở thực hiện là thanh tra chuyên ngành
thì việc thanh tra lại thuộc thẩm quyền của
Thanh tra tỉnh sẽ bất hợp lý. Xét về phạm vi
quản lý nhà nước, Thanh tra tỉnh là cơ quan
quản lý nhà nước trong phạm vi thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống
tham nhũng thì lẽ dĩ nhiên nội dung cuộc
thanh tra chuyên ngành trước đó do Thanh
tra sở thực hiện không nằm trong phạm vi
quản lý của Thanh tra tỉnh. Trên hết, Bộ cấp
trên chủ quản về ngành, lĩnh vực là cơ quan
có phạm vi quản lý phù hợp và chuyên môn
sâu hơn, đảm bảo cho việc thanh tra lại đối
với các cuộc thanh tra chuyên ngành hiệu
quả hơn. Theo chúng tôi, cần bổ sung thẩm
quyền thanh tra lại của Thanh tra bộ đối với
các hoạt động thanh tra chuyên ngành của
Thanh tra sở bên cạnh Thanh tra tỉnh. Đồng
thời, nhằm tránh tình trạng xung đột thẩm
quyền giữa Thanh tra bộ và tỉnh, nên quy
định cơ quan nào ra quyết định thanh tra lại
trước thì có thẩm quyền tiến hành đối với
cùng một vụ việc.
Thứ tư, hoạt động thanh tra do Thanh
tra Chính phủ tiến hành không thuộc diện
được thanh tra lại. Mặc dù Thanh tra Chính
phủ là cơ quan thanh tra cấp cao nhất nhưng
việc quy định kết luận thanh tra của cơ quan
này không bị thanh tra lại là rất bất hợp lý.
Như đã trình bày, một hoạt động tài phán
cần có cơ chế kiểm tra lại để đảm bảo có
thể khắc phục được những sai sót có thể xảy
ra. Trước đây, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ
12 Điểm b khoản 2 Điều 22 Luật Thanh tra năm 2010; khoản 3 Điều 47 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP; khoản 1 Điều 33
Nghị định số 07/2012/NĐ-CP.
13 Điều 24 Luật Thanh tra năm 2010.
14 Trang thông tin điện tử của Báo Thanh tra, Kết luận của Thanh tra Chính phủ có cơ sở pháp lý,
thanh-tra/ket-luan-cua-thanh-tra-chinh-phu-co-co-so-phap-ly_t114c2n50427, truy cập ngày 08/10/2018.
đạo Bộ Tư pháp kiểm tra tính pháp lý của
Kết luận thanh tra trách nhiệm của Chủ tịch
UBND thành phố Đà Nẵng trong việc chấp
hành pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo
và phòng, chống tham nhũng, thanh tra một
số dự án đầu tư có liên quan đến việc quản
lý, sử dụng đất tại Kết luận số 2582/KL-
TTCP ngày 02/11/2012 của Tổng Thanh tra
Chính phủ khi có dư luận trái chiều về Kết
luận này14. Đây không phải là cuộc thanh
tra lại do Bộ Tư pháp tiến hành khi có dấu
hiệu trái pháp luật của kết luận thanh tra mà
chỉ là một kênh thông tin về mặt pháp lý
để Thủ tướng Chính phủ có thể chỉ đạo xử
lý sau thanh tra một cách chính xác, khách
quan và cũng để phần nào giải tỏa hoài nghi
của dư luận bằng ý kiến chuyên môn của Bộ
Tư pháp. Qua đó, chúng ta cũng thấy được
rằng, việc thanh tra lại là cần thiết dù trước
đó được tiến hành bởi cơ quan nào. Vì đây
là một cơ quan đặc thù - giữ vị trí cao nhất
trong hệ thống thanh tra nên cần có cơ chế
đặc biệt hơn chứ không nên đặt nó thành
một ngoại lệ khó được chấp nhận về mặt
pháp chế. Chúng tôi kiến nghị: đối với các
hoạt động thanh tra do Thanh tra Chính
phủ tiến hành được thanh tra lại khi có dấu
hiệu VPPL trong quá trình thanh tra, kết
luận thanh tra khi có ý kiến chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ. Tổng Thanh tra Chính
phủ ra quyết định thanh tra lại và thành lập
Đoàn thanh tra có thành viên khác so với
lần đầu do lãnh đạo Thanh tra Chính phủ
làm Trưởng đoàn; Nếu cuộc thanh tra lần
trước do Tổng Thanh tra Chính phủ làm
Trưởng đoàn thì Thủ tướng Chính phủ chỉ
đạo lãnh đạo bộ, cơ quan ngang bộ khác có
chuyên môn phù hợp với nội dung thanh tra
làm Trưởng đoàn.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
39Số 19(395) T10/2019
3. Thời hiệu thanh tra lại và số lần thanh
tra lại
Điều 50 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP
quy định thời hiệu thanh tra lại là 02 năm
kể từ thời điểm ký kết luận thanh tra. Quy
định này được hiểu là dành chung cho việc
thanh tra lại đối với cả hoạt động thanh tra
hành chính và hoạt động thanh tra chuyên
ngành15. Điều 36 Nghị định số 07/2012/
NĐ-CP quy định thời hiệu thanh tra lại đối
với hoạt động thanh tra chuyên ngành là 01
năm. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật (VBQPPL) năm 2015 quy định, khi có
xung đột nội dung giữa hai VBQPPL được
ban hành bởi cùng một cơ quan và có cùng
hiệu lực pháp lý thì áp dụng theo văn bản
được ban hành sau16. Theo đó, có thể hiểu
thời hiệu thanh tra lại đối với hoạt động
thanh tra hành chính là 02 năm, đối với hoạt
động thanh tra chuyên ngành là 01 năm tính
từ thời điểm ký kết luận thanh tra.
Vấn đề có liên quan mật thiết với thời
hiệu thanh tra lại là một cuộc thanh tra có
thể bị thanh tra lại mấy lần. Pháp luật thanh
tra hiện hành không quy định việc thanh tra
lại được tiến hành chỉ một lần hay có thể
nhiều hơn. Chẳng hạn, đối với hoạt động do
Thanh tra huyện tiến hành có thể bị thanh
tra lại bởi Thanh tra tỉnh, sau đó Thanh tra
bộ được thanh tra lại kết quả làm việc của
Thanh tra tỉnh, một lần nữa Thanh tra Chính
phủ có thể thanh tra lại nội dung này. Do
không quy định số lần thanh tra lại nên sự
việc thanh tra sẽ diễn tiến lâu dài cho đến
khi cơ quan cuối cùng là Thanh tra Chính
phủ thực hiện thì mới chấm dứt. Nếu căn
cứ vào thời hiệu thanh tra lại để xác định
khi nào dừng việc thanh tra lại cũng không
được. Bởi lẽ pháp luật quy định chung
chung rằng, thời hiệu này tính từ ngày kết
15 Do Nghị định số 86/2011/NĐ-CP quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành chung cho Luật Thanh tra năm 2010 chứ không
phải chỉ hướng dẫn về thanh tra hành chính.
16 Khoản 3 Điều 156 Luật Ban hành VBQPPL 2015.
luận thanh tra mà không làm rõ là kết luận
thanh tra lần đầu hay kết luận của bất kỳ lần
thanh tra lại nào sau đó. Trong khi đó. một
quy trình mang tính tố tụng như thanh tra
cần có điểm dừng hợp lý để kết thúc. Ngoài
ra, nguồn lực thanh tra luôn hạn chế, hàng
năm không thể thực hiện được việc thanh
tra tất cả các đối tượng thuộc quyền quản lý
của mình mà chỉ mang tính xác suất, do đó,
cần tập trung để thực hiện các hoạt động sao
cho thiết thực, hiệu quả hơn, tránh tình trạng
dồn lực lượng thanh tra lặp lại nhiều lần với
cùng một đối tượng và cùng một nội dung.
Vì vậy, theo chúng tôi, cần sửa đổi
Luật Thanh tra năm 2010 theo hướng quy
định chính thức về thời hiệu thanh tra lại là
01 năm đối với hoạt động thanh tra chuyên
ngành và 02 năm đối với hoạt động thanh tra
hành chính. Ngoài ra, cần bổ sung quy định
về thời hiệu thanh tra lại được tính từ ngày
ký kết luận thanh tra của lần thanh tra đầu
tiên. Các hoạt động thanh tra lại có thể được
thực hiện nhiều lần bởi nhiều cơ quan nhưng
phải trong thời hiệu này.
* **
Thanh tra là nội dung rất quan trọng
trong hoạt động quản lý nhà nước, đảm bảo
hiệu quả hoạt động thanh tra là góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động
quản lý nhà nước. Do đó, cần phải làm rõ
loại hình của thanh tra lại, xác định chính
xác nội dung liên quan đến nhiệm vụ, quyền
hạn cũng như cơ cấu tổ chức của các cơ
quan thanh tra nhà nước và cơ quan được
giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên
ngành. Trong đó cần phải tập trung sửa
đổi quy định của Luật Thanh tra, đảm bảo
tính thống nhất, toàn diện trong hệ thống
VBQPPL
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
40 Số 19(395) T10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_bat_cap_trong_quy_dinh_ve_hoat_dong_thanh_tra_lai_va.pdf