Một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh muối ở tổng công ty muối Việt Nam

- Để bình ổn giá cả trên thị trường muối, Nhà nước cần quy định một mức giá trần về muối. Bởi vì đề phòng khi giá quá cao gây nên các cơn sốt muối, thì Tổng công ty và người sản xuất bị thiệt hại nhiều nhất. Khi giá cao kéo dài, Tổng công ty bán với giá thị trường nhưng giá mua vào cũng cao do đó lợi nhuận thấp, vì thế Nhà nước cần hỗ trợ một lượng vốn để Tổng công ty có thể mua khi có nhu cầu. - Đối với muối Iốt bán cho các tỉnh miền núi, Nhà nước tiếp tục hỗ trợ cước phí vận chuyển, tiền công trộn Iốt, bao bì để dân cư miền núi có thể mua với mức giá thấp hơn ở đồng bằng. - Ngân sách dành cho phổ cập muối Iốt tạI miền núi nên giao trực tiếp cho các địa phương quản lý hoặc các cơ sở sản xuất muối Iốt quản lý. Giao trực tiếp ngân sách như vậy sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tại địa phương nhanh chóng điều hoà được cung cầu tại thị trường đó, giảm bớt những thủ tục phiền hà, thời gian vô ích khi các đơn vị thành viên đi xin kinh phí.

doc99 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1497 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh muối ở tổng công ty muối Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng. Để phát triển đảm bảo sản xuất, muối không bị thất thu hàng năm. Nhà nươc phải chi từ ngân sách nhằm cải tạo và nâng cấp đồng muối. Trong thời gian 20 năm nguồn vốn do ngân sách trung ương đã đầu tư vào ngành muối để khai hoang cải tạo và xây dựng cơ sở hạ tầng như sau: Đơn vị : triệu đồng Năm Sản lượng Năm Sản lượng 1972 12,700 1985 51,900 1973 13,200 1985 27,280 1974 11,500 1986 26,000 Năm Sản lượng Năm Sản lượng 1975 12,700 1987 51,000 1976 10,400 1988 893,000 1977 7,230 1989 995,000 1978 3,436 1990 1,717,000 1980 3,900 1991 682,000 1981 4,500 1992 3,650,000 1982 4,000 1993 1.620,000 1983 4,000 1994 13.980,000 1984 36.000 1995 16.918,000 (Nguồn số liệu: Phòng Xây dựng cơ bản Tổng công ty muối Việt nam.) Ngoài các nguồn vốn được nhà nước cấp còn có nguồn vốn do các doanh nghiệp và nhân dân đóng góp vào thực hiện. Tổng công ty đã đưa ra các chương trình cải tạo đồng muối bằng các nguồn nội lực, đó là các nguồn vốn được huy động từ bản thân doanh nghiệp và nhân dân nhưng nguồn vốn này còn manh mún chưa đáng kể. Nguồn vốn tự bổ xung của các doanh nghiệp và các hợp tác xã không đáng kể vì lợi nhuận thu được qua sản xuất và kinh doanh muối thấp. Vốn liên doanh với nước ngoài hầu như chưa có. Hiện nay chỉ có một liên doanh với nước ngoài để làm đồng muối Đồng Vua với sản lượng ban đầu 30 - 40.000 tấn/ năm. Việc đầu tư nâng cấp đồng muối chủ yếu dựa vào vốn Nhà nước khả năng tự đầu tư bằng tiền của diêm dân là không có. Vì lợi nhuận sản xuất muối là rất thấp, đời sống diêm dân còn khó khăn, nên các xí nghiệp quốc doanh có tạo được lợi nhuận song chỉ đủ trang trải các chi phí cần thiết cho sửa chữa thường xuyên. Do thiếu vốn đầu tư nên các đồng muối bị thu hẹp vì thiên tai làm mất diện tích, năng suất giảm vì các cơ sở hạ tầng bị hỏng không sửa chữa kịp thời. Trong điều kiện công nghiệp chưa phát triển lượng muối cung ứng vừa đủ cho nhu cầu ăn của dân không có lực lượng dự trữ cần thiết. Mấy năm gần đây khi thời tiết không thuận, tình trạng khan hiếm muối đã xảy ra. Nguồn vốn đầu tư tái trở lại cho ngành muối phải lấy từ các nguồn tợi do sản xuất kinh doanh mang lại. Do vậy để có vốn đầu tư vào các trang thiết bị công nghệ quá lạc hậu hiện nay thì Nhà nước phải có chính sách thuế thích hợp mà chủ yếu là thuế gián thu ( loại thuế lâu nay chưa được chú ý) d. Sự yếu kém trong khâu tổ chức kinh doanh muối. Tổng Công ty Muối và các doanh nghiệp trực thuộc thường thiếu năng động sáng tạo trong kinh doanh. Khả năng tiếp cận thị trường theo tư tưởng Marketing còn yếu. Tổng công ty chưa thành lập những kế hoạch được xác lập một các khoa học để định hướng kinh doanh cụ thể cho toàn bộ hay từng bộ phận. Đồng thời chưa có kế hoạch phân công thị trường giữa các doanh nghiệp trực thuộc. Vì thế năng lực cạnh tranh củaTổng công ty Muối kém so với tư thương từ khâu mua đến khâu bán lẻ. Lực lượng bố trí mạng lưới tiêu thụ của Tổng công ty trên địa bàn cả nước còn nhiều bất cập. Đáp ứng cung cấp muối Iốt cho toàn dân do các hệ thống các xí nghiệp muối Iốt quy hoạch đảm nhiệm các xí nghiệp đó lấy nguyên liệu tại các đồng muối qua chế biến tinh chế đóng gói và bán cho các đại lý, cửa hàng. Nước ta có 20 tỉnh sản xuất muối do đó có khoảng 40 tỉnh phải được cung cấp muối. Việc phân bố các xí nghiệp được trải đều khắp các tỉnh, song mạng lưới tiêu thụ còn rất nhiều bất cập ( có nơi qúa dày đặc). Trong quá trình vận chuyển gặp rất nhièu khó khăn nơi sản xuất quá xa nơi tiêu dùng do đó phải bố trí những tuyến đường chồng chéo gây tổn thất lớn về chi phí. Ngoài bán buôn Tổng công ty thực hiện phương châm bán lẻ tận tay người tiêu dùng. Tại các điểm sản xuất thực hiện bán tại chỗ nhằm hạ thấp chi phí vận chuyển, giảm giá thành . Tuy nhiên khả năng tiếp cận bán lẻ cho kế hoạch là rất thấp. Trên thực tế Hà nội có số lượng bán lẻ chỉ chiếm 20% còn lại 80% là bán buôn. Tổng công ty muối ở đây chỉ có lợi thế trên thị trường bán buôn nhờ có hệ thống nhà kho quy mô lớn hơn các doanh nghiệp tư nhân và tư thương. Mặc dù Tổng công ty đã có những chủ trương kế hoạch mở rộng thị trường, nhưng chưa có bộ phận Marketing chuyên nghiên cứu thị trường để hiểu sâu sắc thị trường, các yếu tố ảnh hưởng tới việc phát triển thị trường, chưa nghiên cứu thị hiếu, sở thích của khách hàng. e. Sự quản lý buông lỏng thị trường đầu ra và đầu vào của Tổng công ty muối Việt nam. Nguyên nhân làm cho thị trường muối có những biến động trong những năm qua đó chính là sự buông lỏng thị trường đầu vào và đầu ra của Tổng công ty Muối. Tổng công ty quản lý thị trường không chặt chẽ làm thị trường tư thương nổi lên bằng hoạt động đầu cơ tích trữ, chèn ép giá Tổng công ty bằng mọi cách, vì thế hoạt động kinh doanh của Tổng công ty kém hiệu quả. Trong quá trình huy động vốn kinh doanh Tổng công ty gặp rất nhiều khó khăn khi nhận định về cơ hội sắp tới thị trường sẽ khan hiếm muối, chính lúc đó đòi hỏi Tổng công ty phải có vốn để mua muối, bảo đảm dự trữ. Việc huy động vốn có rất nhiều bất cập vì cơ hội mua muối chỉ diễn ra trong thời gian rất ngắn. Nhưng Tổng công ty đệ trình xin hỗ trợ vốn để kịp thời mua lại phải chờ đợi phê duyệt mặt khác tính chất làm việc từ các cấp lãnh đạo chưa mang tính cập nhật với thị trường. Vì thế sau khi được cấp vốn thì thị trường đã bị các lực lượng khác “ vơ vét” hết. Ngược lại với Tổng công ty việc huy đông vốn của các thành phần kinh tế tư nhân hết sức dễ dàng. Với ưu điểm số vốn nhỏ, dễ cơ động, tư nhân lợi giá hạ, thu hoạch được mùa, họ sẽ tranh thủ mua các sản phẩm của diêm dân dùng để tích trữ khi có thời cơ tung sản phẩm ra thị trường sẽ bán với giá cao thu lợi nhuận. Đôi khi thương nhân lại bán với giá rẻ hơn giá Tổng công ty để chiếm lĩnh thị trường. Từ yếu tố thiếu vốn do không huy động kịp thời đã dẫn đến tình trạng hỗn loạn thị trường đầu vào. Tổng công ty không mua được sản phẩm trực tiếp của dân lại phải mua qua trung gian với giá cao. Trong các mặt hàng muối, muối Iốt chiếm sản lượng lớn nhất và được coi là mặt hàng chính của Tổng công ty gần đây đang bị cạnh tranh gay gắt. Chỉ vì chạy theo lợi nhuận một cách đơn thuần các doanh nghiệp tư nhân không từ một “ thủ đoạn” nào để giảm giá. Luồng muối Iốt đang được tiêu thu có khá nhiều muối giả hoặc không đạt tiêu chuẩn Nhà nước đặt ra. Chất lượng muối hoàn toàn không được đảm bảo : hàm lượng Iốt không đủ, quá cao hoặc quá thấp, bao bì mẫu mã làm “ nhái” lại của Tổng công ty, trọng lượng thiếu. Chính vì tận dụng tối đa công đoạn làm giả muối mà muối của tư thương mới rẻ hơn . Người tiêu dùng không biết đến điều đó cho nên một phần lớn muối Iốt giả vẫn được tiêu thu trên thị trường. Tổng công ty ngoài cạnh tranh mặt hàng muối nguyên liệu ( muối trắng) còn phải cạnh tranh với muối Iốt giả nên rất khó kiểm soát . Việc buông lỏng thị trường đầu vào là cơ sở gây khó khăn cho thị trường đầu ra, vì vậy kiểm soát thị trường muối đầu vào rất quan trọng nó ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu của Tổng công ty và lợi ích của toàn xã hội. Ngành muối mang nặng tính chất tự cung tự cấp cơ chế tổ chức và quản lý ngành muối lại thay đổi luôn luôn, tổ chức sản xuất mang tính phân tán chưa đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng trong nước cũng như ngoài nước. Hiện nay về muối tiêu dùng, Tổng công ty có thể đáp ứng khoảng 70% thị phần và 100% thị phần muối Iốt dùng cho miền núi nhưng thực tế Tổng công ty mới chỉ tham gia 30% thị phần muối tiêu dùng cả nước và 40% thị phần muối Iốt dùng cho miền núi. Phần lớn thị trường muối còn lại là do tư nhân kiểm soát. Như vậy thị trường của Tổng công ty đáp ứng nhu cầu còn quá thấp, chưa tương xứng với nguồn vốn phải bỏ ra, chưa gánh được trọng trách bảo đảm hiệu quả xã hội, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động . f. Chiến lược hậu mãi sau bán hàng triển khai chưa hiệu quả. Đối với mỗi một doanh nghiệp thương mại dịch vụ bán hàng và sau bán hàng vô cùng quan trọng. Một sản phẩm bao giừo cũng có giai đoạn phát triển dó cũng chính là giai đoạn nhà doanh nghiệp mở rộng các hình thức khuyến mãi, giới thiệu sản phẩm, quảng cáo sản phảm nhằm mục đích hấp dẫn lôi cuốn khách hàng. Chiến lược hậu mãi sau bán hàng nêú được thực hiện tốt thì vòng đời của sản phẩm sẽ được kéo dài , chắc chắn sẽ làm tăng doanh thu Tổng công ty Muối, đã có những phương hướng về các hoạt động dịch vụ sau khi hoàn thành sản phẩm, nhưng chưa nâng cao thành một chiến lược cụ thể chính vì thế mà hạn chế rất nhiều đến hiệu quả kinh doanh của Tổng công ty. Việc cản trở chiến lược hậu mãi sau bán hàng chính là sự cạnh tranh không đáng có gữa các thành viên trực thuộc Tổng công ty. Điều này đã vi phạm lý thuyết sự “ phân công thị trường” ( cả mua và bán). Điều đó phải ánh giữa các doanh nghiệp, xí nghiệp, chưa thực hiện giới hạn kinh doanh trong sự phân công chỉ đạo của Tổng công ty. Các doanh nghiệp này đã vi phạm thị trường truyền thống của từng đơn vị, thị trường mới khai thác bạn hàng quen thuộc... giữa các đơn vị kế hoạch kinh doanh không được tôn trọng, mà thị trường còn bị tranh giành chiếm lĩnh lẫn nhau. Vì thế các doanh nghiệp muối trực thuộc cần hoạt động kinh doanh trong phạm vị của mình. Tôn chỉ đó cần được các đơn vị thành viên thực hiện như là một đạo lý, đạo dức trong kinh doanh, trước hết như là giữa những anh em trong một gia đình lớn. Các đơn vị cùng phối hợp để chiếm lĩnh thị trường không canh tranh làm thiệt hại lẫn nhau, bán phá giá, để giành thị trường trong nội bộ Tổng công ty. Làm như vậy vô tình tạo sơ hở cho tư nhân ép giá, chen chân chiếm lĩnh thị trường gây thiệt hại chung cho toàn Tổng công ty. Đây là vấn đề mà cần thiết phải nâng lên như một quy chế để tạo ra một môi trường hoạt động kinh doanh lành mạnh từ trong hệ thống quản lý của Tổng công ty mà tất cả các đơn vị thành viên phải nghiêm chỉnh thực hiện. Từ sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp thành viên cho thấy sự phân cấp giao quyền, tính tự chịu trách nhiệm của các giám đốc đơn vị chưa cao . Họ phải đảm nhận các nhiệm vụ của Tổng công ty giao phó nhưng chưa phát huy được tính năng động trong kinh doanh, các doanh nghiệp hoàn toàn có thể tổ chức bán hàng theo phong cách của mình ví dụ: có hình thức khuyến mãi sản phẩm, giảm giá cho các kế hoạch lớn... nhưng phải tuân theo sự quản lý một chiều của Tổng công ty. Các doanh nghiệp thành viên vì chạy theo lợi nhuận, trong sự cạnh tranh khắc nghiệt của cơ chế thị trường họ đã tự “ chèn ép lẫn nhau” tạo ra môi trường kinh doanh thiếu lành mạnh, vô tình làm giảm hiệu quả kinh doanh của toàn ngành muối nói chung. Chương III Một số giảI pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh muối tạI tổng công ty muối Việt Nam I. Những quan đIểm chung cho các giảI pháp 1.Quan điểm 1 Cần phân định rõ nhiệm vụ kinh doanh và nhiệm vụ xã hội của Tổng Công ty Muối Việt Nam. Đối với Tổng Công ty Muối Việt Nam trong quá trình hoạt động phải thực hiện song song hai nhiệm vụ, nhiệm vụ kinh doanh và nhiệm vụ xã hội. Nhìn nhận từ phương diện khách quan, xét với doanh nghiệp nhà nước thì hai nhiệm vụ này liên quan chặt chẽ gắn bó và bổ xung, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Nhưng giữa chúng có danh giới và phân dịnh rõ ràng. Tổng Công ty Muối muốn tồn tại phát triển, cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, mục tiêu kinh doanh phải là lợi nhuận không ngừng nâng cao doanh thu giảm chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh trong cơ chế thị trường khắc nghiệt. Đặc thù của một doanh nghiệp nhà nước kinh doanh mặt hàng thiết yếu thì cùng với nhiệm vụ đảm baỏ mục tiêu kinh doanh là phải gánh vác nhiệm vụ xã hội. Các hoạt động công ích, nhiệm vụ xã hội mà Tổng Công Ty Muối phải thực hiện đó là phổ cập muối Iốt toàn dân, chống bệnh bướu cổ, góp phần bình ổn giá cả, điều hoà cung cầu muối trong cả nước. Đồng thời giải quyết công ăn việc làm cho hàng vạn lao động, nâng cao đời sống thu nhập của người sản xuất muối. Tổng Công ty còn đưa ra những khung giá thích hợp với tầng lớp dân cư nghèo miền núi. Đảm bảo an ninh ngành muối, bảo vệ lợi ích người sản xuất muối là nhiệm vụ rất quan trọng mà Nhà nước giao phó choTổng Công ty muối. Như vậy việc phân định hai nhiệm vụ kinh doanh và nhiệm vụ xã hội giúp cho Tổng Công ty có những kế hoạch kinh doanh phù hợp đồng thời xây dựng giải pháp hữu hiệu nhằm đạt được các chỉ tiêu kinh tế cao nhất. 2. Quan điểm 2 Phải có cơ chế quản lý thích hợp cho mỗi hoạt động. Theo quan điểm này hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích phải có cơ chế quản lý riêng. Như thế trong kinh doanh hai nhiệm vụ này có mục đích khác hẳn nhau, do đó từ cách nghiên cứu thị trường giá cả,... chính sách Marketing phải được tổ chức và quản lý khác nhau. Đối với Tổng Công ty muối muốn một lúc tồn tại hai cơ chế quản lý riêng rẽ thì rất khó thực hiện. Bởi vì nhiệm vụ xã hội và nhiệm vụ kinh doanh mặt hàng muối có khác nhau nhưng chúng lại bổ xung cho nhau. Chẳng hạn có đảm bảo được mục tiêu kinh doanh thì doanh nghiệp mới tồn tại và tiếp tục mục tiêu xã hội. Việc đảm bảo mục tiêu xã hội giải quyết các nhu cầu vĩ mô như công ăn việc làm sẽ tác động lại làm cho hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn. 3. Quan điểm 3: Trong việc đảm bảo thực hiện nhiệm vụ kinh doanh cần thấm nhuần quan điểm kinh kinh doanh Marketing. Để thực hiện chức năng kinh doanh, Tổng Công ty Muối phải tuân thủ các quy luật cạnh tranh của cơ chế thị trường, thực hiện sự cạnh tranh bình đẳng đối với các thành phần kinh tế khác. Muốn tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường hay hoạt động kinh doanh có hiệu quả cần thấm nhuần quan điểm kinh doanh theo tư tưởng Mareting. Quan điểm này đòi hỏi Tổng Công ty có cách nhìn hoàn toàn mới đối với hoạt động kinh doanh đó là các dịch vụ hậu mãi sau bán hàng theo phương châm sản xuất sản phẩm vì khách hàng ”Khách hàng là thượng đế”. Chính vì vậy Tổng Công ty muối phải nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình thị trường xuất phát từ nhu cầu muối thực tế trong tiêu dùng và sản xuất. Trên cơ sở đó Tổng Công ty đưa ra các chính sách thích hợp với từng thời điểm kinh doanh. Qua quá trình phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh của Tổng Công ty Muối Việt Nam cho thấy rằng: Việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty là một vấn đề vừa mang tính lâu dài vừa mang tính cấp bách cần phải thực hiện một cách tốt nhất trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn. Kết hợp ba quan điểm trên cùng với những nghiên cứu trong thời gian thực tập tại Tổng Công ty Muối tôi xin mạnh dạn đề xuất một số biện pháp góp phần vào việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của Tổng Công ty Muối Việt Nam. II. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện các nhiện vụ kinh doanh. 2.1. Đẩy mạnh công tác điều tra nghiên cứu, dự báo tình hình thị trường Muối. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và trong hoạt động kinh doanh muối nói riêng, Thị trường luôn luôn có vai trò quan trọng bậc nhất. Có thị trường đầu vào thì mới có nguồn vật chất hàng hoá để kinh doanh, có thị trường đầu ra mới tiêu thụ được sản phẩm, mới thực hiện được hoạt động kinh doanh. Quy mô của hai loại thị trường này phản ánh sức mạnh của Tổng Công ty. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường để biết những thông tin cụ thể về nhu cầu sở thích thị hiếu của khách hàng, thông tin về mẫu mã chất lượng, giá cả... sẽ giúp cho doanh nghiệp đưa ra những phương án sản xuất kinh doanh thích hợp, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh. Muối là mặt hàng đặc biệt, khả năng tiêu thụ phụ thuộc vào mật độ dân cư, tập quán của người tiêu dùng... Vì vậy Tổng Công ty phải phân loại khách hàng từ đó phục vụ cho nhu cầu đa dạng phong phú. Đối với công tác điều tra nghiên cứu, ngoài việc điều tra về giá cả chất lượng, thị hiếu còn phải nghiên cứu xem người tiêu dùng, nhà sản xuất có hài lòng với các sản phẩm muối đang dùng không. Và với các sản phẩm mới khi công ty giới thiệu thuyết phục kế hoạch Marketing mới thì khách hàng có mua không, họ có phản ứng như thế nào. Để xác định chiến lược tung sản phẩm mới trên thị trưởng thì Tổng Công ty có thể khảo sát kiểm tra nó dưới dạng thu nhỏ trên các thị trường thành phố và nông thôn. Từ các nhận định qua kết quả điều tra về mẫu mã, giá cả và chất lượng muối Tổng Công ty đã đưa ra các nhận định tình hình thị trường. Ví dụ trong năm 1995 Tổng Công ty có kế hoạch phổ cập muối Iốt toàn dân việc tuyên truyền tác dụng muối Iốt ở miền núi đã khó, thâm nhập vào thị trường đồng bằng còn khó hơn. Tổng Công ty thông qua nghiên cứu thị trường đồng bằng thấy rằng đây là một thị trường khó tính. Người dân do cách giáo dục ý thức văn hoá họ chỉ dùng muối trắng mà không dùng muối Iốt . Tuy nhiên bằng cách tuyên truyền quảng cáo khuyến mại trên Tivi, Radio... nên thị trường dần dần đi vào ổn định. Do nền kinh tế ngày càng phát triển, cuộc sống của nhân dân ngày càng cải thiện, do có nhu cầu nói chung và nhu cầu muối nói riêng ngày càng cao. Từ sản xuất muối khô (hạt to) trộn Iốt bây giờ có xu hướng dùng muối tinh qua chế biến trộn Iốt . Ưu điểm của mặt hàng này là sạch sẽ đã lọc bỏ hết tạp chất. Mặt khác khi nền kinh tế khởi sắc các ngành sản xuất phát triển, nhu cầu muối công nghiệp tăng lên nhanh chóng. Tổng Công ty xác định các khách hàng này phải là những khách hàng lâu năm quen thuộc vì thế lượng dành cho sản xuất công nghiệp được bảo đảm hàng năm. Ngoài ra nước ta có tiềm năng về xuất khẩu muối sang thị trường Châu á đây là một thị trường rộng lớn. Nếu nâng cao chất lượng muối, nguồn lợi thu từ xuất khẩu đến hàng triệu dollar (USD) góp phần giải quyết lực lượng lao động dôi dư. 2.2 Những giải pháp về thị trường Marketing hướng đến thị trường khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp muối Nhà nước không còn giữ vai trò độc quyền. Để đảm bảo được sự tồn tại các doanh nghiệp muối phải tham gia cạnh tranh bình đẳng như các thành phần kinh tế khác. Chính vì vậy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải hướng vào thị trường với mục tiêu phục vụ khách hàng tốt nhất, có như vậy mới thu hút lôi kéo được khách hàng mở rộng kinh doanh, gia tăng lợi nhuận, từ đó có khả năng đã được hiệu quả ngày càng cao. Các giải pháp Marketing chủ yếu là: a. Chiến lược đối với khách hàng. Mục tiêu cơ bản của Tổng Công ty là lợi nhuận. Nhiệm vụ cơ bản của hệ thống quản trị marketing là đảm bảo sản xuất ra những mặt hàng hấp dẫn đối với thị trường. Trong thị trường mục tiêu khách hàng là nhân tố quan trọng, giải quyết được nhu cầu của khách hàng công tác marketing hoàn thành 50%. Đối với Tổng Công ty Muối khách hàng cần phải được nghiên cứu dưới các góc độ sau: - Phân loại xác định khách hàng mục tiêu cho mình. - Nghiên cứu đặc điểm của mỗi loại khách hàng đặc biệt là khách hàng trọng điểm để đáp ứng nhu cầu phù hợp với các yêu cầu chất lượng giá cả và các dịch vụ khác như vận chuyển, hình thức thanh toán. - Cần có những dự báo về nhu cầu của khách hàng trong tương lai, mức tăng dân số, thu nhập của các vùng dân cư. b. Chiến lược với người cung ứng. Những người cung ứng muối cho Tổng Công ty là các doanh nghiệp sản xuất muối hay là các hộ gia đình trực tiếp sản xuất. Việc thu mua của Tổng Công ty thực chất là thu gom muối tại các đồng muối ở các địa phương. Những người vừa cung ứng này vừa cung cấp muối cho Tổng Công ty vừa cung cấp cho cả các đối thủ cạch tranh các nguồn muối trắng, muối nguyên liệu để sản xuất ra các sản phẩm khác nhau. Những sự kiện này xảy ra trong môi trường người cung ứng ảnh hưởng trực tiếp tới kế hoạch Marketing. Trong các sự kiện đó, đáng quan tâm là giá muối, nếu giá muối tăng thì giá thành sản phẩm cao tất yếu khả năng tiêu thụ bị giảm. Trên thực tế Tổng Công ty Muối chưa tiếp cận và trở thành bạn hàng quen thuộc của người cung ứng. Vì vậy sản lượng muối của Tổng công ty không mua được trực tiếp từ người sản xuất muối mà phải qua trung gian, giá mua cao làm tăng chi phí đồng thời không bảo đảm lợi ích của người sản xuất muối. Vì vậy cần có những biện pháp tích cực để Tổng Công ty có thể mua trực tiếp muối từ người sản xuất và giảm bớt lượng trung gian không cần thiết, như vậy sẽ giảm được giá mua và chi phí. Những đặc điểm trong chiến lược với người cung ứng là: - Địa điểm thu mua: Ngoài địa điểm thu mua cố định phải có kế hoạch về người thu mua và phương tiện để có được những tổ thu mua lưu động ở các vùng trọng điểm (những vùng có sản lượng muối lớn). - Tăng số lượng mua cố định vào vụ thu hoạch: Do các công ty ở khá xa đồng muối, việc mua muối phải đặt ra kế hoạch trước, soạn thảo hợp đồng dài hạn với người sản xuất trong đó số lượng mua tăng lên. - Phát triển các loại hình hợp tác xã muối: Về vốn, cơ sở hạ tầng máy móc trang thiết bị được Tổng công ty chu cấp, trả cước phí vận chuyển. Những đòi hỏi trong việc thu mua là nếu công ty có nhu cầu thì phải được đáp ứng ngay. Các doanh nghiệp khuyến khích sản xuất bằng cách trả hoa hồng cho khách hàng mua với số lượng lớn. - Tăng cường mua sản xuất chế biến tại chỗ trên các đồng muối. Thực chất của việc chế biến muối rất dễ thực hiện, dây chuyền công nghệ khá đơn giản. Vì thế sản xuất chế biến tại đồng muối giảm được chi phí vận chuyển, tăng cường sức cạnh tranh . Đối với các sản phẩm muối thành phẩm cần phải giảm lượng mua, bởi vì công tác chế biến muối đòi hỏi sự kiểm định chất lượng, trọng lượng. c. Mở rộng thị trường tăng cường khả năng bán lẻ. Tăng cường khả năng bán lẻ giúp Tổng Công ty tăng hiệu suất sử dụng lao động dư thừa, tăng hiệu suất sử dụng các cửa hàng kho bãi để trống. Muốn vậy phải nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng là điều kiện rất quan trọng trong kinh doanh muối. Đối thủ cạnh tranh của Tổng Công ty chủ yếu là tư nhân, mặc dù vốn của tư nhân rất ít nhưng họ rất nhạy bén năng động linh hoạt phục vụ khách hàng tốt nhất. Với lợi thế mua hàng với giá rẻ khi bán ra họ sẽ hạ thấp hơn giá của Tổng Công ty vì thế sẽ hấp dẫn khách hàng hơn. Mặt khác phục vụ mục tiêu của tư nhân là chạy theo lợi nhuận nên tìm mọi cách để hạ giá thành. Những người kinh doanh này đã vi phạm đạo đức trong kinh doanh, họ có thể làm giả bao muối, có những bao bì đề là Iốt nhưng bên trong lại là muối trắng . Chính sự cạnh tranh không lành mạnh đã hạn chế kế hoạch mở rộng thị trường. Vì thế muốn tạo được danh tiếng có chỗ đứng trên thị trường, Tổng Công ty cần phải nâng cao chất lượng bao bì giá cả, phương thức bán hàng theo phuơng thức đảm bảo yêu cầu thuận lợi nhất cho khách hàng . Hoàn thiện hệ thống phân phối để tăng khả năng giữ vững và mở rộng thị trường. Hệ thống phân phối bao gồm cả hệ thống bán buôn và bán lẻ, tránh cho các điểm tiêu thụ trùng nhau. - Thiết lập hệ thống tổ chức bán buôn, đại lý bán lẻ trực thuộc hệ thống phân phối của doanh nghiệp . - Tăng cường hệ thống quầy hàng phục vụ thuận tiện. Đối với các quầy hàng nên đa dạng chủng loại ngoài muối Iốt, bột canh Iốt còn có mắm tôm, nước mắm Iốt và kinh doanh các mặt hàng thực phẩm. - Thành lập các văn phòng giao dịch với khách hàng trên thị trường ngoại tỉnh. - Xây dựng hệ thống thu thập xử lý thông tin thị trường kịp thời, nhân viên bán hàng cần nắm vững các thủ tục và nghiệp vụ mua bán đáp ứng được các yêu cầu đề ra của doanh nghiệp, tạo điều kiện rút ngắn thời gian sản phẩm nằm trong lưu thông. - Ngoài việc cải tạo hệ thống kênh phân phối hợp lý các doanh nghiệp chú ý tới khâu lưu thông và bảo quản. Hiện nay trên mạng lưới lưu thông xuất hiện rất nhiều các thành phần trung gian. Từ người sản xuất, người tiêu dùng thực hiện mua bán trao đổi hàng hoá với Tổng Công ty đều phải qua các khâu trung gian chủ yếu là tư nhân. Lực lượng tư nhân này cản trở rất nhiều tới kênh phân phối làm rối loạn tình hình thị trường. Tư tưởng của khâu trung gian là kiếm lời từ việc mua rẻ bán đắt. Thực tế lực lượng trung gian quá nhiều nó trở thành đối thủ cạnh tranh ép giá của Tổng Công ty vì vậy các doanh nghiệp phải có biện pháp ứng phó với tầng lớp trung gian này không để làm rối loạn giá cả. Biện pháp để hạn chế trung gian là quản lý tốt khâu đầu vào và đầu ra khi đó lượng trung gian sẽ giảm hẳn và không thể gây ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của Tổng Công ty. Đối với các thành phố trọng điểm như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố khác nâng cao mức hoa hồng cho các đại lý. Xu thế về chủ trương của Chính Phủ ban hành nghị định 481/T sẽ có khả năng tạo cơ hội mở rộng thị trường muối Iốt đồng bằng sau khi Nghị định được ban hành. Với lợi thế mạng lưới xí nghiệp muối Iốt được bố trí tiếp cận nguồn nguyên liệu ở đầu mối giao thông trải đều trên ba vùng thị trường ( Bắc - Trung - Nam ). Đa phần các xí nghiệp này đều được trang bị dây chuyền muối tinh chế nên sản phẩm sản xuất chất lượng tốt. Tuy nhiên, chiếm lĩnh thị trường đã khó song củng cố đứng vững trên thị trường đó lại khó hơn. Vì vậy các đơn vị cần hết sức quan tâm phát triển mạng lưới bán buôn bán lẻ mở rộng các mối quan hệ với các thị trường, có chiến lược trong khâu tạo quan hệ với các khách hàng mới, giữ khách hàng cũ biến thành bạn hàng và hợp tác lâu dài. Trong kế hoạch xây dựng chiến lược mở rộng thị trường, đối với thị trường trong nước củng cố mối quan hệ với các tỉnh miền núi vốn đã có quan hệ truyền thống từ lâu và ổn định. Đối với thị trường xuất khẩu cần giữ được bạn hàng Liên Xô (cũ) trước đây. d.Chiến lược giá cả hạn chế đối thủ cạnh tranh. Trong thời kỳ bao cấp ngành muối độc quyền về giá, giá muối do Bộ Thương Mại quy định được thống nhất trên toàn quốc. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần tạo sự cạnh tranh trong ngành muối. Vì vậy giá cả hiện nay hoàn toàn do cung cầu quy định, thị trường được thả nổi để bàn tay vô hình điều tiết. Tổng Công ty Muối cũng giống như các doanh nghiệp khác tham gia vào sản xuất kinh doanh muối một cách bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh. Tuy nhiên việc thả nổi thị trường đã tạo ra rất nhiều những tổn thất xã hội đòi hỏi ngành muối phát triển theo cơ chế thị trường nhưng phải có sự quản lý của Nhà nước thông qua Tổng Công ty Muối Việt nam. Sản lượng muối tiêu dùng hàng năm tương đối ổn định nhưng giá cả trong những năm qua có nhiều biến động . Thị trường định giá một cách tự do, nổi bật trong giai đoạn này là tư thương ép giá Tổng Công ty và người sản xuất làm cho giá muối tăng lên không bình thường. Giá cả nâng lên một cách tự do lên xuống bất thường sẽ tạo nên những cơn sốt muối. Trước tình hình này Tổng Công ty Muối phải thực hiện các biện pháp của chính sách giá cả. Đó là: Đối với mặt hàng muối tiêu dùng Tổng Công ty chủ động quy định một khoảng giá giao động trên thị trường. Nếu giá thị trường lớn hơn giới hạn trên của quy định hoặc nhỏ hơn thì phải có các biện pháp hữu hiệu . Xét hai trường hợp: * Khi giá quá cao > khoảng giới hạn trên: trường hợp này xảy ra khi cung không đủ cầu, giá cao nếu không có dự trữ Tổng Công ty sẽ khó mua bởi vì khi đó sẽ đẩy giá thành lên cao. Vì vậy Tổng Công ty thực hiện các biện pháp như sau: - Trước hết có kế hoạch điều muối từ miền Nam ra miền Bắc ổn định sản lượng miền Bắc. - Biện pháp thứ hai là huy động lượng dự trữ trong dân bán cho Tổng Công ty nhưng số lượng mua của dân không đáng kể. Nên chủ yếu là phải tung ra thị trường lượng muối dự trữ. Việc lấy lượng muối dự trữ ra lưu thông chỉ khi nào thị trường xấu nhất mà Tổng Công ty chưa biện pháp khắc phục. Tuy nhiên lượng muối dự trữ ở đây phải được bảo quản tốt trong thời gian cho phép (do tính chất của muối là để quá lâu sẽ bị chảy nước ), đồng thời lượng dự trữ này không được quá nhiều hay quá ít. Biện pháp 1: tăng cường mua muối của dân bằng các nguồn vốn mà Tổng Công ty có thể huy động được. Tốt nhất là Tổng Công ty luôn dành riêng một khoản tiền thường trực để mua muối của dân. Trong trường hợp này nếu không huy động được tiền mua thì cơ hội mua với giá rẻ sẽ không có. Biện pháp 2 : Thoả thuận với người sản xuất hạn chế bán cho tư thương bằng cách đặt mua với một mức giá cố định cao hơn giá thi trường tại thời đIểm đó. Việc mua với giá cao hơn Tổng Công ty sẽ đảm bảo lợi ích cho người sản xuất muối vừa hạn chế tư thương không thể “vơ vét “ hết sản lượng muối trên thị trường. * Khi giá nhỏ hơn giới hạn dưới của khoảng dao động: trong trường hợp này giá muối quá thấp người sản xuất muối sẽ bị thất thu vì giá muối. Vì vậy để đảm bảo lợi ích cho họ Tổng Công ty Muối sẽ mua với giá cao hơn giá giới hạn dưới. Đối với mặt hàng muối công nghiệp phục vụ cho sản xuất và xuất khẩu nhu cầu càng ngày càng tăng lên. Khách hàng thuộc Tổng Công ty thường là những khách hàng lớn vì vậy trong qua trình buôn bán Tổng Công ty phải có sự “ưu ái” đặc biệt nhằm thỏa mãn và hài lòng khách hàng. Chẳng hạn như giá bán có thể giảm 1 - 2 giá, không lấy cước phí vận chuyển, bốc xếp, cho các doanh nghiệp được phép thanh toán chậm trong một thời gian ngắn. Với các nhà sản xuất trong nước có nhu cầu muối công nghiệp thì Tổng Công ty sẽ thoả thuận một mức giá nào đó để khi cung cầu tăng giảm vẫn đảm bảo cho các nhà sản xuất này. Đối với mặt hàng muối Iốt miền núi: Trước hết đây là vùng dân cư nghèo thu nhập thấp, địa hình vô cùng hiểm trở, gây khó khăn cho việc vận chuyển. Theo cách suy luận bình thường khi chi phí vận chuyển tăng thì giá sẽ tăng tỷ lệ thuận với độ tăng chi phí. Nhưng với vùng miền núi ,vùng sâu, vùng xa Tổng Công ty Muối phải đặt ra những khung giá thích hợp, thông thường giá muối Iốt miền núi thấp hơn giá đồng bằng, hiện tại giá muối miền núi là 550 đồng/kg còn ở đồng bằng 650 đồng/kg Việc đặt ra một khung giá thấp cho miền núi hoàn toàn mang tính chất xã hội. ở thị trường này Tổng Công ty không có lãi vì chi phí vận chuyển quá lớn. Năm 1994 Nhà nước có quyết định cấp không muối Iốt cho các tỉnh miền núi, bắt đầu từ năm 1995 Tổng Công ty thực hiện bán muối cho dân nhưng giá muối được Nhà nước bù lỗ. 3. Các giải pháp thuộc về tổ chức quản lý nội bộ doanh nghiệp. 3.1 Tổ chức tốt lao động tăng cường động viên khuyến khích để nâng cao hiệu quả lao động. Hiện nay trong toàn Tổng Công ty vẫn còn một số lượng lớn lao động dư thừa, vì số lao động này phần lớn là không có trình độ, nhưng không thể đẩy họ ra ngoài xã hội được vì vậy Tổng Công ty phải có các chính sách đúng đắn : - Cho nghỉ những người nào đúng tuổi về hưu. - Tạo công ăn việc làm cho họ bằng cách : bán hàng tại các đại lý muối của Tổng Công ty hoặc cấp cho họ một khoản vốn ban đầu để họ tự mở cửa hàng kinh doanh. Đối với những người có đạo đức tốt thì cách này rất hữu ích, tăng cường khả năng bán lẻ cho Tổng Công ty - Với các xí nghiệp quá đông nhân viên, thì phải cho nghỉ luân phiên. Phong cách làm việc của các doanh nghiệp hiện nay là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi nhân viên phải có năng lực thực sự, có trình độ chuyên môn và năng động nhạy bén với sự thay đổi thị trường. Chính vì thế khi giao việc phải giao cho người giỏi, khi xác định vị trí công việc cần bố trí theo năng lực của nhân viên tránh tình trạng thân quen, tình cảm riêng để sắp xếp công việc. Đối với các nhân viên cần được khuyến khích vật chất tinh thần để động viên tính tích cực, sáng tạo, có hiệu quả trí lực, thể lực của người lao động. Một thực tế hện nay là các giám đốc doanh nghiệp chưa giải quyết tốt mối quan hệ nhân viên và ban điều hành. Muốn vậy việc chỉ đạo từ trên xuống phảI được thông xuốt và có tính hai chiều, ban điều hành cũng phải sửa đổi theo sự đóng góp ý kiến của nhân viên. Sự quan tâm động viên sẽ làm cho hiệu suất lao động tăng lên nhanh chóng. Chủ doanh nghiệp (Ban lãnh đạo doanh nghiệp ) phải am hiểu về lĩnh vực tinh thần phải tạo ra cho doanh nghiệp một bầu không khí thoải mái, tinh thần đoàn kết hăng say làm việc. Nhưng đồng thời cũng cần phải có phần thưởng về mặt vật chất, ngoài lương hiện nay phải có chế độ thưởng dựa vào hiệu suất kết quả công việc, tiền thưởng có thể được phát bất kỳ chứ không để đến dịp lễ tết. Đồng thời tổ chức các hội thi tay nghề, có kế hoạch đào tạo lại, nâng cao tay nghề người lao động. Như vậy bằng cách khuyến khích vật chất, tinh thần sẽ củng cố tinh thần làm việc của các nhân viên, giữ được sự trung thành gắn bó với Tổng công ty Muối. 3.2. Cải tiến nâng cao năng lực lãnh đạo của người quản lý. Thực trạng của bộ máy quản lý đội ngũ cán bộ tại Tổng Công ty Muối như đã phân tích ở chương II cho thấy rằng muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh cần phải giải quyết các vấn đề sau: - Trẻ hoá đội ngũ quản lý, lựa chọn những người có đầy đủ các yếu tố của một nhà lãnh đạo giỏi, có thể phát huy tác dụng tổng hợp các điều kiện nguồn lực hiện có và nhạy bén với các biến động của môi trường xung quanh. - Đối với các cấp quản lý lãnh đạo ở các địa phương thì công việc của nội bộ công ty phải để công ty đó tự giải quyết. Tổng Công ty chỉ kiểm tra và khảo sát tình hình thực tế của các đơn vị thành viên. Khi nào mà các đơn vị thành viên xảy ra các trình trạng không có khả năng thanh toán, tham nhũng, lập quỹ đen .. . lúc đó Tổng Công ty mới trực tiếp can thiêp. - Trong việc lựa chọn đề bạt cán bộ quản lý, doanh nghiệp cần phải để ra các tiêu chuẩn cụ thể cho từng vị trí. Ngoài tiêu chuẩn về trình độ thì tư cách đạo đức, uy tín thật sự của người đó với tập thể rất quan trọng. Nhưng cần tránh đưa những người kéo bè, kéo cánh tạo bờ thế dể “leo” lên những chức vụ quan trọng. Đối với người lãnh đạo, ngoài việc có trình độ năng lực quản lý, kinh nghiệm được “tôi luyện” ngoài thực tế thì phẩm chất chính - tư cách đạo đức có vị trí vô cùng quan trọng. Giám đốc, Tổng giám đốc - người trực tiếp quản lý đại diện giao dịch với các công ty và với cơ quan Nhà nước là người đại diện cho danh tiếng, uy tín của doanh nghiệp . Vì vậy đạo đức như là một cái gương soi mọi soi mọi hành vi của họ. Một giám đốc có tư cách đạo đức tốt sẽ buộc nhân mọi viên phải tiến hành công việc và có trách nhiệm cao. Giám đốc thực hiện lòng trung thành tuyệt đối với doanh nghiệp và các nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật . - Bộ máy tổ chức của công ty cần phải cải tiến theo hướng tăng cường các bộ phận chuyên trách như bộ phận marketing, bộ phận bán hàng, bộ phận thử nghiệm sản phẩm... và không nên đi vào kiểu 1 phòng ban đảm nhiệm quá nhiều trọng trách . - Người lãnh đạo tạo ra bầu không khí đoàn kết thông nhất trong nội bộ doanh nghiệp, tăng cường tính dân chủ trong quản lý, triệt để phát huy tính chủ động sáng tạo của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Cần quán triệt nguyên tắc: Con người là chủ thể quản lý, quản lý phải lấy con người làm gốc. Tăng cường nhân tài quản trị trong doanh nghiệp bằng các biện pháp: - Xây dựng và kiện toàn hệ thống phát triển nhân tài bao gồm các quá trình đào tạo, sử dụng, đề bạt, thưởng phạt. - Có quy hoạch lâu dài về tuyển chọn, đào tạo nhân tài và đưa vấn đề này vào mục tiêu phát triển chung của toàn Tổng Công ty trong dài hạn. - Đào tạo số lượng cán bộ quản lý và đề ra nhiệm vụ là phải luôn luôn học hỏi những lý thuyết quản trị hiện đại để áp dụng có hiệu quả. - Người lãnh đạo Tổng Công ty và các công ty phải là người có đầu óc tiên tiến, phải xoá bỏ hết các cung cách làm việc ỷ lại thời bao cấp. Bây giờ họ phải chú ý tới các chiến lược, thông tin , giá cả , thị trường , pháp luật.. . - Hiện đại hoá phương tiện quản lý để đảm bảo xử lý thông tin kịp thời nhanh chóng. Tuy nhiên, không được quá lạm dụng quỹ phát triển để sử dụng vào các phương tiện quản lý một cách lãng phí. 3.3. Giải pháp về vốn, công nghệ. Vốn: Mở rộng nguồn vốn, tìm kiếm phát triển thêm các nguồn vốn như vay của dân, huy động từ lợi nhuận thu được trong quá trình sản xuất. Những giải pháp vay vốn chủ yếu là vay ngân hàng, vấn đề chính cần phải giải quyết là: đẩy mạnh tốc độ quay vòng vốn. Các biện pháp tăng tốc độ quay vòng vốn là: - Tăng cường tích luỹ, giảm chi phí đến mức thấp nhất. - Không để số lãi của ngân hàng tồn đọng từ năm này sang năm khác mà có kế hoạch trả ngay. Ngoài ra nguồn vố còn phải được bổ sung bằng cách tận dụng từ nguồn ngân sách Nhà nước. Cần tranh thủ các chính sách ưu đãi của chính phủ, ngành để mở rộng quy mô sản xuất, tăng hiệu quả kinh doanh. Các giải pháp phát triển công nghệ: có hai giải pháp. Một là mua mới hoàn toàn, hai là đổi mới cải tiến các dây chuyền cũ theo các mẫu mã kiểu hiện đại ở nước ta nên lựa chọn đổi mới công nghệ sản xuất muối theo cách thứ hai tức là cải tiến theo các dây chuyền công nghệ hiện đại. Làm như thế giá thành sẽ giảm rất nhiều, lựa chọn được công nghệ thích hợp với túi tiền hoàn cảnh nước ta. Những dây chuyền công nghệ kỹ thuật mà Tổng Công ty đã làm được đó là: sử dụng rộng rãi công nghệ rửa muối tại đồng và để đưa chất lượng muối đạt tiêu chuẩn của các nước tiên tiến (nồng độ NaCl >98% -99%) và đồng bộ hoá từ khâu kết tinh, bảo quản, vận chuyển. Đối với muối tinh chế sử dụng phương pháp bốc hơi chân không để nấu muối, hạn chế đi đến xoá bỏ phương pháp bốc hơi nồi hở và nấu trực tiếp vừa tốn năng lượng ảnh hưởng tới môi trường. Sử dụng các dây chuyền nghiền, trộn, rửa, sấy khô hiện đại. Đặc biệt năm 1997, Tổng Công ty đã hoàn thành dây chuyền bao gói tự động, tự động cân, đóng góp phần đảm bảo chất lượng giảm bớt gánh nặng cho người lao động. II. Những giảI pháp nhằm kết hợp hàI hoà giữa nhiệm vụ xã hội và nhiệm vụ kinh doanh. 1. Chính sách quản lý của Nhà nước . ở các chương trên cho thấy để Tổng Công ty kết hợp hài hoà hai nhiệm vụ kinh doanh và xã hội cần phải có sự hỗ trợ từ các chính sách quản lý của Nhà nước. Thực chất nhiệm vụ xã hội mà Tổng Công ty phải thực hiện đó là nhiệm vụ Nhà nước giao phó. Tổng Công ty Muối là công cụ vĩ mô để Nhà nước thực hiện các chỉ tiêu xã hội. Vì vậy trong quá trình thực hiện các chỉ tiêu kinh tế xã hội cần phải có sự trợ giúp tích cực vào cơ chế, chính sách quản lý. Đặt vấn đề ra như trên không có nghĩa là Tổng công ty Muối sẽ ỷ lại hoàn toàn vào Nhà nước hoặc sẽ nghiêm chỉnh đến cứng nhắc khi thực hiện kế hoạch cuả Nhà nước. Các chính sách quản lý Nhà nước đã có phần ưu ái Tổng Công ty hơn so với các thành phần kinh tế khác, hỗ trợ để Tổng Công ty luôn giữ vai trò chủ đạo trong nghành muối. Chính sách tài chính: - Để bình ổn giá cả trên thị trường muối, Nhà nước cần quy định một mức giá trần về muối. Bởi vì đề phòng khi giá quá cao gây nên các cơn sốt muối, thì Tổng công ty và người sản xuất bị thiệt hại nhiều nhất. Khi giá cao kéo dài, Tổng công ty bán với giá thị trường nhưng giá mua vào cũng cao do đó lợi nhuận thấp, vì thế Nhà nước cần hỗ trợ một lượng vốn để Tổng công ty có thể mua khi có nhu cầu. - Đối với muối Iốt bán cho các tỉnh miền núi, Nhà nước tiếp tục hỗ trợ cước phí vận chuyển, tiền công trộn Iốt, bao bì để dân cư miền núi có thể mua với mức giá thấp hơn ở đồng bằng. - Ngân sách dành cho phổ cập muối Iốt tạI miền núi nên giao trực tiếp cho các địa phương quản lý hoặc các cơ sở sản xuất muối Iốt quản lý. Giao trực tiếp ngân sách như vậy sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tại địa phương nhanh chóng điều hoà được cung cầu tại thị trường đó, giảm bớt những thủ tục phiền hà, thời gian vô ích khi các đơn vị thành viên đi xin kinh phí. -Nguồn thu ngân sách từ ngành muối cần được tái đầu tư để lại để phát triển nghề muối trong các trường hợp như : a. Trợ giúp dân gặp thiên tai, trợ giúp giá khi họ thu hoạch quá nhiều làm cho mất giá, cũng như trợ giá để khuyến khích người làm muối xuất khẩu và làm muối công nghiệp. b. Đầu tư cải tạo xây dựng các đồng muối, cơ giới hoá và hiện đại hoá ngành muối . Các đề nghị cụ thể về các chính sách tài chính Nhà nước là: - Vốn: Nhà nước nên cấp đủ số tiền để mua đủ số lượng Muối mà Nhà nước yêu cầu. Tổng công ty Muối phải dự trữ khoản vốn mà Nhà nước cấp cho các doanh nghiệp, nên tính theo giá hiện thời tránh tình trạng giá thay đổi qua nhiều năm. Ngoài hỗ trợ vốn cho dự trữ Nhà nước còn phải hỗ trợ xây dựng các công trình xây dựng cơ bản. cơ sở hạ tầng đường xá, cầu cống. - Bù lỗ: Trong trường hợp mua muối dự trữ tại thời điểm giá cao khi giá bị giảm nhanh thì Nhà nước nên tính toán để bù lỗ khoản chênh lệch này. Bù lỗ cho các khoản cước phí vận chuyển, bốc xếp cung cấp muối cho miền núi, bù lỗ do vận chuyển từ Nam ra Bắc để bình ổn giá cả . Nhà nước phải đảm bảo không chiếm dụng và không thu hẹp vốn kinh doanh của Tổng công ty . - Thuế : Đưa thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất, các loại thuế kinh doanh khác, tăng thuế gián thu đối vơí các đối tượng sản xuất kinh doanh. Nhà nước phải xác định được thuế muối là nguồn ngân sách hỗ trợ đảm bảo quá trình tái đầu tư sản xuất muối. Cần thay đổi cách nhìn nhận trước đây không hề coi trọng nguồn thu thuế từ muối, không thực hiện đăng ký kinh doanh muối. Tất cả các đơn vị cá nhân kinh doanh muối phải nộp thuế đầy đủ cho Nhà nước . - Việc thu thuế đưa khấu hao về giá thành đẻ định giá bán, không loại trừ cho bất cứ đối tượng tiêu dùng nào để nhanh chóng đưa muối trở thành một loại hàng hoá có giá trị trên thị trường . Việc đánh thuế không nhằm mục đích giảm doanh thu của các doanh nghiệp kinh doanh muối. ý nghĩa của việc đánh thuế là nâng cao giá trị thương phẩm mặt hàng muối đồng thời tăng nguồn thu tái đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất . Chính sách tín dụng: - Để kinh doanh muối bình thường, không gây biến động cần tránh tình trạng ép giá của tư thương. Tư thương ép giá của người sản xuất khi tới mùa thu hoạch “giá hạ phải bán rẻ”. Để đảm bảo lợi ích cho người sản xuất đòi hỏi các doanh nghiệp muối Nhà nước có một số vốn lưu động cần thiết để mua số lượng dư thừa này . - Tuy nhiên vốn lưu động của Tổng Công ty còn quá ít, vì thế Nhà nước cần có chính sách cấp vốn lưu động cho Tổng Công ty muối. Vì thực hiện nhiệm vụ xã hội của Tổng Công ty khi phổ cập muối Iốt rất khó khăn đòi hỏi phải có kinh phí lớn để tuyên truyền, giáo dục, quảng cáo... Bên cạnh đó việc vay vốn ngân hàng hiện nay, lãi xuất quá cao, vốn của Tổng Công ty hay bị ứ đọng do khách hàng trả chậm tiền. Đặc điểm của kinh doanh muối có tính chất mùa vụ. Khi mà Tổng công ty đã nhận định được nhu cầu sắp tới khan hiếm muối và phải mua muối ngay nhưng vì vốn không có nên doanh nghiệp đánh tuột mất thời cơ. Do đó đối với việc vay vốn ngân hàng Nhà nước có những quy chế rõ ràng để các tổ chức tín dụng ngân hàng Nhà nước có sự ưu tiên đáp ứng đủ vốn cho công ty, đồng thời Nhà nước cần phải có kế hoạch chỉ đạo các ngân hàng thương mại để các ngân hàng này sẵn sàng cung cấp tiền mặt cho Tổng công ty và các đơn vị thành viên vay được bất cứ lúc nào với lãi suất thích hợp theo cơ chế hiện nay vay theo thế chấp, cầm cố thì các doanh nghiệp muối vay khó hơn. 2. Cần đảm bảo sự nhất quán trong kế hoạch điều động bình ổn giá của Tổng công ty . Trong điều kiện sản xuất mùa vụ sút kém, giá muối tăng đột ngột cấn có sự chỉ đạo nhất quán trong kế hoạch điều động bình ổn giá cả. Nhà nước chỉ huy điều tiết các doanh nghiệp vận chuyển điều hoà sản lượng giữa các vùng. Tuy nhiên khi có sự bất ổn trên thị trường, cung vượt hoặc thấp hơn cầu thị Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn phải tính toán định mức thiếu hụt cụ thể để Tổng công ty có kế hoạch phù hợp để từ đó Tổng công ty sẽ điều động các công ty nào cần tham gia và số lượng bao nhiêu, thời hạn như thế nào, phải tránh không điều động ồ ạt dẫn đến tình trạng thị trường cần bổ xung lại dư thừa quá nhiều, giá cả giảm thấp hơn giá mua vào làm cho lỗ lớn. III. Những kiến nghị khác đối với Nhà nước . 1. Phương án sắp xếp lại để tổ chức của Tổng Công ty Muối Việt Nam. Trong những năm qua khâu tổ chức, quản lý của Tổng công ty còn rất nhiều yếu kém. Trong nội bộ Tổng công ty luôn xảy ra tình trạng cạnh tranh giữa các đơn vị thành viên, vô hình chung đã làm thiệt hại tới hiệu quả kinh doanh chung. Chính vì vậy việc sắp xếp lại tổ chức Tổng Công ty Muối là rất cần thiết phải được thực hiện trong thời gian ngắn nhất. Phương châm xây dựng lại tổ chức của Tổng công ty Muối theo kiểu một tập đoàn kinh tế, trong đó Tổng Công ty (văn phòng) đóng vai trò nòng cốt đưa ngành muối trở thành nghành công nghiệp mạnh trong 5-10 năm tới và các công ty con là các doanh nghiệp thành viên có thể cạnh tranh với Tổng công ty trên thị trường, thực hiện phương hướng phát triển chung tuân theo sự quản lý chỉ đạo của Tổng công ty . Theo mô hình này các doanh nghiệp thành viên sẽ hoạt động theo sự phân đoạn thị trường, không gây ảnh hưởng như chèn ép phá giá lấn nhau. Các công ty này sẽ tuân thủ nguyên tắc có cạnh tranh, nhưng không làm thiệt chung tới lợi ích của toàn Tổng công ty. Mô hình tổ chức Tổng công ty Muối được trình bày như sau (Xem sơ đồ trang sau). * Các kiến nghị với nhà nước: a. ở các khu vực sản xuất của dân: - Nhà nước sớm ban hành điều lệ thành lập hợp tác xã muối theo hướng sản xuất dịch vụ, hỗ trợ vốn cho các gia đình khó khăn. Có chính sách ưu đãi để dân làm muối vay vốn của hợp tác xã, để khai hoang phục vụ cải tạo đồng muối, đầu tư thiết bị. b. Bảo đảm sản xuất muối phục vụ sản xuất trong nước tiến tới hạn chế nhập khẩu: - Thống nhất quản lý vào một mốc các xí nghiệp muối công nghiệp và xuất khẩu hiện có. Đẩy mạnh xây dựng đòng muối theo quy hoạch các đồng muối này phải có quy mô lớn đạt tiêu chuẩn quốc tế. - Tăng thuế nhập khẩu muối c) Hỗ trợ vốn cho Tổng công ty và các đơn vị thành viên Để tiến tới mô hình tập đoàn, Tổng công ty và các công ty con phảI có địa bàn hoạt động sản xuất , kinh doanh nhất định. Vì thế đòi hỏi Nhà nước hỗ trợ một số vốn ban đầu, đầu thực hiện tổ chức lại. Để tập đoàn hoạt động hiệu quả thì Nhà nước chỉ can thiệp quản lý hệ thống doanh nghiệp công ích còn lại là hệ thống các xí nghiệp muối xuất khẩu và các xí nghiệp muối công nghiệp thì kinh doanh tự do. Bên cạnh đó Nhà nước cần tạo điều kiện để Tổng công ty muối tiếp nhận thiết bị công nghệ tiên tiến vào ngành muối Việt Nam. Muốn cho guồng máy tổ chức mới hoạt động có hiệu quả thì Tổng công ty phải luôn tìm mọi cách để nâng cao lợi nhuận bằng việc cải tiến công nghệ nâng cao chất lượng. 2- Nhà nước có hỗ trợ giúp trong việc mở rộng thị trường . * Đối với sản xuất trong nước: Nhà nước cần chú trọng vào ngành công nghiệp chế biến muối, và các sản phẩm được chế biến từ muối. Với các sản phẩm chế biến muối có chất lượng cao sẽ rễ ràng thâm nhập vào thị trường trong nước và xuất khẩu để mở rộng thị trường trong nước Tổng công ty đã tìm cách đa dạng hoá mặt hàng như bột canh Iốt, mắm Iốt, các sản phẩm phục vụ công nghiệp hàn Thiếc, Thạch cao, nước ót. . . Tuy nhiên các ngành này rất cần sự hỗ trợ đầu tư của Nhà nước tăng cường khả năng xuất khẩu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. * Đối với thị trường nước ngoài : Nhà nước cần giảm thuế xuất khẩu muối để kích thích người sản xuất giúp các doanh nghiệp muối đưa các sản phẩm tham gia vào các hội chợ quốc tế. 3- Nhà nước đầu tư phát triển hệ thống thông tin thị trường muối. Chính vì hệ thống thông tin thị trường còn nhiều vấn đề hạn chế, yếu và lộn xộn trong kinh doanh nên chưa có các dự báo, kế hoạch sát sao. Điều đó làm bỏ lỡ những cơ hội và không sao tránh được rủi ro trong kinh doanh Muối. Vì vậy Nhà nước cần có những biện pháp kịp thời phục vụ cho thị trường này. Về mặt tổ chức cần phải có một bộ phận chuyên trách để thu thập nghiên cứu xử lý và cung cấp thông tin cung cầu giá cả và các vấn đề liên quan khác tới thị trường kể cả trong nước và nước ngoài, cụ thể là : - Đầu tư kinh phí cho các thiết bị, phương tiện để hiện đại hoá hệ thống thông tin. - Việc thu thập xử lý thông tin cà sử dụng thông tin về các vấn đề thị trường trong nước và quốc tế như cung cầu về Muối, giá cả muối cúng như cá dự báo khác về kế hoạch thực hiện giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý. 4- Chính sách mua muối của dân. Do đặc điểm về thị trường muối, cung cầu giá cả luôn luôn biến động đột biến nên phải có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước quy định về muối bắt buộc các quốc doanh phải mua muối bằng một mức giá bằng hoặc trên giá để đảm bảo lợi ích người nông dân. Nhưng trong thực tế người sản xuất không bán được giá cao và do đó không được hưởng lợi ích nào mà Nhà nước dành cho. Bởi vì Tổng Công ty Muối và các đơn vị thành viên không đủ vốn để mua muối trực tiếp từ người sản xuất, thường xuyên phải mua qua trung gian với giá cao. Đặc biệt là các tỉnh phía Nam Công ty Muối III mua muối 100% qua trung gian. Do đó đối với chính sách giá muối Nhà nước nên sử dụng điều tiết thông qua trợ giá, giảm thuế cho người sản xuất Muối. Nhà nước bù lỗ cho Tổng Công ty Muối thì phần lãi lại rơi vào túi tư thương do hưởng chênh lệch giá, còn nếu không bù lỗ thì một sỗ công ty dẫn tới phá sản. Do đó để nâng cao hiệu quả sử dụng Muối Nhà nước nên có những quy định ràng buộc người sản xuất và các . . . chặt chẽ muối từ khâu đầu vào, đầu ra cho tới tiêu thụ sản phẩm. Kết luận *** -Tóm lại qua quá trình tìm hiểu kết quả kinh doanh, phân tích tình hình kinh doanh tại Tổng công ty Muối vấn đề nổi bật mà Tổng công ty phải giải quyết trước mắt và lâu dài đó là vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh. Muốn tăng doanh thu, lợi nhuận, thực hiện tốt các chỉ tiêu xã hội Tổng công ty phảI khắc phục những hạn chế tồn tại trong tổ chức quản lý và trong quá trình kinh doanh, từ nghiên cứu thị trường cho tới tiêu thụ sản phẩm. Khác hẳn với các thành phần kinh tế khác Tổng công ty có hai chức năng vô cùng quan trọng đó là kinh doanh, quản lý hệ thống doanh nghiệp Muối Nhà nước. Trong quá trình thực hiện sản xuất kinh doanh thì nhiệm vụ đặt ra cho Tổng công ty phải hài hoà hai nhiệm vụ kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận và nhiệm vụ xã hội. Hai nhiệm vụ này hoàn toàn không tách biệt mà chúng bổ xung hỗ trợ và cùng tồn tại trong kế hoạch của Tổng công ty . Trên thực tế để thực hiện các nhiện vụ có hiệu quả đòi hỏi phải có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước . Nhà nước hỗ trợ vốn kinh doanh , thực hiện trợ cấp trợ giá muối Iốt cho miền núi . Nhà nước có những chủ trương quy định các ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp muối vay với một lãi xuất thích hợp và rút ngắn thời gian làm các thủ tục rườm rà .Nhà nước hỗ trợ người sản xuất muối bằng cách đặt ra một khung giá thích hợp , bảo đảm lợi ích cho người sản xuất . Cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, Tổng công ty muối tự đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế . Đó là thực hiện cải tổ mô hình quản lý theo hướng tập đoàn kinh tế , kiến thiết một đội ngũ quản lý có năng lực, trình độ nhạy bén với biến động của thị trường . Đồng thời mở đi sâu nghiên cứu thị trường thực hiện các công tác marketing nắm bắt thị trường . . . Trên cơ sở nghiên cứu những luận cứ khoa học việc tìm hiểu vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh muôí tác giả không tránh khỏi những thiếu sót .Vì vậy qua luận văn này chỉ nghiên cứu các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh một cách khái quát nhất **********************

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0074.doc
Tài liệu liên quan