Technoimport chủ yếu tạm nhập tái xuất đối với những mặt hàng thực phẩm, máy móc, thiết bị giữa các thị trường thuộc các nước Đông Nam á. Để thực hiện hình thức giao dịch này, Technoimport phải ký kết hai hợp đồng ngoại thương riêng biệt, một với người bán ở nước xuất khẩu, một với người mua ở nước nhập khẩu, sau đó toàn bộ hồ sơ của lô hàng tạm nhập tái xuất phải được đưa về phòng giấy phép xuất nhập khẩu của bộ thương mại để xin giấy phép tạm nhập tái xuất lô hàng trên. Thì doanh nghiệp mới được tiến hành các hoạt động tiếp theo. Khi hàng về đến cửa khẩu Việt Nam, Technoimport phải nộp cho hải quan cửa khẩu nhập hàng tờ khai và bản sao của chứng từ có công chứng của hợp đồng mua bán. Căn cứ vào hợp đồng trên, hải quan cho làm thủ tục nhập hàng và vận chuyển đến cửa khẩu xuất hàng. Nếu hàng hoá đi qua lãnh thổ Việt Nam ( bằng đường bộ) Để đi đến cửa khẩu xuất hàng theo quy định của bộ thương mại doanh nghiệp phải còn làm một số thủ tục với cơ quan kiểm tra, kiểm soát khác trong quá trình vận chuyển.
Khác với hình thức nhập khẩu thuần tuý hàng tạm nhập tái xuất không phải chịu thuế. Tuy nhiên khi làm thủ tục nhập khẩu Technoimport vẫn phải nộp thuế theo biểu quy định hiện hành của nhà nước, khoản thuế này sẽ được hoàn trả lại cho Technoimport trong vòng 30 ngày(tính từ ngày hoàn thành thủ tục hải quan) hàng này được xuất khỏi lãnh thổ Việt Nam.
Tạm nhập tái xuất luôn gắn liền với hai giao dịch một với người xuất khẩu, một với người nhập khẩu. Mặc dù vậy đẻ đơn giản hoá Technoimport luôn thực hiện thanh toán độc lập với người nhập khẩu, người xuất khẩu độc lập bằng TTR hoặc L/C không huỷ ngang.
95 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1582 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác giao dịch và hợp đồng xuất nhập khẩu tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật - Bộ Thương mại (Technoimport), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ra ngoại tệ theo tỷ giá của ngân hàng ngoại thương tại thời điểm tiền được chuyển vào tài khoản của Technoimport
+ Thanh toán trực tiép cho người nước ngoài (trong trường hợp người uỷ thác và Technoimport cùng tham gia ký kết hợp đồng ngoại.
Bảng 6 : Kết quả thực hiện hợp đồng XK theo 1 số thị trường chính
năm 2000 - 2001
Nhóm mặt hàng
2000
2001
thị trường
Số hợp đồng ký kết
thị trường
Số hợp đồng ký kết
1. Than
Nhật bản
Hàn quốc
4
3
Nhật bản
Hàn Quốc
5
2
2. Hàng công nghiệp
Đài loan
Đức
LB Nga
Mỹ
Thuỵ điển
4
3
2
2
2
Đức
Nhật bản
Singapore
Thuỵ điển
Tây ban nha
5
4
2
2
1
3. Cao su
Nhật bản
Hàn Quốc
Đài Loan
Singapore
Mỹ
4
3
2
2
1
Nhật bản
Hàn quốc
Mỹ
Hà lan
Pháp
3
3
2
2
1
4. Nông sản
Pháp
Đài loan
Trung quốc
Hàn quốc
Singapore
3
3
2
2
2
Pháp
Singapore
Anh
Đức
Hà lan
4
3
2
2
1
Bảng 7 : Kết quả thực hiện hợp đồng NK theo một số thị trường chính năm 2000- 2001
Nhóm mặt hàng
2000
2001
Thị trường
Số hợp đồng ký kết
Thị trường
Số hợp đồng ký kết
1. TBTB
Pháp
Trung Quốc
Italia
Đức
Hàn quốc
5
4
2
1
1
Mỹ
Hàn quốc
Đan mạch
Italia
Pháp
3
3
2
2
1
2. Máy móc, thiết bị lẻ và phụ tùng
Nhật bản
Đài loan
CHLB Đức
Singapore
Anh
17
10
9
8
6
Nhật bản
CHLB Đức
Pháp
Trưng quốc
Mỹ
20
12
8
8
5
3. Hàng tiêu dùng
Nhật bản
Hàn Quốc
Singapore
Thái lan
Hồng Kông
7
6
6
5
3
Hàn quốc
Singapore
Hồng kông
Mỹ
Trung quốc
7
5
5
4
4
4. Vật tư tư liệu sản xuất
Đài loan
Hàn quốc
CHLB Nga
Trung quốc
Tây ban nha
14
8
7
5
2
Nhật
Singapore
Hàn Quốc
Đài loan
Mỹ
10
7
6
6
5
3. Đánh giá công tác giao dịch và hợp đồng XNK tại Technoimport
Hoạt động ngoại thương là một quá trình bao gồm rất nhiều hoạt động nghiệp vụ từ nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng, giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng.
Công tác giao dịch và hợp đồng XNK là hoạt động đóng vai trò rất quan trọng , nó quyết định tới sự thành công hay thất bại của 1 doanh nghiệp kinh doanh XNK, nó ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động của công ty.
Nhận thức rõ được vai trò của nó, ban lãnh đạo công ty, cán bộ CNV của Technoimport không ngừng nỗ lực nâng cao hiệu quả của công tác giao dịch điều đó được thể hiện.
Trong những năm vừa qua trước điều kiện khó khăn chung, kim ngạch XNK của các doanh nghiệp đều giảm sút tuy nhiên tổng kim ngạch XNK của Technoimport vẫn đạt được mức tương đối cao và đều hoàn thành vượt mức kế hoạch: 94,3 triệu USD (105,5%) năm 2000 và năm 2001 là 71 triệu USD (109,23%).
Techno import vẫn chiếm vị thế là doanh nghiệp lớn của Bộ thương mại, có uy tín trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu nhất là TBTB và máy móc thiết bị, phụ tùng... thị trường của công ty ngày càng được mở rộng và vươn rộng ra khắp thế giới trong đó có một số thị trường chính và thường xuyên như: Trung quốc, Đài loan, CHLB Nga, Italia, CH Pháp, Hàn quốc, Nhật bản...
Đạt được kết quả như vậy không thể không thấy được vai trò to lớn của công tác giao dịch và hợp đồng XNK của công ty.
Với kinh nghiệm hơn 40 năm của mình, Techno import đang là doanh nghiệp có uy tín trong lĩnh vực kinh doanh XNK của Việt Nam nhất là công tác giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng XNK.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tích đạt được trong hoạt động XNK nói chung và công tác giao dịch hợp đồng XNK nói riêng, Techno import cũng không thể không nhận ra những tồn tại và nguyên nhân của chúng.
a. Một số vấn đề về cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động:
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, Technoimport đã cơ cấu lại tổ chức theo cơ chế tự hạch toán kinh doanh, trong đó các đơn vị phải tự nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng, đàm phán và ký kết hợp đồng, làm thủ tục hải quan và thanh toán tiền hàng sao cho có lãi.
Cơ cấu này đã tỏ ra hiệu quả trong nền kinh tế thị trường, nhưng từ thực tiễn nghiên cứu hoạt động của công ty, tôi nhận thấy cơ cấu hiện nay có một số điểm hạn chế:
+Hoạt động độc lập khiến các đơn vị phải tự nghiên cứu thị trường, thu thập thông tin từ nhiều nguồn và từ các văn phòng đại diện từ nước ngoài, nhưng đồng thời nó cũng làm nảy sinh ý thức sở hữu riêng về thông tin của các đơn vị. Vì thế mỗi một đơn vị khi cần nó lại phải thu thập từ đầu.
+Nếu các đơn vị kinh doanh hoạt động như hiện nay thì có sự trùng lặp rất nhiều gây ra sự cạnh tranh trong nội bộ ngành.
+Trung tâm tư vấn đầu tư và thương mại là bộ phận chủ yếu có nhiệm vụ cung cấp thông tin và tư vấn cho các phòng nghiệp vụ,ngoài ra còn thực hiện tư vấn cho khách hàng song hiện nay trung tâm này vẫn thực hiện kinh doanh xuất nhập khẩu. Sở dĩ trung tâm này kiêm cả hai chức năng trên bởi giám đốc muốn trao quyền tự hạch toán kinh doanh cho đơn vị nhưng do hoạt động tư vấn là hoạt động không thường xuyên vì thế chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu mới được giao thêm. Nhưng điều này có điểm hạn chế, đó là không tạo điều kiện chuyên môn hoá cho cán bộ công nhân viên của trung tâm.
+Mặt khác, cũng cần phải xem xét đó là chức năng hoạt động của phòng kế hoạch tài chính. Cũng giống như mọi bộ phận kế hoạch tài chính khác, hoạt động của bộ phận này chỉ mang tính chất hướng nội, tức là việc nghiên cứu, xử lý, đánh giá đưa ra phương hướng biện pháp đều xuất phát từ điều kiện kinh tế xã hội. Những ảnh hưởng biến động xấu của các cơ chế tài chính, ngân hàng Việt nam trong thời gian qua trước cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế khu vực đã cho thấy điểm hạn chế này. Kinh doanh thương mại quốc tế chịu tác động rất nhiều của cơ chế chính sách quản lý ngoại hối và tỷ giá hối đoái, điều đó đòi hỏi phòng kế hoạch tài chính phải thực hiện nghiên cứu, thu thập thông tin để từ đó đưa ra những dự báo chính xác về xu thế vận động của chúng nhất là trong một thời gian gần đây khi mà thị trường chứng khoán của Việt nam chính thức đi vào hoạt động.
b. Một số vấn đề về công tác giao dịch
Đối với công tác giao dịch tại Technoimport thì với kinh nghiệm của mình Technoimport thực hiện khá tốt. Tuy nhiên không thể không có 1 số tồn tại cản trở công tác giao dịch.
* Công tác chuẩn bị giao dịch... muốn công tác giao dịch được tốt, đem lại hiệu quả thì các công việc chuẩn bị phải được tiến hành đầy đủ và có kết quả.
Trong những năm qua trước xu hướng toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới cũng như tình hình cạnh tranh gay gắt trên thị trường đòi hỏi mọi thành viên tham gia vào thị trường phải luôn luôn nghiên cứu và nắm bắt được các thông tin về thị trường.
Techno import không thể là 1 ngoại tệ. Tuy nhiên về công tác nghiên cứu thị trường và tìm kiếm bạn hàng của công ty còn 1 số điểm tồn tại.
- Công tác tìm kiếm bạn hàng của Techno import còn rất đơn giản, chủ yếu chỉ dựa vào các mối quan hệ quen biết hoặc do khách hàng tự tìm đến với công ty. Mặt khác hoạt động này đã được CBCNV chủ động nhưng mang tính tự phát, “chụp giựt” , thiếu tính năng động, chưa được tổ chức quy củ và còn mang nhiều màu sắc của cơ chế cũ.
- Do đặc điểm kinh doanh của công ty là mặt hàng kinh doanh rất đa dạng, không cố định do đó công tác nghiên cứu thị trường chỉ được thực hiện trên nhưng nhu cầu của khách hàng do đó mặc dù có nỗ lực tuy nhiên kết quả xuất khẩu của công ty vẫn ở mức thấp, chưa xâm nhập vào được những thị trường mới, tiềm năng. Nhưng thông tin ở những thị trường không có văn phòng đại diện vẫn chưa thu thập được
Trong công tác giao dịch ở Techno import thì vấn đề tồn tại đó là phương thức giao dịch và việc lựa chọn các phương thức giao dịch phù hợp.
- Phương thức giao dịch của công ty vẫn còn bó gọn trong 1 số phương thức giao dịch nhất định mà không ngừng nghiên cuứu và mở rộng nhất là đối với 1 số phương thức giao dịch mà hiện nay các công ty lớn trên thế giới thường áp dụng như giao dịch tại sở giao dịch, giao dịch qua trung gian và nhất là giao dịch tại hội chợ triển lãm.
Mặt khác trong phương thức giao dịch đấu thầu quốc tế mà hiện nay công ty áp dụng nhất là đối với hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ và máy móc thiết bị lẻ. Phương thức đấu thầu quốc tế là một phương thức rất phức tạp và mất nhiều thời gian việc mua sắm máy móc thiết bị thông qua đấu thầu thường phát sinh chi phí và những vấn đề phức tạp khi triển khai dự án. Bên cạnh đó trong quá trình gọi thầu thì technoimport thường bị ràng buộc bởi đối với Việt Nam thì các chủ đầu tư uỷ thác NK cho Technoimport thường chịu các điều kiện ràng buộc không phải của Nhà nước thì cũng của các tổ chức cho vay tín dụng do đó trong quá trình gọi thầu những nhà dự thầu thường được chỉ định do đó giảm tính cạnh tranh của các nhà thầu, công ty không nhận được những hợp đồng tối ưu nhất.
Ngoài ra, hiện nay theo quy định pháp luật của Nhà nước về đấu thầu máy móc thiết bị ở Việt Nam có những điểm không phù hợp với quy định của các tổ chức quốc tế, nhiều khi gây khó khăn cho các nhà thầu nước ngoài vào Việt Nam. Cũng theo quy định của khoản 2 điều 10 buộc nhà thầu nước ngoài phải sử dụng nhà thầu phụ Việt Nam hoặc phải liên doanh với nhà thầu Việt Nam do đó gây rất nhiều khó khăn và cản trở cho công ty trong quá trình đấu thầu nhiều khi đối tác không đáp ứng và thực hiện được các hợp đồng đã ký kết.
c-Một số vấn đề về công tác hợp đồng xuất nhập khẩu:
Đàm phán và ký kết hợp đồng chính là sở trường của Technoimport và công ty đã có gần 40 năm kinh nghiệm trong công tác này. Tuy nhiên cũng xin đưa ra một số vấn đề tồn tại trong công tác này:
-Vấn đề xác định giá cả trong hợp đồng: Hầu hết các hợp đồng được ký kết với giá cố định, kể cả các hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ, máy móc, thiết bị lẻ...Sở dĩ như vậy là một phần do chính sách quản lý của nhà nước đối với các dự án đầu tư và việc phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật đối với công trình thiết bị toàn bộ. Vì nếu không ký kết theo giá cả cố định thì bất kỳ một sự biến động bất lợi về giá nào cũng đòi hỏi các chủ đầu tư phải sửa đổi luận chứng kinh tế và xin xét duyệt lại.
-Đồng tiền tính giá và đồng tiền thanh toán nhiều khi là khác nhau, vì thế trong hợp đồng phải quy định tỷ giá chuyển đổi giữa hai đồng tiền. Thông thường Technoimport áp dụng tỷ giá thị trường lớn của thế giới như thị trường London vào thời điểm ký kết hợp đồng. Bằng cách này, Technoimport có thể tránh được những bất lợi về tỷ giá ........,đồng thời cũng bỏ qua khả năng thu chênh lệch từ những thay đổi có lợi của tỷ giá.
Technoimport cũng như các doanh nghiệp Việt nam khác, cũng thường xuất khẩu theo giá FOB, nhập khẩu theo CFR, CIF, do đó để mất quyền thuê tàu,vì vậy nhiều khi không chủ động được trong kinh doanh, mặt khác lại không thu được khoản hoa hồng thường được hưởng trong quá trình thuê tàu (giá thị trường rất lớn vì nó chiếm 20 đến 30% tổng giá trị của hợp đồng). Mặt khác, doanh nghiệp có thể gặp rủi ro trong quá trình vận chuyển hàng hoá nếu nhập khẩu theo CIF vì mặc dù nhà xuất khẩu đã mua bảo hiểm nhưng ta vẫn có thể gặp những rủi ro không thuộc phạm vi được bảo hiểm.
-Về việc thanh toán:
Với tư cách là người xuất nhập khẩu, Technoimport luôn cố gắng đàm phán để có được điều kiện thanh toán ưu đãi như đối với hoạt động nhập khẩu (thời hạn tín dụng dài, được phép thanh toán thành nhiều đợt...) hoặc đối với xuất khẩu (người mua ứng trước một khoản tiền nhất định...), ngoài ra Technoimport còn áp dụng một số biện pháp để hạn chế những rủi ro có thể phát sinh. Vì thế, việc thanh toán với nước ngoài khá thuận lợi, đôi khi Technoimport còn tranh thủ được vốn của người mua, người bán để tiến hành cấp tín dụng cho khách hàng của Công ty.
Tuy nhiên, hoạt động nhập khẩu uỷ thác của công ty chiếm tỷ trọng tương đối lớn, mà với tư cách là người nhận uỷ thác nhập khẩu, Technoimport lại gặp khá nhiều khó khăn trong vấn đề thanh toán bởi hầu hết các doanh nghiệp trong kinh doanh đều muốn sử dụng vốn của người khác. Nếu điều kiện thanh toán quá chặt chẽ, công ty dễ mất đi khách hàng. Nhưng với điều kiện ưu đãi, Technoimport lại dễ gặp phải rủi ro (nội địa chiếm dụng vốn, chi phí phát sinh, nợ dây dưa...). Mặt khác, do đặc thù nhập khẩu thiết bị toàn bộ là vốn không phải do bản thân nhà uỷ thác có mà thường do nhà nước cung cấp hoặc vốn vay, do đó nhiều trường hợp bạn hàng không đủ khả năng để thanh toán cho Technoimport.
Hơn thế nữa, việc thanh toán giữa các doanh nghiệp trong nước lại không được thực hiện bằng L/C mà chỉ bằng séc hoặc chuyển khoản, vì thế không có một tác nhân thứ ba là ngân hàng đứng ra bảo đảm quyền lợi cho cả người mua và người bán. Do vậy việc thanh toán chủ yếu phụ thuộc vào ý chí của người uỷ thác và sẽ càng rủi ro hơn nữa nếu Technoimport không hiểu rõ đối tác của mình.
Đó là những khó khăn của Technoimport trong vấn đề thanh toán hoạt động nhập khẩu uỷ thác.
Về phần Công ty,còn một số đơn vị không chấp hành nghiêm túc việc theo dõi đóng thuế xuất nhập khẩu, nhiều trường hợp để bị phạt chậm nộp thuế gây phát sinh thêm chi phí, giảm lãi.
Thanh toán xuất nhập khẩu, Technoimport sử dụng phương pháp thanh toán bằng L/C không huỷ ngang hoặc TTR. Trong tạm nhập tái xuất cũng vậy, công ty sử dụng 2 L/C huỷ ngang trong giao dịch này ( một cho người nhập khẩu nước ngoài mở cho công ty hưởng lợi, và một L/C do Công ty mở cho người xuất khẩu hưởng lợi). Cách này có ưu điểm dễ thực hiện, tránh nhầm lẫn, độc lập giữa hai giao dịch.Nhưng có điểm hạn chế đó là để mở L/C, thì số dư trong tài khoản tại các ngân hàng của Technoimport phải đủ, vì thế sẽ khó khăn khi cùng một lúc Technoimport muốn mở nhiều L/C. Mặt khác, L/C do người nhập khẩu nước ngoài mở cho Technoimport hưởng cũng là một chứng từ có giá, nhưng nếu sử dụng được hai L/C độc lập thì Technoimport sẽ không sử dụng được tính chất có giá của bộ L/C này. Nên chăng Technoimport nên nghiên cứu sử dụng các loại L/C khác có lợi hơn.
Bên cạnh những hạn chế và vướng mắc trong công tác giao dịch và hợp đồng xuất nhập khẩu từ bản thân công ty thì một tác động không nhỏ gây những khó khăn và cản trở hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty, đó là các chính sách quản lý xuất nhập khẩu của nhà nước, thủ tục hải quan và các biểu thuế áp dụng đối với công ty.
*Một số vướng mắc về thuế:
Kể từ ngày 1/1/1999 khi bắt đầu áp dụng biểu thuế xuất nhập khẩu 1999 và hai sắc thuế mới là thuế giá trị gia tăng (VAT) và thuế lợi tức doanh nghiệp cùng với những thay đổi các văn bản pháp quy có liên quan đến hai sắc thuế này đã dẫn đến những biến đổi trong hoạt động của doanh nghiệp. Chẳng hạn đối với hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ và thiết bị lẻ, thì biểu thuế xuất nhập khẩu ưu đãi năm 1999 đã có giá trị từ ngày 1/1/1999 nhưng đến ngày 7/4/1999 Bộ tài chính mới ban hành thông tư số 37/1999/TT-BTC hướng dẫn về cách phân loại hàng hoá nên đã xuất hiện rất nhiều vướng mắc về phương thức áp dụng mã thuế nhập khẩu. Phía hải quan do không thể tự quyết định phương thức áp mã thuế xuất nhập khẩu nên đã chọn phương thức có mức thuế cao nhất gây thiệt hại cho Technoimport.
Thuế giá trị gia tăng (VAT) là khoản thuế tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh nhằm tránh tình trạng đánh thuế chồng lên thuế.
Tuy nhiên,phương thức tính thuế VAT cùng với những quy định về áp dụng luật thuế VAT tỏ ra thiếu chính xác và chưa toàn diện, gây trở ngại cho Technoimport.
Nhìn vào công thức tính thuế VAT đối với hàng nhập khẩu có thể thấy ngay thuế VAT đã đánh chồng lên thuế nhập khẩu.
Thuế giá trị gia tăng(VAT)=(giá nhập khẩu+thuế nhập khẩu) x thuế suất thuế VAT
*Những vướng mắc về thủ tục hải quan:
Theo quy trình thu mới của hải quan, việc quy định các doanh nghiệp khi khai báo hải quan phải tự chịu trách nhiệm kê khai, áp dụng mã tính thuế đối với hàng hoá xuất nhập khẩu như vậy là Hải quan đã dồn hết trách nhiệm sang doanh nghiệp, còn doanh nghiệp thì tiếp tục phải chịu trách nhiệm trong vòng 5 năm. Rõ ràng rằng trách nhiệm của Hải quan là kiểm tra tờ khai, nếu tờ khai được khai đúng thì không có lý do gì yêu cầu doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về tờ khai đó trong vòng 5 năm. Điều đó là quá nặng nề và thậm chí mâu thuẫn với điều 9 pháp lệnh xử phạt hành chính quy định thời hiệu đối với các hành vi vi phạm hoạt động xuất nhập khẩu chỉ có 2 năm, cũng như những quy định về thời gian hiệu lực thực hiện các chế độ tài chính như lập hoá đơn bán hàng, thanh quyết toán theo từng năm...
Bên cạnh đó, người nhập khẩu gặp phải nhiều khó khăn khi Hải quan yêu cầu giám định tràn lan đối với hàng hoá nhập khẩu mỗi khi họ cảm thấy "kết quả giám định không phù hợp với thực tế hàng hoá". Đây là điều không hợp lý, vì bản thân Hải quan không phải là một tổ chức giám định, kết quả giám định thông thường không phải chỉ đơn thuần là những gì nhìn thấy mà đòi hỏi phải có hệ thống máy móc tiêu chuẩn kiểm tra...Do vậy, Hải quan không thể đưa ra lý do như vậy để từ chối kết quả giám định và yêu cầu tiến hành giám định tràn lan.
Ngoài ra không thể không nói đến những thay đổi, thiếu nhất quán của các chính sách trong quản lý xuất nhập khẩu của nhà nước và các cơ quan chức năng.
Chương 3:
Một số Biện pháp nhằm hoàn thiện công tác giao dịch và hợp đồng xuất nhập khẩu tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật ( Technoimport ).
I. Phương hướng thực hiện kinh doanh của công ty Technoimport.
1. Một số thuận lợi và khó khăn.
a. Thuận lợi.
- Kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của khối ASEAN và đến năm 2006, Việt Nam sẽ áp dụng hiệp định chung về ưu đãi thuế quan (CEPT) của khối với biểu thuế xuất nhập khẩu thấp từ 0 đến 5% và hàng rào phi thuế quan bị cắt bỏ. Do vậy trong giai đoạn từ nay đến năm 2006 nhu cầu của nền kinh tế về nhập khẩu các loại máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ tiên tiến có khả năng sản xuất ra những hàng hóa có sức cạnh tranh là rất lớn.
Hoạt động thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN sẽ ngày càng thuận lợi và dễ dàng hơn. Do đó trước mắt các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ có lợi rất nhiều.
- Qua 40 năm hoạt động, Technoimport đã tự khẳng định được uy tín của mình với khách hàng trong và ngoài nước. Là một công ty hàng đầu về nhập khẩu thiết bị toàn bộ, có thời gian hoạt động lâu dài do đó tích luỹ được rất nhiều kinh nghiệm trong kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương. Nắm vững tâm lý của mọi loại khách hàng nước ngoài mà công ty có cách giao tiếp và ứng sử phù hợp. Đối với mỗi loại thiết bị toàn bộ công ty biết mua ở thị trường nào là có lợi nhất, công ty có đủ kinh nghiệm trong việc giao dịch và đàm phán nhằm đưa ra các điều kiện có lợi nhất.
- Công ty có đội ngũ cán bộ đông đảo, có đủ trình đọ để thực hiện các công việc phức tạp trong hoạt động thương mại quốc tế như: giao dịch, đàm phán, thanh toán quốc tế..... ở mỗi phòng xuất nhập khẩu các trưởng, phó phòng đều có thể giao dịch trực tiếp với khách hàng nước ngoài bằng một trong hai thứ tiếng thông dụng là tiếng Anh và tiếng Pháp. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong việc chủ động làm ăn với khách hàng nước ngoài, tiết kiệm được thời gian và chi phí trong giao dịch và đàm phán.
- Công ty có một hệ thống các chi nhánh, văn phòng đại diện ở trong và ngoài nước. Hệ thống chi nhánh và văn phòng này tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyên môn hoá trong hoạt động của công ty. Các văn phòng đại diện của công ty ở nước ngoài giúp cho việc thu thông tin của khách hàng, giám sát việc thực hiện hợp đồng cũng như đảm bảo quyền lợi của công ty khi xảy ra tranh chấp.
- Chính sách mở cửa của Đảng và nhà nước, chủ trương đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ kinh tế đối ngoại cũng như các chính sách và hệ thống văn bản pháp quy nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu như: Đơn giản làm thủ tục hải quan....
-Sự ủng hộ và ưu đãi của Bộ Thương mại đối với Technoimport trong việc tao điều kiện thuận lợi cho hoạt động của công ty.
- Sự lãnh đạo sáng suốt và kịp thời của ban lãnh đạo công ty cũng như những kết quả đã đạt được trong những năm vừa qua, đây là nguồn sức mạnh to lớn cho công ty.
b. Khó khăn.
- Xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, bên cạnh những lợi ích, thuận lợi nó cũng buộc công ty phải nhảy vào một cuộc cạnh tranh khốc liệt, không chỉ đối với doanh nghiệp trong nước mà cả đối với các doanh nghiệp nước ngoài. Do đó trong những năm tới doanh nghiệp đối mặt với các khó khăn về thị trường:
+ Đối với thị trường trong nước: Doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với rất nhiêu các doanh nghiệp trong việc xuất nhập khẩu các mặt hàng chủ lực của công ty, không loại trừ cả lĩnh vực kinh doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Mặt khác do chủng loại hàng hóa kinh doanh của công ty rất đa dạng do đó việc kiểm soát toàn bộ hoạt động cũng như những sự biến đổi trong mức giá nhu cầu thị trường là rất khó khăn. Trên thị trường còn xuất hiện rất nhiều hàng hóa nhập lậu, hàng không nộp thuế nhập khẩu.
+ Đối với thị trường nước ngoài: Việc thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá cùng với việc Mỹ xoá bỏ lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam đã tạo điều kiện cũng như ràng các doanh nghiệp như Technoimport phải có những thay đổi sao cho phù hợp với hoàn cảnh mới. cơ chế mới để tiếp tục tồn tại và phát triển. Bạn hàng nước ngoài của công ty co rất nhiều kinh nghiệm, khả năng kinh doanh và sự am hiểu về các tập quán thương mại quốc tế. Do đó, việc kinh doanh của công ty đòi hỏi phải có được sự nghiên cứu và thu thập thông tin một cách chính xác và kịp thời trước mọi hợp đồng.
- Bên cạnh đó, hoạt động xuất nhập khẩu của công ty cũng gặp rất nhiều khó khăn từ phía nhà nước về phương hướng và chính sách như chính sách thuế của nhà nước, việc tăng thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn do đó làm giảm tính cạnh tranh và lợi nhuận của công ty dẫn đến hàng hóa của công ty bị ứ đọng rất nhiều. Ngoài ra, cơ chế xuất nhập khẩu của nhà nước vẫn còn một số vấn đề nan giải mà nhiều đơn vị kinh doanh quan tâm là yêu cầu giải quyết kịp thời các thủ tục hành chính trong kinh doanh xuất nhập khẩu, cán bộ hải quan còn thiếu năng lực chuyên môn..... Hơn thế nữa, chính sách của nhà nước còn thường xuyên thay đổi gây rất nhiều khó khăn đối với quá trình kinh doanh của công ty.
2.Mục tiêu kinh doanh của công ty trong năm tới.
Mục tiêu năm 2002 của công ty
- Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu: 68 triệu USD
+ Kim ngạch nhập khẩu: 64,5 triệu USD
+ Kim ngạch xuất khẩu: 3,5 triệu USD
- Doanh số: 205 tỷ VND
- Lợi nhuận ( sau lương ): 2,75 tỷ VND
Phương hướng kinh doanh của công ty
- Đối với thị trường trong nước:
+ Củng cố mối quan hệ sẵn có của Technoimport với các đơn vị bạn hàng thuộc các Bộ, các ngành.
+ Nghiên cứu nắm bắt năng lực sản xuất, nhu cầu đầu tư chiều sâu, cải tạo mở rộng các công trình hiện có và nhu cầu xây dựng mới, nhu cầu đầu tư của các Bộ, các ngành, các địa phương, đề xuất những phương án tối ưu về lựa chọn nguồn hàng, giá cả, trình độ tiên tiến về công nghệ của thiết bị, phụ tùng... để phục vụ xuất nhập khẩu và đầu tư đạt hiệu quả.
+ Nghiên cứu nhu cầu thị trường, năng lực thị trường để phát huy vai trò của Technoimport trong việc nhập và xuất khẩu thiết bị, phụ tùng, hàng hoá khác đáp ứng kịp thời cung và cầu trong nước.
+ Tìm kiếm các cơ sở sản xuất trong nước có năng lực sản xuất các mặt hàng bằng nguyên liệu trong nước hoặc nhập ngoại, liên doanh liên kết đầu tư vốn và thiết bị kỹ thuật để tạo nguồn hàng xuất khẩu, giải quyết công ăn việc làm cho nhiều người lao động và tăng trưởng vốn cho Technoimport. Ngoài ra tiến hành từng bước là một bên tham gia liên doanh của phía Việt Nam với nước ngoài theo luật đầu tư.
+ Nghiên cứu và vận dụng đúng các văn bản pháp quy của Nhà nước trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, đầu tư...
+ Tăng cường công tác quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng để thu hút khách hàng.
- Đối với thị trường ngoài nước:
+ Nghiên cứu có hệ thống các khu vực thị trường truyền thống và mở rộng các thị trường mới có trình độ công nghệ thế giới về các mặt hàng mà Technoimport chuyên doanh.
+ Thăm dò, tiếp cận những thị trường có khả năng tiêu thụ các sản phẩm do Technoimport liên doanh liên kết tạo ra hoặc trao đổi theo phương thức hàng đổi hàng.
+ Trên cơ sở nắm chắc nhu cầu thị trường ngoài nước, tổ chức hợp tác với các cơ sở kinh tế trong nước để đầu tư ra nước ngoài (đầu tư sản xuất và / hoặc liên doanh liên kết với nước ngoài)
+ Đẩy mạnh công tác thông tin liên lạc, nắm kịp thời những diễn biễn hoặc xu hướng diễn biến giá cả, mặt hàng, thị trường... để có chủ trương xuất nhập khẩu đúng, kịp thời.
+ Củng cố các đại diện của Technoimport hiện có và sẽ mở thêm ở nước ngoài, đưa những cán bộ có kiến thức năng lực làm tai mắt cho Technoimport tại nước ngoài.
Biện pháp thực hiện:
Thực sự quan tâm đến vấn đề hội nhập kết hợp với việc nghiên cứu thi trường , tìm hiểu và đáp ứng nhu cầu của bạn hàng là cơ sở giữ vững và mở rộng thị trường của công ty và thông qua đó tự phát triển, nâng cao hiệu quả kinh doanh
Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác tư vấn đầu tư và thương mại.
Nâng cao chất lượng phục vụ việc nhập khẩu các công trình thiết bị toàn bộ, phục vụ cho mọi ngành kinh tế quốc dân đồng thời đa phương hoá, đa dạng hoá hơn nữa hoạt động kinh doanh, tăng cường liên doanh liên kết với các cơ sở sản xuất để tạo mặt hàng xuất khẩu, kể cả xuất khẩu than và xuất khẩu lao động. Phấn đấu nâng kim ngạch xuất khẩu đăc biệt là tự doanh.
Tham gia vao các chương trình kinh tế định hướng lớn của nhà nước.
Đào tạo cán bộ đủ đức, đủ tài cả trong công tác quản lý và nghiệp vụ chuyên môn, chú ý tới cán bộ trẻ để có quy hoạch 2002-2004; 2005 -2010. Trước mắt, trong quy hoạch 2002-2004: Đào tạo một tổng giám đốc, một phó tổng giám đốc, năm trưởng phòng, một giám đốc chi nhánh, một phó giám đốc chi nhánh và các phó phòng. Tiếp tục củng cố hoàn thiện bộ máy tổ chức các phòng ban, điều động cán bộ giữa các phòng ban cho hợp lý và phát huy được khả năng trách nhiệm của từng cán bộ công nhân viên.
Triệt để thực hành tiết kiệm trong kinh doanh và quản lý nhưng vẫn đảm bảo văn minh lịch sự.
Phấn đấu đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ công nhân viên để mọi người toàn tâm toàn ý vì sự tồn tại và phát triển của công ty, quan tâm thực sự tới người lao động và đơn vị có năng suất cao, áp dụng quy chế lương mới phù hợp với chỉ đạo chung của Bộ Thương Mại, Bộ Lao động Thương Binh xã hội nhằm chấm dứt sớm tình trạng bao cấp trong thu nhập hiện nay.
Tuân thủ và thực hiện nghiêm chỉnh các chủ trương chính sách của Đảng, Chính phủ, pháp luật nhà nước, các chỉ thị của bộ ngành.
Triệt để thi hành các biện pháp mà công ty ban hành trong việc thực hiện các quy trình xuất nhập khẩu để đảm bảo hiệu quả kinh doanh, tránh xảy ra các thất thoát cũng như công nợ phát sinh.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong hoạt động kinh doanh, tích cực giải quyết các tồn tại công nợ dây dưa, thanh toán các chi phí, các khoản tạm ứng kịp thời.
Duy trì phát triển phong trào thi đua vì chất lượng công tác.
II. Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác giao dịch và hợp đồng xuất nhập khẩu tại công ty Technoimport.
1. Hoàn thiện về cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý hoạt động:
Các phòng xuất nhập khẩu từ 1 đến 7 cần tập trung chuyên môn vào một số ngành hàng nhất định, chấm dứt tình trạng kinh doanh theo kiểu chụp giựt, chồng chéo như hiện nay giữa các phòng. Việc chuyên môn hoá giúp cho các phòng phát huy được lợi thế của mình như các mối quan hệ với khách hàng trong và ngoài nước, quan hệ với nhà cung cấp, sự am hiểu về kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương đối với một số mặt hàng nhất định từ đó tăng khả năng cạnh tranh của công ty cũng như tạo ra được sự đoàn kết trong nội bộ để cùng hướng tới mục đích chung của công ty.
Trung tâm tư vấn đầu tư và thương mại nên tách khỏi chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu như hiện nay để tập trung vào chức năng tư vấn ( cho ban giám đốc, các phòng nghiệp vụ trong việc tìm kiếm các người tham gia dự thầu và tổ chức đấu thầu, giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng ).
Để khuyến khích, thúc đẩy hoạt động tìm kiếm bạn hàng trong toàn công ty ban giám đốc Technoimport nên áp dụng chính sách khen thưởng đối với bất cứ ai có công giới thiệu bạn hàng, khách hàng cho công ty và đơn vị mình.
Mở rộng chức năng của bộ phận kế hoạch tài chính, ngoài các chức năng trước đây bộ phận này nên đảm nhiệm thêm một số chức năng:
+ Tham mưu cho ban giám đốc và các đơn vị kinh doanh trong vấn đề thanh toán sao cho công ty có lợi nhất .
+ Kinh doanh ngoại hối để bảo toàn, phát triển và mở rộng vốn đồng thời tìm cách ứng phó với mọ biến động của thị trường nhằm hạn chế rủi ro cho công ty Trong năm 2002 thị trường chứng khoán sẽ đi vào hoạt động khi đó nhà nước sẽ mở rộng quyền quản lý, kinh doanh ngoại hối cho các doanh nghiệp . Khi đó Technoimport sẽ tham gia vào giao dịch chứng khoán và kinh doanh ngoại hối, ngay từ bây giờ cán bộ của công ty đặc biệt là phòng kế hoạch tài chính phải bồi dưỡng và nâng cao kiến thức về lĩnh vực này nhằm tránh bỡ ngỡ khi kinh doanh .
Trên đây là một số ý kiến nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức , cơ chế hoạt động đối với công ty Technoimport nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng và hoạt động kinh doanh của công ty nói chung.
2 Hoàn thiện công tác giao dịch và hợp đồng xuất nhập khẩu tại Technoimport .
a./Hoàn thiện công tác giao dịch.
Công tác chuẩn bị cho giao dịch là giai đoạn rất quan trọng, là bước khởi đầu cho công tác giao dịch và hàng loạt các nghiệp vụ kinh tế tiếp theo trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Công tác giao dịch muốn tốt, đạt hiệu quả cao thì công tác chuẩn bị giao dịch phải hoàn tất và chu đáo. Mặc dù với kinh nghiệm của mình Technoimport thực hiện khá tốt công tác chuẩn bị khi giao dịch tuy nhiên quá trình kinh doanh là quá trình tự hoàn thiện mình. Do đó trong thời gian tới để không ngừng hoàn thiện công tác này thì Technoimport cần phải tiến hành một số hoạt động sau:
- Công tác nghiên cứu thị trường và tìm kiếm bạn hàng của Technoimport nói chung và của từng bộ phận trong công ty nói riêng phải được tiến hành thường xuyên, liên tục và mang tính hệ thống khoa học. Technoimport luôn chủ động phát hiện nhu cầu của khách hàng và tìm cách thoả mãn những nhu cầu đó vì chỉ có thể Technoimport mới thu hút được khách hàng, mở rộng kinh doanh và thu được lợi nhuận.
- Tích cực nghiên cứu và tìm cách xâm nhập những thị trường mới, tiềm năng như: thị trường EU, Mỹ, Canada, Australia... nhất là đối với hoạt động xuất khẩu vì trong tương lai Technoimport sẽ mở rộng phạm vi kinh doanh song một số nhóm mặt hàng có nhu cầu rất lớn ở những thị trường này như: hàng thuỷ sản, hàng dệt may.
Muốn thực hiện được điều đó thì bên cạnh những nỗ lực của CBCNV trong công ty, sự lãnh đạo kịp thời của Ban giám đốc thì công ty không ngừng hoàn thiện hoạt động marketing. Hoạt động marketing cần phải được tổ chức thực hiện một cách quy củ và phải được xem là một bộ phận quan trọng trong hoạt động kinh doanh của toàn công ty cũng như của từng đơn vị kinh doanh, do đặc điểm tổ chức của Technoimport, marketing cần được tổ chức thành 2 cấp độ: cấp độ công ty và cấp độ đơn vị.
+ Cấp công ty chịu trách nhiệm nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình hình chung của thị trường ở cả trong, ngoài nước và của từng khu vực trên thế giới. Kết hợp với việc phân tích, đánh giá các báo cáo kết quả nghiên cứu thị trường của các đơn vị kinh doanh độc lập để lập nên chiến lược marketing chung cho toàn công ty, chỉ đạo các đơn vị thực hiện chiến lược này.
+ Cấp đơn vị phải chịu trách nhiệm tổ chức, tiến hành các hoạt động marketing trong lĩnh vực kinh doanh của đơn vị mình; báo cáo các kết quả nghiên cứu, đánh giá về thị trường của đơn vị, bộ phận, marketing cấp công ty trên cơ sở chiến lược marketing và chính sách marketing của toàn công ty các đơn vị sẽ cụ thể hoá thành chiến lược marketing của đơn vị mình.
Hoạt động marketing phải được thực hiện đầy đủ các chức năng của nó, đó là:
+ Nghiên cứu thị trường
+ Phát hiện nhu cầu
+ Đáp ứng nhu cầu
+ Gợi mở nhu cầu
Từ đó gắn liền với việc nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh và thiết lập các chính sách, biện pháp để vượt lên trên họ. Sử dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào việc nghiên cứu thị trường và môi trường kinh doanh của nước ngoài thông qua mạng Internet.
Ngoài ra Technoimport cần phát huy hơn nữa vai trò các văn phòng đại diện của công ty tại nước ngoài trong việc thu thập và cung cấp những thông tin về thị trường, bạn hàng, giá cả, nhu cầu... cho công ty để thông qua đó tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của mình. Cụ thể từng văn phòng đại diện của Technoimport bên cạnh việc thu thập, nghiên cứu và cung cấp phải thực sự trở thành đơn vị tìm kiếm, thu hút khách hàng cho công ty; đảm bảo quyền lợi của công ty tại nước sở tại, thay mặt công ty tiến hành một hoặc một số hoạt động nghiệp vụ của toàn bộ quá trình thực hiện nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu.
Chuẩn bị tốt các điều kiện, công việc trước khi giao dịch góp phần lớn vào sự thành công của công tác giao dịch trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Tuy nhiên một trong những giai đoạn mang tính chất quyết định đối với kết quả của công tác giao dịch nói riêng và toàn bộ hoạt động nghiệp vụ xuất nhập khẩu nói chung đó là việc lựa chọn phương thức giao dịch phù hợp. Như đã phân tích ở trên việc lựa chọn các phương thức giao dịch phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố như: đặc điểm của mặt hàng, bán hàng của công ty , vị thế của công ty trên thị trường... Do đó xuất phát từ đặc điểm mặt hàng và phạm vi kinh doanh của Technoimport rất đa dạng trong khi đó hiện nay Technoimport chỉ thường áp dụng một số phương thức nhất định như: giao dịch trực tiếp, đấu thầu, tạm nhập tái xuất.
Để không ngừng hoàn thiện công tác giao dịch thì Technoimport cần phải đa dạng hoá các phương thức giao dịch sao cho đối với từng loại mặt hàng khác nhau ta lựa chọn được các phương thức giao dịch phù hợp:
* Đối với hoạt động xuất khẩu
+ Các mặt hàng than, cao su, nông sản phẩm thì công ty nên áp dụng các phương thức giao dịch như giao dịch trực tiếp, buôn bán đối lưu, giao dịch qua trung gian.
+ Hàng công nghiệp: giao dịch tại hội chợ triển lãm, giao dịch tại sở giao dịch, giao dịch trực tiếp, buôn bán đối lưu.
* Đối với hoạt động nhập khẩu:
+ Thiết bị toàn bộ: phương thức đấu thầu, giao dịch trực tiếp.
+ Máy móc thiết bị lẻ, phụ tùng; hàng tiêu dùng, nguyên vật liệu: giao dịch trực tiếp, buôn bán đối lưu.
Trong thời gian tới Technoimport cần chú trọng tới việc áp dụng phương thức buôn bán đối lưu. Đây là phương thức buôn bán rất phù hợp với các doanh nghiệp có chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu như Technoimport, hình thức giao dịch này giúp cho Technoimport nhập được số mặt hàng nhập khẩu đáp ứng nhu cầu trong nước như: máy móc thiết bị lẻ, phụ tùng, hàng tiêu dùng... và bán được các mặt hàng như than, cao su, nông sản phẩm... khi áp dụng phương pháp này Technoimport trong việc đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng vì đây là hình thức giao dịch mua bán hai chiều.
Mặt khác, hình thức này đem lại hiệu quả cho Technoimport nói riêng và Việt Nam nói chung nhất là trong giai đoạn hiện nay thông qua việc tiết kiệm được những khoản chi ngoại tệ cho việc nhập khẩu và thúc đẩy nhanh xuất khẩu, cân đối được cán cân thương mại cũng như cán cân thanh toán.
Ngoài ra trong thời gian tới công ty cần phải chú trọng tham gia các hội chợ triển lãm vì khi Technoimport tham gia không những kí kết được nhiều hợp đồng mà còn có cơ hội quảng bá sản phẩm và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Technoimport cần tham gia một số hội chợ quốc tế tổ chức tại Việt Nam và có thể tham gia một số hội chợ triển lãm ở quốc tế. Tuy nhiên việc tham gia phải có kế hoạch và dự tính cẩn thận, phải lựa chọn thời điểm và địa điểm tham gia sao cho phù hợp với khả năng tài chính của công ty cũng như những mặt hàng mà công ty đang kinh doanh.
Bên cạnh đó công ty nên cử những cán bộ có kinh nghiệm nghiên cứu kỹ về tổ chức và cách thức tiến hành tại các sở giao dịch hàng hóa lớn trên thế giới để tiến tới từng bước có thể tham gia vào nhất là đối với hoạt động xuất khẩu các sản phẩm như: cao su, nông sản phẩm ... vì thông thường giao dịch tại sở giao dịch hàng hóa buôn bán với khối lượng lớn, mặt khác chính ngay trong giai đoạn lựa chọn hàng hóa đủ điều kiện để tham gia tại Sở giao dịch chúng ta đã từng bước nâng cao được chất lượng sản phẩm cũng như củng cố được uy tín của Technoimport.
Đối với hoạt động đấu thầu (nhất là đối với các công trình thiết bị toàn bộ) bên cạnh những khó khăn và bất cập mà công ty phải đối mặt trong hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ nói chung và hoạt động đấu thầu nhập khẩu thiết bị toàn bộ nói riêng từ cơ chế chính sách của nhà nước về quản lý xuất nhập khẩu. Trong thời gian tới Technoimport cần phải không ngừng hoàn thiện hơn nữa công tác đấu thầu.
- Trong quá trình lập “điều kiện dự thầu” thì cần có sự cân nhắc, bên cạnh những điều kiện nhất định phải đáp ứng thì trong từng trường hợp phải có sự thay đổi để phù hợp với từng công trình và từng thời điểm. Điều này sẽ được quyết định từ phía các đơn vị của công ty và nhất là trung tâm tư vấn đầu tư và thương mại phải phát huy sở trường và kinh nghiệm của mình, bên cạnh đó CBCNV của từng phòng nghiệp vụ cũng có thể thực hiện, điều đó phụ thuộc vào qui mô giá trị của hợp đồng hoặc sự chỉ đạo của ban giám đốc.
- Muốn thực hiện tốt công tác đấu thầu thì Technoimport cần có được cán bộ có chuyên môn về các lĩnh vực kỹ thuật, khoa học công nghệ. Vì việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ là việc nhập về hàng trăm thậm chí hàng nghìn các loại máy móc thiết bị khác nhau. Do đó đòi hỏi phải có người am hiểu và biết rõ để từ đó tránh được tình trạng nhập khẩu “đống phế liệu”...
b./Hoàn thiện công tác hợp đồng xuất nhập khẩu .
* Đối với các điều khoản trong hợp đồng :
Trong việc đàm phán để đi đến ký kết các điều khoản trong hợp đồng xuất nhập khẩu , cán bộ của Technoimport cần linh hoạt , nhanh nhạy trong việc lựa chọn phương thức xác định giá cả và cơ sở xác định tỷ giá chuyển đổi, không nên cứng nhắc và dập khuôn mà bỏ lỡ cơ hội kinh doanh :
- Xác định giá cả của hàng hóa : có thể cân nhắc giữa việc quy định giá cả cố định, linh hoạt hoá giá quy định sau hay xác định giá cả theo thị trường dựa trên việc nghiên cứu, phân tích , dự đoán những biến động trong tương lai.
- Khi dự đoán thấy có nhiều khả năng giá giảm trong tương lai thì nên đàm phán để ký kết hợp đồng với giá cố định tại thời điểm ký kết hợp đồng ( đối với hợp đồng xuất khẩu ) và ký kết hợp đồng với giá cả qui định sau, giá cả linh hoạt (đối với hợp đồng nhập khẩu ). Bằng cách đó sẽ tăng lợi nhuận của công ty; tạo điều kiện giảm giá hàng nhập khẩu để thu hút khách hàng và tăng khả năng cạnh tranh đối với đối thủ khác.
-Các phương pháp xác định giá này cần được phát huy trong hoạt động tự doanh, riêng đối với hoạt động uỷ thác cần có sự thống nhất, thoả thuận với người uỷ thác. Khả năng cạnh tranh của công ty sẽ được tăng lên nêú Technoimport giúp khách hàng lựa chọn được cách xác định giá cả có lợi hơn.Trong trường hợp người uỷ thác không mạo hiểm và chỉ muốn áp dụng phương pháp giá cả cố định thì Technoimport vẫn còn có thể chấp nhận mạo hiểm để ký kết hợp đồng ngoại thương với phương thức xác định giá cả có lợi và đảm bảo giao hàng với giá cố định đã ký kết với người uỷ thác.
-Tương tự như vậy,Technoimport nên ký kết hợp đồng ngoại thương với tỷ giá chuyển đổi được xác định vào thời điểm mà công ty dự đoán là có lợi nhất chứ không nên quy định cứng nhắc là tỷ giá vào lúc ký kết hợp đồng như hiện nay.
-Cơ sở xác định tỷ giá chuyển đổi có thể là tỷ giá chuyển đổi trực tiếp giữa hai đồng tiền được niêm yết tại một số thị trường lớn nhưng cũng có thể dùng " giỏ tiền tệ" của một số đồng tiền ổn định để xác định tỷ giá chuyển đổi nhằm hạn chế những ảnh hưởng của sự biến động về kinh tế , chính trị , xã hội ở nước lưu hành đồng tiền thanh toán và đồng tiền tính giá.
* Hoàn thiện trong công tác thanh toán.
- Technoimport cần tổ chức theo dõi chặt chẽ việc thanh toán , thời hạn nộp thuế và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Tránh để bị phạt do chậm thanh toán dẫn đến phát sinh thêm chi phí ( trong hoạt động nhập khẩu) và để bạn hàng dây dưa nợ nần, chiếm dụng vốn.
- Trong hoạt động tạm nhập tái xuất, các đơn vị kinh doanh của Technoimport nên nghiên cứu để sử dụng L/C giáp lưng (L/C - Back to Back) để sử dụng được tính chất có giá của Bộ chứng từ thanh toán mà không cần phải có đủ số dư trong tài khoản tài sản tại các ngân hàng để mở L/C thanh toán cho người cung cấp.
- Trong hoạt động xuất khẩu của công ty nếu thanh toán bằng phương thức L/C, Technoimport cần kiểm tra kỹ việc mở L/C của người nhập khẩu, nhất là đối với ngân hàng mở L/C và so sánh nội dung của L/C với các điều khoản trong hợp đồng đã ký kết nhằm tránh những rủi ro có thể gặp phải trong việc thanh toán tiền hàng.
- Để tránh những khó khăn trong việc thanh toán với khách hàng nội địa, Technoimport nên :
+ Nắm vững các thông tin về khả năng tài chính, nguồn vốn nhập khẩu của người uỷ thác, người mua hàng trước khi ký kết hợp đồng .
+ Chỉ nên duy trì một tỷ lệ % nhất định số khách hàng có khả năng thanh toán thấp để đảm bảo không quá giới hạn cho phép của tỷ trọng tổng các khoản phải thu có khả năng thanh toán thấp trong tổng số các khoản phải thu của công ty.
+ Tiến hành một số biện pháp nhằm đảm bảo khả năng thu hồi vốn cho công ty như:
Yêu cầu khách hàng mở L/C dự phòng.
Yêu cầu người uỷ thác nhập khẩu phải có giấy bảo lãnh thanh toán của cơ quan có thẩm quyền ( Ngân hàng, Bộ và Ngành chủ quản của người uỷ thác, Chính Phủ....)
Lập một bản giao kèo giữa Technoimport với người uỷ thác, trong đó quy định các quyền lợi mà Technoimport được hưởng khi người uỷ thác không có khả năng thanh toán hoặc thanh toán không đúng hạn.
Muốn làm được điều này, công ty cần lựa chọn và đánh giá khách hàng. Chỉ chấp nhận các khách hàng có khả năng thanh toán. Tuy nhiên điều này sẽ làm giảm tính cạnh tranh của công ty. Vì thế bên cạnh đó Technoimport phải áp dụng các chính sách ưu đãi khác để lôi kéo khách hàng như: Cấp tín dụng trả chậm với lãi suất thấp, mức phí dịch vụ uỷ thác hợp lý, tăng % giá trị hợp đồng mà người uỷ thác được phép giữ lại trong thời gian lắp đặt, bảo hành...
III.Một số kiến nghị đối với các cơ quan chức năng.
1. Đối với chính sách thuế xuất nhập khẩu.
Chính sách thuế xuất nhập khẩu của nhà nước cần nhất quán đối với mọi tổ chức kinh doanh không có những ưu tiên riêng biệt tạo nên sức cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường, nhà nước phải xem xét lại thuế suất giá trị gia tăng (VAT ) đối với các mặt hàng xuất nhập khẩu để tránh tình trạng thuế chồng nên thuế hiện nay. Hơn nữa Nhà nước không nên lạm dụng thuế nhập khẩu vì thế sẽ kích thích nhập lậu. Thuế xuất nhập khẩu hợp lý một mặt tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa Technoimport xuất khẩu và giảm giá đối với hàng nhập khẩu để người tiêu dùng trong nước có thể lựa chọn mua hàng hóa. Nhà nước cần nghiên cứu để sửa đổi biểu thuế xuất nhập khẩu nhất là đối với cơ cấu của biểu thuế của nước ta vừa quá đơn giản vưà quá phức tạp. Đơn giản vì danh mục thuế chỉ có một cột với tỷ lệ áp dụng cho một nhóm hàng không đủ chi tiết để xác định gây không ít khó khăn cho việc định mức thuế suất cho hàng hóa không ghi trong bảng mã thuế quan. Phức tạp bởi vì biểu thuế có tới 28 mức thuế từ 0 đến 100 % giá CIF. Vì vậy nhà nước nên cải cách cơ cấu thuế hiện nay theo hướng mức thuế suất ít hơn nằm trong số lượng nhóm hàng cụ thể.
2. Đối với thủ tục hải quan.
Quy trình hành thu mới của hải quan cần được sửa đổi vì tuy chủ hàng chịu trách nhiệm tự khai nhưng hải quan không đồng ý tiếp nhận thì vẫn không nộp được tờ khai, nếu được nộp thì tiếp theo sau khi nộp xong tờ khai, qua quá trình cơ quan Hải quan kiểm hoá thực tế, kiểm tra tính toán lại thuế, phụ thu và xác nhận đã hoàn thành thủ tục Hải quan thì chủ hàng mới được đem hàng ra khỏi địa diểm làm thủ tục hải quan nhưng vẫn phải chụi trách nhiệm trong vòng 5 năm như vậy Hải quan không chụi trách nhiệm gì về hoạt động của mình. Do đó, Hải quan cần phải sửa đổi quy trình này nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong việc làm thủ tục hải quan của doanh nghiệp. Mặt khác đối với các văn bản pháp quy của các cơ quan nhà nước liên quan đến ngành Hải quan phải có hiệu lực ngay sau khi ban hànhchứ không phải đợi văn bản hướng dẫn của cấp trên.
3. Đối với chính sách tỷ giá hối đoái và quản lý ngoại tệ.
* Chính sách tỷ giá hối đoái:
- Chính sách tỷ giá hối đoái của nhà nước có quan hệ trực tiếp đến việc tăng hay giảm tỷ trọng xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Công ty khi tiến hành các hoạt động nhập khẩu nếu bán ngoại tệ cho ngân hàng ngoại thương sẽ bị thiệt do tỷ giá mua vào của ngân hàng thường thấp hơn giá trị thị trường 10 %. Do đó ngân hàng nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Thương mại cần quản lý bằng cách buộc các đơn vị phải thanh toán qua ngân hàng, xoá bỏ tình trạng giữ ngoại tệ tự mua bán với nhau.
- Hiện nay nhà nước đã có nhiều chính sách tích cực về tỷ giá hối đoái như: công bố tỷ giá trên phương tiện thông tin đại chúng, hỗ trợ cho các ngân hàng kinh doanh ngoại tệ, giữ cho tỷ giá hối đoái của một số ngoại tệ mạnh ( USD, DEM... ) ổn định.
* Chính sách quản lý ngoại tệ.
Nhà nước cần có sự quản lý ngoại tệ để đảm bảo có được đầu vào bằng việc nhập khẩu ( thiết bị toàn bộ, máy móc, nguyên vật liệu... ). Nhà nước cần xem xét lại và điều chỉnh nguyên tắc cơ chế phân bổ ngoại tệ ở các doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp với nhau. Nhà nước phải ưu tiên phân bổ vốn ngoại tệ thuộc các dự án lớn tốn nhiều ngoại tệ sang các việc cổ vũ, khuyến khích các mối liên kết trong nội bộ các ngành công nghiệp và cải tiến hoạt động của các doanh nghiệp theo tiêu chuẩn kinh tế.
4/Về hạn ngạch xuất nhập khẩu:
Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật chuyên kinh doanh mặt hàng máy móc, thiết bị là những mặt hàng thuộc Nhà nước quản lý nên Nhà nước cần có chính sách phân bố hợp lý. Hiện nay việc giành hạn ngạch nhập khẩu đã phân bổ cho các đơn vị sản xuất thông qua các bộ, ngành nên gây không ít phiền hà cho cơ sở, không phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước cần hoàn thiện phương thức phân bổ hạn ngạch theo nguyên tắc "một cửa" có nghĩa là chỉ phân bổ cho các đơn vị đã có quyền xuất nhập khẩu trực tiếp theo các nhóm hàng xuất, nhập khẩu đem lại hiệu quả cao, đóng góp nhiều cho Nhà nước. trong tương lai Nhà nước có thể tiến hành phân bổ hạn ngạch theo hình thức gọi thầu và đấu giá với sự tham gia của các đơn vị kinh doanh từng ngành hàng cụ thể.
5/Về việc quản lý của nhà nước trong hoạt động đấu thầu và hợp đồng mua sắm thiết bị toàn bộ.
- Phải điều chỉnh bất hợp lý về số lượng nhà thầu tối thiểu trong qui chế đấu thầu mới ban hành để tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong việc lựa chọn các nhà thầu có khả năng đáp ứng tối ưu các yêu cầu của công ty.
- Mở rộng đối tượng được phép áp dụng hợp đồng có điều chỉnh giá (theo qui định tại điều 6 qui chế đấu thầu) hợp đồng với điều chỉnh giá là hợp đồng áp dụng cho những gói thầu mà tại thời điểm ký kết hợp đồng không đủ điều kiện xác định chính xác về số lượng và khối lượng hoặc có biến động lớn về giá cả do chính sách của nhà nước thay đổi và hợp đồng có hiệu lực trên 12 tháng. Như vậy làm tăng rủi ro cho các hợp đồng có thời gian hiệu lực ít hơn do không được điều chỉnh về giá cả nếu có biến động về giá cả, tỉ giá hối đoái giữa đô la Mĩ và Việt Nam đồng gây thua thiệt cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Technoimport nói riêng.
Các văn bản pháp quy có liên quan tới hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ phải được sửa chữa theo hướng chính xác, không chồng chéo và rườm rà gây cản trở cho hoạt động kinh doanh của công ty.
Quản lý chặt chẽ trong việc quyết định tổng mức vốn đầu tư cho công trình, cùng với việc tiến hành giải ngân kịp thời cho các chủ đầu tư uỷ thác cho Technoimport trong việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ tránh thất thoát và thiệt hại cho công ty trong việc chậm thanh toán đối với một số công trình như hiện nay.
Kết luận
Trên đây, tôi đã trình bầy nội dung về mặt lý luận của công tác giao dịch và hợp đồng xuất nhập khẩu cũng như thực tiễn công tác giao dịch và hợp đồng xuất nhập khẩu tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật ( TECHNOIMPORT ). Với 40 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực giao dịch và đàm phán, ký kết hợp đồng ngoại thương,TECHNOIMPORT đã đứng vững trên thị trường và ngày càng phát triển. Những kết quả kinh doanh mà công ty đạt được đã khẳng định công ty là một doanh nghiệp nhà nước lớn của Bộ Thương Mại, kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu tạo được uy tín cao ở cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên quá trình kinh doanh là quá trình tự hoàn thiện mình đặc biệt là hoàn thiện trong từng nghiệp vụ ngoại thương.
Công tác giao dịch và hợp đồng xuất nhập khẩu là một nghiệp vụ quan trọng có ảnh hưởng lớn tới tất cả các nghiệp vụ ngoại thương cũng như kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty.
Sau một thời gian nghiên cứu và thực tập tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật,tôi đã có một số nhận xét cơ bản về công tác giao dịch và hợp đồng xuất nhập khẩu của công ty Technoimport cũng như nhìn nhận những mặt còn tồn tại cần khắc phục trong thời gian tới và từ đó nêu ra một số kiến nghị của bản thân nhằm hoàn thiện công tác giao dịch và hợp đồng xuất nhập khẩu .
Do thời gian nghiên cứu ngắn và trình độ có hạn nên chuyên đề này không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Vì thế tôi rất mong được sự xem xét của các thầy cô cùng các cô, các bác, các chú trong công ty Technoimport và các bạn để đề tài nghiên cứu của tôi tốt hơn.
Tài liệu tham khảo
1.Giao dịch và thanh toán thương mại quốc tế
PGS-PTS Nguyễn Duy Bột, ĐHKTQD, 2000.
2.Quản trị kinh doanh thương mại quốc tế.
PGS-PTS Trần Chí Thành, NXB GD,1999.
3.Thương mại Quốc tế .
PGS-PTS Nguyễn Duy Bột, NXB Thống Kê 1999.
4.Hướng dẫn sử dụng INCOTERMS 1990.
Nguyễn Thị Mơ, NXB KHKT 1999.
5.Đàm phán và ký kết hợp đồng kinh doanh quốc tế .
Tô Xuân Dân,ĐHKTQD,2000
6.Hướng dẫn thực hành kinh doanh xuất nhập khẩu tại Việt Nam.
Võ Thanh Thu- Đàm Thị Hồng Vân, NXB TK 1999.
7.Thanh toán quốc tế trong ngoại thương .
Đinh Xuân Trình ,NXB Gd 1999.
8.Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương .
Vũ Hữu Tửu, NXB GD 1999.
9.Kỹ thuật soạn thảo hợp đồng ngoại thương .
Lê Thanh Châu, NXB TK 1999.
10.Tạp chí Thương mại ,ngoại thương hàng tháng.
11.Các báo cáo ,tài liệu của công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật .
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0484.doc