Một số câu hỏi ôn tập môn Thuế

Pháp luật thuế là công cụ chủ yếu và lâu dài của Nhà nước nhằm huy động tập trung một phần của cải vật chất trong xã hội vào ngân sách Nhà nước. Ngân sách có thể huy động bằng nhiều cách khác nhau như đi vay, bán tài nguyên thiên nhiên, nhận viện trợ, in tiền nhưng không có nguồn thu nào mang tính chất bền vững như thuế. Thuế chính là công cụ tác động vào sự phân bổ nguồn lực trong xã hội.Thuế gắn liền với sự tồn tại và phát triển của nhà nước và là công cụ quan trọng mà bất cứ quốc gia nào cũng sử dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Thuế là khoản thu bắt buộc, không bồi hoàn trực tiếp của nhà nước đối với các tổ chức cá nhân nhằm trang trải mọi chi phí về mục đích chung. Doanh thu từ thuế sẽ được sủ dụng để trang trải cho các hoạt đông đầu vào cần thiết để sản xuất các hang hóa và dịch vụ công của chính phủ. Mặt khác: Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với các pháp nhân và thể nhân trong xã hội.Việc các chủ thể nộp thuế - thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước. Cũng như pháp luật nói chung, Pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất cuả sự điều chỉnh quan hệ pháp luật thu - nộp thuế là nhằm tạo lập qũy ngân sách Nhà nước. Hầu hết ở các quốc gia, thuế là hình thức chủ yếu mà pháp luật quy định để thu ngân sách Nhà nước. Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất phát từ phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để tập trung nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi ngày càng tăng.

doc16 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 4033 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số câu hỏi ôn tập môn Thuế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TIỂU LUẬN MÔN THUẾ Câu 1: Vai trò của thuế đối với ngân sách nhà nước (NSNN): Pháp luật thuế là công cụ chủ yếu và lâu dài của Nhà nước nhằm huy động tập trung một phần của cải vật chất trong xã hội vào ngân sách Nhà nước. Ngân sách có thể huy động bằng nhiều cách khác nhau như đi vay, bán tài nguyên thiên nhiên, nhận viện trợ, in tiền…nhưng không có nguồn thu nào mang tính chất bền vững như thuế. Thuế chính là công cụ tác động vào sự phân bổ nguồn lực trong xã hội.Thuế gắn liền với sự tồn tại và phát triển của nhà nước và là công cụ quan trọng mà bất cứ quốc gia nào cũng sử dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Thuế là khoản thu bắt buộc, không bồi hoàn trực tiếp của nhà nước đối với các tổ chức cá nhân nhằm trang trải mọi chi phí về mục đích chung. Doanh thu từ thuế sẽ được sủ dụng để trang trải cho các hoạt đông đầu vào cần thiết để sản xuất các hang hóa và dịch vụ công của chính phủ. Mặt khác: Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với các pháp nhân và thể nhân trong xã hội.Việc các chủ thể nộp thuế - thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước. Cũng như pháp luật nói chung, Pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất cuả sự điều chỉnh quan hệ pháp luật thu - nộp thuế là nhằm tạo lập qũy ngân sách Nhà nước. Hầu hết ở các quốc gia, thuế là hình thức chủ yếu mà pháp luật quy định để thu ngân sách Nhà nước. Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất phát từ phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để tập trung nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi ngày càng tăng. Câu 3: So sánh cách tính thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng dẫn của kế toán với cách tính thuế TNDN theo quy định của Luật thuế thu nhập hiện hành. Do sự áp dụng Chuẩn mực kế toán số 17- Thuế thu nhập doanh nghiệp, Thông tư số 60/2007/TT-BTC ban hành ngày 14/06/2007 của Bộ Tài chính và Thông tư số 134/2007/TT-BTC ban hành ngày 23/11/2007, nên việc xác định và hạch toán kế toán thuế Thu nhập doanh nghiệp (TNDN) hiện nay đã có những điểm mới khác biệt so với trước đây. Trong quá trình quyết toán thuế TNDN một trong những công việc mà các doanh nghiệp phải làm đó là xác định phần chênh lệch tạm thời giữa kế toán và thuế nhằm xác định Chi phí thuế thu nhập hoãn lại hay Thu nhập thuế thu nhập hoãn lại để xác định Chi phí thuế TNDN hiện hành và xác định kết quả của doanh nghiệp Trước hết, so sánh các cách xác định theo công thức sau: Lợi nhuận kế toán = Doanh thu và thu nhập khác theo quy định của kế toán - Chi phí theo quy định của kế toán. => Thuế TNDN phải nộp theo kế toán = Lợi nhuận kế toán x Thuế suất thuế TNDN hiện hành (t%) Và: Thu nhập chịu thuế TNDN = Doanh thu và thu nhập khác theo quy định của thuế - Chi phí theo quy định của thuế Thuế TNDN phải nộp theo thuế = Thu nhập chịu thuế TNDN X Thuế suất thuế TNDN hiện hành (t%) Tình huống này chỉ xảy ra khi có sự khác nhau giữa quy định của thuế và quy định của kế toán (Thái độ nhằm phá vỡ liên kết giữa kế toán và thuế) Nguyên nhân xảy ra sự chênh lệch là do cách xác định khác nhau như sau: Chỉ tiêu Theo quy định của kế toán Theo quy định của Thuế Doanh thu Tổng giá trị các lợi ích kinh tế của Doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu, phát sinh từ các hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường của doanh nghiệp. Thoả mãn 5 điều kiện theo chuẩn mực kế toán số 14 Toàn bộ tiền bán hàng, tiền gia công, tiền cung ứng dịch vụ bao gồm cả trợ giá và phụ thu, phụ trội mà cơ sở kinh doanh được hưởng. Doanh nghiệp đã phát hành hoá đơn hoặc dịch vụ cung cấp đã hoàn thành Khấu hao Theo thời gian sử dụng ứớc tính của Tài sản Theo Quyết định số 206 Dự phòng phải thu khó đòi Theo ban lãnh đạo Doanh nghiệp Theo quy định của Bộ tài chính + 30% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ trên 6 tháng đến dưới 1 năm. + 50% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 1 năm đến dưới 2 năm. + 70% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 2 năm đến dưới 3 năm. + 100% giá trị đối với khoản nợ phải thu từ 3 năm trở lên. Chi phí hỗ trợ, ủng hộ Ghi nhận vào chi phí Chi phí không được khấu trừ Lãi vay Là chi phí Lãi vay vượt mức quy định không đợc coi là chi phí Dự phòng trợ cấp mất việc làm và thử việc Là chi phí Theo tỷ lệ quy định Mức trích Quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm từ 1% - 3% trên quỹ tiền lương Phân bổ chi phí của công ty Mẹ ở nước ngòai Là chi phí Quy định cụ thể phương pháp tính Chi phí không có hoá đơn, chứng từ theo quy định Là chi phí Không được coi là chi phí Tiền phạt Là chi phí Không được coi là chi phí Thu nhập sau thuế từ góp vốn Liên doanh, cổ phần Doanh thu Không được tính là doanh thu … Có hai loại chênh lệch giữa kế toán và thuế, đó là chênh lệch vĩnh viễn và chênh lệch tạm thời (1). Chênh lệch vĩnh viễn là chênh lệch giữa lợi nhuận kế toán và thu nhập chịu thuế TNDN phát sinh từ các khoản Doanh thu, thu nhập khác, chi phí được ghi vào lợi nhuận kế toán nhưng không được tính vào thu nhập, chi phí khi tính thu nhập chịu thuế TNDN. Hoặc ngược lại, các khoản Doanh thu, thu nhập khác, chi phí đựơc tính vào thu nhập chịu thuế TNDN nhưng không được tính vào lợi nhuận kế toán. Ví dụ: - Lãi cổ tức, lãi từ trái phiếu doanh nghiệp nhận được là khoản thu nhập không chịu thuế và được loại trừ toàn bộ ra khỏi thu nhập chịu thuế TNDN. - Các khoản được tài trợ, biếu tặng phải nộp thuế trên giá trị các khoản tài trợ, biếu tặng này nhưng kế toán không được xem là phần lợi nhuận kế toán mà phải ghi tăng nguồn vốn. - Nguyên vật liệu, nhân công vươt trên mức bình thường, chi phí sản xuất chung cố định phần phân bổ còn lại là chi phí của kế toán để xác định lợi nhuận kế toán nhưng không phải là tính vào thu nhập chịu thuế TNDN. - Trường hợp mua Ôtô của cá nhân nhưng chưa sang tên công ty, toàn bộ chi phí liên quan đến hoạt động, khấu hao xe ôtô này tính vào Lợi nhuận kế toán nhưng không tính vào thu nhập chịu thuế TNDN. - Chi phí quảng cáo, hoa hồng, tiếp thị vượt trên mức quy định là chi phí tình vào lợi nhuận kế toán nhưng không phải là chi phí tình vào thu nhập chịu thuế TNDN. - Các khoản tiền Doanh nghiệp bị phạt là chi phí tính vào lợi nhuận kế toán nhưng không phải là chi phí tính vào thu nhập chịu thuế TNDN (2). Chênh lệch tạm thời là chênh lệch phát sinh do sự khác biệt về thời điểm Doanh nghiệp ghi nhận thu nhập hoặc chi phí và thời điểm pháp luật về thuế quy định tính thu nhập chịu thuế hoặc chi phí được khấu trừ khỏi thu nhập chịu thuế. Có hai loại chênh lệch tạm thời, đó là: + Chênh lệch tạm thời phải chịu thuế TNDN: Là các khoản chênh lệch tạm thời làm phát sinh thu nhập chịu thuế khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN trong tương lai khi mà giá trị ghi sổ của các khoản mục Tài sản hoặc Nợ phải trả liên quan được thu hồi hay được thanh toán. + Chênh lệch tạm thời được khấu trừ: Là các khoản chênh lệch tạm thời làm phát sinh các khoản được khấu trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN trong tương lai khi mà giá trị ghi sổ của các khoản mục Tài sản hoặc nợ phải trả được thu hồi hay được thanh toán. Hiện nay nhà nước ta có các biện pháp khắc phục từng bước thay đổi, hoàn thiện chế độ tài chính doanh nghiệp, chế độ hạch toán kế toán và chính sách thuế TNDN theo hướng thu  hẹp dần sự khác nhau giữa thu nhập chịu thuế và lợi nhuận doanh nghiệp. Bên cạnh đó biện pháp cơ bản, lâu dài để giảm độ lệch trên là tất cả các hoạt động mua bán hàng hóa cung ứng dịch vụ phải có hóa đơn, chứng từ hợp pháp. Bộ Tài chính đã có nhiều chính sách biện pháp để thúc đẩy việc sử dụng hóa đơn như: Chính sách thanh toán không dùng tiền mặt, bán hóa đơn lẻ và nhất là khuyến khích sử dụng hóa đơn tự in... Các doanh nghiệp cũng thấy rằng sử dụng hóa đơn trong mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ không những sẽ làm cho việc xác định số thuế TNDN chính xác, phù hợp hơn với lợi nhuận thực tế mà còn là biện pháp làm lành mạnh tình hình tài chính doanh nghiệp, giám sát được chi phí để hạ giá thành sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Câu 4 : Thuế chống phá giá được áp dụng khi nào? Các biện pháp tự vệ về thuế là như thế nào? ở Việt Nam hiện nay có áp dụng hay không? Thuế chống bán phá giá là loại thuế được các quốc gia đặt ra để bảo vệ lợi ích cùa cùa các chủ thể trong nội địa trước sự cạnh tranh với các chủ thể bên ngoài. Hiệp định về Chống bán Phá giá là một trong những hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được ký kết tại Vòng đàm phán Uruguay. Đầu tiên ta nên hiểu một số vần đề: Bán phá giá là gì? Bán phá giá trong thương mại quốc tế là hiện tượng xảy ra khi một loại hàng hóa được XK với giá thấp hơn giá bán của mặt hàng đó tại thị trường nội địa nước XK. Như vậy có thể hiểu đơn giản là nếu giá XK của một mặt hàng thấp hơn giá nội địa của nó thì sản phẩm đó bị coi là bán phá giá. Ví dụ: lạc nhân của nước A bán tại thị trường nước A với giá (X) nhưng lại được XK sang nước B với giá (Y) (Y<X) thì xảy ra hiện tượng bán phá giá đối với sản phẩm này XK từ A sang B. Tại sao bán phá giá? Có nhiều nguyên nhân dẫn tới hiện tượng bán phá giá trong thương mại quốc tế. Nhiều trường hợp cố tình bán phá giá nhằm đạt được những lợi ích nhất định như: Bán phá giá để loại bỏ các đối thủ cạnh tranh trên thị trường nước NK từ đó chiếm thế độc quyền; Bán giá thấp tại thị trường nước NK để chiếm lĩnh thị phần; Bán giá thấp để thu ngoại tệ mạnh... Đôi khi việc bán phá giá là việc bất đắc dĩ do nhà sản xuất, XK không bán được hàng, sản xuất bị đình trệ, sản phẩm lưu kho lâu ngày có thể bị hỏng... nên đành bán tháo để thu hồi vốn. Trong thương mại quốc tế, thuế chống bán phá giá có thể bị áp đặt mà không quan tâm đến lý do vì sao nhà sản xuất bán phá giá. Bán phá giá sang thị trường nước ngoài thường bị coi là một hiện tượng tiêu cực do nó làm giảm khả năng cạnh tranh về giá và thị phần của sản phẩm nội địa của nước NK. Tuy nhiên, bán phá giá có thể có tác động tích cực đối với nền kinh tế: người tiêu dùng được lợi vì giá rẻ; nếu hàng bị bán phá giá là nguyên liệu đầu vào của một ngành sản xuất khác, giá nguyên liệu rẻ có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất định của ngành đó,... Vì thế không phải mọi hành vi bán phá giá đều bị áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Theo quy định của WTO, các biện pháp chống bán phá giá chỉ được thực hiện trong những hoàn cảnh nhất định và phải đáp ứng các điều kiện nhất định. Cụ thể, các biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng khi xác định được đủ ba điều kiện sau đây: Hàng NK bị bán phá giá; Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước NK bị thiệt hại đáng kể; Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng NK bán phá giá và thiệt hại nói trên. Thuế chống bán phá giá? Thuế chống bán phá giá là khoản thuế bổ sung bên cạnh thuế NK thông thường, đánh vào sản phẩm nước ngoài bị bán phá giá vào nước NK. Đây là loại thuế nhằm chống lại việc bán phá giá và loại bỏ những thiệt hại do việc hàng NK bán phá giá gây ra. Trên thực tế, thuế chống bán phá giá được nhiều nước sử dụng như một hình thức "bảo hộ hợp pháp" đối với sản xuất nội địa của mình. Để ngăn chặn hiện tượng lạm dụng biện pháp này, các nước thành viên WTO đã cùng thoả thuận về các quy định bắt buộc phải tuân thủ liên quan đến việc điều tra và áp đặt thuế chống bán phá giá, tập trung trong một Hiệp định về chống bán phá giá của WTO - Hiệp định ADA. Điều kiện áp dụng thuế chống bán phá giá: Cần phài hội tụ ba diều kiện Có hành động bán phá giá: được tính bằng độ chênh lệch giữa giá của mặt hàng nhập khẩu với giá của mặt hàng tương tự bán tại thị trường của nước xuất khẩu (gọi là biên độ phá giá). Biên độ phá giá từ 2% trở lên. Số lượng, trị giá hàng hóa bán phá giá từ một nước vượt quá 3% tổng khối lượng hàng nhập khẩu (ngoại trừ trường hợp số lượng nhập khẩu của các hàng hóa tương tự từ mỗi nước có khối lượng dưới 3%, nhưng tổng số các hàng hóa tương tự của các nước khác nhau được xuất khẩu vào nước bị bán phá giá chiếm trên 7%). Có thiệt hại vật chất đối với ngành sản xuất của nước nhập khẩu đang cạnh tranh trực tiếp với hàng nhập khẩu. Hành động bán phá giá là nguyên nhân gây ra thiệt hại vật chất, hoặc đe dọa gây ra thiệt hại vật chất nêu trên. Xác định hành vi bán phá giá: Thông lệ quốc tế định nghĩa hành động bán phá giá là bán sang nước khác với giá thấp hơn thị trường trong nước.'Than phiền' chỉ là theo cảm tính, còn để khởi kiện thì phải tìm bằng chứng có tính thuyết phục, và điều này thường không đơn giản. Bằng chứng thứ hai của hành động bán phá giá là căn cứ vào giá bán cao nhất của sản phẩm sang một nước thứ ba, hay chi phí sản xuất của DN tại nước xuất khẩu cộng thêm chi phí bán hàng và lợi nhuận nhất định. Đây là trường hợp mà Mỹ đã áp dụng trong vụ kiên cá basa việt nam bị kiện phá giá tại thị trường mĩ . . Một bằng chứng khác để kiện bán phá giá là việc chính phủ trợ cấp cho DN sản xuất hàng xuất khẩu. Phía Mỹ cùng một số nước khác đã cố gắng tìm bằng chứng này trong các vụ kiện bán phá giá đối với VN nhưng đều thất bại. Để xác định hành động bán phá giá, nguyên nhân và thiệt hại của ngành sản xuất trong nước thi cần phải có cơ quan điều tra của cơ quan có chức năng. Và cơ quan điều tra chỉ tiến hành khi có sự yêu cầu của ngành sản xuất, và phài đảm bào có sự ủng hộ của các nhà sản xuất ra sản phẩm tương đương đạt trên 50%. Khi hàng hóa bị xem là bán phá giá thì chúng có thể bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá (anti-dumping) như thuế chống phá giá, đặt cọc hoặc thế chấp, cam kết hạn chế định lượng hoặc điều chỉnh mức giá của nhà xuất khẩu nhằm triệt tiêu nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước nhập khẩu, trong đó thuế chống bán phá giá là biện pháp phổ biến nhất hiện nay. Hiên nay thì không phài bất ký trường hợp bán phá giá nào cũng áp dụng thuế chống bán phá giá, chỉ có một số trường hợp thật sự gây thiệt hại lớn cho ngành sản xuất hàng hóa tương đương này. Các biện pháp tự vệ về thuế : Là các biện pháp mà các quốc gia nhập khẩu áp dung đối với các loại hàng hóa nhập khẩu vào quốc gia mình nhằm hạn chế thấp nhất các thiệt hại mà các doanh nghiệp nước ngoài thực hiện các hiến lược về giá cả để cạnh tranh với thị trường các hàng hóa tương đương trong nước Áp dụng ở việt namViệt Nam Hiện tại, các qui định và thủ tục về các biện pháp thương mại thông qua các biện pháp tự vệ chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh 42/2002/PL-UBTVQH10 về Tự vệ đối với nhập khẩu hàng nước ngoài vào Việt Nam ngày 25/5/2002 và Nghị định 150/2003/NĐ-CP ban hành những hướng dẫn chi tiết để thực hiện Pháp lệnh 42/2002/PL-UBTVQH10 về Tự vệ đối với nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam. Pháp lệnh 42 cho phép Việt Nam áp dụng các biện pháp tự vệ để bảo vệ các ngành sản xuất trong nước trước những tổn thất nghiêm trọng khi có sự gia tăng bất thương hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam “vượt trên những mức nhất định”. Theo Nghị định của Chính Phủ số 150/2003/NĐ-CP ngày 08/12/2003 Điều 1. Phạm vi điều chỉnh Nghị định này quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam; quy định về các biện pháp tự vệ; thủ tục điều tra và áp dụng các biện pháp này trong trường hợp nhập khẩu hàng hóa quá mức vào Việt Nam, gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước.   Điều 2. Các biện pháp tự vệ Các biện pháp tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam bao gồm: 1. Tăng mức thuế nhập khẩu so với mức thuế nhập khẩu hiện hành; 2. Áp dụng hạn ngạch nhập khẩu; 3. Áp dụng hạn ngạch thuế quan; 4. Áp dụng thuế tuyệt đối; 5. Cấp phép nhập khẩu để kiểm soát nhập khẩu; 6. Phụ thu đối với hàng hoá nhập khẩu; 7. Các biện pháp khác. Việt Nam sẽ chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng 11 năm nay. Bài viết này tập trung vào một vấn đề rất đáng quan tâm nhưng còn tương đối ít được đề cập tới, đó là vấn đề chống bán phá giá hàng hóa nước ngoài ở Việt Nam. Cho đến nay, Việt Nam đã là đối tượng của các vụ kiện và áp đặt biện pháp trừng phạt chống phá giá nhưng Việt Nam dường như chưa hề tiến hành một vụ điều tra chống bán phá giá nào trên lãnh thổ Việt Nam.  Tuy vậy, rất có khả năng sau khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ tích cực sử dụng biện pháp chống bán phá giá để bảo hộ thị trường trong nước đối với một hay một số dòng sản phẩm nào đó.  Có một vài nghiên cứu cho thấy một số chiều hướng chung về sử dụng biện pháp chống bán phá giá trên thế giới.  Thứ nhất, việc sử dụng biện pháp này rất không đều ở các nước. Mười nước hay sử dụng biện pháp này nhất chiếm tới 90% tổng số vụ được báo cáo cho WTO từ 1995 - 2001. Mười nước này cũng phần lớn là những nước lớn về kinh tế và thương mại, tổng cộng chiếm tới 70% GDP và 50% thương mại toàn cầu.  Thứ hai, việc sử dụng biện pháp này không còn giới hạn ở các nước công nghiệp nữa. Hiện nay, sáu trong mười nước sử dụng biện pháp này nhiều nhất là các nước đang phát triển (Argentina, Brazil, Ấn Độ, Mexico, Nam Phi, và Thổ Nhĩ Kỳ).  Các nước đang phát triển khác cũng ngày càng sử dụng biện pháp này nhiều hơn, và mặc dù tỷ trọng của chúng vẫn còn nhỏ nhưng đã tăng rất nhanh (gấp đôi) trong cùng kỳ.  Thứ ba, đối với nhóm 10 nước sử dụng nhiều nhất biện pháp chống bán phá giá, những nhóm lợi ích trong nước bị thiệt hại do bị kiện bán phá giá ở nước ngoài thường lại nhỏ hơn những nhóm lợi ích được lợi từ việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá để bảo hộ thị trường trong nước.  Điều này cho thấy một thực tế rằng bảo hộ chẳng qua chỉ phản ánh sự xung đột giữa những nhóm lợi ích xuất khẩu ở trong nước với những nhóm lợi ích cạnh tranh với hàng nhập khẩu cũng ở trong nước, chứ không phải là xung đột giữa các quốc gia.  Vì vậy, các nghiên cứu nghiêng về phía kết luận cho rằng biện pháp chống bán phá giá của các nước đang phát triển nói trên đã gây ra những tổn hại về phúc lợi cho bản thân nền kinh tế nội địa của họ, và những tổn hại này còn lớn hơn nếu so với trường hợp của các nước đã phát triển có áp dụng các biện pháp chống phá giá.  Hiện thời, các luật định về chống bán phá giá của Việt Nam đi theo mô hình chung như sau: chứng minh có sự tồn tại và ước tính mức độ bán phá giá và mức độ thiệt hại vật chất, cũng như chứng minh mối liên hệ giữa bán phá giá và thiệt hại.  Tuy vậy, luật định về chống bán phá giá của Việt Nam có ba đặc điểm lớn.  Thứ nhất, nhiều chi tiết để bỏ ngỏ chờ hướng dẫn bởi các thông tư, nghị định, và do đó là cơ sở tạo bất trắc.  Thứ hai, luật định của Việt Nam có tất cả những thiên lệch nghiêng về phía bảo hộ của những điều khoản chống bán phá giá của WTO. Trong số này có việc sử dụng khái niệm một tỷ trọng lớn trong một ngành công nghiệp nào đó là mức ngưỡng để chấp nhận khiếu kiện đòi điều tra bán phá giá (một điều kiện mà những nhà sản xuất nội địa độc quyền, hay những tập đoàn có thể thỏa mãn dễ dàng hơn nhiều so với các ngành công nghiệp cạnh tranh); khả năng lạm dụng quyền lực bởi các cơ quan chức năng, đặc biệt khi chịu tác động mạnh và ngầm của các nhóm lợi ích liên quan; sử dụng các giá trị danh nghĩa định sẵn trong tính toán khi các mức giá so sánh không có từ các nước xuất khẩu, dẫn đến khả năng cố ý lạm dụng để tính toán sai về chi phí và lợi nhuận thích hợp...  Thứ ba, biện pháp chống phá giá của Việt Nam có xu hướng không chỉ là một công cụ để bảo vệ thị trường trong nước mà còn được coi là một công cụ để trả đũa các hành động chống bán phá giá của nước ngoài được cho là bất hợp lý, gây hại cho xuất khẩu của Việt Nam.  Do đó, những biện pháp chống phá giá được áp dụng không nhất thiết phản ánh nhu cầu bảo vệ thị trường nội địa một cách chính đáng trước sự xâm nhập ồ ạt của hàng nhập khẩu dưới sự trợ giúp của các hành động bán phá giá từ nước ngoài, và, bởi vậy, là những biện pháp tỏ ra có hại về phúc lợi chung.  Vì vậy, nếu trong tương lai gần Việt Nam theo gương các nước đang phát triển, tích cực áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, cản trở quá trình tự do hóa nền kinh tế theo các cam kết của WTO thì cái giá phải trả về tổn thất phúc lợi chung có thể sẽ rất lớn và tăng theo số vụ việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá ở Việt Nam, giống như kinh nghiệm ở các nước đang phát triển chỉ ra bên trên (ngoài chuyện dễ bị trả đũa bởi các nước đối tác, và do đó tổn thất phúc lợi càng lớn hơn nếu tính cả thiệt hại này).  Do vậy, một yêu cầu cấp bách là Việt Nam phải quản lý chặt việc sử dụng biện pháp chống bán phá giá ở thị trường trong nước. Một giải pháp thận trọng bao gồm những điểm chính sau:  Không cho phép bảo hộ kép (ví dụ bảo hộ bằng cả thuế trừng phạt và quota).  Các biện pháp chống phá giá không kéo dài quá 5 năm.  Không cho phép sự lặp lại biện pháp chống phá giá trong thời gian ngắn.  Không cho phép hoặc hạn chế sự cộng dồn mức nhập khẩu từ các nước khác nhau trong việc điều tra phá giá, trừ khi sản phẩm này là do cùng một công ty hoặc chi nhánh của nó làm ra.  Cấm việc gạt bỏ mọi giao dịch liên quan đến xuất khẩu ra khỏi tính toán giá thành xuất khẩu trong điều tra bán phá giá ở trong nước. Tóm lại, nếu Việt Nam muốn tiếp tục quá trình tự do hóa thành công thì nên tránh trở thành nước lạm dụng biện pháp chống bán phá giá ở trong nước. Câu 5: Hãy trình bày vắn tắt về hiệp định tránh đánh thuế hai lần Trong thương mại quốc tế, việc cùng tồn tại nhiều hệ thống thuế khác nhau giữa các nước dẫn tới việc một khoản thu nhập của một đối tượng nộp thuế có thể bị đánh thuế tại hai nước khác nhau. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng việc vi phạm nghĩa vụ thuế, trốn lậu thuế của các đối tượng liên quan. Đến nay Việt nam đã ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với thunhập với hơn 50 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Mục đích ký kết các Hiệp định tránh đánh thuế  hai lần nhằm loại bỏ việc đánh thuế trùng bằng cách: Miễn, giảm số thuế phải nộp tại Việt nam cho các đối tượng cư trú của nước ký kết hiệp định. Khấu trừ số thuế mà đối tượng cư trú Việt nam đã nộp tại nước ký kết hiệp định vào số thuế phải nộp tại Việt Nam. Hiệp định còn tạo khuôn khổ pháp lý cho việc hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau giữa các cơ quan thuế Việt Nam với cơ quan thuế các nước kết trong công tác quản lý thuế quốc tế nhằm ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập và vào tài sản. A.TÓM TẮT CHUNG HIỆP ĐỊNH I. PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA HIỆP ĐỊNH 1. Đối tượng nộp thuế thuộc diện điều chỉnh của Hiệp định: Hiệp định tránh đánh thuế hai lần áp dụng đối với các đối tượng cư trú của Việt Nam và của nước ký Hiệp định với Việt Nam gồm: các cá nhân, công ty và bất kỳ tổ chức nào là đối tượng chịu thuế của Việt Nam cũng như của nước ký kết Hiệp định với Việt Nam đối với toàn bộ các khoản thu nhập hay tài sản của đối tượng đó căn cứ vào các tiêu thức nhà ở, nơi cư trú, thời gian cư trú, trụ sở điều hành, trụ sở đăng ký, địa điểm thành lập tổ chức kinh doanh hay căn cứ vào bất kỳ tiêu thức nào khác có tính chất tương tự. Tổng cục thuế hướng dẫn cụ thể các căn cứ xác định đối tượng nộp thuế theo quy định nêu trên. Ví dụ như đối với cá nhân ta chia ra đối tương cư trú và cá nhân không cư trú để nhận mức giảm trừ gia cảnh hay không.Nếu là đối tượng đều thuộc đối tượng cư trú của cả hai quốc gia thì theo luật ta dựa vào tài sản,các quan hệ kinh tế của đối tượng đó đối với từng quốc gia. 2. Phạm vi lãnh thổ: Hiệp định chỉ được áp dụng trong phạm vi lãnh thổ, lãnh hải, Vùng đặc quyền kinh tế thuộc Chủ quyền quốc gia của Việt Nam và của các nước ký kết Hiệp định với Việt Nam. II. NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG LUẬT TRONG NƯỚC VÀ HIỆP ĐỊNH TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN 1. Trường hợp có sự khác nhau giữa các quy định tại Hiệp định và các quy định tại luật thuế trong nước thì sẽ áp dụng theo các quy định của Hiệp định. 2. Hiệp định không tạo ra các nghĩa vụ thuế mới, khác hoặc nặng hơn so với luật thuế trong nước. Ví dụ: trường hợp tại Hiệp định có các quy định theo đó Việt Nam có quyền thu thuế đối với một loại thu nhập nào đó nhưng Luật thuế Việt Nam chưa có quy định thu thuế đối với thu nhập đó hoặc quy định thu với mức thấp hơn thì áp dụng theo quy định của Luật thuế Việt Nam. 3. Khi Việt Nam thực hiện các quy định tại Hiệp định, vào từng thời điểm nhất định các từ ngữ chưa được định nghĩa trong Hiệp định sẽ có nghĩa như quy định tại luật của Việt Nam theo mục đích thuế tại thời điểm đó, trừ trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác. 4. Thông tư này hướng dẫn thực hiện nội dung cơ bản của các Hiệp định. Khi áp dụng, xử lý về thuế đối với từng trường hợp phải căn cứ theo quy định cụ thể tại từng Hiệp định (bao gồm cả Nghị định thư và/hoặc Thư trao đổi nếu có) đã có hiệu lực thi hành tại Việt Nam (Phụ lục 1 đính kèm Thông tư này). III CÁC LOẠI THUẾ ÁP DỤNG CỦA HIỆP ĐỊNH Hiệp định chỉ áp dụng đối với các loại thuế đánh trên lợi tức hoặc thu nhập do Việt Nam và các nước ký kết ban hành hiện hành hoặc trong tương lai. Tại Việt Nam, các loại thuế thuộc phạm vi áp dụng của Hiệp định gồm: a. Thuế lợi tức theo Luật Thuế lợi tức, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Khuyến khích Đầu tư trong nước, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Luật Dầu khí; b. Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; c. Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; d. Thuế thu nhập từ tiền bản quyền; e. Thuế lợi tức đối với các hãng tàu biển nước ngoài hoạt động tại Việt Nam; f. Thuế lợi tức đối với các Nhà thầu nước ngoài hoạt động tại Việt Nam không theo các hình thức quy định tại Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; g. Thuế Chuyển nhượng vốn; h. Các loại thuế lợi tức, thuế thu nhập khác hoặc tương tự như các loại thuế nêu từ điểm (a) đến (g) trên đây được ban hành tại Việt Nam sau này (nếu có). 3.2. Ngoài các loại thuế đánh vào lợi tức hoặc thu nhập nói trên, trong một số Hiệp định tránh đánh thuế hai lần Việt Nam đã ký với các nước còn áp dụng đối với cả các loại thuế đánh vào tài sản. Trường hợp phát sinh việc đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và một nước ký kết đối với tài sản, Bộ Tài chính sẽ có hướng dẫn cụ thể. Các loại thuế khác như thuế doanh thu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu không thuộc phạm vi áp dụng của Hiệp định.a B. BIỆN PHÁP TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN TẠI VIỆT NAM Theo quy định tại Hiệp định, khi một đối tượng nộp thuế là đối tượng cư trú của Việt Nam, có thu nhập từ Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam và đã nộp thuế tại nước này (theo quy định của Hiệp định và Luật pháp nước đó), Việt Nam vẫn có thể có quyền thu thuế đối với các khoản thu nhập này nhưng đồng thời Việt Nam cũng có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp tránh đánh thuế hai lần để đối tượng nộp thuế đó không bị nộp thuế hai lần. Tuỳ theo mỗi Hiệp định đã ký kết, Việt Nam có thể sẽ thực hiện một biện pháp hoặc kết hợp các biện pháp tránh đánh thuế hai lần dưới đây: I. BIỆN PHÁP KHẤU TRỪ THUẾ Trường hợp một đối tượng cư trú của Việt Nam có thu nhập và đã nộp thuế tại Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam, nếu tại Hiệp định, Việt Nam cam kết thực hiện biện pháp khấu trừ thuế thì khi đối tượng cư trú này kê khai thuế thu nhập tại Việt Nam, các khoản thu nhập đó sẽ được tính vào thu nhập chịu thuế tại Việt Nam theo quy định của Luật thuế Việt Nam và số tiền thuế đã nộp ở Nước ký kết sẽ được khấu trừ vào số thuế phải nộp tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, số thuế được khấu trừ không vượt quá số thuế phải nộp tại Việt Nam tính trên thu nhập từ Nước ký kết theo Luật thuế Việt Nam. Ví dụ: Ông A là người của nước M và là đối tượng cư trú của Việt Nam trong năm 2009. Trong năm 2009, ông A có thu nhập từ tiền làm công 8 tháng tại Việt Nam là 80.000.000 đồng và 4 tháng tại nước M là 100.000.000 đồng. Theo quy định của Hiệp định Việt Nam với M (Khoản 1, Điều 15:Hoạt động dịch vụ cá nhân phụ thuộc) ông A phải nộp thuế tại M đối với thu nhập có được từ nước này với mức thuế suất theo quy định của Luật thuế nước này (20%). Giả sử ngoài các thu nhập vừa nêu ông A không có các nguồn thu nhập nào khác. Trong trường hợp này, việc kê khai nộp thuế và khấu trừ thuế đã nộp tại M của ông A ở Việt Nam như sau: Theo luật thuế thu nhập cá nhân mới của Việt Nam Thu nhập chịu thuế của ông A (theo pháp luật thuế Việt Nam): (80.000.000 đồng + 100.000.000 đồng) : 12 tháng = 15.000.000 đồng/tháng - Xác định thuế thu nhập của ông A (theo pháp luật thuế Việt Nam): [(15.000.000 – 10.000.000) x 15% + (10.000.000 – 5.000.000)x 10% + 5.000.000 x 5%] x 12 = 18.000.000 đồng/năm - Số thuế đã nộp tại M (theo Luật thuế của M): 100.000.000 đồng x 20% = 20.000.000 đồng Phân bổ số thuế tính theo pháp luật Việt Nam trên thu nhập phát sinh tại nước M: 18.000.000 đ ------------------------------------ 80.000.000 đ + 100.000.000đ x 100.000.000đ = 10.000.000đ Vậy ông M được khấu trừ thuế và chỉ nộp thuế ở Việt Nam là : 18.000.000 – 10.000.000 = 8.000.000 đồng II BIỆN PHÁP KHẤU TRỪ SỐ THUẾ KHOÁN Trường hợp một đối tượng cư trú của Việt Nam có thu nhập và phải nộp thuế tại Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam (theo mức thuế được miễn hoặc giảm như một ưu đãi đặc biệt), nếu tại Hiệp định, Việt Nam cam kết thực hiện Biện pháp khấu trừ số thuế khoán thì khi đối tượng cư trú đó kê khai thuế thu nhập tại Việt Nam, các khoản thu nhập đó sẽ được tính vào thu nhập chịu thuế tại Việt Nam theo quy định của Luật thuế Việt Nam và số tiền thuế khoán sẽ được khấu trừ vào số thuế phải nộp tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp số tiền thuế khoán được khấu trừ không vượt quá số thuế phải nộp tại Việt Nam tính trên thu nhập từ nước ngoài theo Luật thuế Việt Nam. Số thuế khoán là số thuế lẽ ra đối tượng cư trú của Việt Nam phải nộp tại Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam trên khoản thu nhập phát sinh tại Nước ký kết đó, nhưng theo quy định tại luật của Nước ký kết đó được miễn hoặc giảm như một biện pháp ưu đãi đặc biệt. C.TỔ CHỨC THỰC HIỆN HIỆP ĐỊNH Để các quy định tại Hiệp định tránh đánh thuế hai lần Việt Nam đã ký với các nước được thực hiện đúng và đầy đủ, Bộ Tài chính quy định và hướng dẫn về tổ chức thực hiện như sau: 1. Nhiệm vụ và Quyền hạn của Tổng cục thuế trong việc thực hiện Hiệp định: Theo quy dịnh tại Hiệp định, các nước đều phải cử đại diện của mình (gọi là Nhà chức trách có Thẩm quyền) để xử lý các công việc liên quan đến việc thực hiện Hiệp định. Đối với Việt Nam, Chính phủ đã giao cho Bộ trưởng Bộ Tài chính làm Nhà chức trách có thẩm quyền của Việt Nam. Để thực hiện các quy định của Hiệp định, Bộ trưởng Bộ Tài chính uỷ quyền cho Tổng cục trưởng Tổng cục thuế thực hiện các công việc sau: a. Ban hành văn bản thông báo hiệu lực thi hành hoặc chấm dứt hiệu lực của từng Hiệp định thuế sau khi có ý kiến chấp thuận của Bộ trưởng Bộ Tài chính và thông báo của Bộ Ngoại giao Việt Nam; b. Nghiên cứu soạn thảo các văn bản Giải thích, hướng dẫn thực hiện các quy định của Hiệp định; c. Tổ chức chỉ đạo và hướng dẫn, kiểm tra các Cục thuế và các tổ chức được uỷ nhiệm thu trong việc thực hiện Hiệp định; d. Nghiên cứu và đàm phán với nhà chức trách có thẩm quyền về Hiệp định của nước ký Hiệp định với Việt Nam về các Tranh chấp, Khiếu nại trong quá trình thực hiện Hiệp định đòi hỏi phải giải quyết bằng thoả thuận song phương theo quy định của Hiệp định; e. Trao đổi thông tin với cơ quan thuế nước ngoài theo quy định của Hiệp định; g. Xác nhận các Chứng từ đã nộp thuế ở Việt Nam cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài (nếu có yêu cầu) để các đối tượng đó được pháp khấu trừ thuế ở nước ngoài; h. Cấp giấy xác nhận đối tượng cư trú của Việt Nam theo yêu cầu của các tổ chức, cá nhân. 2. Thủ tục thoái trả tiền thuế theo Hiệp định: Trường hợp một đối tượng đã nộp thuế vào ngân sách theo quy định của Luật thuế Việt Nam, nhưng theo các quy định tại Hiệp định, đối tượng đó lại không phải nộp thuế hoặc nộp quá số tiền thuế phải nộp tại Việt Nam, thì đối tượng đó có quyền làm đơn yêu cầu hoặc uỷ quyền cho một đại diện hợp pháp thay mặt đối tượng đó yêu cầu Bộ Tài chính thoái trả số tiền thuế đã nộp. Trong trường hợp này, Bộ Tài chính hướng dẫn thủ tục và hồ sơ xét thoái trả tiền thuế như sau: 2.1. Đối tượng phải gửi đến Tổng Cục thuế (Bộ Tài chính) bộ hồ sơ xét thoái trả tiền thuế bao gồm: a. Đơn xin thoái trả tiền thuế (nêu rõ nội dung khoản thuế xin thoái trả, số tài khoản và ngân hàng giao dịch của đối tượng được hưởng thoái thuế...); b. Giấy Chứng nhận cư trú của nước cư trú do cơ quan thuế cấp; c. Bản sao Công chứng đăng ký kinh doanh trong trường hợp là tổ chức hoặc bản sao hộ chiếu trong trường hợp là cá nhân; d. Bản gốc chứng từ nộp thuế; e. Hợp đồng uỷ quyền có chứng nhận của Công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền, trong trường hợp đối tượng uỷ quyền; g. Các chứng từ, tài liệu khác làm căn cứ để thoái trả tiền thuế do cơ quan thuế quy định. 2.2. Tổng Cục thuế kiểm tra hồ sơ xin thoái trả tiền thuế theo Hiệp định, trình Bộ Tài chính ra quyết định thoái thuế. 2.3. Căn cứ Quyết định của Bộ Tài chính về việc thoái trả tiền thuế cho đối tượng nộp thuế, Vụ Ngân sách Nhà nước làm thủ tục thoái trả tiền thuế. Trường hợp phải thoái trả tiền thuế bằng đồng tiền nước ngoài hay phải chuyển tiền thuế thoái trả vào tài khoản tại nước ngoài theo yêu cầu của đối tượng nộp thuế, Vụ Ngân sách Nhà nước sẽ làm thủ tục thanh toán theo chế độ hiện hành về chi ngân sách Nhà nước bằng ngoại tệ. 2.4. Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ xin thoái trả tiền thuế, Bộ Tài chính sẽ hoàn thành thủ tục thoái trả tiền thuế hoặc có văn bản trả lời. 3. Giải quyết khiếu nại: Theo quy định của Hiệp định, trường hợp một đối tượng cư trú của Việt Nam thấy rằng việc nộp thuế của mình không phù hợp với những quy định của Hiệp định thì đối tượng đó có thể khiếu nại lên các cơ quan có thẩm quyền để được giải quyết. Bộ Tài chính hướng dẫn trình tự khiếu nại và giải quyết khiếu nại như sau: 3.1. Đối tượng đó có thể khiếu nại theo trình tự được quy định trong pháp luật Việt Nam cũng như quy định của Luật thuế của Việt Nam về giải quyết khiếu nại. 3.2. Đối tượng đó có thể khiếu nại trực tiếp lên Tổng Cục thuế (Bộ Tài chính) mà không theo các trình tự giải quyết khiếu nại đã nêu ở điểm 3.1 trên. Việc khiếu nại này được giải quyết theo thời gian quy định ở Điều khoản "Thủ tục thoả thuận song phương" của các Hiệp định. 3.3. Tổng cục thuế Việt Nam thay mặt Bộ Tài chính xem xét và giải quyết các khiếu nại. Trong trường hợp cần thiết, Tổng cục Thuế Việt Nam sẽ đàm phán với nhà chức trách có thẩm quyền về Hiệp định của nước ký kết Hiệp định với Việt Nam để giải quyết khiếu nại bằng một thoả thuận song phương. 3.4. Tổng cục Thuế Việt Nam chịu trách nhiệm phối hợp với các Nhà chức trách có thẩm quyền về Hiệp định của các Nước đã ký Hiệp định với Việt Nam để giải quyết các khiếu nại về thuế của các đối tượng cư trú của những nước đó phù hợp với quy định của Hiệp định.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThue (14).doc
Tài liệu liên quan