Viên sĩ quan người Pháp tham gia tác
chiến trong hàng ngũ thủy quân
Nguyễn Ánh thời nội chiến Nguyễn -
Tây Sơn là Jean Baptiste Chaigneau
đưa ra một chỉ dẫn tuy không đích xác
về mặt danh xưng, song gần như
chắc chắn thuộc về Phú Yên, tương
quan cùng với các thương cảng khác
trong chuyên mục khảo sát hải cảng
dọc bờ biển vương quốc Cochinchine:
“Các bến cảng chính yếu của Đại
quốc là các bến cảng tại Sài Gòn; bến
cảng Cam Ranh là một bến cảng rất
bảo đảm và rất đẹp của Cô-Sen-Sin;
bến cảng Lavait nằm giữa hai hòn núi
tránh được tất cả gió bão; bến cảng
Quảng Nam hay Tourane, nằm sâu
vào trong một cái vịnh có nhiều bến
cảng khác nhỏ bé hơn; bến cảng Hòn
Khói; bến cảng Cửa Bé; bến cảng
Vũng Chàm; bến cảng Cù Mông; bến
cảng Qui Nhơn” (Phan Xưng, Hà
Xuân Liêm dịch, 2002, tr. 267-268).
Theo lôgic sự kiện và dưới con mắt
quan sát quân sự nhà nghề, đây là
các hải cảng mà theo những chiến
dịch gió mùa, quân đội Nguyễn Ánh
phản công lên phía Bắc, đã từng có
sự tham gia đắc lực của J. B.
Chaigneau với vị trí chỉ huy tàu bọc
đồng Long Phi, trong đó không thể bỏ
qua một tiêu điểm chiến tranh vùng
giáp ranh phải giành đi giật lại rất
nhiều lần giữa đôi bên tham chiến:
Xuân Đài - Vũng Lấm. Hải cảng Vũng
Lấm nằm trong vịnh lớn Xuân Đài,
được chắn bên ngoài bởi bán đảo
Phước Thịnh và núi Xuân Đài
17 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 414 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số chỉ dẫn hàng hải trên vùng biển và bờ biển Phú Yên-Bình Định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
58
CHUYÊN MỤC
SỬ HỌC - NHÂN HỌC - NGHIÊN CỨU TÔN GIÁO
MỘT SỐ CHỈ DẪN HÀNG HẢI TRÊN VÙNG BIỂN VÀ
BỜ BIỂN PHÚ YÊN - BÌNH ĐỊNH
(Qua nguồn tư liệu phương Tây)
NGUYỄN LỤC GIA
Phú Yên và Bình Định thuộc duyên hải Nam Trung Kỳ Việt Nam nằm trên lộ
trình xuyên Biển Đông theo tuyến dọc ven bờ bán đảo Đông Dương nối liền Ấn
Độ - Malacca với Trung Hoa - Nhật Bản. Sau cap Varella và pullo Gambir, tàu
thuyền sẽ tiếp cận pullo Canton rồi hướng thẳng về phía bờ biển Trung Hoa và
ngược lại. Do vậy, cùng với Quảng Ngãi, các chỉ dẫn hàng hải trên vùng biển và
bờ biển Phú Yên - Bình Định có vai trò đặc biệt quan trọng. Lịch sử hải hành
phương Tây các thế kỷ từ XVI đến đầu XX đã chứng thực điều này.
1. DẪN NHẬP
Con đường thương mại quốc tế kết
nối phương Tây với miền viễn đông Á
châu khởi đầu từ các cuộc phát kiến
lớn về địa lý ở thế kỷ XV. Một trong
hai vương quốc đóng vai trò tiên
phong trong việc khai thông đó là Bồ
Đào Nha. Sau khi chiếm cứ thành phố
Ceuta của Maroc trên bờ Địa Trung
Hải vào năm 1415, Bồ Đào Nha đã
mở rộng quá trình chinh phục dọc
theo đường bờ biển phía Tây lục địa
châu Phi. Được khích lệ bởi bản chỉ
dụ năm 1493 của giáo hoàng
Alexandre VI, đến năm 1498 nhà hàng
hải Vasco da Gama đã chỉ huy đoàn
tàu thám hiểm của vương quốc Bồ
vượt qua mũi Hảo Vọng và đặt chân
lên đất Ấn Độ, sau đó đem về cho nhà
vua Dom Manuel một chuyến tàu đầy
ắp hàng hóa trị giá gấp 60 lần so với
toàn bộ phí tổn của chuyến đi. Viên
hải quân Tham mưu trưởng Affonso
de Albuquerque tiếp tục tiến về hướng
Đông vào đầu thế kỷ sau, chiếm cứ và
thiết lập các cơ sở thương mại tại
Goa (Ấn Độ) năm 1510 và Malacca
(Mã Lai) năm 1511, kiểm soát các đảo
cung cấp hương liệu trong khu vực.
Những cuộc thám hiểm liên tục đến
Nguyễn Lục Gia. Trường Trung học Phổ
thông Trần Quốc Tuấn, huyện Phú Hòa, tỉnh
Phú Yên.
NGUYỄN LỤC GIA – MỘT SỐ CHỈ DẪN HÀNG HẢI
59
vùng biển Trung Hoa - Nhật Bản vào
giữa thế kỷ XVI cuối cùng đã xác lập
một thương điếm cực kỳ quan trọng
khác tại Macao (Trung Hoa) năm 1557.
Trong khi đó, nhà hàng hải gốc người
Bồ Đào Nha Ferdinand Magellan đã
đưa hạm tàu vương quốc Tây Ban
Nha đến quần đảo Luzon nằm đối
diện với bán đảo Đông Dương vào
năm 1521 và tuyên bố cụm đảo quốc
này thuộc về lãnh thổ của nhà vua
Philip II, để rồi hai mươi năm sau
chính thức mang danh xưng Philippines
và bắt đầu đẩy mạnh công cuộc chinh
phục với việc xây dựng thương cảng
Manilla. Đội tàu Hà Lan xuất hiện đầu
tiên ở quần đảo Java vào năm 1598
và thiết lập quan hệ buôn bán tại đây
từ đầu thế kỷ sau. Người Anh đến với
khu vực Đông Nam Á muộn hơn Hà
Lan, còn nước Pháp thì càng muộn
sau hơn nữa.
Như vậy, Bồ Đào Nha là vương quốc
phương Tây đầu tiên chính thức xác
lập quan hệ thương mại với vùng viễn
đông và thường xuyên đáp tàu qua lại
Biển Đông hay còn gọi là Biển
Champa, danh xưng gắn với đường
bờ biển thuộc vương quốc Champa
từng có chiều dài lãnh thổ chạy suốt
từ dãy Hoành Sơn phía Bắc đến sông
Đồng Nai ở phía Nam. Từ đó, việc
thực hiện các chỉ dẫn hàng hải (tức
các điểm định vị cho tàu thuyền đi trên
biển) đầu tiên phải do người Bồ tiến
hành với tính cách là một điều kiện
thiết yếu đảm bảo tối ưu lợi ích mậu
dịch quốc tế.
2. CÁC CHỈ DẪN HÀNG HẢI CỦA BỒ
ĐÀO NHA
Tập hải đồ của Francisco Rodrigues
(nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha có
mặt đầu tiên trong cuộc chinh phục
Malacca năm 1511) có tấm bản đồ
hướng dẫn đường đi từ Malacca đến
Trung Hoa với mốc niên đại khoảng
1511 - 1512 mà các nhà nghiên cứu
cho đó là bản sao của một hải đồ
Trung Hoa có tên Wou Pei Tche (Vũ
Bị Chí) xuất xứ từ những chuyến thám
hiểm của đô đốc Tchang Ho/Trịnh
Hòa đầu thế kỷ XV được lưu lại tại
Java hoặc Malacca. Tuy chỉ là bản
sao, hải đồ của F. Rodrigues vẫn bị
đánh giá là bước thụt lùi so với
nguyên bản bởi sự sơ sài của nó về
các mũi đất chỉ ra, chưa kể những bất
tiện về mặt đơn vị đo khoảng cách mà
nó sử dụng. Dù vậy, tấm hải đồ này là
tài liệu đầu tiên được biên soạn bởi
một người phương Tây về hành trình
đi qua Biển Đông, trong đó có đề cập
đến tiêu điểm hàng hải nằm trên bờ
biển Phú Yên, mà lúc này vẫn còn
nằm trong địa giới Champa dưới danh
xưng tiểu quốc Aryaru như sau: “ từ
Terra Vermelha dọc theo bờ biển này
cho mãi đến Pomta da Berela thì có
14 jãos (đơn vị đo chiều dài của người
Mã Lai), tương đương với đơn vị
keng/ canh của người Trung Hoa, mà
theo cách tính của Mulder thì mỗi
keng bằng 6,9 cho đến 22,8 milles
marins (tức đơn vị hải lý = 1.852 mét)
ở phía Đông Bắc, và từ Berela đến
pulo Catom có 12 jãos dọc theo con
đường cũng tên như thế” (Manguin,
1972, tr. 58-59). Đối chiếu với tài liệu
Trung Hoa Wou Pei Tche, Pomta da
Berela chính là Linh-chan/Ling-chan
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (201) 2015
60
hoặc Linh Sơn, tức núi Đá Bia/Thạch
Bi sơn mà sau đó các nhà hải hành
Bồ Đào Nha cũng gọi thành Varella,
nghĩa là thần tượng, đền thờ hoặc
chùa chiền mang tính cách tín ngưỡng
linh thiêng(1). Theo nhận thức của
những người Chàm theo Hindou giáo,
đó là một Lingaparvata cổ xưa nhất ở
miền Đông Nam Á châu, sánh cùng
ngọn Vat Ph’u/Wat Phou, “cũng có tên
chữ Hán Ling (Lãnh/Lĩnh)
(Linggaparvata), và tên châu Âu hiện
nay, trong các tài liệu Bồ Đào Nha,
được dùng để chỉ các ngôi chùa”
(Coedès, 2008, tr. 130). Rõ ràng, ở
đây có một sự vận động giống nhau
của các đặc điểm thiên nhiên, làm
thành nơi thờ tự linh thiêng của những
người Hindou giáo cùng các nhà hàng
hải khắp các châu lục từ Á đến Âu.
Một tập tài liệu chép tay khác nhan đề
Adverncias para a navegacão da India -
Roteiros (Những tài liệu giới thiệu về
ngành hàng hải ở Ấn Độ - Các tập hải
đồ) mà thời gian biên soạn được xác
định trong khoảng từ năm 1565 cho
đến nửa sau thế kỷ XVII, được viên
hoa tiêu Franoisco Pires người Bồ
sưu tập và chú giải đã tiếp cận vùng
biển và bờ biển giáp ranh giữa Đại
Việt, nếu chưa gọi là xứ Đàng Trong,
với Champa rõ nét hơn.
Hải đồ số 1 với niên đại 1565, và như
vậy Phú Yên vẫn còn nằm trong lãnh
giới Champa, cho biết đường đi theo
hướng Malacca - Trung Hoa: “Từ cái
mỏm đã ghi ấy [mỏm Padaran] và
nằm ở vĩ độ 110, anh sẽ đi về phía
Đông Bắc Bắc, cách xa bờ biển trên
dưới 4 hải lý và như thế anh sẽ nhìn
thấy Varella; anh sẽ tìm thấy một cái
lõm vào ở bờ biển và một vài hòn đảo
nhỏ trong cái lõm ấy; mũi Varella này
ở ngang tầm với chỗ còn thiếu một tý
nữa thì là vĩ độ 130, đây là một ngọn
núi cao, và khi anh đến gần nó thì anh
sẽ trông thấy trên đỉnh núi có một tảng
đá với hình thù của một núi đá linh
thiêng (Varella) đến đây những người
đi biển Trung Hoa thường tìm lên để
lễ bái; khi anh đến gần đó về phía
Nam thì anh sẽ tìm thấy một nơi thuận
tiện cho tàu thuyền ẩn nấp, tại đây thế
là có một hải cảng và tàu thuyền ghé
vào đây tốt lắm. Anh cũng sẽ tìm thấy
nước ngọt () Khi anh đến gần Varella
ở phía Bắc thì anh sẽ thấy một vịnh có
cát và như vậy là anh có thể ghé vào
bờ nếu trời yên tĩnh và kiếm được
nước ngọt vì ghé tàu thuyền vào đó là
có sự bảo đảm an toàn” (Manguin,
1972, tr. 68-69). Những mô tả trên
gần khớp với thực tế: đỉnh Varella
nằm ở vĩ tuyến 12054’, chếch về phía
Nam là hải cảng Vũng Rô được các
sườn núi bọc kín ở bên trong, có điểm
lấy nước ngọt nằm trên một bãi cát
trắng mịn có plei (làng) của người
Chàm trước khi họ dời xa về phía
Nam mà người Việt về sau gọi tên là
Đại Lãnh; trong khi chếch về phía Bắc
cũng có điểm lấy nước ngọt khác
nhưng hải đồ lại không chỉ định rõ nó
thuộc về cửa Đà Nông hay cửa Đà
Lãng/Đà Rằng. Tuy nhiên, xét về
chiều dài, độ dốc, lưu lượng dòng
sông Ba đổ ra cửa Đà Rằng đều vượt
gấp nhiều lần so với sông Bàn Thạch
đổ ra cửa Đà Nông, do đó lượng cát
bồi trên vùng bờ biển cũng tỉ lệ thuận
NGUYỄN LỤC GIA – MỘT SỐ CHỈ DẪN HÀNG HẢI
61
theo đó. Nhà khảo cổ và nghiên cứu
nghệ thuật Champa người Pháp Henri
Parmentier chứng thực đoạn bờ biển
ngang với cửa sông Đà Rằng vào cuối
thế kỷ XIX như sau: “con sông [Đà
Rằng], do dòng chảy của nó mang ra
biển hàng năm rất nhiều cát, nên đã
phủ lên bờ biển ở hai bên thành
những cồn cát sáng loáng” (Parmentier,
1909, tr. 9). Những trang khảo tả đầu
tiên trong sách Xứ An Nam của
Trưởng Sở Giáo dục Trung Kỳ B.
Bourotte bổ túc thêm ấn tượng về
những bãi cát bồi trên dải bờ biển này:
“Ở cửa sông Đà Rằng thấy có nhiều
đụn cát và muối, rồi đến mũi Varella
với những phiến đá màu tím đang đặt
chân xuống vùng biển trong xanh”;
hay “ ngày trước, bến đò ngang ở
đây phải mất hai giờ để đi qua đoạn
sông nhiều chỗ trở ngại vì cát”
(Nguyễn Cửu Sà dịch, 2003, tr. 46,
71). Rõ ràng, trong trường hợp hải đồ
thứ nhất này, các bờ cát vùng cửa
sông Đà Rằng mới thực sự khiến cho
các nhà hàng hải Bồ Đào Nha lưu ý
và được họ chọn làm một trong các
chỉ dẫn địa lý khi lái tàu ngang qua
cap Varella.
Tiếp tục hướng lên phía Bắc sau mũi
Varella và cửa Đà Rằng là vùng biển
và bờ biển có kinh thành Vijaya của
vương quốc Champa trước đó gần
một thế kỷ mà lúc này đã trở thành
phủ Hoài Nhân hoặc Qui Nhơn về sau.
Trước niên điểm xác lập thương điếm
Macao vào năm 1557, viên hải quân
Tham mưu trưởng đầu tiên của cuộc
thám hiểm Trung Hoa - Nhật Bản
Duarte da Gama rất thường xuyên
qua lại khu vực Biển Đông từng nhiều
lần mục kích các hòn đảo ngoài khơi
phủ Hoài Nhân cũng như ghé tàu vào
thương cảng Nước Mặn, như hải đồ
số 1 mô tả: “Giữa Varella và pullo
Gambi, có một con sông nhỏ mà tại
đó các loại tàu và thuyền lớn có thể ra
vào được. Khi thì các nhà hải hành
thám hiểm các nước Trung Hoa và
Nhật Bản; đôi khi Duarte da Gama
cũng đến đây để nghỉ mùa đông; ở
ngoài khơi của cửa sông này độ 3 hải
lý có một hòn đảo phẳng lì, hòn đảo
này được gọi là pullo Gambi, gọi như
thế có nghĩa là đảo Dê. Hướng của
đảo này nằm song song với bờ biển.
Người ta nói rằng có thể kiếm được
nước ngọt trên đảo này ở phía nhìn
về đất liền. Anh sẽ nhận thấy hòn đảo
này ở chỗ nó không đến nỗi thấp lắm
ở mỏm phía Bắc; mới nhìn thấy nó cứ
tưởng nó gồm hai hòn đảo nhỏ,
nhưng khi anh tới ngang hòn đảo thì
chỉ còn thấy có một () Từ hòn đảo
“đôi” này đi vào đất liền anh sẽ nhìn
thấy ngay cửa [sông nhỏ pullo Gambi];
ở những vũng này không còn đâu có
chỗ đậu [tàu thuyền] tốt hơn chỗ cửa
sông này nữa: đấy là con sông pullo
Gambi mà Duarte da Gama thường
đến nghỉ mùa đông. Anh sẽ có thể đi
sát hòn đảo này (pullo Gambi), gần nó
bao nhiêu là tùy ý anh muốn, bởi vì
đáy biển ở đây an toàn lắm. Từ
Varellla đến pullo Gambi đường dài là
12 hải lý” (Manguin, 1972, tr. 69).
Thực ra con sông được mô tả mang
tên Kôn giang này nằm chếch về phía
Bắc đảo pullo Gambi, tức cù lao Xanh,
chứ không phải nằm giữa Varella và
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (201) 2015
62
pullo Gambi, tuy nhiên những chỉ dẫn
và ấn tượng của tác giả bản hải đồ lại
hết sức chân thật và sinh động. Pullo
Gambi hoặc pullo Gambir/Gambier có
nguồn gốc Mã Lai của thuật từ
Kambing, nghĩa là “dê”, nằm trên
khoảng vĩ tuyến 13036’-13038’. Trong
Wou Pei Tche, pullo Gambi còn được
gọi là Yang Siu/Dương Dư với thời
gian đi từ Linh Sơn đến đây mất 5
keng, tức khoảng 12 giờ. Linh mục
Manuel Ferreira trong câu chuyện kể
của mình, đã định danh pullo Gambi là
“pulo Cabi hoặc cù lao Nước Mặn” và
xác nhận rằng Nước Mặn ở phía bờ
biển là một trong 4 hải cảng chính của
xứ Cochinchina có đủ điều kiện tiếp
nhận các tàu biển có bờ thành cao
(Ferreira, 1700, tr. 6).
Trong hải đồ số 5, theo một lộ trình
ngược lại, từ Macao đi Malacca cho
biết sau khi qua khỏi pullo Canton, tức
cù lao Ré thuộc hải phận dinh Quảng
Ngãi, phía ngoài khơi huyện Phù
Ly/Phù Cát còn có nhóm đảo mang
tên João Preto, tên của viên hoa tiêu
Bồ Đào Nha có công phát hiện đầu
tiên, mà người Việt gọi thành hòn Ông
Cơ/Cỏ, hòn Ông Căn/Cân, ở vào
khoảng vĩ tuyến 13054’B. Hải đồ số 5
cho biết: “ khi ấy anh lại tiếp tục tiến
tới với hướng Tây Nam Nam, và rồi
như thế anh sẽ nhìn thấy những cù
lao nhỏ của João Preto nếu thời tiết
tốt; nhưng trời quang đãng mà hướng
gió lại không thuận lợi, không phải gió
Bắc, mà cũng không phải gió Đông
Bắc thì các cù lao nhỏ của João Preto
sẽ cho anh biết rằng anh sẽ phải làm
gì. Nếu anh đã nhìn thấy các cù lao
nhỏ của João Preto nói trên và anh thì
ở giữa đất liền và các hòn đảo nhỏ
này, anh có thể cứ tiến tới bởi vì đáy
biển ở đây rất an toàn, độ sâu 13-16
sải, đáy biển là cát đen () Từ cù lao
nhỏ này tới pullo Cambim [cũng là
Gambi] đường dài là 6 hải lý. Cù lao
Cambim này phẳng lì và dài độ 1 hải
lý và về phía ngoài khơi nó có những
vệt đỏ. Rừng nhú trên cù lao này cũng
thấp. Ở phía Bắc chỏm của cù lao này,
trên đất liền của cù lao, có một con
sông nhỏ, đó là con sông chính của
pullo Cambim. Tiếp cận cửa sông
bằng gió mùa từ hướng Nam thổi lên
(gió nồm) thì anh có thể đến lấy nước
ngọt ở đây nếu cần” (Manguin, 1972,
tr. 75). Thêm một số đặc trưng nhận
diện khác của pullo Gambi tấm hải đồ
này mô tả chính xác hơn vị trí thương
cảng Nước Mặn so với tấm hải đồ đầu
tiên kể trên.
Điều đặc biệt của tấm hải đồ số 5 là
những thông tin dường như không lặp
lại ở các hải đồ khác của người Bồ
Đào Nha lẫn của người Âu nói chung
khi qua vùng bờ biển Phú Yên, rằng
“Đỉnh Varella này có 3 hải cảng rất tốt,
nhưng người ta không thể nhìn thấy 3
hải cảng này từ ngoài khơi bởi vì các
loại đất ở đây màu nọ lẫn với màu kia”
(Manguin, 1972, tr. 69). Trừ hải cảng
Vũng Rô chếch về phía Nam mũi
Varella được che chắn bởi bán đảo
Vũng Rô, hình thành từ những dải núi
nối tiếp nhau của dãy đèo Cả, hai hải
cảng còn lại chắc chắn nằm về mạn
Bắc Varella và chỉ có thể đó là hải
cảng Vũng Lấm ẩn sâu trong vịnh Bà
Đài/Xuân Đài và thương cảng Thành
NGUYỄN LỤC GIA – MỘT SỐ CHỈ DẪN HÀNG HẢI
63
Hồ khuất sau các cồn cát chắn ngang
cửa tấn Đà Lãng/Đà Rằng.
Thực vậy, nếu gán cho tấm hải đồ số
5 có niên đại trước năm 1578 thì
Thành Hồ chính là một thương cảng
sầm uất của vương quốc Champa mà
cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Fernão
Mendes Pinto cùng người bạn đồng
hành Antonio de Faria vào thập niên
1530 đã mô tả rằng “Sau khi đi qua
đảo pulo Campello [cù lao Chàm], một
hòn đảo nằm ở 14020’ Bắc, họ đã tới
đảo pulo Capas, nơi một đoàn thuyền
gồm 40 chiếc thuyền mành lớn, mỗi
chiếc hai hoặc ba tầng sàn đã được
nhìn thấy ở con sông Boralho (Varella
trên các hải đồ); Faria đã cử người đi
khám phá đảo đó. Và sau đó là một
đoàn thuyền khác, hình như có đến
2.000 thuyền lớn nhỏ, và một thành
phố có tường bao với khoảng chục
nghìn nóc nhà” (Barrow, 2008, tr. 123-
124). Thành lũy đồ sộ xây bao quanh
bằng gạch Chàm tại tiêu điểm định vị
Varella chỉ có thể là Thành Hồ vừa
được vương quốc Champa tu bổ quy
mô sau khi kinh thành Vijaya ở phía
Bắc thất thủ năm 1471; và con sông
Boralho trong bối cảnh này cũng chỉ
có thể là con sông Apa/Ba, con sông
lớn duy nhất thuộc xứ Tsiompa/
Champa có tên trên các bản đồ Bồ
Đào Nha thế kỷ XVI, được người Hà
Lan vẽ lại năm 1635(2). Ở một đoạn
khác trong cuốn hồi ký nhan đề
Peregrinacam (Tập truyện phiêu lưu
ký) nổi tiếng của mình, F. M. Pinto đã
cho biết mục đích của việc thám hiểm
vùng bờ biển Đông Ấn của ông là “
để đi đến vương quốc Chiêm Thành
[Champa], với ý định là đi tìm tòi ra ở
đó những bến tàu và những hải cảng
của các vùng bờ biển ở xứ này, và với
một cách cướp bóc khôn khéo để tiếp
tế cho mình những thứ gì mà mình
còn thiếu”, nghĩa là không ngoài
mục đích xúc tiến thương mại, trong
đó có lần tàu ghé lại “ một con sông
mà người dân địa phương thì gọi là
Tinacoreu và chúng ta thì gọi là
Varella” (Manguin, 1972, tr. 183). Như
vậy, dù là Boralho hay Tinacoreu, địa
điểm buôn bán tấp nập nói trên trong
bối cảnh biển còn ăn sâu vào đất liền,
vẫn chỉ có thể là thương cảng Thành
Hồ nằm ngang cửa sông Ba đổ ra tấn
Đà Lãng/Đà Rằng theo danh xưng
Hán-Việt hóa. Nhằm giành về phần
mình lợi thế giao thương trong điều
kiện tích lực phân quyền với vua Lê -
chúa Trịnh, viên Tổng trấn Thuận
Quảng Nguyễn Hoàng đã sai danh
tướng Lương Văn Chánh đem đại
binh tấn công Thành Hồ năm 1578.
Chiến thắng nhưng không chủ trương
chiếm đóng mà ngược lại ra lệnh cho
thuộc tướng lui binh về ranh giới Cù
Mông, sự kiện cho thấy mục đích
tranh giành ảnh hưởng kinh tế ngoại
thương của Nguyễn Hoàng theo như
diễn tiến lịch sử xứ Đàng Trong minh
chứng (Nguyễn Lục Gia, 2013, tr. 41-
48).
Với hải đồ số 11, các chỉ dẫn hàng hải
trên vùng biển và bờ biển của Phú
Yên được mô tả cụ thể và chính xác
hơn: “Varella là một chỗ đất cao, nó
tiến ra sát bờ biển và nó có ở trên
đỉnh một núi đá giống như một cái
“tháp” mà những người Trung Hoa gọi
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (201) 2015
64
là Varella, nó có nghĩa giống như một
cái đền, chùa. Từ phía Nam lên, trước
khi đến đó, người ta thấy một cái vịnh
lớn, đất ở đây thấp và phủ đầy cây cối,
và ở đó cũng có một cù lao nhỏ bằng
đá rất gần bờ biển. Ở phía Bắc đỉnh
Varella cũng có một vịnh và đất ở đây
cũng rất thấp. Gần với đỉnh Varella
cũng vẫn ở phía Bắc này, anh sẽ thấy
2 tảng đá nó giống như những cái
thuyền “Paro”. Trước mặt [cù lao] có
một bãi cát thoải và một điểm nước
ngọt () Ở phía Bắc đỉnh Varella anh
sẽ thấy về phía bờ biển một quần sơn
nhỏ hình tròn. Gần đỉnh Varella ở phía
Bắc, trước mặt một mỏm đất thấp
nằm ở phía Bắc, như tôi vừa mới nói,
người ta tìm thấy 2 tảng đá thấp với
nước ngọt, và nếu người ta không chú
ý đề phòng thì người ta có thể bị mắc
kẹt vì để tàu thuyền xô lên trên đó”
(Manguin, 1972, tr. 83). Theo đó, cù
lao nhỏ bằng đá đứng trước Vũng Rô
chính là hòn Nưa mà đối diện với nó
chếch về phía Tây là bãi cát thoải Đại
Lãnh với một điểm dừng chân lấy
nước ngọt cho tàu thuyền; còn 2 tảng
đá nằm về phía Bắc Varella được gọi
chung là hòn Khô/Cô hay được ghi
chú trên các hải đồ về sau bằng cụm
từ Núi đá Thủng lỗ (Rocbe Percée)
mang dáng dấp một loại tàu nhỏ có
tên gọi perabu xuất xứ từ Mã Lai
không thiết kế boong tàu. Điều đặc
biệt, lần đầu tiên hòn Nữu Sơn/Chóp
Chài hay núi Diều Hâu (La montagne
de L’Epervier) với độ cao xấp xỉ 400
mét nằm cạnh hải tấn Đà Rằng được
người Bồ Đào Nha chọn làm tiêu điểm
hải hành.
Hải phận phủ Qui Nhơn trên hải đồ số
11 cũng được các nhà thám hiểm
người Bồ chú giải tỉ mỉ hơn, nhất là
phía bờ biển vùng Phù Ly/Phù Cát,
rằng “pullo Cambi [cũng gọi là Gambir]
(đảo Dê) là cù lao thấp và dài. Anh rất
có thể đi vào giữa cù lao này với đất
liền. Trước mặt cù lao này, trên bờ
biển, có một con sông nhỏ. Đứng ở
phía Nam cù lao có một vài núi đá
hình sừng dê và vì lẽ đó mà cù lao
này mang tên là pullo Cambi. Cù lao
còn mang một vài những vệt đỏ
Cách về phía Bắc pullo Cambi độ 5
hoặc 6 hải lý, nó hình thành [tại bờ
biển] một vịnh rất hoàn hảo bằng cát
trắng và ở đầu phía Nam vịnh này có
những cù lao nhỏ bằng đá có sườn
dựng đứng. Ở đầu phía Bắc vịnh, trên
vùng đất liền người ta nhìn thấy một
ngọn núi tròn và vào độ 4 hải lý ở
đàng trước phía Bắc các cù lao nhỏ
trên đây, đất liền làm thành một vệt
trắng ở trước 3 hoặc 4 cù lao nhỏ
đính cái nọ vào cái kia. Về phía Bắc
vệt trắng này có một vùng lớn rất
nhiều cát. Những cù lao nhỏ này
chính là những cù lao nhỏ mà người
ta quen gọi là nhóm cù lao João
Preto” (Manguin, 1972, tr. 83). Vệt
trắng về phía đất liền chính là động
cát trắng mịn nối liền từ hòn Vi Rồng
đến hòn Lang trước cửa Đề Gi, kéo
dài hàng chục cây số; và ngọn núi tròn
đứng làm tiêu điểm hàng hải hẳn là
hòn Chuông cao ngất với xấp xỉ 900
mét đóng vai trò chủ sơn trong khối
núi Bà, có hình dáng tròn trịa, đứng xa
trông giống hình quả chuông úp sấp.
Vì trên đỉnh hòn Chuông có các tảng
NGUYỄN LỤC GIA – MỘT SỐ CHỈ DẪN HÀNG HẢI
65
đá hình thù giống người nên truyền
thuyết dân gian còn gán cho mỹ tự
Vọng Phu sơn. Chỉ có điều trên thực
tế, quyền quản lãnh pullo Cambi từ
sau năm 1611 thuộc về Phú Yên chứ
không phải Qui Nhơn, như quốc sử
Nguyễn triều về sau ghi rõ: hòn Thanh
Châu, tức pullo Cambi, “ tục gọi núi
Cù Lao, là trấn sơn của cửa biển Thi
Nại, đầu đời Gia Long thuộc huyện
Đồng Xuân đạo Phú Yên, đến giữa
năm Minh Mệnh đổi lệ vào huyện Tuy
Phước [thuộc tỉnh Bình Định]” (Quốc
sử quán triều Nguyễn, 2006, tr. 35).
Tương tự như hải đồ số 5, hải đồ số
14 cũng mạnh dạn chỉ dẫn lối đi cho
tàu thuyền ở vào khoảng giữa nhóm
cù lao João Preto với bờ biển ở độ
sâu khoảng 15 sải nước theo hướng
Bắc - Nam, đồng thời lưu ý rằng “Anh
đừng có đi gần bờ biển quá; nếu anh
thấy mình đã vào gần bờ biển quá rồi
thì anh phải lái xa ra phía ngoài khơi,
nghĩa là đi về phía Đông Nam; tốt hơn
hết là cứ đi vào khoảng 5 hải lý ra
phía ngoài khơi, để phòng xa nếu có
một trận gió Đông bất ngờ xảy ra. Cù
lao pullo Cambi thì thấp và dài và có
mang một vệt đỏ ở sườn phía ngoài
khơi. Cây cối bao phủ trên mặt cù lao
này cũng thấp. Ở về phía Bắc mỏm
của cù lao có một con sông nhỏ, đó
chính là sông pullo Cambi. Và nếu
anh muốn lấy nước ngọt thì anh có
thể lấy được ở sườn phía Tây cù lao,
nhưng nước ở đây không tốt lắm đâu”
(Manguin, 1972, tr. 89). Phái viên của
Công ty Đông Ấn Anh Charles
Chapman kinh lý trên chiếc Amazon
vào những năm kề cuối thập niên
1770 đã kiểm chứng thông tin sau
cùng này như sau: “chúng tôi cho
tàu đậu tại làng đánh cá cù lao Xanh
(pullo Gambir) để kiếm nước ngọt và
lương thực tươi sống sắp cạn kiệt.
Dân làng tiếp chúng tôi khá lịch sự.
Nhưng nước tại đây chua mặn, chúng
tôi liền nghĩ tới Qui Nhơn có thể có
nước tốt hơn và cả thực phẩm khác”
(Nguyễn Đình Đầu, 2001, tr. 13-15,
32). Vì lẽ đó, tàu thuyền đi lại ngoài
khơi phía pullo Cambi bắt buộc phải
ghé qua thương cảng Nước Mặn nếu
thấy thực sự cần thiết phải tiếp tế
nước ngọt.
Hải đồ số 16 có niên đại sau năm
1638 tiếp tục cập nhật một số chỉ dẫn
hàng hải mới trên chặng qua Phú Yên
mà lúc này đổi lập thành dinh Trấn
Biên. Hành trình tính từ pullo Cambi:
“Nếu xuất phát từ cù lao này mà anh
muốn đi đến Varella, anh sẽ cho lái về
hướng Nam 1/4 Đông Nam trong vòng
12 hải lý; còn cách 4 hải lý nữa thì đến
nơi, anh sẽ nhìn thấy trên bờ biển một
ngọn núi tròn, đấy là đoạn bờ biển nó
làm thành cái vịnh gọi là Rão Rão, và
từ đây, khi ấy anh sẽ nhìn thấy đỉnh
Varella, nó là một nơi đất cao chạy dài
từ Đông sang Tây, đất cao này chấm
dứt ở phía Đông và bằng một bờ dốc
thẳng đứng. Ở chân cái mỏm này
người ta thấy một bãi biển có nhiều
cát và một cù lao nhỏ nằm hơi xa đất
liền. Người ta có thể lấy nước ngọt ở
bãi biển nhiều cát này. Chếch về phía
Đông một tí khi anh từ đỉnh núi Varella
đi xuống, anh sẽ thấy có một tảng đá
rất to hơi nghiêng về phía biển mà
người ta gọi là Varella” (Manguin,
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (201) 2015
66
1972, tr. 99). Được biết, khi mô tả các
đơn vị hành chính xứ Đàng Trong
năm 1621, linh mục người Italia
Cristoforo Borri đã từng gọi phủ Phú
Yên là dinh Renran(3), nhưng vịnh biển
ngang hải tấn Đà Rằng được người
Bồ Đào Nha gán cho danh xưng Rão
Rão hay Ran Ran/Ram Ram thì hẳn
có lẽ đây là lần đầu. Linh mục người
Pháp Alexandre de Rhodes trên bản
đồ vẽ năm 1651 chính thức gọi dinh
Trấn Biên (Phú Yên) là dinh Pho An
kèm theo danh xưng ngoại quốc Ran
Ran (Nguyễn Đình Đầu, 1996, tr. 34-
35). Hải đồ số 16 cũng xác nhận một
điểm lấy nước ngọt nằm ngang cửa
Đà Nông, đối diện với cù lao/hòn Khô,
cùng với việc tiếp cận chân xác hơn
đỉnh đá Varella.
Nếu như từ hải đồ số 11, núi Chóp
Chài xuất hiện phổ biến bên cạnh tiêu
điểm định vị Varella chếch về phía
Bắc với hình dáng “một quần sơn nhỏ
hình tròn” hay “một ngọn núi tròn” thì
trên hải đồ số 24 nó được mô tả rằng
“ từ cái mỏm của vịnh Ran Ran, tại
đó có một hòn cù lao khá lớn tròn như
một tấm bánh đường” (Manguin, 1972,
tr. 123). Ngoài ra, tấm hải đồ số 22
còn chi tiết hơn với một chỉ dẫn địa lý
kế cận: “ cho mãi đến Ram Ram thì
có một ngọn núi tròn và một ngọn núi
khác thấp hơn nằm cách đó ước độ 1
hải lý 1/2 về phía Nam, trên ngọn núi
thấp có alcorão. Người ta nói rằng ở
đây có một dòng nước biển chảy
mạnh của thủy triều xuống” (Manguin,
1972, tr. 120). Thuật từ alcorão mà
người Bồ Đào Nha sử dụng có ý đề
cập đến một thánh đường Hồi giáo
theo nhận thức của các nhà hàng hải
Ả Rập, trong trường hợp cụ thể này
đồng nghĩa với varella hoặc pagoda.
Thực tế, ngọn núi đang được nói đến
là núi Tháp gắn với hai khu đền tháp
theo tín ngưỡng Hindou của người
Chàm mà lúc này chỉ còn sót lại một
ngọn chơ vơ chếch về phía Đông và
thấp khoảng gần chục mét so với chót
núi(4). Có lẽ người Bồ Đào Nha xác
lập tấm hải đồ này đã mạnh dạn cho
chiếc tàu thám sát của mình bẻ lái áp
sát bờ vịnh Ran Ran hoặc neo tàu tại
cửa khẩu Đà Rằng nên có những chỉ
dẫn tương đối chi tiết đến vậy.
Không kể các tập hải đồ khác đề cập
đường biển Phú Yên - Bình Định
không có điều gì mới lạ, tập hải đồ
mang tên Toteiro da India Oriental
(Hải đồ phía Đông Ấn Độ) do Manuel
Pimentel sưu tập có niên đại sau năm
1699 cung cấp một số thông tin bổ túc
trên chặng Phú Yên như sau: “Sau khi
đã vượt khỏi Varella, thường thường
trong một số những tuần trăng người
ta sẽ gặp phải những trận gió Tây Bắc
rất mạnh, nhưng những trận gió này
không bao giờ kéo dài quá 24 giờ và
vì thế cho nên tốt hơn hết là đi gần về
phía bờ biển Từ Varella đến Ram
Ram, hòn cù lao này là một cù lao nhỏ
như [tấm thớt của] một cối đá xay cỏ
khô, nằm gần bên bờ biển đường dài
có độ 6 hải lý và từ đó đến Pulo
Cambim cũng có độ 6 hải lý nữa”
(Manguin, 1972, tr. 146). Như vậy,
chặng sau đỉnh Varella theo hướng
Nam - Bắc không những cho phép tàu
thuyền đi gần về phía bờ biển một
cách an toàn mà còn khẳng định vịnh
NGUYỄN LỤC GIA – MỘT SỐ CHỈ DẪN HÀNG HẢI
67
Ram Ram/Ran Ran với điểm định vị
núi Chóp Chài chính là vùng biển
ngang cửa khẩu Đà Rằng, cho dù
khoảng cách từ Varella đến đây chỉ độ
chừng 2/3 con số 6 hải lý mà hải đồ
đưa ra.
Ngược lên phía Bắc Qui Nhơn còn có
một cảng khẩu dành cho tàu thuyền
hạng vừa và nhỏ. Một ghi chép khác
của người Bồ Đào Nha xác nhận vị trí
này ngang với nơi con sông Tân
Quan/Tam Quan đổ ra biển: “Các tàu
buôn biển từ Trung Hoa đến đó
thường xuyên trao đổi hàng hóa, tuy
nhiên các tàu này không thể vào tận
hải cảng được vì thiếu độ sâu mực
nước trong cảng. Chính bản thân tôi,
cùng với chiếc tàu của tôi, đã bị mắc
kẹt ở đây trên một bãi cát, tôi đã bị
mắc cạn như thế là 6 ngày đêm”; do
đó “Chỉ có những tàu nhỏ có 2 cột
buồm [tàu xà lúp] thì có thể vào đậu
được, bởi vì độ sâu ở đây chỉ có 2 sải
và vịnh này cũng không phải là kín
đáo gì cho lắm” (Manguin, 1972, tr.
166).
3. CÁC CHỈ DẪN HÀNG HẢI CỦA HÀ
LAN VÀ CÁC NƯỚC ÂU - MỸ KHÁC
Năm 1649, một sứ đoàn Hà Lan được
gởi sang Nhật Bản đã lái tàu ngang
qua mũi Varella. Họ mô tả vị trí này
trong bối cảnh một sự kiện quan trọng
xảy ra ngay trên chuyến đi của họ qua
lời kể của các nhà du hành về sau
rằng: “ các sứ giả Hòa Lan [Hà Lan]
đi từ Cambốt giương buồm về
Champa, và họ sau 4 ngày đi qua St.
Jean de Fix, đó là một ngọn núi khá
cao trên đó người ta thấy một tảng đá
thật cao có hình dáng một người.
Chính ở đây ngài đại sứ Blokhovius
qua đời đêm ngày 13 tháng 8. Người
ta ướp hương thân thể ông và các vật
dụng được đặt trong một chiếc hòm,
người ta thả xuống biển sau khi đã cử
hành tang lễ. Từ đó người ta đi qua
poulo Cambier và Calao, kế đó người
ta khám phá đảo Aynam (Hải Nam)”
(Nguyễn Cửu Sà dịch, 2003, tr. 433).
Hành trình thật vắn tắt nhưng ấn
tượng về tiêu điểm Varella hết sức
đặc biệt với một danh xưng cũng hoàn
toàn lạ lẫm.
Chuyến du hành vòng quanh thế giới
một cách kỳ lạ của Gemelli Careri đã
đưa ông đến xứ Đàng Trong vào thời
điểm tháng 7/1695. Chặng qua mũi
Varella được lược kể trong tình huống
như sau: “ chúng tôi tiếp tục hành
trình trong gió thuận suốt dọc bờ biển
xứ Đàng Trong, nhưng 2 giờ sau bữa
cơm trưa một cơn mưa lớn trong các
cơn mưa thường lệ đến cùng với một
cơn gió cuồng loạn, chúng tôi phải đi
theo nhiều đường những nơi không
ngược nước. Và may thay chúng tôi
đến được mũi Veritable Varella
(Varella đích thực - phân biệt với
Varellas giả ở bên trong ngọn núi, trên
đó có một tảng đá nhiều nhánh mà
người ta gọi là chùa [Pagoda]) bởi vì
ngọn gió dữ sau một lúc đã ngừng và
biển không còn quá động” (Nguyễn
Cửu Sà dịch, 2003, tr. 432). Cách G.
Careri gọi tảng đá trên đỉnh núi là ngôi
chùa có thể xuất phát từ nhận thức
đem so sánh nó với một bức tượng
hay hình ảnh của một nhà sư. Quan
niệm của người Bồ Đào Nha và nguồn
gốc Mã Lai của thuật từ Varella đồng
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (201) 2015
68
nghĩa với Pagoda như bên trên đã giải
thích. Thực ra, tùy theo góc nhìn mà
khối đá trên chóp đỉnh có khi lại giống
hình dáng một nhà sư đang ngồi thiền
hoặc đang đi xuống núi. Điều khác
biệt ở đây là, trong khi người Bồ Đào
Nha cho rằng mũi Varella giả/Varella
Falsa nằm trong dãy núi Đá Vách
thuộc vùng Phan Rang thì G. Careri
đưa nó xích gần với Varella đích
thực/Veritable Varella hoặc Varella
Verdadeira. Sự ra đời của địa danh
Varella Falsa được biện giải rằng do
nó giống với Varella Verdadeira: “Nó
tỏ ra khá cao với một núi đá ở trên
đỉnh trông giống như một cái chòi
canh gác, những người Bồ Đào Nha
cho nó cái tên Varella giả để phân biệt
nó với cái Varella ở quá về phía Bắc”
(Manguin, 1972, tr. 120).
Một tài liệu Hà Lan khác có niên đại
đồng thời với chuyến du hành của G.
Careri dường như cũng đề cập đến
tiêu điểm Varella. Tập số 21 trong
sách L’Atlat de la Navigation et du
Commerce Amsterdam (Tập Bản đồ về
Hàng hải và Thương mãi Amsterdam)
ghi chú các tiêu điểm hàng hải thuộc
bờ biển xứ Đàng Trong từ Nam lên
Bắc theo thứ tự: B. Cecir, B. Paradan,
B. Lomeryn, Pagoda Schuyt Bay
(Nguyễn Cửu Sà dịch, 2003, tr. 431).
Hẳn Pagoda Schuyt Bay là một cách
gọi khác Varella của người Hà Lan.
Trong khi đó, nhà thám hiểm người
Anh Peter Mundy ngay từ những năm
1634-1637 đã không ngớt lời xưng
tụng ngọn núi đá Varella như một kỳ
quan thiên nhiên tuyệt hảo và để lại
cho nghệ thuật hàng hải thế giới một
bức ký họa thực sự xứng đáng được
ngưỡng mộ.
Viên sĩ quan người Pháp tham gia tác
chiến trong hàng ngũ thủy quân
Nguyễn Ánh thời nội chiến Nguyễn -
Tây Sơn là Jean Baptiste Chaigneau
đưa ra một chỉ dẫn tuy không đích xác
về mặt danh xưng, song gần như
chắc chắn thuộc về Phú Yên, tương
quan cùng với các thương cảng khác
trong chuyên mục khảo sát hải cảng
dọc bờ biển vương quốc Cochinchine:
“Các bến cảng chính yếu của Đại
quốc là các bến cảng tại Sài Gòn; bến
cảng Cam Ranh là một bến cảng rất
bảo đảm và rất đẹp của Cô-Sen-Sin;
bến cảng Lavait nằm giữa hai hòn núi
tránh được tất cả gió bão; bến cảng
Quảng Nam hay Tourane, nằm sâu
vào trong một cái vịnh có nhiều bến
cảng khác nhỏ bé hơn; bến cảng Hòn
Khói; bến cảng Cửa Bé; bến cảng
Vũng Chàm; bến cảng Cù Mông; bến
cảng Qui Nhơn” (Phan Xưng, Hà
Xuân Liêm dịch, 2002, tr. 267-268).
Theo lôgic sự kiện và dưới con mắt
quan sát quân sự nhà nghề, đây là
các hải cảng mà theo những chiến
dịch gió mùa, quân đội Nguyễn Ánh
phản công lên phía Bắc, đã từng có
sự tham gia đắc lực của J. B.
Chaigneau với vị trí chỉ huy tàu bọc
đồng Long Phi, trong đó không thể bỏ
qua một tiêu điểm chiến tranh vùng
giáp ranh phải giành đi giật lại rất
nhiều lần giữa đôi bên tham chiến:
Xuân Đài - Vũng Lấm. Hải cảng Vũng
Lấm nằm trong vịnh lớn Xuân Đài,
được chắn bên ngoài bởi bán đảo
Phước Thịnh và núi Xuân Đài, nổi
NGUYỄN LỤC GIA – MỘT SỐ CHỈ DẪN HÀNG HẢI
69
tiếng các trận giao chiến Nguyễn - Tây
Sơn cũng như là vị trí tập kết của thủy
quân Nguyễn Ánh mỗi khi xuất kích về
hướng Qui Nhơn hoặc phải rút lui do
thời tiết bất lợi. Lavait có thể là cách
viết của Lamuc, tức Lâm úc/Vũng Lấm,
danh xưng dùng trong bộ sử biên niên
Đại Nam thực lục sau này. Bên cạnh
Vũng Lấm, J. B. Chaigneau còn chỉ ra
hai vị trí hàng hải khác trong vùng Phú
Yên - Bình Định là Cù Mông và Qui
Nhơn.
Các chỉ dẫn hàng hải trên chặng
đường biển Phú Yên bao gồm đỉnh
Varella, hải cảng Vũng Rô, cù lao hòn
Khô, cửa biển Đà Nông, vịnh Ran Ran
cùng bờ cát trắng loáng vùng cửa
sông Đà Rằng, núi Chóp Chài và núi
Tháp đã được những ghi chép của
nhà du hành người Anh James
Horsburgh minh chứng lần nữa vào
đầu thế kỷ XIX. Sau khi khảo tả các vị
trí xung quanh đỉnh Varella, J.
Horsburgh tiếp tục: “Vịnh Fuiên [Phú
Yên] rộng lớn, nó được hình thành do
bờ biển ở nơi này nằm theo hướng
Tây Tây Bắc sau mũi Varella và cho
mãi đến sông Fuiên, nằm cách xa đó
chừng 5 hải lý; sau đó bờ biển nằm
trở lại về phía Bắc. Cách mũi Varella
độ 6 hải lý hoặc 6 hải lý 1/2 về phía
Tây Bắc, ở phía trong đất liền một tí
thì có một ngọn núi cao, hình dáng
trông giống như một hình nón đều
thường được gọi là núi Chóp Nón
hoặc núi Diều Hâu; và ở phía Nam núi
này một chút có một miếng đất nhỏ
(sic) với một tảng đá lớn hoặc một
ngôi đền, mà người ta chỉ nhìn thấy
khi nào người ta đã áp tàu vào đến
gần đất liền” (Horsburgh, 1827, tr.
227). Mô tả của J. Horsburgh về
hướng bờ biển của vịnh Phú Yên/Ran
Ran vào trước thời điểm 1827 so với
ngày nay có một khoảng chênh lệch
đáng kể về phía Đông khoảng 300, tức
từ hướng Tây Tây Bắc đổi thành
hướng Tây Bắc 1/4 Bắc, cũng như núi
Tháp nguyên là một doi đất nhô ra
ngoài đường bờ biển thì nay đã lùi
sâu vào đất liền và cách bờ biển tới
khoảng 3km. Hai biến đổi này cho
thấy đã diễn ra một sự bồi lấp mạnh
mẽ và làm biến dạng hoàn toàn thể
dáng vùng vịnh Ran Ran, bởi nó
không thể nào gọi thành một vịnh biển
được nữa. Chính nhà khảo cổ Henri
Parmentier cũng đã đưa ra kiến giải
tương đồng như đã nêu trên.
Nhà bản đồ học trứ danh người Bỉ
Philippe Vandermaelen trong bộ Atlas
Universel de Géographie đồ sộ bao
gồm 6 tập, xuất bản tại Bruxelles vào
năm 1827 đã hướng dẫn cụ thể lộ
trình đi qua vùng biển miền Trung của
vương quốc Việt Nam, trong đó nổi
bật hệ thống tiêu điểm hải hành với
các đảo, cù lao, hải cảng, cửa sông,
thành phố, kể cả độ sâu từng vị trí
trên biển thuộc Phú Yên - Bình Định.
Bởi tấm hải đồ mang tên Partie de la
Cochinchine, tức chỉ đề cập một phần
lãnh thổ và lãnh hải của xứ Đàng
Trong từ vĩ tuyến 120B đến 170B, và
các danh xưng hành chính cấp
dinh/phủ đều chú dẫn theo cách gọi từ
thời chính quyền chúa Nguyễn, như
Bink-Kang (Bình Khang) để chỉ Bình
Hòa/Khánh Hòa, Quin-Hone (Qui
Nhơn) để chỉ Bình Định nên chắc
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (201) 2015
70
chắn nó phải được tác giả biên soạn
hoặc sưu tập trước thế kỷ XIX, tức từ
nhiều mươi năm trước thời điểm xuất
bản. Theo đó, vào khoảng vĩ tuyến
130B là C. Avarella ou Varella (cap
Avarella hay Varella), liền kề có cù lao
hòn Khô với danh xưng Perfarated
Rock; chếch về phía Bắc ngang vịnh
Bà Đài/Xuân Đài là Phuyen havre (hải
cảng Phú Yên) và Pt. Vung Chao (port
Vũng Chào); kế tiếp là Cambir B.
(Cambir bay, tức vịnh cù lao Xanh) và
Pt. Quin hone (port Qui Nhơn) mà
phía ngoài biển là một loạt các vị trí
theo trình tự: C. Sanho (cap Sanho,
tức mũi San Hô hay mũi Yến), Black
Jack (tương ứng nhóm cù lao João
Preto), Buffalo I. (Buffalo ile, tức hòn
Trâu); cuối cùng là nhóm đảo ven bờ
Turtle I. (Turtle ile) và cửa vịnh
Tanquain (Tân Quan hay Tam Quan)
mà ngày nay đã bị bồi lấp và phần lớn
trở thành đất liền, chỉ còn thấy một
hòn duy nhất với phương danh hòn
Yến. Chi tiết hơn nữa, hải đồ Partie de
la Cochinchine còn mô tả trên vùng
bờ biển Phú Yên hiện diện cả bốn con
sông lớn, trong đó có Powai R. (Powai
river, tức sông Ba/Đà Rằng) nằm
chếch về phía Nam so với hai cù lao
nhỏ (hòn Chùa và hòn Dứa) và một
con sông chảy qua thị trấn có tên
Koalay rồi đổ ra vịnh Cù Mông mà đó
chính là sông Bà Bông hoặc sông Bà
Nam (Vandermaelen, 1827, tr. 116).
Đây đích thực là một tấm hải đồ dùng
để hướng dẫn tàu thuyền trong cuộc
hành trình từ Ấn Độ - Malacca đi
Trung Hoa - Nhật Bản và ngược lại,
bởi sau khi tiếp cận với Carnraigne
havre (hải cảng Cam Ranh) ở vào
khoảng vĩ tuyến 120B, các thuyền
trưởng sẽ cho lái tàu men theo đường
bờ biển, lần lượt băng qua mũi đất
Varella hướng tới pullo Canton (cù lao
Ré) và pullo Champella (cù lao Chàm),
từ đó vượt biển sang thẳng Macao với
sự lưu ý đặc biệt phải tránh xa các bãi
cạn và đá ngầm đã được khoanh lại
thành một khối hình đa diện kéo dài từ
vĩ tuyến 140B đến 170B và trải rộng từ
khoảng kinh tuyến 1090Đ sang 1110Đ
(tức trong khoảng 1110Đ-1130Đ theo
hệ kinh tuyến Greenwich sử dụng hiện
nay, lệch 2020’14”) ngoài khơi dinh
Quảng Nam, mang danh xưng địa lý
Paracels đang thuộc về chủ quyền
của vương quốc Cochinchine, tức xứ
Đàng Trong.
Sứ bộ Anh quốc do John Crawfurd
dẫn đầu đến vương quốc Việt Nam
năm 1821 với sứ mệnh xác lập quan
hệ thương mại đã có dịp mục kích
tường tận mũi Varella. J. Crawfurd lưu
ý một vài tình tiết thú vị rằng “Sáng
sớm tàu chúng tôi vượt qua đèo Cả,
điểm nổi bật nhất của hàng hải Đàng
Trong. Ngọn núi đèo ấy cao ước
chừng 1.500 đến 2.000 thước Anh
(feet). Một trong những ngọn núi đá
đáng chú ý nhất có hình dáng một trụ
cột cao ngất bị gãy và đổ, có thể trông
thấy từ khoảng cách xa 15 đến 18 hải
lý, dù nhìn từ Nam hay từ Bắc. Truyền
rằng núi có mỏ bạc và có suối nước
nóng nhiệt độ cao ở lưng chừng núi”
(Crawfurd, 1967, tr. 229).
Trước thời điểm người Anh nói trên,
năm 1819 John White đến từ Hợp
Chúng quốc Mỹ cũng tiến hành
chuyến khảo sát thương mại dài ngày
NGUYỄN LỤC GIA – MỘT SỐ CHỈ DẪN HÀNG HẢI
71
tại Việt Nam. Do không diện kiến
được hoàng đế Gia Long tại Huế, J.
White quyết định rời Việt Nam sang
cập cảng Manille. Viên thuyền trưởng
người Mỹ đã chọn Qui Nhơn làm vị trí
chuyển hướng tàu ra biển để nhắm
thẳng tới quần đảo Hoàng Sa theo
chiều gió. Đây là vùng hải phận Bình
Định trên đường biển quốc tế: “
chúng tôi đi dọc theo bờ biển phía
Nam, vì chúng tôi đã quyết định theo
hướng gió để đi ngang qua một nhóm
đảo và những chỗ cạn gọi là Paracel
(tức quần đảo Hoàng Sa) mà chúng
tôi hy vọng là chúng tôi sẽ hưởng
được những luồng gió thuận cho đến
Manille. Khi chúng tôi đi đến gần vĩ độ
140, đối diện với Qui Nhơn, thì chúng
tôi tách khỏi bờ biển xứ Nam Hà và
chúng tôi nhắm theo hướng thẳng đến
đảo Lucon. Dọc theo bờ biển, chúng
tôi hưởng được thời tiết đẹp với
những gió thổi đều từ lục địa ra và từ
biển tới, một dòng nước mạnh chảy
ngược lại về hướng Tây Bắc” (Hà
Xuân Liêm dịch, 2010, tr. 257).
Hiệp ước Giáp Tuất ký kết ngày
15.3.1874 tại Sài Gòn giữa phái bộ
của triều đình Huế với phái bộ của
chính phủ Pháp đã xác nhận tại Điều
11 rằng triều đình cam kết mở cửa Thi
Nại cùng với cửa Ninh Hải, Hà Nội và
sông Hồng cho thương thuyền ngoại
quốc vào buôn bán. Cuộc chinh phục
của người Pháp bắt đầu đối với Trung
Kỳ từ thương cảng lớn nhất thuộc tỉnh
Bình Định khi Tourane ở Điều 5 của
Hiệp ước Nhâm Tuất (1862) được
thay thế bằng Thi Nại tại Hiệp ước
Giáp Tuất (1874).
Trong buổi đầu thời kỳ thuộc địa, quan
cai trị thực dân đồng thời nhà khảo sát
kinh tế - văn hóa Étienne Aymonier đã
có một số kiến giải thuyết phục về các
vị trí hàng hải vùng Nam Trung Kỳ. E.
Aymonier cũng gọi mũi Varella là cap
de la Pagode và phân biệt: “Phía trên
cao của Vũng Găng là đỉnh Varella giả
cao 930 mét. Đỉnh Varella giả này chỉ
giống với đỉnh Varella thực ở chỗ
nó cũng là những ngọn núi càng gần
tới biển thì càng thấp, nhưng người ta
không hề thấy ở Varella giả những
tảng đá giống như “Đá Bia” của
Varella thật”; và mô tả: “Cảng Vũng
Ro [Vũng Rô] nằm ở phía Nam, cạnh
mũi Varella. Là một cảng đẹp nhất và
có những bến đỗ an toàn nhất của bờ
biển vùng này. Cửa vào cảng rộng 1
hải lý, và ở phía trong, vũng cảng rộng
3 hải lý theo hướng Đông Bắc, sâu 16,
13 và 11 mét. Cảng đầy bùn, ngoại trừ
một vài nơi cách bờ chừng trăm mét
thì ta có thể thấy cát hoặc san hô. Đảo
Hòn Ro [Hòn Rô, nay là Hòn Nưa]
nằm ở phía Tây Nam của cửa cảng.
Đảo và bờ biển tách rời nhau bằng
một con lạch khá hẹp, nhưng ở gần
đảo nước sâu tới 14 mét. Ta cũng có
thể tìm thấy nước ngọt ở phía Tây của
cảng”; đồng thời cảnh báo rằng “Hiện
nay, cảng Vũng Ro là một trong
những ổ chính của bọn cướp biển
người Annam hay Trung Quốc của bờ
biển này” (Aymonier, 1886). Đó là thời
điểm 1884-1885, khi mà ranh giới
giữa Phú Yên với Khánh Hòa vẫn còn
nằm ở mốc chót đỉnh đèo Cả.
Trên cơ sở tài liệu của người đồng
hương đi trước J. B. Chaigneau, viên
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (201) 2015
72
công sứ đầu tiên của Phú Yên là
Tirant đã đệ trình lên Chính phủ thuộc
địa những triển vọng xán lạn về lĩnh
vực thương mại địa phương vào năm
1890: “Vịnh Sông Cầu [Xuân Đài -
Vũng Lấm] là một trong những vịnh
đẹp nhất trên toàn thế giới mà 100 tàu
có thể đến thả neo ở đây”; ông còn
nhấn mạnh thêm rằng “ nó phải được
thừa nhận như là hải cảng chính của
miền Trung An Nam” (Nguyễn Cửu Sà
dịch, 2003, tr. 382). Ý tưởng của quan
Pháp Tirant sang thập niên 20 ở thế
kỷ sau đã được người đồng sự Albert
Laborde tán đồng khi đem nó đối sánh
với vịnh Qui Nhơn: “ thật thế, không
thể không nhớ rằng cái vịnh lớn này
đáy thay đổi từ 5 đến 15 thước, có thể
cung hiến cho tàu thuyền một hải
cảng an toàn và có thể tiện lợi hơn
vịnh Qui Nhơn, như người ta nói, mà
lối vào càng ngày càng trở nên khó
khăn. Tôi tin chắc rằng trong mọi
trường hợp nếu vào buổi đầu thời kỳ
bảo hộ của chúng ta, con đường thuộc
địa và các con đường địa phương đi
lại được như ngày hôm nay, cảng
Sông Cầu hẳn đã được ưa chuộng
hơn cảng Qui Nhơn, vì hơn Qui Nhơn
nó dễ dàng giao thông với vùng cao
nguyên theo ngả La Hai và nhất là
ngả Củng Sơn, cửa khẩu dễ dàng dẫn
đến Kontum và Darlac” (Nguyễn Cửu
Sà dịch, 2003, tr. 382-383).
Trước A. Laborde, viên toàn quyền
Joseph Athanase Paul Doumer (1897-
1902) được biết đến qua đề án cải
cách tầm vĩ mô xứ Đông Dương thuộc
Pháp, tổng thống thứ 14 nước Cộng
hòa Pháp về sau, cũng đã ấn tượng
mạnh mẽ trong những chuyến kinh lý
bởi vùng bờ biển Phú Yên mang
nhiều nét dị biệt đặc sắc này. Ngọn
núi đá cao 706 mét trong dãy đèo Cả
là một chứng cứ hùng hồn ấy mà quý
ngài Doumer đã dành những dòng lưu
ý hữu ích và hàm xúc trong tập hồi ký
Indochine Francaise của mình như
sau: “Đây, mỏm Varella, núi cao và
lớn, màu sẫm, kỳ dị với hòn đá dài và
to tướng ở trên đỉnh và chỉ thẳng lên
trời: Ngón Tay Chúa [Le Doigt de
Dieu], mà từ chung quanh cách xa 20
dặm người ta có thể trông thấy. Đó là
mũi đất xa nhất về hướng Đông của
bán đảo Đông Dương; nơi đây tàu
Trung Hoa và Nhật Bản đến cập bến.
Ban ngày núi đất rất dễ nhận thấy, cái
ngón tay là điểm mục tiêu không bao
giờ nhầm. Điều may mắn là nó không
thường bị mây che khuất” (Võ Liệu,
1959, tr. 37-38). Tuy nhiên, tầm nhìn
của tiêu điểm Varella thậm chí còn có
thể được phóng xa hơn, như Huấn thị
về hàng hải cho biết: “ mực đất cứ
đi về phía Tây thì lại cao dần lên cho
mãi đến một ngọn núi cao, tại đó có
một hòn đá đáng chú ý là Đá Bia (núi
đá đền thờ), khi trời quang thì cách xa
50 dặm (mille marin) ở ngoài khơi vẫn
trông thấy” (IN, 1959, tr. 307).
Trong khi đó, Qui Nhơn cũng là điểm
kết thúc của chặng bờ biển ấn tượng
nhất tính từ phía Nam ra, như điều
nhận xét của viên trung úy hải quân R.
Castex trong chuyên đề Bờ biển Đông
Dương - khảo sát kinh tế về hàng hải
vào năm 1904: “Qua Qui Nhơn thì bờ
biển của Trung Bộ không còn giống
như bờ biển ở Khánh Hòa và Phú Yên,
NGUYỄN LỤC GIA – MỘT SỐ CHỈ DẪN HÀNG HẢI
73
không có cái ngoạn mục làm cho
người ta say mê nữa. Qui Nhơn đánh
dấu sự chấm dứt không còn những
vịnh lớn, những mỏm nhô ra biển và
lượn quanh (conteurné) những đảo
chen chúc một cách lạ thường”
(Castex, 1904, tr. 4). Rất nhiều lợi ích
hàng hải hoặc đã cung hiến, hoặc
đang tiềm ẩn đằng sau vẻ đẹp lãng
mạn của những chuyến du hành qua
vùng biển và bờ biển miền Nam Trung
Kỳ Việt Nam.
CHÚ THÍCH
(1) Theo cách giải thích của Manguin, trong tiếng Bồ Đào Nha cũng như tiếng Mã Lai, các
âm b và v thường xuyên thế chỗ cho nhau. Với nghĩa là “tượng thờ, giả thần”, từ điển Mã
Lai - La Tinh của Haex cho ra hai văn tự pháp bralla và berhalla; sách của Houtman cho ra
chữ barhalla. Trong ngôn ngữ Bồ Đào Nha, động tác hít vào ở giữa chữ không có nên
không được giữ lại, như vậy người ta có: berhala > berela > varela. Các Huấn thị về Hàng
hải cũng xác nhận: berhala > varella.
Xem: Manguin, Pierre Yves. 1972. Sách đã dẫn, tr. 59 (chú thích số 21).
(2) Bản đồ Hà Lan: Guiljelmus BLAEU, 1635, Atlas 27x43 cm.
Trong các bản đồ của người Bồ Đào Nha phác họa từ trước, con sông Apa thường được
gọi là Rio Frei d’Abreu.
Xem: Dournes, Jacques. 2013. Potao, một lý thuyết về quyền lực ở người Jorai Đông Dương,
Hà Nội: Nxb. Tri thức, tr. 10.
(3) Nguyên văn: la quinta, che confina con Chiamp à, si chiama Renran (dinh thứ 5 tiếp giáp
với Champa gọi là Renran).
Xem: Sica, Mario. 2013. Những lữ khách Ý trong hành trình khám phá Việt Nam. Hà Nội:
Nxb. Thế giới, tr. 213.
(4) Theo mô tả của Henri Parmentier, trên đỉnh núi Tháp từng tồn tại hai khu đền tháp: “Cây
tháp bị đổ nát là cây tháp to lớn hơn, nằm trên giữa đỉnh đồi; cây tháp kia nằm ở chân đồi
trên một mặt phẳng ở chỗ 5 hoặc 6 mét thấp hơn”. Xem: Parmentier, Henri. 1909. Mục lục
mô tả các lâu đài của người Chàm ở Trung Kỳ. Tập I. Paris: Ernest Leroux, tr. 139.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Aymonier, E. 1886. Annam ký sự: tỉnh Khánh Hòa. Nguồn: saobiennhatrang.net
2. Barrow, John. 2008. Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà (1792-1793). Hà Nội: Nxb.
Thế giới.
3. Castex, R. 1904. Bờ biển Nghĩa Bình. Trong Bờ biển Đông Dương: khảo sát kinh tế
về hàng hải. Thư viện tỉnh Bình Định. VV11.
4. Coedès, George. 2008. Cổ sử các quốc gia Ấn Độ hóa ở Viễn Đông. Hà Nội: Nxb.
Thế Giới.
5. Crawfurd, John. 1967. Journal of an Embassy from the Governor-General of India to
the Courts of Siam and Cochin China exhibiting a View of the Actual State of those
Kingdoms. Kuala Lumpur, London, New York, Oxford Press (fisrt ed., London, 1830).
6. Ferreira, Manuel. 1700. Nôtias samarias das perseguicôes da Missam de
Cochinchina Lisboa.
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (201) 2015
74
7. Hà Xuân Liêm (dịch). 2010. Những người bạn cố đô Huế. Tập XXIV. Năm 1937. Huế:
Nxb. Thuận Hóa.
8. Horsburgh, Jemes. 1827. Roteiro da India ou Instruccões para Navegar nos mares da
India e China (Bản dịch của India Directory, éd, 1917). Caleutta.
9. IN - Instructione nautiques du SHM (Chỉ thị về hàng hải của SHM). 1959. Vol. XIV.
10. Manguin, Pierre Yves. 1972. Les Portugais sur les Côtes du Viet-nam et du Campà.
Étude sur les routes maritimes et les relations commerciales d’après les sources
Portugaises (XVIè, XVIIè, XVIIIè siècles). EFEO. Paris.
11. Nguyễn Đình Đầu. 2001. Sứ giả Anh Chapman triều kiến Nguyễn Nhạc. Tạp chí
Xưa & Nay. Số 92.
12. Nguyễn Đình Đầu. 1996. Phải chăng bản đồ Alexandre de Rhodes 1650 vẽ theo
bản đồ Hồng Đức 1490?. Tạp chí Xưa & Nay. Số 33.
13. Nguyễn Lục Gia. 2013. Chúa Tiên Nguyễn Hoàng - người mở đầu thời hội nhập của
xứ Đàng Trong thế kỷ XVI - XVII. Tạp chí Khoa học Xã hội TP HCM. Số 9 (181).
14. Nguyễn Cửu Sà (dịch). 2003. Những người bạn cố đô Huế Tập XVI. Năm 1929. Huế:
Nxb. Thuận Hóa.
15. Nguyễn Cửu Sà (dịch). 2003. Những người bạn cố đô Huế. Tập XVII. Năm 1930.
Huế: Nxb. Thuận Hóa.
16. Nguyễn Cửu Sà (dịch). 2003. Những người bạn cố đô Huế. Tập XVIII. Năm 1931.
Huế: Nxb. Thuận Hóa.
17. Parmentier, Henri. 1909. Thống kê khảo tả các di tích Chàm ở Trung Kỳ. Paris:
Ernest Leroux. Bản đánh máy được photocopy tại Thư viện Ninh Thuận.
18. Phan Xưng, Hà Xuân Liêm (dịch). 2002. Những người bạn cố đô Huế. Tập X. Năm
1923. Huế: Nxb. Thuận Hóa.
19. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2006. Đại Nam nhất thống chí. Tập 3. Huế: Nxb. Thuận
Hóa.
20. Vandermaelen, Philippe. 1827. Atlas Universel de Géographie. Tập II. Bruxelles.
Nguồn:
artie,-la-Cochinchine--Asie-106-
21. Võ Liệu. 1959. Núi Vọng Phu và Bi Sơn. Tạp chí Giáo dục Phổ thông. Số 44.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_chi_dan_hang_hai_tren_vung_bien_va_bo_bien_phu_yen_bi.pdf