Hướng cải cách các chính sách động
lực này là:
- Phát triển thị trường lao động định
hướng xã hội chủ nghĩa đồng bộ với các
loại thị trường khác như thị trường khoa
học và công nghệ, thị trường vốn. Chỉ
có trong môi trường đó, giá trị và giá trị
sử dụng của đội ngũ lao động kỹ thuật
mới được đánh giá đúng; trở thành căn
cứ khách quan để sử dụng lực lượng lao
động kỹ thuật nước ta.
- Trong hệ thống các giá trị xã hội
mới, cùng với hệ thống quản lý Nhà
nước, các hệ thống khác liên quan tới lao
động kỹ thuật cũng được mở ra không bị
hạn chế về mức trần tiền lương, tiền công
và thu nhập.
- Trong bản thân lực lượng lao động
kỹ thuật, các cơ chế, chính sách về tiền
lương, tiền công, thu nhập cần tránh xu
hướng cào bằng. Cần đặc biệt khuyến
khích nhóm lao động kỹ thuật có trình độ
và kỹ năng cao, đạt chuẩn quốc tế. Có
thể ứng dụng luật Pareto để làm cơ sở
xây dựng chính sách đãi ngộ. Theo quy
luật này việc từ trình độ tay nghề thấp, có
thể nâng cao hơn tay nghề đó một bậc, là
khá dễ; từ trình độ tay nghề khá để có tay
nghề cao hơn, đã bắt đầu khó và từ trình
độ tay nghề cao, để có tay nghề cao hơn
nữa là rất khó so với các cấp độ tay nghề
đã nêu trên. Vì vậy, cần có chính sách
tiền lương - tiền công - thu nhập đặc biệt
khuyến khích đối với lực lượng lao động
kỹ thuật là hết sức khách quan và hợp lý.
Trong nền kinh tế thị trường, chi phí
trong cung sức lao động và chi phí trong
cầu sức lao động có quan hệ hữu cơ,
khách quan. Điều này có tính quy luật.
Lao động kỹ thuật phải chi phí cao để
có tay nghề và chất lượng cao, do đó tỷ
lệ hoàn trả trong tiền lương càng cao.
Tiếp đó, họ cung cấp sức lao động đó, trở
thành đầu vào của quá trình tái sản xuất
ra GDP. Quá trình phân phối GDP tạo ra
tiền lương - tiền công - thu nhập của lao
động kỹ thuật, như là đầu vào đối với họ.
Mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra của
GDP là không tách rời với đầu vào/đầu
ra của lao động kỹ thuật.
- Đổi mới chính sách bảo hiểm:
Cần phát triển mạnh các loại hình bảo
hiểm trong kinh tế thị trường. Các nghệ
nhân, các lao động kỹ thuật trình độ cao
có thể mua bảo hiểm bàn tay vàng, bảo
hiểm nghề nghiệp, bảo hiểm thân thể.
Đối với số lao động kỹ thuật trình độ cao
trong các lĩnh vực đặc thù (xét theo lĩnh
vực, hoặc theo tính chất của công việc họ
làm: lao động tay nghề cao trong hàng
không, dầu khí, hầm mỏ, trong công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công
nghệ vật liệu cao, trong các ngành cần
bảo mật cao vì lợi ích quốc gia .), cần
có các chế độ bảo hiểm đặc thù, để bảo
vệ họ như là tài sản quý của quốc gia.
Một chế độ bảo hiểm theo nghĩa rộng,
cần được tính đến, khi công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đã phát triển cao.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 481 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số đánh giá về chất lượng lao động Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 27/Quý II- 2011
42
MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG
VIỆT NAM
Th.S. Nguyễn Bích Ngọc
Viện Khoa học Lao động và Xã hội
ông nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH, HĐH) và hội nhập
kinh tế quốc tế đã và đang đặt
ra nhiều thách thức lớn đối với nguồn
nhân lực (NNL) nước ta. Thách thức lớn
nhất là NNL tuy đông nhưng chất lượng
còn thấp, nên sức cạnh tranh còn nhiều
hạn chế so với các nước trong khu vực
và thế giới. Bài viết này đánh giá một số
vấn đề về chất lượng lao động đồng thời
đưa ra một số giải pháp nâng cao chất
lượng lao động nước ta đáp ứng yêu cầu
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế.
I. Thực trạng về chất lượng lao động ở
nước ta
1. Trình độ học vấn của lao động Việt
Nam
Xu hướng cải thiện trình độ văn hóa
của lực lượng lao động Việt Nam trong
những năm gần đây, cho thấy những dấu
hiệu khả quan trong nỗ lực tiến tới một
lực lượng lao động có tay nghề trong
tương lai. Tỷ lệ người không biết chữ ở
Việt Nam thấp. Nhưng tỷ lệ lao động có
trình độ học vấn cũng chưa cao. Tỷ lệ lực
lượng lao động tốt nghiệp tiểu học đạt
17,4% (năm 2009). Trong cùng thời kỳ
2005-2009, tỷ trọng lao động tốt nghiệp
trung học cơ sở giảm từ 32,57% xuống
28,5%. Tỷ trọng lao động tốt nghiệp
trung học phổ thông tăng từ 21,23% đến
25,6%, tăng 4,37 điểm phần trăm. Nhóm
lao động có trình độ THPT chỉ có 25,6%
trong tổng số lao động trong độ tuổi lao
động ở nước ta, nhưng cao so với một số
nước trong khu vực (Malaysia THPT:
18,1%, Indonesia THPT: 20,8%).
Tuy lao động có trình độ học vấn bậc
phổ thông cơ sở và phổ thông trung học
chiếm tỷ lệ khá cao, nhưng phân bổ
không đều giữa doanh nghiệp khu vực
nhà nước và khu vực ngoài nhà nước.
Năm 2009, theo điều tra của Tổng liên
đoàn lao động Việt Nam, lao động khu
vực ngoài quốc doanh có trình độ học
vấn thấp hơn so với khu vực nhà nước.
Bảng 1: Lực lượng lao động phân theo trình độ học vấn giai đoạn 2005-2009 (%)
Nguồn: - Số liệu TK Việc làm - Thất nghiệp ở VN giai đoạn 2000- 2007 của Bộ LĐTBXH.
- Số liệu TK Lao động -Việc làm - Thất nghiệp năm 2008, 2009 của Tổng cục Thống kê
C
Năm Tổng số
Chưa biết
chữ
Chưa TN
tiểu học
TN tiểu học TN THCS TN THPT
2005 100,00 4,04 13,09 29,08 32,57 21,23
2006 100,00 3,84 15,88 33,80 26,85 23,46
2007 100,00 3,66 12,79 28,72 31,14 23,59
2008 100,00 4,01 12,01 28,34 32,08 23,56
2009 100,00 4,60 13,70 27,60 28,50 25,60
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 27/Quý II- 2011
43
Lao động làm việc trong các doanh
nghiệp Nhà nước 98% có trình độ phổ
thông trung học (lớp 12/12). Lao động
trình độ cao làm việc hầu hết ở Hà Nội
và Thành phố Hồ Chí Minh. Lao động có
trình độ học vấn thấp hoặc không biết
chữ tập trung ở vùng sâu, vùng xa thuộc
các tỉnh miền núi và làm việc trong các
ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản
và diêm nghiệp. Việc phân bổ lao động
có trình độ học vấn không đều giữa các
vùng, các ngành có tác động trực tiếp
đến việc đào tạo bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ
để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
và về nâng cao trình độ văn hoá của họ
trong quá trình hành nghề.
2. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của
lao động Việt Nam
Lực lượng lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật là lực lượng nòng
cốt thúc đẩy tăng trưởng cao và bền
vững. Trong các năm 2005-2009, trình
độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng
lao động cả nước có sự cải thiện nhất
định trong thời gian qua. Tuy nhiên, tỷ lê
lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật trong lực lượng lao động của nước
ta còn nhỏ so với nhiều nước phát triển
trong khu vực, thế giới và chưa tương
xứng với quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước và với lực lượng lao
động lớn trong nền kinh tế. Nguồn nhân
lực được đào tạo có trình độ chuyên môn
kỹ thuật còn chiếm tỷ lệ thấp đạt gần
24,68% (năm 2009). Lao động không có
chuyên môn kỹ thuật vẫn chiếm tỷ lệ cao
là 75,32% (năm 2009) trong nguồn lao
động. Tỷ lệ lao động có trình độ đại học
đã tăng từ 5,5% lên 6,84%. Đây là một
thách thức rất lớn trong việc đáp ứng quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa của
nước ta.
Bảng 2: Lực lượng lao động Việt Nam phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật giai
đoạn 2005-2009 (%)
Năm Tổng số
Không có
CM
Sơ cấp nghề,
CNKT không
bằng
CNKT
có bằng
THCN
Cao đẳng,
ĐH trở lên
2005 100,00 74,67 11,56 3,54 4,73 5,50
2006 100,00 68,45 19,35 1,91 4,55 5,74
2007 100,00 75,93 6,62 5,24 5,48 6,74
2008 100,00 75,04 7,29 5,94 5,00 6,73
2009 100,00 75,32 11,08 2,14 4,62 6,84
Nguồn: - Số liệu TK Việc làm - Thất nghiệp ở VN giai đoạn 2000- 2007 của Bộ LĐTBXH.
- Số liệu TK Lao động -Việc làm - Thất nghiệp năm 2008, 2009 của Tổng cục Thống kê
Nếu so sánh tỷ lệ đã có bằng cấp của
lao động nước ta với các nước công
nghiệp trong khu vực, thì thấp hơn từ 2,5
đến 3 lần. Do đó, khi so sánh chất lượng
NNL nước ta với yêu cầu của thị trường
lao động thế giới, Ngân hàng thế giới
(WB) đã đánh giá lao động nước ta chỉ
đạt 3,79/10 điểm, và được xếp thứ 11
trong số 12 nước được xếp hạng.
Lực lượng lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao tốt nghiệp từ
cao đẳng, đại học trở lên còn quá thấp.
Tính đến năm 2009, có 3371 nghìn
người, chiếm 6,84% lực lượng lao động.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 27/Quý II- 2011
44
So với các nước trong khu vực Việt Nam
xếp hạng cuối (tỷ lệ này ở Trung Quốc là
15%, Thái Lan là 41%). Theo UNESCO
năm 2008 Việt Nam tiếp tục mất điểm về
chỉ số phát triển giáo dục cho mọi người
(EDI), là chỉ số được đánh giá theo 4 tiêu
chí cơ bản (phổ cập giáo dục tiểu học,
xoá mù chữ cho người lớn, bình đẳng
giới trong giáo dục và chất lượng giáo
dục), tụt 9 bậc trong bảng xếp hạng,
đứng vị trí 79 trong 129 quốc gia; thiếu
nhiều chuyên gia trình độ cao, thiếu
3,02
điểm, xếp thứ 102/133 quốc gia được
phân loại; lao động nông thôn chủ yếu
chưa được đào tạo nghề, năng suất lao
động thấp.
Số lao động có trình độ trung học
chuyên nghiệp chiếm 2,14% lượng lao
động và công nhân kỹ thuật chiếm 4,62%
là những tỷ lệ quá thấp, không thể đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế CNH, HĐH.
Những năm gần đây nhiều học sinh phổ
thông đã có ý thức trong việc lựa chọn
nghề một cách thiết thực hơn. Vì vậy,
một bộ phận học sinh trung học phổ
thông đã lựa chọn các trường nghề để
nâng cao trình độ nghề nghiệp, tạo lập
hành trang cho cuộc sống. Nhờ đó, các
trường nghề đã có số lượng người học
tăng dần. Theo số liệu báo cáo chưa đầy
đủ của các Bộ, ngành, địa phương, đến
hết tháng 11/2009 các cơ sở dạy nghề đã
tuyển sinh được 1.707.000 người đạt
104,5% so với kế hoạch, tăng 11,2% so
với thực hiện năm 2008. Tuyển sinh trình
độ cao đẳng nghề được 89.000 người, đạt
127%, trong đó vùng Đồng bằng Sông
Hồng chiếm 41%, vùng Đông Bắc 9%,
vùng Tây Bắc 0,8%, Bắc Trung Bộ 7%,
vùng Duyên hải Nam Trung Bộ 6%, Tây
Nguyên 1,4%, Đông Nam Bộ 30% và
vùng Đồng bằng Sông Cửu Long 4,8%.
Nghề có số lượng trường đào tạo và đăng
ký học nhiều nhất là: Điện công nghiệp
(99 trường); Hàn (93 trường); Công nghệ
ô tô (73 trường); Điện tử công nghiệp
(48 trường); Điện dân dụng (55 trường).
Nghề có số lượng trường đào tạo ít nhất
mang tính đặc thù của một số ngành là:
Thông
-
, chưa
.
Ngoài ra, cơ cấu lực lượng lao động
có chuyên môn kỹ thuật cao trong các
lĩnh vực không cân đối. Trong tổng số
lao động chuyên môn kỹ thuật cao, nhân
lực có trình độ cao đẳng, đại học ở lĩnh
vực khoa học kỹ thuật có tỷ lệ cao nhất là
57,05%, khoa học xã hội và nhân văn là
46,56%; y dược là 42,71% và cuối cùng
là nông, lâm, ngư nghiệp là 38,22%.
Việc phân bố nguồn nhân lực trình độ
cao còn nhiều bất hợp lý, phần lớn tập
trung ở các viện, cơ quan hành chính
đóng ở các đô thị, tạo nên tình trạng thừa
thiếu cán bộ chuyên môn kỹ thuật cao
theo vùng. Theo điều tra của Tổng cục
thống kê, lao động có trình độ tiến sỹ
làm việc ở các cơ quan sự nghiệp (các
viện nghiên cứu, trường v.v.) chiếm
61,12%, khu vực sản xuất, kinh doanh ở
thành phố là 19,81%. Tương ứng thạc sỹ:
60,20% - 17,10%; cử nhân và kỹ sư các
chuyên ngành là 30,42% - 45,16%. Trong
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 27/Quý II- 2011
45
khi đó tỷ lệ này ở vùng sâu, vùng xa chỉ
chiếm từ 4 - 7%, nên thiếu cán bộ đã qua
đào tạo, có kiến thức khá nghiêm trọng.
Phân bổ sử dụng NNL không hợp lý
làm cho chất lượng NNL nước ta vốn đã
thấp lại bị giảm xuống. Lao động được
đào tạo, có chất lượng tập trung phần lớn
ở khu vực thành phố, trong các ngành
hành chính và sự nghiệp. Do tập trung
với số lượng lớn, nên một bộ phận lớn
chấp nhận làm những công việc đơn giản
không cần đến bậc đại học, cao đẳng
hoặc thạc sỹ, nên đã lãng phí số lượng
lớn lao động đã qua đào tạo, nhất là cán
bộ đại học, kỹ sư các chuyên ngành.
Theo kết quả điều tra gần đây của Bộ
giáo dục và đào tạo, cho thấy: 63% sinh
viên ra trường không có việc làm, 37%
còn lại thì có hơn một nửa làm không
đúng ngành, nghề mình đã học, hầu hết
phải tự học lại hoặc phải đào tạo lại.
Đồng thời, 75% số người có học vị tiến
sỹ không làm khoa học, mà làm quản lý;
một số làm quản lý trái với ngành, nghề
đào tạo.
Lao động chưa qua đào tạo còn
chiếm tỷ lệ cao là một hạn chế lớn và là
một trong những nguyên nhân chính dẫn
đến người lao động khó có thể tham gia
thị trường lao động.
Hình 1. Cơ cấu lao động thiếu việc làm
Chưa qua đào tạo,
85.4%
CĐ, Đại học, 1.4%
THCN, 2.0%CNKT có bằng,
0.7%
CNKT không
bằng, 9.7%
CNKT có CC,
0.9%
Nguồn: Bộ LĐTBXH, Số liệu điều tra việc làm và thất nghiệp 2007
Chưa qua đào tạo cũng là một nguyên
nhân dẫn đến nhiều người lao động thiếu
việc làm. Trong số lao động thiếu việc
làm ở Việt Nam, nhóm lao động chưa qua
đào tạo chiếm tới 85,4%. Sau đó là nhóm
công nhân kỹ thuật không bằng chiếm
9,7%. Các nhóm lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao hơn chiếm tỷ
trọng không đáng kể. Số lao động thiếu
việc làm thuộc nhóm không có chuyên
môn kỹ thuật cho thấy mức độ ổn định
việc làm của nhóm lao động này là vấn đề
đào tạo cần được quan tâm hơn nữa.
Trong tổng số người thất nghiệp thì số
không có chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ
trọng rất lớn, chiếm tới 69,85% tổng số
người thất nghiệp vào năm 2007.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 27/Quý II- 2011
46
Bảng 3. Tỷ trọng lao động thất nghiệp phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật (%)
2004 2005 2006 2007
Chưa qua đào tạo 77,95 64,28 67,01 69,92
Qua đào tạo nghề hoặc tương đương 4,58 13,4 10,19 3,84
Trung học chuyên nghiệp 7,57 8,64 9,53 11,67
Cao đẳng, đại học trở lên 9,9 13,68 13,27 14,57
Nguồn: - Bộ LĐTBXH, Điều tra Lao động-Việc làm 2002-2006.
- Tổng cục Thống kê, Số liệu Điều tra Lao động-Việc làm 2007
3. Kỹ năng làm việc của LĐ Việt Nam
Kỹ năng làm việc là một trong những
yếu tố quyết định đến sự thành công
trong sự nghiệp của cá nhân người lao
động và tác động trực tiếp đến kết quả
sản xuất kinh doanhcủa từng cơ quan,
doanh nghiệp. Qua khảo sát của Tổng
cục dạy nghề, kỹ năng làm việc của
người lao động trong thực tế được các cơ
quan, doanh nghiệp đánh giá là quan
trọng nhất, kết quả được hỏi gần 3000
doanh nghiệp thì người sử dụng đều trả
lời đối với yếu tố “Kỹ năng làm việc” là
quan trọng nhất (81%), tiếp đến là các
yếu tố về “phối hợp tốt trong nhóm”
(55,6%), “ý thức kỷ luật tốt” (35,5%),
“cần cù chịu khó” là các yếu tố quan
trọng nhất vì nó liên quan đến số lượng,
chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Các kỹ năng cần thiết mà người lao
động phải có gồm:
+ Kỹ năng về chuyên môn là khả
năng và sự sẵn sàng sử dụng các kiến
thức, cần thiết để thực hiện các nhiệm vụ
nghề nghiệp cụ thể, có thể làm, thu thập
thông tin và xử lý linh hoạt, sáng tạo các
tình huống diễn ra trong thực hiện.
+ Kỹ năng giải quyết vấn đề gồm:
Xác định vấn đề cần giải quyết; Xác định
cách thức tiếp cận vấn đề; Đưa ra các
phương án giải quyết vấn đề; Lựa chọn
phương án tối ưu.
+ Kỹ năng thuyết trình gồm: kỹ năng
thuyết trình trước đám đông; kỹ năng
trình bày vấn đề logic, ngắn gọn, dễ hiểu.
+ Các kỹ năng cá nhân khác gồm: kỹ
năng tự học, tự nghiên cứu; kỹ năng phân
tích; năng lực lưu ý đến từng chi tiết; năng
lực làm chủ những ý tưởng chính xác và
phức tạp; năng lực lập luận những vấn đề
phức tạp; năng lực xây dựng những lý lẽ
lôgic và chỉ ra những lý lẽ phi lôgic; kỹ
năng sử dụng công nghệ thông tin.
Để có kỹ năng làm việc tốt, người lao
động cần phải có thời gian dài học tập và
rèn luyện để hình thành, trong đó khoảng
12 năm ở bậc giáo dục phổ thông là hết
sức quan trọng và được nâng cao dần
trong quá trình học nghề và làm việc của
người lao động.
Kỹ năng nghề nghiệp và tính chuyên
nghiệp lao động nước ta hiện còn thiếu
và yếu, thể hiện:
- Hầu như lao động kỹ thuật sau khi
ra trường chỉ nắm được kiến thức cơ bản,
thiếu kỹ năng để làm việc giỏi, thành
thạo. Đa số người lao động chỉ có thể
hoàn thành công việc như vận hành, sử
dụng, bảo trì công cụ, phương tiện làm
việc; chưa hiểu sâu về nguyên lý, quy
trình công nghệ và tính năng của máy
móc, thiết bị. Lao động nước ta hầu như
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011
47
chưa thể thành thạo công việc với các lý
thuyết đã được học sau khi ra trường.
Lao động nước ta, nhất là khi mới ra
trường, chưa hiểu biết sâu về lĩnh vực
công việc mình được giao phó. Theo kết
quả điều tra của Tổng cục dạy nghề, đại
đa số doanh nghiệp đánh giá người lao
động mới ra trường nắm được chung
chung kiến thức, chưa có kiến thức nền
tảng, cơ bản vững chắc, kiến thức chuyên
môn, nghiệp vụ chưa có đủ để làm thuần
thục một nghề được giao (cả lý thuyết và
thực hành). Chưa có khả năng cập nhật
thành tựu khoa học, công nghệ mới vào
quá trình làm việc. Có khoảng 29,4% học
sinh học nghề đang làm việc tại doanh
nghiệp được đánh giá khá tốt, 61,8% đạt
mức trung bình.
Về kiến thức và trình độ hiểu biết các
lĩnh vực liên quan đến nghề nghiệp còn
hạn chế. Các kiến thức có được về các
lĩnh vực này còn ở dạng lý thuyết, thiếu
cụ thể là nhận định của ban chủ nhiệm đề
tài khi điều tra 1000 lao động, khoảng
33% người lao động mới ra trường đang
làm việc tại doanh nghiệp được đánh giá
là có kiến thức và trình độ hiểu biết các
lĩnh vực liên quan đến nghề nghiệp ở mức
khá trở lên, 51,5% ở mức trung bình.
- Kỹ năng giải quyết các vấn đề phát
sinh trong công việc như: xác định vấn
đề, nghiên cứu giải pháp giải quyết và
quyết định. Chỉ có 17,6% học sinh học
nghề đang làm việc tại tại doanh nghiệp
đạt kết quả khá và tốt về năng lực giải
quyết vấn đề, 29,4% đạt mức trung bình,
còn lại 53% còn lúng túng, nhất là lao
động làm việc trong các ngành kinh
doanh, quản lý, kỹ thuật.
4. Trình độ ngoại ngữ
Việc biết và sử dụng thành thạo ngoại
ngữ trong giao tiếp và làm việc đang
ngày càng trở nên quan trọng. Hiện nay,
qua khảo sát của Tổng liên đoàn lao
động Việt Nam, thì phần đông ứng cử
viên giỏi ngoại ngữ có mức thu nhập cao
hơn lao động không biết ngoại ngữ từ
30% đến 50%; ngoài ra, so với người
không biết ngoại ngữ, thì cơ hội phát
triển nghề nghiệp, thăng chức, làm quản
lý nhiều hơn và ít thời gian hơn. Tuy
vậy, qua thực tế cho thấy lao động nước
ta rất yếu về ngoại ngữ. Phần đông lao
động đã qua đào tạo (kể cả đại học, cao
đẳng trở lên) chỉ biết ngoại ngữ cơ bản
trong quá trình đào tạo chuyên môn ở
trường; ngoài ra, hầu hết không chịu đầu
tư học thêm, chưa xem ngoại ngữ cần
thiết cho phát triển nghề nghiệp.
Báo Lao động đã tiến hành khảo sát
về thực trạng việc làm của lao động trẻ
vào tháng 11/2009 đã đưa ra con số rất
đáng chú ý: Trong tổng số 1.017 ứng
viên được khảo sát, có 92,22% có bằng
cấp chuyên môn từ trung cấp trở lên;
trong đó có 57,12% có bằng cấp CĐ-ĐH.
Tuy nhiên, chỉ có 8,77% lao động trẻ cho
biết là sử dụng được ngoại ngữ cho công
việc và đã có chứng chỉ ngoại ngữ trình
độ C, hoặc IELTS, TOEFL. Trong khi đó
có đến 43,27% lao động trẻ dừng lại ở
trình độ B, hoặc A, hoặc chỉ ghi chung
chung; anh văn giao tiếp, 47,96% lao
động trẻ chưa học ngoại ngữ bao giờ.
Kết quả khảo sát của Báo Lao động
còn cho thấy, khả năng hiểu biết và sử
dụng ngoại ngữ rất khác nhau giữa lao
động ở các ngành nghề. Số người sử
dụng được ngoại ngữ nhiều nhất thuộc về
nhóm ngành quản trị kinh doanh, ngoại
thương (với 21% trong số người được
hỏi biết ngoại ngữ thành thạo). Nhóm
ngành chuyên môn tài chính, kế toán và
khối văn phòng chỉ có 10% biết ngoại
ngữ. Thấp nhất là ở các nhóm ngành
nghề kỹ thuật. Trong số 235 ứng viên các
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011
48
nhóm ngành kỹ thuật, kết quả tìm thấy
dưới 5% sử dụng được ngoại ngữ.
Bảng 4. Khả năng ngoại ngữ của lao
động Việt Nam
TT Nội dung Tỷ lệ (%)
1 Tỷ lệ người lao động
có bằng ngoại ngữ C
8,77
2 Tỷ lệ người lao động
có bằng ngoại ngữ A,B
43,27
3 Không có bằng ngoại
ngữ
47,96
Nguồn: Kết quả khảo sát của Báo lao động về
thực trạng việc làm của lao động trẻ vào tháng
11/2009
Từ thực tế trên có thể đánh giá lao
động Việt Nam hiện nay hiểu biết và sử
dụng ngoại ngữ rất hạn chế. Việc không
sử dụng được ngoại ngữ khiến người lao
động đánh mất cơ hội tìm kiếm chỗ làm
việc tốt, thuận lợi và thăng tiến. Họ bị
hạn chế trong làm việc, phát triển sự
nghiệp và sẽ khó khăn hơn đối với người
cùng trình độ, làm cùng công việc nhưng
giỏi ngoại ngữ.
Nhược điểm của lao động Việt nam
là ít chịu đầu tư phát triển nghề nghiệp,
trong đó có việc chưa xem trọng vai trò
của ngoại ngữ, xem nó như công cụ để
thuận lợi và thăng tiến hơn về việc làm.
Rất ít người Việt nắm giữ vị trí quản lý
cấp cao trong doanh nghiệp nước ngoài
mà một phần nguyên nhân do không biết
ngoại ngữ.
Nguyên nhân của tình hình trên là do
Việt Nam chưa có chiến lược về đào tạo
ngoại ngữ. Do đó, chương trình đào tạo
chưa quy định cụ thể thời lượng học, nội
dung học, đồng thời, chưa có kiểm tra và
đánh giá đúng đắn, chính xác về trình độ
ngoại ngữ. Ngoại ngữ hiện như là một
môn học để “trang trí” trong chương trình
đào tạo, do chưa thấy hết yêu cầu thực tế
của môn học này. Ngoài ra, đại bộ phận
người lao động chưa nhận thức được tầm
quan trọng của học tập ngoại ngữ.
5. Khả năng tin học
Khi nước ta thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế thì việc xây dựng xã hội tin học
đặt ra những yêu cầu và đòi hỏi cao về
nguồn nhân lực có kỹ năng sử dụng tin
học và khai thác internet. Hiện nay, tin
học đã xâm nhập khá nhanh và mạnh mẽ
vào đời sống xã hội nước ta. Nhiều hoạt
động quản lý hành chính, quản lý kinh tế,
tự động hoá, công nghiệp, v.v. đến lĩnh
vực giáo dục và đào tạo cũng có nhiều
thay đổi đáng kể nhờ ứng dụng tin học.
Các trường đã đưa môn tin học vào
chương trình khung, chương trình giảng
dạy chính và không ngừng nâng cao
chương trình, chất lượng giảng dạy, nên
sinh viên, học sinh đã xem tin học là
môn học chính, chịu khó học tập, nên
hầu hết sau khi ra trường học sinh đã biết
ứng dụng tin học để làm việc. Hiện nay
đã có hơn 79% lao động làm việc trong
các cơ quan HCSN, trong bộ máy quản
lý các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch
vụ biết sử dụng tin học. Đội ngũ lao động
trẻ nước ta sau khi tốt nghiệp các trường
đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, đã sử
dụng thành thạo các phần mềm, như
Word, excel, sử dụng internet... vào tra
cứu tài liệu.
Mặc dù đạt được kết quả bước đầu,
nhưng so với yêu cầu ngày càng cao của
việc phát triển và ứng dụng công nghệ
thông tin, đặc biệt là do loại hình này
phát triển với tốc độ nhanh, việc đưa tin
học vào phổ cập cho lao động trẻ còn gặp
nhiều khó khăn, nhất là đối với vùng sâu,
vùng xa: Nước ta còn khó khăn, chưa có
điều kiện trang bị đầy đủ cho các cơ
quan, doanh nghiệp phương tiện, thiết bị
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011
49
đã hạn chế khả năng ứng dụng tin học
của người lao động; Điều kiện kinh tế -
xã hội, cơ sở hạ tầng như hệ thống điện,
giao thông, kênh truyền thông v.v. còn
gặp nhiều khó khăn; Ngoài ra, rào cản về
ngôn ngữ đã làm cho việc nâng cao khả
năng tin học của đa số lao động nước ta
bị hạn chế.
6. Tư duy kinh tế thị trường của lao
động Việt Nam
Từ sau đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế, tư duy của lao động nước ta cũng có
những đổi mới cơ bản về nền kinh tế thị
trường. Trong kinh tế thị trường, sự hoạt
động của thị trường lao động đòi hỏi
phẩm chất nghề nghiệp mới và rất quan
trọng đối với người lao động là phải có
tư duy, năng lực thích ứng với sự biến
động của thị trường, của thay đổi kỹ
thuật và công nghệ mới vào sản xuất.
Nếu không người lao động sẽ ít có cơ hội
việc làm hơn.
Phẩm chất này của người lao động
thể hiện ở sự định hướng đúng nghề
nghiệp để học một nghề phù hợp với tư
chất, sở thích, năng lực bản thân, hoàn
cảnh gia đình và nhu cầu của thị trường;
khả năng sẵn sàng thay đổi việc làm trên
thị trường lao động, khả năng ứng phó
với các rủi ro trong nền kinh tế thị trường
do doanh nghiệp bị phá sản, khủng
hoảng kinh tế... dẫn đến bị thiếu việc làm
và thất nghiệp.
Trong những năm qua, tư duy thị
trường lao động đã ngẫm dần vào một
bộ phận người lao động đặc biệt ở
nhóm lao động trẻ có trình độ chuyên
môn kỹ thuật cao.
Định hướng nghề nghiệp đã được lớp
trẻ quan tâm chọn nghề theo khả năng của
bản thân và theo nhu cầu của thị trường.
Về học tập, đào tạo nâng cao trình độ,
trước sự phát triển mạnh mẽ về khoa học,
công nghệ, các doanh nghiệp thường
xuyên đổi mới công nghệ, nâng cao kỹ
thuật thì mới sản xuất được sản phẩm có
chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh với sản
phẩm của các doanh nghiệp khác. Nhận
thức được vấn đề này, để tìm được việc
làm và không bị mất việc làm, đa số lao
động nước ta đã tự học thêm để có thêm
kiến thức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
được giao. Họ đã chấp nhận những khó
khăn đó để đi học. Để tìm được việc làm
trong cơ chế thị trường, học sinh, sinh
viên hiện nay sau khi ra trường thường
học thêm để có văn bằng 2, thậm chí có
văn bằng thứ 3. Ngoài ra, họ còn trang bị
kiến thức tin học và ngoại ngữ trước khi
thi tuyển tìm việc làm.
Về việc làm, trong cơ chế thị trường,
lao động nước ta đã không còn ỷ lại vào
sự phân phối công tác sau khi ra trường
như trước đây; mà họ đã tự chấp nhận đi
tìm việc làm thông qua các kỳ thi tuyển
để vào cơ quan, doanh nghiệp làm việc.
Người lao động đã không còn chọn khu
vực Nhà nước là nơi duy nhất để vào làm
việc; mà họ đã chấp nhận làm việc ở tất cả
các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế.
Về tiền lương và thu nhập, trong cơ
chế thị trường, người lao động có ý thức
làm việc có năng suất, chất lượng và hiệu
quả cao mới có cơ hội nhận được tiền
lương và thu nhập cao.
Tuy nhiên, do nền kinh tế thị trường
nước ta mới được hình thành và phát
triển nên tuy duy về thị trường của nhiều
người lao động vẫn còn hạn chế:
Một bộ phận không nhỏ người lao
động còn thụ động và thiên lệch trong
định hướng nghề nghiệp, thiếu nhanh
nhậy trong nắm bắt và tiếp cận thông tin
thị trường. Ở nước ta, lứa tuổi học sinh
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011
50
còn rất thiếu thông tin về bản thân và
nghề nghiệp nên việc xác định ngành để
học hoặc nghề để làm vẫn là điều không
hề dễ dàng. Một số không nhỏ các em
chọn nghề theo cảm tính mà không nhìn
nhận đến cơ hội và triển vọng nghề
nghiệp tương lai. Một số khác đôi khi bị
chi phối bởi suy nghĩ: chọn ngành nào đó
cũng được miễn là dễ thi vào. Chưa kể
đến các trường hợp đăng ký thi ngành
nghề nào đó cho oai, hay đâm đơn vào
ngành nào đó theo phong tràoThậm
chí, có những em học rất kém ở phổ
thông, đáng ra nên học nghề những vẫn
cứ lao vào thi đại học một cách vô ích.
Tỷ lệ phân luồng hiện nay đối với học
sinh tốt nghiệp phổ thông cơ sở là
khoảng 60% theo học tiếp phổ thông
trung học (đây là tỷ lệ còn thấp), phần
lớn số còn lại phải trực tiếp làm việc, còn
tỷ lệ được học nghề không đáng kể. Còn
đối với học sinh tốt nghiệp trung học là
khoảng 25 - 30% vào đại học - cao đẳng,
khoảng 12 - 15% vào trung học chuyên
nghiệp, 12 - 15% vào hệ thống dạy nghề
và số còn lại khoảng 50% trực tiếp làm
việc mà không qua hệ thống đào tạo nào.
Lợi dụng cơ chế thị trường và do hiểu
biết pháp luật còn hạn chế nên đã tiến
hành nhiều cuộc đình công bất hợp pháp,
sai quy định làm hại đến sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp và quyền lợi của
các nhà đầu tư.
Tính năng động của đa số người lao
động trong di chuyển và thay đổi việc
làm chưa cao, khá thụ động trong ứng
phó với các rủi ro.
Tóm lại, lao động Việt Nam có trình
độ học vấn, trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu của
quá trình CNH,HĐH và hội nhập. Lao
động Việt Nam thiếu và yếu về kỹ năng
nghề; chưa sâu về chuyên môn nghiệp
vụ. Trình độ ngoại ngữ và tin học còn
thấp. Tư duy kinh tế thị trường bước đầu
đã được người lao động nhận thức.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến
hạn chế về chất lượng nguồn nhân lực
Việt Nam.
Một nguyên nhân quan trọng là do
nước ta là một nước nông nghiệp, sản
xuất nhỏ, đã tạo cho lao động nước ta
một tâm lý, thói quen của người sản xuất
nhỏ, tư duy manh mún, không cần phối
hợp, hợp tác trong khi làm việc. Tâm lý
và thói quen này đã làm cho một bộ phận
lao động có nhận thức, hành vi không
phù hợp với nền sản xuất hiện đại, trong
thời đại công nghiệp, hiện đại hoá và
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Mặt khác, nước ta vừa trải qua một thời
gian dài trong cơ chế bao cấp, nên người
lao động đã mang sâu tư tưởng trì trệ, ỷ
lại, không nghĩ đến hậu quả do thiếu
trách nhiệm, buông lỏng quản lý, thiếu
kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm.
Thứ hai, do mục tiêu giáo dục, đào
tạo và dạy nghề nước ta trong một thời
gian dài chưa xác định rõ sự cần thiết
phải trang bị toàn diện, không chỉ kiến
thức chuyên môn mà cả kiến thức về văn
hoá nghề cho người lao động. Đây là một
nội dung quan trọng, yêu cầu phải xây
dựng đội ngũ lao động có kiến thức, kỹ
năng nghề nghiệp, tận tuỵ với công việc,
trung thành và có trách nhiệm với công
việc được giao. Tuy đã hơn 20 năm phát
triển nền kinh tế thị trường, nhưng chúng
ta chưa quan tâm và đầu tư đúng mực
cho việc xây dựng “văn hoá nghề”, mà
trong đó trọng tâm là đầu tư cho con
người. Khâu bất cập nhất trong giáo dục
ở nhà trường phổ thông, đào tạo nghề là
giáo dục đạo đức, chưa được định hướng
rõ ràng, mục tiêu, chương trình giáo dục
đạo đức trong nhà trường hiện là những
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011
51
bài học giáo huấn không chú ý đến
những hành vi cụ thể, thiếu những bài
học về kỹ năng sống. Do vậy, học sinh
được học đủ các bài học về đạo đức,
nhưng rất khó có thể hình thành nhân
cách cho họ.
Nguyên nhân quan trọng chủ yếu là
do công tác đào tạo, giáo dục nước ta vẫn
còn những bất cập và yếu kém:
- Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân
chưa đồng bộ, thiếu tính liên thông giữa
các cấp học và các trình độ đào tạo,
trong đó giáo dục nghề nghiệp chưa
được quan tâm đúng mức. Cách thức tổ
chức phân luồng trong hệ thống giáo dục
còn thể hiện nhiều lúng túng. Tình trạng
mất cân đối giữa cơ cấu trình độ, cơ cấu
ngành nghề đào tạo chậm được khắc
phục, chưa đáp ứng được yêu cầu nhân
lực của xã hội.
- Chất lượng giáo dục còn thấp so
với yêu cầu phát triển của đất nước
trong thời kỳ mới. Sự phát triển quy mô
giáo dục ở các cấp học, ngành nghề và
trình độ đào tạo trong những năm qua đã
đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của
nhân dân, nhưng chất lượng giáo dục
chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển
kinh tế xã hội của đất nước và còn thấp
so với trình độ của các nước tiên tiến
trong khu vực và trên thế giới. Trong
giáo dục chưa giải quyết được mâu thuẫn
giữa phát triển số lượng với nâng cao
chất lượng.
- Nội dung, phương pháp giáo dục từ
phổ thông đến học nghề, học đại học đã
được đổi mới nhưng còn bộc lộ nhiều
hạn chế; chương trình giáo dục đại học
chậm đổi mới, chưa đáp ứng được mục
tiêu giáo dục. Còn có những nội dung
trong chương trình giáo dục ở các cấp
học và trình độ đào tạo không thiết thực,
nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành.
Phương pháp dạy học về cơ bản vẫn theo
lối truyền thụ một chiều, đòi hỏi người
học phải ghi nhớ máy móc, không phát
huy được tư duy phê phán, tư duy sáng
tạo và tinh thần tự học ở người học.
- Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản
lý giáo dục chưa đáp ứng được nhiệm vụ
giáo dục trong thời kỳ mới. Còn thiếu
quy hoạch tổng thể đào tạo đội ngũ nhà
giáo dẫn đến tình trạng đội ngũ nhà giáo
vừa thừa, vừa thiếu, vừa không đồng bộ
về cơ cấu.
Ở các trường cao đẳng, đại học, số
giảng viên có trình độ thạc sỹ và tiến sỹ
còn quá ít. Phương thức đào tạo trong
các nhà trường sư phạm chậm đổi mới,
chất lượng đào tạo còn thấp dẫn đến tình
trạng trình độ chuyên môn và nghiệp vụ
của một bộ phận nhà giáo chưa đáp ứng
được yêu cầu nâng cao chất lượng.
Bên cạnh sự nỗ lực của tuyệt đại bộ
phận, một số nhà giáo còn có biểu hiện
vi phạm đạo đức lối sống, làm ảnh hưởng
xấu tới uy tín của người thầy trong xã
hội. Công tác bồi dưỡng, nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ
nhà giáo còn thiếu hiệu quả. Các chế độ
chính sách đối với nhà giáo chưa thỏa
đáng, chưa tạo được động lực phấn đấu
vươn lên trong bản thân mỗi người thầy.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường
còn thiếu thốn và lạc hậu. Mặc dù tình
hình cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường
trong những năm gần đây đã có nhiều cải
thiện rõ rệt nhưng tính đến năm 2007 vẫn
còn 11% số lớp học ở tình trạng lớp học
tạm, phòng học cấp 4 cũ nát, nhất là ở
vùng sâu, vùng xa; thư viện, phòng thí
nghiệm, phòng học bộ môn và các
phương tiện dạy học còn thiếu và lạc
hậu, nhất là ở các trường đại học.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011
52
II. Một số giải pháp nâng cao chất
lượng lao động
1. Đổi mới giáo dục đào tạo gắn với nhu
cầu xã hội
Đào tạo nhân lực phải gắn với nhu
cầu xã hội, nhu cầu của thị trường lao
động. Cùng với quy hoạch phát triển
nhân lực của các Bộ ngành, địa phương,
sự đầu tư và chính sách khuyến khích
của Nhà nước, cần sử dụng rộng rãi, hiệu
quả các cơ chế và công cụ của kinh tế thị
trường để mở rộng quy mô, điều chỉnh cơ
cấu ngành nghề đào tạo, nâng cao chất
lượng nhân lực và huy động các nguồn
vốn cho phát triển đào tạo nhân lực.
Phát triển các chương trình đào tạo
trình độ đại học theo 2 hướng: nghiên
cứu phát triển và nghề nghiệp ứng dụng.
Áp dụng các chương trình đào tạo tiên
tiến của các đại học có uy tín trên thế
giới. Từ 2011 chuẩn bị để hội nhập hệ
thống chuẩn đào tạo nghề của Cộng đồng
châu Âu. Đến năm 2020 các chương
trình tiên tiến quốc tế được sử dụng tại ít
nhất 30% số trường đại học Việt Nam.
Thực hiện các chương trình đổi mới
về dạy học các môn học ngoại ngữ trong
hệ thống giáo dục quốc dân, đặc biệt là
chương trình nâng cao hiệu quả dạy, học
và sử dụng tiếng Anh. Đảm bảo học sinh
được học liên tục một ngoại ngữ, nhất là
tiếng Anh từ lớp 3 cho tới giáo dục nghề
nghiệp, đại học và đạt chuẩn năng lực
ngoại ngữ quốc tế. Thực hiện dạy học
song ngữ ở một số môn học ở cấp trung
học, bắt đầu ở một số địa phương và cơ sở
giáo dục có điều kiện với quy mô tăng dần
trong những năm tiếp theo. Đối với giáo
dục đại học, mở rộng việc thực hiện giảng
dạy một số môn học bằng tiếng Anh ở một
số trường đại học với quy mô và số môn
học tăng dần trong những năm sau.
Chuyển mạnh sang đào tạo theo học
chế tín chỉ trong hệ thống đào tạo. Đến
năm 2020 có 100% chương trình giáo
dục nghề nghiệp thực hiện đào tạo theo
học chế tín chỉ.
Các chương trình giáo dục thường
xuyên sau xoá mù, bổ túc văn hoá trên
tiểu học, các chương trình đáp ứng yêu
cầu người học, các chương trình bồi
dưỡng thường xuyên được xây dựng lại,
cung cấp được cho người học kiến thức
và kỹ năng hiện đại.
2. Đổi mới dạy nghề bảo đảm nâng cao
kiến thức, kỹ năng nghề
Chương trình dạy nghề phải đáp ứng
yêu cầu của quá trình phát triển nền kinh
tế thị trường và hội nhập quốc tế với đặc
điểm đẩy nhanh CNH-HĐH đất nước.
Do đó, các chương trình đào tạo, bao
gồm trang bị kiến thức, kỹ năng phải
mang tính hiện đại, đáp ứng các chuẩn
nghề quốc tế, phù hợp với sự phát triển
của công nghệ và quản lý trong nền kinh
tế quốc dân, đầu ra của đào tạo nghề phải
phù hợp với nhu cầu của thị trường lao
động. Từng bước xây dựng chương trình
đào tạo nghề theo mô đun để đảm bảo
liên thông giữa các trình độ đào tạo nghề
và với các trình độ đào tạo khác trong hệ
thống giáo dục quốc dân. Xây dựng
chương trình đào tạo các cấp trình độ
nghề trung cấp, cao đẳng nghề với nội
dung hiện đại, tiếp cận nhanh với công
nghệ dạy nghề của các nước tiên tiến.
3. Tiếp tục hoàn thiện chính sách tuyển
dụng, sử dụng và chính sách tiền
lương, tiền thưởng theo hướng khuyến
khích người lao động làm việc có năng
suất, chất lượng
- Đổi mới chính sách tiền lương, tiền
công, thu nhập:
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011
53
Các chính sách này cần được đổi mới
cơ bản, nhằm đánh giá đúng và trả đúng
sức lao động của đội ngũ lao động kỹ
thuật đã tạo ra. Tiền lương phải trả đúng
giá trị sức lao động, gắn với năng suất
lao động, hiệu quả kinh tế và phụ thuộc
vào quan hệ cung - cầu lao động kỹ thuật
trên thị trường lao động, được xác định
thông qua cơ chế thương lượng, thỏa
thuận giữa các bên trong quan hệ lao
động. Hệ thống chính sách mới này phải
trở thành động lực bên trong của đội ngũ
lao động kỹ thuật trong công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Hướng cải cách các chính sách động
lực này là:
- Phát triển thị trường lao động định
hướng xã hội chủ nghĩa đồng bộ với các
loại thị trường khác như thị trường khoa
học và công nghệ, thị trường vốn... Chỉ
có trong môi trường đó, giá trị và giá trị
sử dụng của đội ngũ lao động kỹ thuật
mới được đánh giá đúng; trở thành căn
cứ khách quan để sử dụng lực lượng lao
động kỹ thuật nước ta.
- Trong hệ thống các giá trị xã hội
mới, cùng với hệ thống quản lý Nhà
nước, các hệ thống khác liên quan tới lao
động kỹ thuật cũng được mở ra không bị
hạn chế về mức trần tiền lương, tiền công
và thu nhập.
- Trong bản thân lực lượng lao động
kỹ thuật, các cơ chế, chính sách về tiền
lương, tiền công, thu nhập cần tránh xu
hướng cào bằng. Cần đặc biệt khuyến
khích nhóm lao động kỹ thuật có trình độ
và kỹ năng cao, đạt chuẩn quốc tế. Có
thể ứng dụng luật Pareto để làm cơ sở
xây dựng chính sách đãi ngộ. Theo quy
luật này việc từ trình độ tay nghề thấp, có
thể nâng cao hơn tay nghề đó một bậc, là
khá dễ; từ trình độ tay nghề khá để có tay
nghề cao hơn, đã bắt đầu khó và từ trình
độ tay nghề cao, để có tay nghề cao hơn
nữa là rất khó so với các cấp độ tay nghề
đã nêu trên. Vì vậy, cần có chính sách
tiền lương - tiền công - thu nhập đặc biệt
khuyến khích đối với lực lượng lao động
kỹ thuật là hết sức khách quan và hợp lý.
Trong nền kinh tế thị trường, chi phí
trong cung sức lao động và chi phí trong
cầu sức lao động có quan hệ hữu cơ,
khách quan. Điều này có tính quy luật.
Lao động kỹ thuật phải chi phí cao để
có tay nghề và chất lượng cao, do đó tỷ
lệ hoàn trả trong tiền lương càng cao.
Tiếp đó, họ cung cấp sức lao động đó, trở
thành đầu vào của quá trình tái sản xuất
ra GDP. Quá trình phân phối GDP tạo ra
tiền lương - tiền công - thu nhập của lao
động kỹ thuật, như là đầu vào đối với họ.
Mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra của
GDP là không tách rời với đầu vào/đầu
ra của lao động kỹ thuật.
- Đổi mới chính sách bảo hiểm:
Cần phát triển mạnh các loại hình bảo
hiểm trong kinh tế thị trường. Các nghệ
nhân, các lao động kỹ thuật trình độ cao
có thể mua bảo hiểm bàn tay vàng, bảo
hiểm nghề nghiệp, bảo hiểm thân thể...
Đối với số lao động kỹ thuật trình độ cao
trong các lĩnh vực đặc thù (xét theo lĩnh
vực, hoặc theo tính chất của công việc họ
làm: lao động tay nghề cao trong hàng
không, dầu khí, hầm mỏ, trong công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công
nghệ vật liệu cao, trong các ngành cần
bảo mật cao vì lợi ích quốc gia ...), cần
có các chế độ bảo hiểm đặc thù, để bảo
vệ họ như là tài sản quý của quốc gia.
Một chế độ bảo hiểm theo nghĩa rộng,
cần được tính đến, khi công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đã phát triển cao.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_danh_gia_ve_chat_luong_lao_dong_viet_nam.pdf