Một số đánh giá về chất lượng lao động Việt Nam

Hướng cải cách các chính sách động lực này là: - Phát triển thị trường lao động định hướng xã hội chủ nghĩa đồng bộ với các loại thị trường khác như thị trường khoa học và công nghệ, thị trường vốn. Chỉ có trong môi trường đó, giá trị và giá trị sử dụng của đội ngũ lao động kỹ thuật mới được đánh giá đúng; trở thành căn cứ khách quan để sử dụng lực lượng lao động kỹ thuật nước ta. - Trong hệ thống các giá trị xã hội mới, cùng với hệ thống quản lý Nhà nước, các hệ thống khác liên quan tới lao động kỹ thuật cũng được mở ra không bị hạn chế về mức trần tiền lương, tiền công và thu nhập. - Trong bản thân lực lượng lao động kỹ thuật, các cơ chế, chính sách về tiền lương, tiền công, thu nhập cần tránh xu hướng cào bằng. Cần đặc biệt khuyến khích nhóm lao động kỹ thuật có trình độ và kỹ năng cao, đạt chuẩn quốc tế. Có thể ứng dụng luật Pareto để làm cơ sở xây dựng chính sách đãi ngộ. Theo quy luật này việc từ trình độ tay nghề thấp, có thể nâng cao hơn tay nghề đó một bậc, là khá dễ; từ trình độ tay nghề khá để có tay nghề cao hơn, đã bắt đầu khó và từ trình độ tay nghề cao, để có tay nghề cao hơn nữa là rất khó so với các cấp độ tay nghề đã nêu trên. Vì vậy, cần có chính sách tiền lương - tiền công - thu nhập đặc biệt khuyến khích đối với lực lượng lao động kỹ thuật là hết sức khách quan và hợp lý. Trong nền kinh tế thị trường, chi phí trong cung sức lao động và chi phí trong cầu sức lao động có quan hệ hữu cơ, khách quan. Điều này có tính quy luật. Lao động kỹ thuật phải chi phí cao để có tay nghề và chất lượng cao, do đó tỷ lệ hoàn trả trong tiền lương càng cao. Tiếp đó, họ cung cấp sức lao động đó, trở thành đầu vào của quá trình tái sản xuất ra GDP. Quá trình phân phối GDP tạo ra tiền lương - tiền công - thu nhập của lao động kỹ thuật, như là đầu vào đối với họ. Mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra của GDP là không tách rời với đầu vào/đầu ra của lao động kỹ thuật. - Đổi mới chính sách bảo hiểm: Cần phát triển mạnh các loại hình bảo hiểm trong kinh tế thị trường. Các nghệ nhân, các lao động kỹ thuật trình độ cao có thể mua bảo hiểm bàn tay vàng, bảo hiểm nghề nghiệp, bảo hiểm thân thể. Đối với số lao động kỹ thuật trình độ cao trong các lĩnh vực đặc thù (xét theo lĩnh vực, hoặc theo tính chất của công việc họ làm: lao động tay nghề cao trong hàng không, dầu khí, hầm mỏ, trong công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu cao, trong các ngành cần bảo mật cao vì lợi ích quốc gia .), cần có các chế độ bảo hiểm đặc thù, để bảo vệ họ như là tài sản quý của quốc gia. Một chế độ bảo hiểm theo nghĩa rộng, cần được tính đến, khi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã phát triển cao.

pdf12 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 284 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số đánh giá về chất lượng lao động Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 27/Quý II- 2011 42 MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM Th.S. Nguyễn Bích Ngọc Viện Khoa học Lao động và Xã hội ông nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đặt ra nhiều thách thức lớn đối với nguồn nhân lực (NNL) nước ta. Thách thức lớn nhất là NNL tuy đông nhưng chất lượng còn thấp, nên sức cạnh tranh còn nhiều hạn chế so với các nước trong khu vực và thế giới. Bài viết này đánh giá một số vấn đề về chất lượng lao động đồng thời đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng lao động nước ta đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. I. Thực trạng về chất lượng lao động ở nước ta 1. Trình độ học vấn của lao động Việt Nam Xu hướng cải thiện trình độ văn hóa của lực lượng lao động Việt Nam trong những năm gần đây, cho thấy những dấu hiệu khả quan trong nỗ lực tiến tới một lực lượng lao động có tay nghề trong tương lai. Tỷ lệ người không biết chữ ở Việt Nam thấp. Nhưng tỷ lệ lao động có trình độ học vấn cũng chưa cao. Tỷ lệ lực lượng lao động tốt nghiệp tiểu học đạt 17,4% (năm 2009). Trong cùng thời kỳ 2005-2009, tỷ trọng lao động tốt nghiệp trung học cơ sở giảm từ 32,57% xuống 28,5%. Tỷ trọng lao động tốt nghiệp trung học phổ thông tăng từ 21,23% đến 25,6%, tăng 4,37 điểm phần trăm. Nhóm lao động có trình độ THPT chỉ có 25,6% trong tổng số lao động trong độ tuổi lao động ở nước ta, nhưng cao so với một số nước trong khu vực (Malaysia THPT: 18,1%, Indonesia THPT: 20,8%). Tuy lao động có trình độ học vấn bậc phổ thông cơ sở và phổ thông trung học chiếm tỷ lệ khá cao, nhưng phân bổ không đều giữa doanh nghiệp khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước. Năm 2009, theo điều tra của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, lao động khu vực ngoài quốc doanh có trình độ học vấn thấp hơn so với khu vực nhà nước. Bảng 1: Lực lượng lao động phân theo trình độ học vấn giai đoạn 2005-2009 (%) Nguồn: - Số liệu TK Việc làm - Thất nghiệp ở VN giai đoạn 2000- 2007 của Bộ LĐTBXH. - Số liệu TK Lao động -Việc làm - Thất nghiệp năm 2008, 2009 của Tổng cục Thống kê C Năm Tổng số Chưa biết chữ Chưa TN tiểu học TN tiểu học TN THCS TN THPT 2005 100,00 4,04 13,09 29,08 32,57 21,23 2006 100,00 3,84 15,88 33,80 26,85 23,46 2007 100,00 3,66 12,79 28,72 31,14 23,59 2008 100,00 4,01 12,01 28,34 32,08 23,56 2009 100,00 4,60 13,70 27,60 28,50 25,60 Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 27/Quý II- 2011 43 Lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước 98% có trình độ phổ thông trung học (lớp 12/12). Lao động trình độ cao làm việc hầu hết ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Lao động có trình độ học vấn thấp hoặc không biết chữ tập trung ở vùng sâu, vùng xa thuộc các tỉnh miền núi và làm việc trong các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản và diêm nghiệp. Việc phân bổ lao động có trình độ học vấn không đều giữa các vùng, các ngành có tác động trực tiếp đến việc đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và về nâng cao trình độ văn hoá của họ trong quá trình hành nghề. 2. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động Việt Nam Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật là lực lượng nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng cao và bền vững. Trong các năm 2005-2009, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động cả nước có sự cải thiện nhất định trong thời gian qua. Tuy nhiên, tỷ lê lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật trong lực lượng lao động của nước ta còn nhỏ so với nhiều nước phát triển trong khu vực, thế giới và chưa tương xứng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và với lực lượng lao động lớn trong nền kinh tế. Nguồn nhân lực được đào tạo có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn chiếm tỷ lệ thấp đạt gần 24,68% (năm 2009). Lao động không có chuyên môn kỹ thuật vẫn chiếm tỷ lệ cao là 75,32% (năm 2009) trong nguồn lao động. Tỷ lệ lao động có trình độ đại học đã tăng từ 5,5% lên 6,84%. Đây là một thách thức rất lớn trong việc đáp ứng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa của nước ta. Bảng 2: Lực lượng lao động Việt Nam phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật giai đoạn 2005-2009 (%) Năm Tổng số Không có CM Sơ cấp nghề, CNKT không bằng CNKT có bằng THCN Cao đẳng, ĐH trở lên 2005 100,00 74,67 11,56 3,54 4,73 5,50 2006 100,00 68,45 19,35 1,91 4,55 5,74 2007 100,00 75,93 6,62 5,24 5,48 6,74 2008 100,00 75,04 7,29 5,94 5,00 6,73 2009 100,00 75,32 11,08 2,14 4,62 6,84 Nguồn: - Số liệu TK Việc làm - Thất nghiệp ở VN giai đoạn 2000- 2007 của Bộ LĐTBXH. - Số liệu TK Lao động -Việc làm - Thất nghiệp năm 2008, 2009 của Tổng cục Thống kê Nếu so sánh tỷ lệ đã có bằng cấp của lao động nước ta với các nước công nghiệp trong khu vực, thì thấp hơn từ 2,5 đến 3 lần. Do đó, khi so sánh chất lượng NNL nước ta với yêu cầu của thị trường lao động thế giới, Ngân hàng thế giới (WB) đã đánh giá lao động nước ta chỉ đạt 3,79/10 điểm, và được xếp thứ 11 trong số 12 nước được xếp hạng. Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao tốt nghiệp từ cao đẳng, đại học trở lên còn quá thấp. Tính đến năm 2009, có 3371 nghìn người, chiếm 6,84% lực lượng lao động. Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 27/Quý II- 2011 44 So với các nước trong khu vực Việt Nam xếp hạng cuối (tỷ lệ này ở Trung Quốc là 15%, Thái Lan là 41%). Theo UNESCO năm 2008 Việt Nam tiếp tục mất điểm về chỉ số phát triển giáo dục cho mọi người (EDI), là chỉ số được đánh giá theo 4 tiêu chí cơ bản (phổ cập giáo dục tiểu học, xoá mù chữ cho người lớn, bình đẳng giới trong giáo dục và chất lượng giáo dục), tụt 9 bậc trong bảng xếp hạng, đứng vị trí 79 trong 129 quốc gia; thiếu nhiều chuyên gia trình độ cao, thiếu 3,02 điểm, xếp thứ 102/133 quốc gia được phân loại; lao động nông thôn chủ yếu chưa được đào tạo nghề, năng suất lao động thấp. Số lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp chiếm 2,14% lượng lao động và công nhân kỹ thuật chiếm 4,62% là những tỷ lệ quá thấp, không thể đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế CNH, HĐH. Những năm gần đây nhiều học sinh phổ thông đã có ý thức trong việc lựa chọn nghề một cách thiết thực hơn. Vì vậy, một bộ phận học sinh trung học phổ thông đã lựa chọn các trường nghề để nâng cao trình độ nghề nghiệp, tạo lập hành trang cho cuộc sống. Nhờ đó, các trường nghề đã có số lượng người học tăng dần. Theo số liệu báo cáo chưa đầy đủ của các Bộ, ngành, địa phương, đến hết tháng 11/2009 các cơ sở dạy nghề đã tuyển sinh được 1.707.000 người đạt 104,5% so với kế hoạch, tăng 11,2% so với thực hiện năm 2008. Tuyển sinh trình độ cao đẳng nghề được 89.000 người, đạt 127%, trong đó vùng Đồng bằng Sông Hồng chiếm 41%, vùng Đông Bắc 9%, vùng Tây Bắc 0,8%, Bắc Trung Bộ 7%, vùng Duyên hải Nam Trung Bộ 6%, Tây Nguyên 1,4%, Đông Nam Bộ 30% và vùng Đồng bằng Sông Cửu Long 4,8%. Nghề có số lượng trường đào tạo và đăng ký học nhiều nhất là: Điện công nghiệp (99 trường); Hàn (93 trường); Công nghệ ô tô (73 trường); Điện tử công nghiệp (48 trường); Điện dân dụng (55 trường). Nghề có số lượng trường đào tạo ít nhất mang tính đặc thù của một số ngành là: Thông - , chưa . Ngoài ra, cơ cấu lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật cao trong các lĩnh vực không cân đối. Trong tổng số lao động chuyên môn kỹ thuật cao, nhân lực có trình độ cao đẳng, đại học ở lĩnh vực khoa học kỹ thuật có tỷ lệ cao nhất là 57,05%, khoa học xã hội và nhân văn là 46,56%; y dược là 42,71% và cuối cùng là nông, lâm, ngư nghiệp là 38,22%. Việc phân bố nguồn nhân lực trình độ cao còn nhiều bất hợp lý, phần lớn tập trung ở các viện, cơ quan hành chính đóng ở các đô thị, tạo nên tình trạng thừa thiếu cán bộ chuyên môn kỹ thuật cao theo vùng. Theo điều tra của Tổng cục thống kê, lao động có trình độ tiến sỹ làm việc ở các cơ quan sự nghiệp (các viện nghiên cứu, trường v.v.) chiếm 61,12%, khu vực sản xuất, kinh doanh ở thành phố là 19,81%. Tương ứng thạc sỹ: 60,20% - 17,10%; cử nhân và kỹ sư các chuyên ngành là 30,42% - 45,16%. Trong Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 27/Quý II- 2011 45 khi đó tỷ lệ này ở vùng sâu, vùng xa chỉ chiếm từ 4 - 7%, nên thiếu cán bộ đã qua đào tạo, có kiến thức khá nghiêm trọng. Phân bổ sử dụng NNL không hợp lý làm cho chất lượng NNL nước ta vốn đã thấp lại bị giảm xuống. Lao động được đào tạo, có chất lượng tập trung phần lớn ở khu vực thành phố, trong các ngành hành chính và sự nghiệp. Do tập trung với số lượng lớn, nên một bộ phận lớn chấp nhận làm những công việc đơn giản không cần đến bậc đại học, cao đẳng hoặc thạc sỹ, nên đã lãng phí số lượng lớn lao động đã qua đào tạo, nhất là cán bộ đại học, kỹ sư các chuyên ngành. Theo kết quả điều tra gần đây của Bộ giáo dục và đào tạo, cho thấy: 63% sinh viên ra trường không có việc làm, 37% còn lại thì có hơn một nửa làm không đúng ngành, nghề mình đã học, hầu hết phải tự học lại hoặc phải đào tạo lại. Đồng thời, 75% số người có học vị tiến sỹ không làm khoa học, mà làm quản lý; một số làm quản lý trái với ngành, nghề đào tạo. Lao động chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ lệ cao là một hạn chế lớn và là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến người lao động khó có thể tham gia thị trường lao động. Hình 1. Cơ cấu lao động thiếu việc làm Chưa qua đào tạo, 85.4% CĐ, Đại học, 1.4% THCN, 2.0%CNKT có bằng, 0.7% CNKT không bằng, 9.7% CNKT có CC, 0.9% Nguồn: Bộ LĐTBXH, Số liệu điều tra việc làm và thất nghiệp 2007 Chưa qua đào tạo cũng là một nguyên nhân dẫn đến nhiều người lao động thiếu việc làm. Trong số lao động thiếu việc làm ở Việt Nam, nhóm lao động chưa qua đào tạo chiếm tới 85,4%. Sau đó là nhóm công nhân kỹ thuật không bằng chiếm 9,7%. Các nhóm lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao hơn chiếm tỷ trọng không đáng kể. Số lao động thiếu việc làm thuộc nhóm không có chuyên môn kỹ thuật cho thấy mức độ ổn định việc làm của nhóm lao động này là vấn đề đào tạo cần được quan tâm hơn nữa. Trong tổng số người thất nghiệp thì số không có chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ trọng rất lớn, chiếm tới 69,85% tổng số người thất nghiệp vào năm 2007. Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 27/Quý II- 2011 46 Bảng 3. Tỷ trọng lao động thất nghiệp phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật (%) 2004 2005 2006 2007 Chưa qua đào tạo 77,95 64,28 67,01 69,92 Qua đào tạo nghề hoặc tương đương 4,58 13,4 10,19 3,84 Trung học chuyên nghiệp 7,57 8,64 9,53 11,67 Cao đẳng, đại học trở lên 9,9 13,68 13,27 14,57 Nguồn: - Bộ LĐTBXH, Điều tra Lao động-Việc làm 2002-2006. - Tổng cục Thống kê, Số liệu Điều tra Lao động-Việc làm 2007 3. Kỹ năng làm việc của LĐ Việt Nam Kỹ năng làm việc là một trong những yếu tố quyết định đến sự thành công trong sự nghiệp của cá nhân người lao động và tác động trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanhcủa từng cơ quan, doanh nghiệp. Qua khảo sát của Tổng cục dạy nghề, kỹ năng làm việc của người lao động trong thực tế được các cơ quan, doanh nghiệp đánh giá là quan trọng nhất, kết quả được hỏi gần 3000 doanh nghiệp thì người sử dụng đều trả lời đối với yếu tố “Kỹ năng làm việc” là quan trọng nhất (81%), tiếp đến là các yếu tố về “phối hợp tốt trong nhóm” (55,6%), “ý thức kỷ luật tốt” (35,5%), “cần cù chịu khó” là các yếu tố quan trọng nhất vì nó liên quan đến số lượng, chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các kỹ năng cần thiết mà người lao động phải có gồm: + Kỹ năng về chuyên môn là khả năng và sự sẵn sàng sử dụng các kiến thức, cần thiết để thực hiện các nhiệm vụ nghề nghiệp cụ thể, có thể làm, thu thập thông tin và xử lý linh hoạt, sáng tạo các tình huống diễn ra trong thực hiện. + Kỹ năng giải quyết vấn đề gồm: Xác định vấn đề cần giải quyết; Xác định cách thức tiếp cận vấn đề; Đưa ra các phương án giải quyết vấn đề; Lựa chọn phương án tối ưu. + Kỹ năng thuyết trình gồm: kỹ năng thuyết trình trước đám đông; kỹ năng trình bày vấn đề logic, ngắn gọn, dễ hiểu. + Các kỹ năng cá nhân khác gồm: kỹ năng tự học, tự nghiên cứu; kỹ năng phân tích; năng lực lưu ý đến từng chi tiết; năng lực làm chủ những ý tưởng chính xác và phức tạp; năng lực lập luận những vấn đề phức tạp; năng lực xây dựng những lý lẽ lôgic và chỉ ra những lý lẽ phi lôgic; kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin. Để có kỹ năng làm việc tốt, người lao động cần phải có thời gian dài học tập và rèn luyện để hình thành, trong đó khoảng 12 năm ở bậc giáo dục phổ thông là hết sức quan trọng và được nâng cao dần trong quá trình học nghề và làm việc của người lao động. Kỹ năng nghề nghiệp và tính chuyên nghiệp lao động nước ta hiện còn thiếu và yếu, thể hiện: - Hầu như lao động kỹ thuật sau khi ra trường chỉ nắm được kiến thức cơ bản, thiếu kỹ năng để làm việc giỏi, thành thạo. Đa số người lao động chỉ có thể hoàn thành công việc như vận hành, sử dụng, bảo trì công cụ, phương tiện làm việc; chưa hiểu sâu về nguyên lý, quy trình công nghệ và tính năng của máy móc, thiết bị. Lao động nước ta hầu như Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011 47 chưa thể thành thạo công việc với các lý thuyết đã được học sau khi ra trường. Lao động nước ta, nhất là khi mới ra trường, chưa hiểu biết sâu về lĩnh vực công việc mình được giao phó. Theo kết quả điều tra của Tổng cục dạy nghề, đại đa số doanh nghiệp đánh giá người lao động mới ra trường nắm được chung chung kiến thức, chưa có kiến thức nền tảng, cơ bản vững chắc, kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ chưa có đủ để làm thuần thục một nghề được giao (cả lý thuyết và thực hành). Chưa có khả năng cập nhật thành tựu khoa học, công nghệ mới vào quá trình làm việc. Có khoảng 29,4% học sinh học nghề đang làm việc tại doanh nghiệp được đánh giá khá tốt, 61,8% đạt mức trung bình. Về kiến thức và trình độ hiểu biết các lĩnh vực liên quan đến nghề nghiệp còn hạn chế. Các kiến thức có được về các lĩnh vực này còn ở dạng lý thuyết, thiếu cụ thể là nhận định của ban chủ nhiệm đề tài khi điều tra 1000 lao động, khoảng 33% người lao động mới ra trường đang làm việc tại doanh nghiệp được đánh giá là có kiến thức và trình độ hiểu biết các lĩnh vực liên quan đến nghề nghiệp ở mức khá trở lên, 51,5% ở mức trung bình. - Kỹ năng giải quyết các vấn đề phát sinh trong công việc như: xác định vấn đề, nghiên cứu giải pháp giải quyết và quyết định. Chỉ có 17,6% học sinh học nghề đang làm việc tại tại doanh nghiệp đạt kết quả khá và tốt về năng lực giải quyết vấn đề, 29,4% đạt mức trung bình, còn lại 53% còn lúng túng, nhất là lao động làm việc trong các ngành kinh doanh, quản lý, kỹ thuật. 4. Trình độ ngoại ngữ Việc biết và sử dụng thành thạo ngoại ngữ trong giao tiếp và làm việc đang ngày càng trở nên quan trọng. Hiện nay, qua khảo sát của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, thì phần đông ứng cử viên giỏi ngoại ngữ có mức thu nhập cao hơn lao động không biết ngoại ngữ từ 30% đến 50%; ngoài ra, so với người không biết ngoại ngữ, thì cơ hội phát triển nghề nghiệp, thăng chức, làm quản lý nhiều hơn và ít thời gian hơn. Tuy vậy, qua thực tế cho thấy lao động nước ta rất yếu về ngoại ngữ. Phần đông lao động đã qua đào tạo (kể cả đại học, cao đẳng trở lên) chỉ biết ngoại ngữ cơ bản trong quá trình đào tạo chuyên môn ở trường; ngoài ra, hầu hết không chịu đầu tư học thêm, chưa xem ngoại ngữ cần thiết cho phát triển nghề nghiệp. Báo Lao động đã tiến hành khảo sát về thực trạng việc làm của lao động trẻ vào tháng 11/2009 đã đưa ra con số rất đáng chú ý: Trong tổng số 1.017 ứng viên được khảo sát, có 92,22% có bằng cấp chuyên môn từ trung cấp trở lên; trong đó có 57,12% có bằng cấp CĐ-ĐH. Tuy nhiên, chỉ có 8,77% lao động trẻ cho biết là sử dụng được ngoại ngữ cho công việc và đã có chứng chỉ ngoại ngữ trình độ C, hoặc IELTS, TOEFL. Trong khi đó có đến 43,27% lao động trẻ dừng lại ở trình độ B, hoặc A, hoặc chỉ ghi chung chung; anh văn giao tiếp, 47,96% lao động trẻ chưa học ngoại ngữ bao giờ. Kết quả khảo sát của Báo Lao động còn cho thấy, khả năng hiểu biết và sử dụng ngoại ngữ rất khác nhau giữa lao động ở các ngành nghề. Số người sử dụng được ngoại ngữ nhiều nhất thuộc về nhóm ngành quản trị kinh doanh, ngoại thương (với 21% trong số người được hỏi biết ngoại ngữ thành thạo). Nhóm ngành chuyên môn tài chính, kế toán và khối văn phòng chỉ có 10% biết ngoại ngữ. Thấp nhất là ở các nhóm ngành nghề kỹ thuật. Trong số 235 ứng viên các Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011 48 nhóm ngành kỹ thuật, kết quả tìm thấy dưới 5% sử dụng được ngoại ngữ. Bảng 4. Khả năng ngoại ngữ của lao động Việt Nam TT Nội dung Tỷ lệ (%) 1 Tỷ lệ người lao động có bằng ngoại ngữ C 8,77 2 Tỷ lệ người lao động có bằng ngoại ngữ A,B 43,27 3 Không có bằng ngoại ngữ 47,96 Nguồn: Kết quả khảo sát của Báo lao động về thực trạng việc làm của lao động trẻ vào tháng 11/2009 Từ thực tế trên có thể đánh giá lao động Việt Nam hiện nay hiểu biết và sử dụng ngoại ngữ rất hạn chế. Việc không sử dụng được ngoại ngữ khiến người lao động đánh mất cơ hội tìm kiếm chỗ làm việc tốt, thuận lợi và thăng tiến. Họ bị hạn chế trong làm việc, phát triển sự nghiệp và sẽ khó khăn hơn đối với người cùng trình độ, làm cùng công việc nhưng giỏi ngoại ngữ. Nhược điểm của lao động Việt nam là ít chịu đầu tư phát triển nghề nghiệp, trong đó có việc chưa xem trọng vai trò của ngoại ngữ, xem nó như công cụ để thuận lợi và thăng tiến hơn về việc làm. Rất ít người Việt nắm giữ vị trí quản lý cấp cao trong doanh nghiệp nước ngoài mà một phần nguyên nhân do không biết ngoại ngữ. Nguyên nhân của tình hình trên là do Việt Nam chưa có chiến lược về đào tạo ngoại ngữ. Do đó, chương trình đào tạo chưa quy định cụ thể thời lượng học, nội dung học, đồng thời, chưa có kiểm tra và đánh giá đúng đắn, chính xác về trình độ ngoại ngữ. Ngoại ngữ hiện như là một môn học để “trang trí” trong chương trình đào tạo, do chưa thấy hết yêu cầu thực tế của môn học này. Ngoài ra, đại bộ phận người lao động chưa nhận thức được tầm quan trọng của học tập ngoại ngữ. 5. Khả năng tin học Khi nước ta thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế thì việc xây dựng xã hội tin học đặt ra những yêu cầu và đòi hỏi cao về nguồn nhân lực có kỹ năng sử dụng tin học và khai thác internet. Hiện nay, tin học đã xâm nhập khá nhanh và mạnh mẽ vào đời sống xã hội nước ta. Nhiều hoạt động quản lý hành chính, quản lý kinh tế, tự động hoá, công nghiệp, v.v. đến lĩnh vực giáo dục và đào tạo cũng có nhiều thay đổi đáng kể nhờ ứng dụng tin học. Các trường đã đưa môn tin học vào chương trình khung, chương trình giảng dạy chính và không ngừng nâng cao chương trình, chất lượng giảng dạy, nên sinh viên, học sinh đã xem tin học là môn học chính, chịu khó học tập, nên hầu hết sau khi ra trường học sinh đã biết ứng dụng tin học để làm việc. Hiện nay đã có hơn 79% lao động làm việc trong các cơ quan HCSN, trong bộ máy quản lý các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ biết sử dụng tin học. Đội ngũ lao động trẻ nước ta sau khi tốt nghiệp các trường đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, đã sử dụng thành thạo các phần mềm, như Word, excel, sử dụng internet... vào tra cứu tài liệu. Mặc dù đạt được kết quả bước đầu, nhưng so với yêu cầu ngày càng cao của việc phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin, đặc biệt là do loại hình này phát triển với tốc độ nhanh, việc đưa tin học vào phổ cập cho lao động trẻ còn gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa: Nước ta còn khó khăn, chưa có điều kiện trang bị đầy đủ cho các cơ quan, doanh nghiệp phương tiện, thiết bị Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011 49 đã hạn chế khả năng ứng dụng tin học của người lao động; Điều kiện kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng như hệ thống điện, giao thông, kênh truyền thông v.v. còn gặp nhiều khó khăn; Ngoài ra, rào cản về ngôn ngữ đã làm cho việc nâng cao khả năng tin học của đa số lao động nước ta bị hạn chế. 6. Tư duy kinh tế thị trường của lao động Việt Nam Từ sau đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tư duy của lao động nước ta cũng có những đổi mới cơ bản về nền kinh tế thị trường. Trong kinh tế thị trường, sự hoạt động của thị trường lao động đòi hỏi phẩm chất nghề nghiệp mới và rất quan trọng đối với người lao động là phải có tư duy, năng lực thích ứng với sự biến động của thị trường, của thay đổi kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất. Nếu không người lao động sẽ ít có cơ hội việc làm hơn. Phẩm chất này của người lao động thể hiện ở sự định hướng đúng nghề nghiệp để học một nghề phù hợp với tư chất, sở thích, năng lực bản thân, hoàn cảnh gia đình và nhu cầu của thị trường; khả năng sẵn sàng thay đổi việc làm trên thị trường lao động, khả năng ứng phó với các rủi ro trong nền kinh tế thị trường do doanh nghiệp bị phá sản, khủng hoảng kinh tế... dẫn đến bị thiếu việc làm và thất nghiệp. Trong những năm qua, tư duy thị trường lao động đã ngẫm dần vào một bộ phận người lao động đặc biệt ở nhóm lao động trẻ có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Định hướng nghề nghiệp đã được lớp trẻ quan tâm chọn nghề theo khả năng của bản thân và theo nhu cầu của thị trường. Về học tập, đào tạo nâng cao trình độ, trước sự phát triển mạnh mẽ về khoa học, công nghệ, các doanh nghiệp thường xuyên đổi mới công nghệ, nâng cao kỹ thuật thì mới sản xuất được sản phẩm có chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh với sản phẩm của các doanh nghiệp khác. Nhận thức được vấn đề này, để tìm được việc làm và không bị mất việc làm, đa số lao động nước ta đã tự học thêm để có thêm kiến thức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Họ đã chấp nhận những khó khăn đó để đi học. Để tìm được việc làm trong cơ chế thị trường, học sinh, sinh viên hiện nay sau khi ra trường thường học thêm để có văn bằng 2, thậm chí có văn bằng thứ 3. Ngoài ra, họ còn trang bị kiến thức tin học và ngoại ngữ trước khi thi tuyển tìm việc làm. Về việc làm, trong cơ chế thị trường, lao động nước ta đã không còn ỷ lại vào sự phân phối công tác sau khi ra trường như trước đây; mà họ đã tự chấp nhận đi tìm việc làm thông qua các kỳ thi tuyển để vào cơ quan, doanh nghiệp làm việc. Người lao động đã không còn chọn khu vực Nhà nước là nơi duy nhất để vào làm việc; mà họ đã chấp nhận làm việc ở tất cả các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế. Về tiền lương và thu nhập, trong cơ chế thị trường, người lao động có ý thức làm việc có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao mới có cơ hội nhận được tiền lương và thu nhập cao. Tuy nhiên, do nền kinh tế thị trường nước ta mới được hình thành và phát triển nên tuy duy về thị trường của nhiều người lao động vẫn còn hạn chế: Một bộ phận không nhỏ người lao động còn thụ động và thiên lệch trong định hướng nghề nghiệp, thiếu nhanh nhậy trong nắm bắt và tiếp cận thông tin thị trường. Ở nước ta, lứa tuổi học sinh Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011 50 còn rất thiếu thông tin về bản thân và nghề nghiệp nên việc xác định ngành để học hoặc nghề để làm vẫn là điều không hề dễ dàng. Một số không nhỏ các em chọn nghề theo cảm tính mà không nhìn nhận đến cơ hội và triển vọng nghề nghiệp tương lai. Một số khác đôi khi bị chi phối bởi suy nghĩ: chọn ngành nào đó cũng được miễn là dễ thi vào. Chưa kể đến các trường hợp đăng ký thi ngành nghề nào đó cho oai, hay đâm đơn vào ngành nào đó theo phong tràoThậm chí, có những em học rất kém ở phổ thông, đáng ra nên học nghề những vẫn cứ lao vào thi đại học một cách vô ích. Tỷ lệ phân luồng hiện nay đối với học sinh tốt nghiệp phổ thông cơ sở là khoảng 60% theo học tiếp phổ thông trung học (đây là tỷ lệ còn thấp), phần lớn số còn lại phải trực tiếp làm việc, còn tỷ lệ được học nghề không đáng kể. Còn đối với học sinh tốt nghiệp trung học là khoảng 25 - 30% vào đại học - cao đẳng, khoảng 12 - 15% vào trung học chuyên nghiệp, 12 - 15% vào hệ thống dạy nghề và số còn lại khoảng 50% trực tiếp làm việc mà không qua hệ thống đào tạo nào. Lợi dụng cơ chế thị trường và do hiểu biết pháp luật còn hạn chế nên đã tiến hành nhiều cuộc đình công bất hợp pháp, sai quy định làm hại đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và quyền lợi của các nhà đầu tư. Tính năng động của đa số người lao động trong di chuyển và thay đổi việc làm chưa cao, khá thụ động trong ứng phó với các rủi ro. Tóm lại, lao động Việt Nam có trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH,HĐH và hội nhập. Lao động Việt Nam thiếu và yếu về kỹ năng nghề; chưa sâu về chuyên môn nghiệp vụ. Trình độ ngoại ngữ và tin học còn thấp. Tư duy kinh tế thị trường bước đầu đã được người lao động nhận thức. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hạn chế về chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam. Một nguyên nhân quan trọng là do nước ta là một nước nông nghiệp, sản xuất nhỏ, đã tạo cho lao động nước ta một tâm lý, thói quen của người sản xuất nhỏ, tư duy manh mún, không cần phối hợp, hợp tác trong khi làm việc. Tâm lý và thói quen này đã làm cho một bộ phận lao động có nhận thức, hành vi không phù hợp với nền sản xuất hiện đại, trong thời đại công nghiệp, hiện đại hoá và trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, nước ta vừa trải qua một thời gian dài trong cơ chế bao cấp, nên người lao động đã mang sâu tư tưởng trì trệ, ỷ lại, không nghĩ đến hậu quả do thiếu trách nhiệm, buông lỏng quản lý, thiếu kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm. Thứ hai, do mục tiêu giáo dục, đào tạo và dạy nghề nước ta trong một thời gian dài chưa xác định rõ sự cần thiết phải trang bị toàn diện, không chỉ kiến thức chuyên môn mà cả kiến thức về văn hoá nghề cho người lao động. Đây là một nội dung quan trọng, yêu cầu phải xây dựng đội ngũ lao động có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, tận tuỵ với công việc, trung thành và có trách nhiệm với công việc được giao. Tuy đã hơn 20 năm phát triển nền kinh tế thị trường, nhưng chúng ta chưa quan tâm và đầu tư đúng mực cho việc xây dựng “văn hoá nghề”, mà trong đó trọng tâm là đầu tư cho con người. Khâu bất cập nhất trong giáo dục ở nhà trường phổ thông, đào tạo nghề là giáo dục đạo đức, chưa được định hướng rõ ràng, mục tiêu, chương trình giáo dục đạo đức trong nhà trường hiện là những Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011 51 bài học giáo huấn không chú ý đến những hành vi cụ thể, thiếu những bài học về kỹ năng sống. Do vậy, học sinh được học đủ các bài học về đạo đức, nhưng rất khó có thể hình thành nhân cách cho họ. Nguyên nhân quan trọng chủ yếu là do công tác đào tạo, giáo dục nước ta vẫn còn những bất cập và yếu kém: - Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân chưa đồng bộ, thiếu tính liên thông giữa các cấp học và các trình độ đào tạo, trong đó giáo dục nghề nghiệp chưa được quan tâm đúng mức. Cách thức tổ chức phân luồng trong hệ thống giáo dục còn thể hiện nhiều lúng túng. Tình trạng mất cân đối giữa cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề đào tạo chậm được khắc phục, chưa đáp ứng được yêu cầu nhân lực của xã hội. - Chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới. Sự phát triển quy mô giáo dục ở các cấp học, ngành nghề và trình độ đào tạo trong những năm qua đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân, nhưng chất lượng giáo dục chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước và còn thấp so với trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Trong giáo dục chưa giải quyết được mâu thuẫn giữa phát triển số lượng với nâng cao chất lượng. - Nội dung, phương pháp giáo dục từ phổ thông đến học nghề, học đại học đã được đổi mới nhưng còn bộc lộ nhiều hạn chế; chương trình giáo dục đại học chậm đổi mới, chưa đáp ứng được mục tiêu giáo dục. Còn có những nội dung trong chương trình giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo không thiết thực, nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành. Phương pháp dạy học về cơ bản vẫn theo lối truyền thụ một chiều, đòi hỏi người học phải ghi nhớ máy móc, không phát huy được tư duy phê phán, tư duy sáng tạo và tinh thần tự học ở người học. - Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa đáp ứng được nhiệm vụ giáo dục trong thời kỳ mới. Còn thiếu quy hoạch tổng thể đào tạo đội ngũ nhà giáo dẫn đến tình trạng đội ngũ nhà giáo vừa thừa, vừa thiếu, vừa không đồng bộ về cơ cấu. Ở các trường cao đẳng, đại học, số giảng viên có trình độ thạc sỹ và tiến sỹ còn quá ít. Phương thức đào tạo trong các nhà trường sư phạm chậm đổi mới, chất lượng đào tạo còn thấp dẫn đến tình trạng trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của một bộ phận nhà giáo chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng. Bên cạnh sự nỗ lực của tuyệt đại bộ phận, một số nhà giáo còn có biểu hiện vi phạm đạo đức lối sống, làm ảnh hưởng xấu tới uy tín của người thầy trong xã hội. Công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ nhà giáo còn thiếu hiệu quả. Các chế độ chính sách đối với nhà giáo chưa thỏa đáng, chưa tạo được động lực phấn đấu vươn lên trong bản thân mỗi người thầy. - Cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường còn thiếu thốn và lạc hậu. Mặc dù tình hình cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường trong những năm gần đây đã có nhiều cải thiện rõ rệt nhưng tính đến năm 2007 vẫn còn 11% số lớp học ở tình trạng lớp học tạm, phòng học cấp 4 cũ nát, nhất là ở vùng sâu, vùng xa; thư viện, phòng thí nghiệm, phòng học bộ môn và các phương tiện dạy học còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở các trường đại học. Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011 52 II. Một số giải pháp nâng cao chất lượng lao động 1. Đổi mới giáo dục đào tạo gắn với nhu cầu xã hội Đào tạo nhân lực phải gắn với nhu cầu xã hội, nhu cầu của thị trường lao động. Cùng với quy hoạch phát triển nhân lực của các Bộ ngành, địa phương, sự đầu tư và chính sách khuyến khích của Nhà nước, cần sử dụng rộng rãi, hiệu quả các cơ chế và công cụ của kinh tế thị trường để mở rộng quy mô, điều chỉnh cơ cấu ngành nghề đào tạo, nâng cao chất lượng nhân lực và huy động các nguồn vốn cho phát triển đào tạo nhân lực. Phát triển các chương trình đào tạo trình độ đại học theo 2 hướng: nghiên cứu phát triển và nghề nghiệp ứng dụng. Áp dụng các chương trình đào tạo tiên tiến của các đại học có uy tín trên thế giới. Từ 2011 chuẩn bị để hội nhập hệ thống chuẩn đào tạo nghề của Cộng đồng châu Âu. Đến năm 2020 các chương trình tiên tiến quốc tế được sử dụng tại ít nhất 30% số trường đại học Việt Nam. Thực hiện các chương trình đổi mới về dạy học các môn học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặc biệt là chương trình nâng cao hiệu quả dạy, học và sử dụng tiếng Anh. Đảm bảo học sinh được học liên tục một ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh từ lớp 3 cho tới giáo dục nghề nghiệp, đại học và đạt chuẩn năng lực ngoại ngữ quốc tế. Thực hiện dạy học song ngữ ở một số môn học ở cấp trung học, bắt đầu ở một số địa phương và cơ sở giáo dục có điều kiện với quy mô tăng dần trong những năm tiếp theo. Đối với giáo dục đại học, mở rộng việc thực hiện giảng dạy một số môn học bằng tiếng Anh ở một số trường đại học với quy mô và số môn học tăng dần trong những năm sau. Chuyển mạnh sang đào tạo theo học chế tín chỉ trong hệ thống đào tạo. Đến năm 2020 có 100% chương trình giáo dục nghề nghiệp thực hiện đào tạo theo học chế tín chỉ. Các chương trình giáo dục thường xuyên sau xoá mù, bổ túc văn hoá trên tiểu học, các chương trình đáp ứng yêu cầu người học, các chương trình bồi dưỡng thường xuyên được xây dựng lại, cung cấp được cho người học kiến thức và kỹ năng hiện đại. 2. Đổi mới dạy nghề bảo đảm nâng cao kiến thức, kỹ năng nghề Chương trình dạy nghề phải đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế với đặc điểm đẩy nhanh CNH-HĐH đất nước. Do đó, các chương trình đào tạo, bao gồm trang bị kiến thức, kỹ năng phải mang tính hiện đại, đáp ứng các chuẩn nghề quốc tế, phù hợp với sự phát triển của công nghệ và quản lý trong nền kinh tế quốc dân, đầu ra của đào tạo nghề phải phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động. Từng bước xây dựng chương trình đào tạo nghề theo mô đun để đảm bảo liên thông giữa các trình độ đào tạo nghề và với các trình độ đào tạo khác trong hệ thống giáo dục quốc dân. Xây dựng chương trình đào tạo các cấp trình độ nghề trung cấp, cao đẳng nghề với nội dung hiện đại, tiếp cận nhanh với công nghệ dạy nghề của các nước tiên tiến. 3. Tiếp tục hoàn thiện chính sách tuyển dụng, sử dụng và chính sách tiền lương, tiền thưởng theo hướng khuyến khích người lao động làm việc có năng suất, chất lượng - Đổi mới chính sách tiền lương, tiền công, thu nhập: Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011 53 Các chính sách này cần được đổi mới cơ bản, nhằm đánh giá đúng và trả đúng sức lao động của đội ngũ lao động kỹ thuật đã tạo ra. Tiền lương phải trả đúng giá trị sức lao động, gắn với năng suất lao động, hiệu quả kinh tế và phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu lao động kỹ thuật trên thị trường lao động, được xác định thông qua cơ chế thương lượng, thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ lao động. Hệ thống chính sách mới này phải trở thành động lực bên trong của đội ngũ lao động kỹ thuật trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hướng cải cách các chính sách động lực này là: - Phát triển thị trường lao động định hướng xã hội chủ nghĩa đồng bộ với các loại thị trường khác như thị trường khoa học và công nghệ, thị trường vốn... Chỉ có trong môi trường đó, giá trị và giá trị sử dụng của đội ngũ lao động kỹ thuật mới được đánh giá đúng; trở thành căn cứ khách quan để sử dụng lực lượng lao động kỹ thuật nước ta. - Trong hệ thống các giá trị xã hội mới, cùng với hệ thống quản lý Nhà nước, các hệ thống khác liên quan tới lao động kỹ thuật cũng được mở ra không bị hạn chế về mức trần tiền lương, tiền công và thu nhập. - Trong bản thân lực lượng lao động kỹ thuật, các cơ chế, chính sách về tiền lương, tiền công, thu nhập cần tránh xu hướng cào bằng. Cần đặc biệt khuyến khích nhóm lao động kỹ thuật có trình độ và kỹ năng cao, đạt chuẩn quốc tế. Có thể ứng dụng luật Pareto để làm cơ sở xây dựng chính sách đãi ngộ. Theo quy luật này việc từ trình độ tay nghề thấp, có thể nâng cao hơn tay nghề đó một bậc, là khá dễ; từ trình độ tay nghề khá để có tay nghề cao hơn, đã bắt đầu khó và từ trình độ tay nghề cao, để có tay nghề cao hơn nữa là rất khó so với các cấp độ tay nghề đã nêu trên. Vì vậy, cần có chính sách tiền lương - tiền công - thu nhập đặc biệt khuyến khích đối với lực lượng lao động kỹ thuật là hết sức khách quan và hợp lý. Trong nền kinh tế thị trường, chi phí trong cung sức lao động và chi phí trong cầu sức lao động có quan hệ hữu cơ, khách quan. Điều này có tính quy luật. Lao động kỹ thuật phải chi phí cao để có tay nghề và chất lượng cao, do đó tỷ lệ hoàn trả trong tiền lương càng cao. Tiếp đó, họ cung cấp sức lao động đó, trở thành đầu vào của quá trình tái sản xuất ra GDP. Quá trình phân phối GDP tạo ra tiền lương - tiền công - thu nhập của lao động kỹ thuật, như là đầu vào đối với họ. Mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra của GDP là không tách rời với đầu vào/đầu ra của lao động kỹ thuật. - Đổi mới chính sách bảo hiểm: Cần phát triển mạnh các loại hình bảo hiểm trong kinh tế thị trường. Các nghệ nhân, các lao động kỹ thuật trình độ cao có thể mua bảo hiểm bàn tay vàng, bảo hiểm nghề nghiệp, bảo hiểm thân thể... Đối với số lao động kỹ thuật trình độ cao trong các lĩnh vực đặc thù (xét theo lĩnh vực, hoặc theo tính chất của công việc họ làm: lao động tay nghề cao trong hàng không, dầu khí, hầm mỏ, trong công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu cao, trong các ngành cần bảo mật cao vì lợi ích quốc gia ...), cần có các chế độ bảo hiểm đặc thù, để bảo vệ họ như là tài sản quý của quốc gia. Một chế độ bảo hiểm theo nghĩa rộng, cần được tính đến, khi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã phát triển cao.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmot_so_danh_gia_ve_chat_luong_lao_dong_viet_nam.pdf