LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện hiện nay, quá trình hội nhập và mở cửa nền kinh tế với nền kinh tế thế giới đang đặt ra nhiều thách thức cho nền kinh tế chúng ta nói chung cũng như là đối với nền kinh tế Nhà nước nói riêng. Các doanh nghiệp hoạt động không chỉ cần số lượng mà cả về mặt chất lượng. Nhưng thực tế còn có một số doanh nghiệp vẫn có sự bảo hộ của Nhà nước tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp từ đó nhận thấy Nhà nước chưa tạo ra sân chơi bình đẳng cho hệ thống doanh nghiệp phát triển, trong khi Việt Nam đã tham gia vào sân chơi chung của thế giới. Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI nền kinh tế nước ta đang chuyển mình theo nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Nhu cầu đòi hỏi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng tính hoạt động chủ động cho chính doanh nghiệp là một xu thế tất yếu. Chính vì vậy, với mục tiêu giúp quá trình cổ phần hóa được diễn ra nhanh chóng và đạt hiệu quả nên đề tài là: "Một số giải pháp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn hiện nay 2007 - 2010".
MỤC LỤC
Từ viết tắt 1
Lời mở đầu 2
Phần I: Cơ sở lý luận 3
I. Sơ lược về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 3
1. Một số khái niệm 3
1.1. Công ty cổ phần 3
1.2. Doanh nghiệp Nhà nước 3
1.3. Cổ phần hóa 3
2. Sự cần thiết phải cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước 4
2.1. Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước 4
2.2. Vai trò của cổ phần hóa 5
3. Các phương pháp tiến hành cổ phần hóa và quy trình để cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước 7
3.1. Các phương pháp tiến hành cổ phần hóa 7
3.2. Quy trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước 8
Phần II: Cơ sở thực tiễn 14
II. Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước Việt Nam 14
1. Bài học của Trung Quốc 14
2. Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta về cổ phần hóa 16
3. Những thành tựu đã đạt được trong công cuộc cổ phần hóa. 16
3.1. Giai đoạn thực hiện thí điểm: từ tháng 6/1992 - 4/1996 16
3.2. Giai đoạn triển khai mở rộng từ tháng 5/1996 - 6/1998. 17
3.3. Giai đoạn chủ động: 7/1998 - 6/2002 18
3.4. Giai đoạn 7/2002 - 2007 18
4. Mục tiêu cổ phần hóa trong giai đoạn 2007 tới 2010: 18
5. Bên cạnh những thành công đạt được trong quá trình cổ phần hóa thì còn có những hạn chế chưa giải quyết được trong suốt tiến trình cổ phần hóa kể từ những năm 1992 cho tới nay. 21
5.1. Tốc độ cổ phần hóa chậm chạp: 21
5.2. Định giá doanh nghiệp 21
5.3. Quản lý doanh nghiệp và chính sách lao động 21
III. Một số giải pháp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn 2007 - 2010 21
1. Xây dựng và hoàn hiện một quy trình cổ phần hóa 21
2. Về việc quản lý và sử dụng số tiền thu từ cổ phần hóa công ty nhà nước 21
3. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền 21
4. Hoàn thiện cơ chế định giá trong doanh nghiệp và đấu giá cổ phần 21
5. Đổi mới phương thức quản lý điều hành doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa 21
Lời kết 21
Tài liệu tham khảo 21
45 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2066 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn hiện nay 2007 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c) tăng 23,6% so với năm 1996: 93 công ty phát hành cổ phiếu B (cổ phiếu chuyên bán cho các nhà đầu tư nước ngoài) tăng 9.4% so với năm 1996: có 35 công ty tham gia thị trường chứng khoán nước ngoài với tổng số vốn 7,9 tỷ NDT.
- Từ năm 1993 đến nay, kết quả đạt được trong giai đoạn thí điểm cổ phần hóa cho thấy, doanh nghiệp hoạt động theo các quy luật kinh tế cơ bản là đi đúng cách và hợp quy luật, Trung Quốc đã thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước một cách sâu sắc bằng cách xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật hệ thống các văn bản pháp luật liên quan tới sự vận hành của doanh nghiệp. Lần lượt "luật phá sản doanh nghiệp", "luật doanh nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân", "điều lệ chuyển đổi cơ chế kinh doanh của doanh nghiệp công nghiệp thuộc sở hữu toàn dân" các nguyên tắc tài chính doanh nghiệp, điều kiện tạm thời về quản lý phát hành giao dịch "Luật ngân hàng thương nghiệp". Đối với doanh nghiệp bắt đầu tiến hành cổ phần hóa, Chính phủ Trung Quốc thực hiện một số biện pháp hữu hiệu như khuyến khích sáp nhập tài sản, quy phạm hóa việc phá sản thực hiện chuyển nợ thành cổ phần, trợ giúp các doanh nghiệp cải tạo kỹ thuật mở rộng quy hoạch vốn giải quyết vấn đề thất nghiệp cho người lao động. Đối với các doanh nghiệp đã cổ phần, chính phủ đã tạo điều kiện cho hưởng một số ưu đãi như thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp, đặc biệt được giảm thuế trong những năm đầu hoạt động. Đối với những doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa mà đã đạt thành tích cao trong sản xuất kinh doanh thì sẽ dành được tạo điều kiện thuận lợi tham gia vào thị trường chứng khoán, được hưởng ưu đãi về tài chính như dành 10% cổ phần doanh nghiệp để hưởng bằng cổ phiếu cho các cán bộ lãnh đạo và các công nhân viên chức của doanh nghiệp…
Có thể nói mục đích căn bản của việc thực hiện chế độ cổ phần ở Trung Quốc là thay đổi chế độ sở hữu tài sản trong nội bộ doanh nghiệp, tối ưu hóa kết cấu quản trị doanh nghiệp. Đây là lợi ích căn bản và lâu dài nhất của việc cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước ở Trung Quốc. Thành quả nổi bật nhất là đến hội nghị TW 3 khóa XVI Đảng cộng sản Trung Quốc năm 2004, chế độ đã được thực hiện rộng rãi là hình thức thực hiện chủ yếu của chế độ công hữu.
2. Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta về cổ phần hóa
Ở nước ta từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã chủ trương đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước. Tiếp đó, 11/1983 hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã chủ trương cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước mà trước hết thì nó điểm ở một số lĩnh vực sau đó chỉ đạo rộng trên toàn quốc.
"Ngày 8/6/1992 Hội đồng bộ trưởng có chỉ thị 202 CT về thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần.
Tháng 6/1996, tại Đại hội đại biểu lần thứ III Đảng lại khẳng định "Cổ phần hóa không phải là tư nhân hóa", nhấn mạnh "phải triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hóa để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực.
- Ngày 19/6/2002 CP ra Nghị định 64/NĐCP thay cho Nghị định 44/NĐCP về việc xác định quyền mua cổ phiếu.
- 9/9/2002, Bộ Tài chính ra thông tư số 79 hướng dẫn định giá doanh nghiệp và xác định cơ cấu cổ phần hóa.
- Trong hội nghị toàn quốc khẳng định "Trong đổi mới doanh nghiệp; cổ phần hóa là công việc trọng tâm do đó các Bộ, Ngành có trách nhiệm tạo thuận lợi cho quá trình triển khai."5
Như vậy Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương nhất quán và kiên trì trong chủ trương cổ phần hóa.
3. Những thành tựu đã đạt được trong công cuộc cổ phần hóa.
Chặng đường cổ phần hóa Việt Nam chia ra làm các giai đoạn, mỗi giai đoạn tiếp theo là một bước nhảy vọt mới, với những thành công mới trong công cuộc cải tổ cơ cấu nền kinh tế:
3.1. Giai đoạn thực hiện thí điểm: từ tháng 6/1992 - 4/1996
"Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình cổ phần hóa. Với đúng tên gọi của giai đoạn thí điểm thì số lượng doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn cổ phần hóa chỉ có 7 doanh nghiệp tham gia cổ phần hóa: Nhà máy xà phòng Việt Nam, Xín nghiệp vật liệu chế biến thức ăn gia súc Hà Nội, Nhà máy diêm Thống Nhất, Xí nghiệp chế biến gỗ lạng Long Đình, Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng, Xí nghiệp sản xuất bao bì Hà Nội và Xí nghiệp dệt da may Legamet". Qua một thời gian tiến hành làm thử, 7 doanh nghiệp đều đã xin rút khỏi đợt thí nghiệm thử. Sau 5 năm thực hiện cổ phần hóa thì mới có 5 doanh nghiệp là thực hiện cổ phần hóa thành công và đi vào hoạt động hiệu quả.
Kết quả đạt được còn rất khiêm tốn trên thì lý do tồn đọng:
- Từ trước gánh nặng nhận thức về hoạt động có sự trợ giúp của Nhà nước quá lớn việc không có sự bảo trợ của Nhà nước khiến cho đội ngũ quản lý không đảm đương được trách nhiệm dẫn tới việc xin rút lui không tham gia cổ phần hóa nữa.
- Còn lúng túng trong quản lý của đội ngũ đứng đầu doanh nghiệp, sự non kém tay nghề trình độ chuyên môn chưa tốt.
- Thiếu những kế hoạch cho phát triển sau khi cổ phần hóa, mục tiêu không rõ ràng trở ngại về chính sách lao động sau khi cổ phần hóa, chưa giải quyết công văn việc làm cho đội ngũ công nhân lao động.
- Hệ thống pháp luật chưa có và đầy đủ cho doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa.
- Thị trường thứ cấp chưa có để tiêu thụ hàng hóa tức cổ phiếu công ty cổ phần. Sự nhận thức chưa rõ, thế nào là thị trường thứ cấp thị trường chứng khoán là gì trong giai đoạn này.
3.2. Giai đoạn triển khai mở rộng từ tháng 5/1996 - 6/1998.
Theo nghị định số 28/Cp ngày 7/5/1996 coi như bước ngoặt trong hệ thống pháp lý quản lý doanh nghiệp, phạm vi đối tượng được mở rộng. "Tính trong giai đoạn này thì có tới 25 doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần nâng số tổng công ty cổ phần lên 30"6
, ngoài ra còn có một số doanh nghiệp đang tiến hành triển khai công tác cổ phần hóa. Nhưng có một số điều còn cần lưu ý trong giai đoạn này đó chính là tiến trình cổ phần hóa còn chậm có doanh nghiệp cổ phần hóa phải trong 2-3 năm mới hoàn thành công việc cổ phần hóa.
3.3. Giai đoạn chủ động: 7/1998 - 6/2002
Trong giai đoạn này Nghị định 44/1998 ra đời ngày 29/6/1998, tạo ra một bước tiến mới cho việc thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Đối tượng mua cổ phiếu bao gồm cả người nước ngoài và những người định cư lâu dài trên lãnh thổ Việt Nam. Có những quy định đầy đủ cho người lao động, những chính sách về chuyển nhượng cổ phần, chính sách lao động sau quá trình cổ phần hóa. Cho tới giai đoạn cuối năm 2002 con số doanh nghiệp cổ phần hóa lên tới 900 doanh nghiệp.
3.4. Giai đoạn 7/2002 - 2007
Đòi hỏi ngày càng cần nhanh chóng và đạt hiệu quả cao hơn trong quá trình cổ phần hóa nhằm giúp cho việc cổ phần hóa được tốt hơn trong giai đoạn này thì việc ra đời hàng loạt các văn bản luật như Nghị định 41/2002 (ngày 11/4/2002) Quyết định số 58/2002 Nghị định 64/2002 (ngày 26/4/2002)… Thông qua đó chính phủ có một cơ chế mới cho việc thiết chặt tạo cơ chế mới gắn trách nhiệm với quyền lợi với một hệ thống mang tính đồng bộ. Với việc cổ phần hóa doanh nghiệp trong giai đoạn này cho thấy so với mục tiêu đề ra vẫn chưa đạt được yêu cầu nhưng cũng thu được những kết quả đáng kể, việc thu hút được lượng vốn từ khoản đầu tư từ nhà đầu tư cho doanh nghiệp 3000 tỷ đồng số lượng doanh nghiệp cho giai đoạn này lên tới con số 800 doanh nghiệp.
4. Mục tiêu cổ phần hóa trong giai đoạn 2007-2010 5 Bé KÕ ho¹ch & ®Çu t
Ngày 29/12/2006 Thủ tướng Chính phủ đã ban Quyết định 1729/QĐ, phê duyệt 71 tập đoàn công ty Nhà nước cổ phần hóa trong giai đoạn 2007 - 2010. "Theo đó trong giai đoạn này có:
- 1 tập đoàn kinh tế (dệt may Việt Nam)
- 7 tổng công ty 91
- 52 tổng công ty xây dựng thuộc Bộ công nghiệp
- Bộ Xây dựng (14)
- Bộ giao thông (10)
- Bộ thủy sản (3)
- Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn (13)
- Bộ y tế (1)
- Bộ tài chính (1)
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (5)
- 12 Tổng công ty Nhà nước thuộc ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (5)
- Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (7)
Theo kế hoạch năm 2007 sẽ có 20 đơn vị thực hiện cổ phần hóa trong năm 2008, 2009, 2010 sẽ có khoảng 26, 19 và 6"7
. Các Bộ và ủy ban nhân dân các thành phố chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, thực hiện cổ phần hóa từng công ty và thành lập tổ công tác có sự tham gia của chính phủ. Đó là những mục tiêu về chiến lược cho giai đoạn sắp tới của doanh nghiệp Nhà nước.
Hiện nay, quy trình cổ phần hóa cũng được rút ngắn về thời gian cổ phần hóa đối với một doanh nghiệp từ 437 ngày nay xuống còn 260 ngày, các văn bản được ban ra giúp cho cơ chế cổ phần hóa được rõ ràng và thuận lợi hơn, các văn bản cho quá trình định giá doanh nghiệp cũng đã có một số thay đổi đáng kể, việc ra đời của trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đó là một đòn đẩy mạnh giúp cho việc cổ phần hóa nhanh hơn trong công tác bán cổ phần của doanh nghiệp mới tham gia đấu giá lần đầu. Theo quy định tại Nghị định mới, đối tượng cổ phần hóa đã được mở rộng thêm rất nhiều bao gồm các đối tượng công ty Nhà nước độc lập; công ty mẹ tập đoàn kinh tế; tổng công ty Nhà nước bao gồm các ngân hàng thương mại Nhà nước; công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ - công ty con; công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập; đơn vị hạch toán phụ thuộc của công ty Nhà nước độc lập, tập đoàn, tổng công ty Nhà nước; công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Theo Nghị định mới, điều kiện để CPH là doanh nghiệp không thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và còn vốn Nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và đánh giá lại giá trị doanh nghiệp.
Về phương thức bán cổ phần lần đầu cũng được mở rộng. Ngoài việc thực hiện theo các phương thức đấu giá công khai còn cho phép bảo lãnh phát hành, thỏa thuận trực tiếp và tùy theo đối tượng và điều kiện mua cổ phần lần đầu, cơ quan quyết định cổ phần hóa xác định phương thức bán cổ phần một cách phù hợp. Về cơ cấu vốn cổ phần sau khi bán cổ phần lần đầu ra công chúng, ngoài cổ phần Nhà nước nắm giữ (tỷ lệ cổ phần Nhà nước nắm giữ thực hiện theo quy định) thì cổ phần bán cho nhà đầu tư chiến lược và nhà đầu tư khác không thấp hơn 25% vốn điều lệ. Riêng đối với doanh nghiệp quy mô lớn có vốn Nhà nước trên 500 tỷ đồng hoặc hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực, ngành nghề đặc thù sẽ do cơ quan có thẩm quyền quyết định. Nghị định cũng quy định cổ phần bán cho tổ chức công đoàn tại doanh nghiệp không quá 3% vốn điều lệ. Đối với người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa được mua tối đa 100 cổ phần cho mỗi năm thực tế làm việc. Các doanh nghiệp đã có quyết định phê duyệt phương án cổ phần hóa trước ngày Nghị định này có hiệu lực thì tiếp tục thực hiện theo phương án được duyệt. Việc cổ phần hóa các Ngân hàng thương mại Nhà nước tiến hành theo Nghị định mới và các quy định có liên quan đến lĩnh vực quản lý ngân hàng và đề án cổ phần hóa được phê duyệt. Qua cổ phần, doanh nghiệp được cơ cấu theo hướng tập trung quy mô lớn, hướng vào những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; quy mô vốn của DNNN được tăng lên đáng kể năm 2001, "vốn bình quân của DNNN khoảng 24 tỷ đồng, nay tăng lên đến 63,6 tỷ đồng. Tài chính doanh nghiệp được lành mạnh hóa thông qua việc cơ cấu lại các khoản nợ; xử lý tài sản là vật tư, hàng hóa ứ đọng, tồn kho, máy móc thiết bị cũ. Qua thực tế hoạt động hơn 1 năm của 850 doanh nghiệp hoàn thành cổ phần cho thấy, vốn điều lệ bình quân tăng 44% doanh thu tăng 23,6% lợi nhuận thực hiện tăng 139,76%, nộp Ngân hàng tăng 24,9%, thu nhập người lao động tăng 12%, số lao động không những không giảm mà bình quân tăng 6,6%"i
, đặc biệt cổ tức bình quân đạt 17,11%, trong đó 71,4% số doanh nghiệp có cổ tức cao hơn lãi tiền gửi ngân hàng. Sau cổ phần hóa mặc dù giảm bớt nhượng lao động của doanh nghiệp nhưng sau quá trình hoạt động làm ăn có hiệu quả đã đưa người lao động có nguồn thu nhập gia tăng sau khi cổ phần hoá tăng 12% so với trước"7
.
Năm 2006 dự kiến sẽ sắp xếp khoảng 900 DNNN, trong đó khoảng 600 phải cổ phần hóa. Theo phương án, dự kiến cuối năm 2006 cả nước chỉ còn khoảng 1800 doanh nghiệp do Nhà nước giữ 100% vốn, 900 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối, 700 doanh nghiệp Nhà nước không nắm cổ phần chi phối và có khoảng 500 CTCP mới thành lập có đầu tư vốn Nhà nước, 8 tập đoàn và 93 TCT Nhà nước.
Số DN
Biểu đồ 1: Số lượng DNNN qua các năm
(Nguồn:tài liệu hội thảo "Hệ thống hóa và đánh giá hệ thống văn bản pháp luật hiện hành về vấn đề sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào kinh doanh" - Cục TCDN).
(Tỷ đồng)
Biểu đồ 2: Tình hình lợi nhuận của DNNN qua các năm
(Nguồn: Tài liệu hội thảo "hệ thống hóa và đánh giá hệ thống văn bản pháp luật hiện hành về vấn đề sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào kinh doanh" - Cục TCDN)
Biểu đồ 3: Mức nắm giữ vốn của Nhà nước trong DN CPH
(Nguồn: Tài liệu hội thảo "Hệ thống hóa và đánh giá hệ thống văn bản pháp luật hiện hành về vấn đề sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào kinh doanh" - Cục TCDN.
5. Bên cạnh những thành công đạt được trong quá trình cổ phần hóa thì còn có những hạn chế chưa giải quyết được trong suốt tiến trình cổ phần hóa kể từ những năm 1992 cho tới nay.
5.1. Tốc độ cổ phần hóa chậm chạp:
Theo báo cáo mới nhất của Ban Kinh tế Trung ương, từ năm 2001 đến hết tháng 10-2005, cả nước đã cổ phần hóa được 2.057 doanh nghiệp Nhà nước, nhưng số vốn Nhà nước tại doanh nghiệp đã cổ phần hóa chỉ chiếm 9% toàn bộ vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp, một con số rất nhỏ bé. Điều này chứng tỏ tốc độ cổ phần hóa rất chậm mặc dù Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản thúc đẩy. Đại đa số các doanh nghiệp đã được cổ phần hóa là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, khối lượng cổ phiếu bán ra bên ngoài ít, hiệu quả kinh doanh ít hấp dẫn, chưa thu hút được các nhà đầu tư chiến lược và các tập đoàn kinh tế trên thế giới. Một trong những nguyên nhân làm trì trệ quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là cơ chế, chính sách về cổ phần hóa như một cái khung áp dụng chung cho mọi doanh nghiệp Nhà nước, không phù hợp cho từng loại hình doanh nghiệp. Dẫn chứng cụ thể là việc cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), một doanh nghiệp đang hấp dẫn nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Từ tháng 7/2004, khi Thủ tướng Chính phủ chấp thuận cho Vietcombank cổ phần hóa, đã gần một năm rưỡi trôi qua, doanh nghiệp này vẫn chưa bán được cổ phiếu ra bên ngoài. Đó là do giữa các bộ, ngành liên quan có quá nhiều ý kiến khác nhau về cách thức tiến hành, không ai chịu ai. Và cuối cùng, Chính phủ đã quyết định phương án tái cơ cấu phương hướng đó, Vietcombank đang chuẩn bị phát hành trái phiếu tăng vốn rồi cũng phải qua nhiều cấp phê duyệt. Từ ví dụ trên cho thấy cơ chế xin-cho hay xét duyệt trong tiến trình cổ phần hóa đã làm nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp lớn, e ngại, sợ xáo trộn hoạt động kinh doanh nếu chấp nhận đi vào con đường này. Còn một cái sợ khác đối với một số giám đốc doanh nghiệp Nhà nước là do khi cổ phần hóa sẽ không còn là người quyết định "tối hậu" mọi vấn đề của doanh nghiệp vì phải chịu sự kiểm soát của ban kiểm soát và hội đồng quản trị.
Tại cuộc hội thảo "Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước" do Ban Kinh tế Trung ương tổ chức đầu tháng 11-2005 tại Hà Nội, nhiều đại biểu đã tán thành việc đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa theo nguyên tắc thị trường, tập trung vào những doanh nghiệp có quy mô lớn, cổ phần hóa toàn công ty theo hình thức chủ yếu là phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn thông qua đấu giá trên thị trường chứng khoán. Đây là một biện pháp cần thiết nhưng chắc chắn chưa giải quyết được cái gốc của sự chậm trễ trong việc cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Vì hiện nay, chúng ta chưa thực hiện được việc tách chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh ra khỏi các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như khi các bộ, các địa phương còn chi phối trực tiếp và có "quyền lợi" ở các doanh nghiệp thì sẽ không có động lực mạnh mẽ đẩy nhanh tiến bộ cổ phần hóa, nghịch lý hậu cổ phần hóa cần xóa bỏ. Trong gần 1.000 DNNN đã cổ phần hóa (CPH) đang nổi lên một số tồn tại nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ sự thiếu hệ thống đầy đủ hoặc bất cập về cơ sở pháp lý và cả về nhận thức, tổ chức thực hiện quá trình CPH DNNN.
Đặc biệt, có 3 nghịch lý đáng chú ý.
Từ một chủ Nhà nước vô hình sang quá nhiều chủ
Do ngộ nhận vị thế của cổ đông - sở hữu cổ phần - tức làm chủ doanh nghiệp với vị thế của người lao động trực tiếp chịu sự điều hành theo kỷ luật lao động và cơ chế, điều lệ hoạt động của doanh nghiệp, của lãnh đạo doanh nghiệp, nhiều người lao động - cổ đông trong doanh nghiệp đã có những hành vi dân chủ quá trớn. Để đảm bảo quyền làm chủ của mình, họ - mặc dù thậm chí chỉ chiếm chưa đến 1% cổ phần doanh nghiệp, cũng để mắt và có ý kiến tới mọi chuyện, tranh đấu, chất vấn quyết liệt với các quyết định điều hành của BGĐ.
Đến mức có DNNN ở Hà Nội sau CPH, BGĐ mỗi khi đưa ra quyết định mua sắm, chi tiêu nào quá 100 nghìn đồng cũng đều phải "họp xin ý kiến" từng việc rất căng thẳng, mất nhiều thời gian, hoàn toàn không phù hợp với cơ chế kinh doanh thị trường cần "phản ứng nhanh". Rõ ràng một DNNN sau CPH mà có hàng trăm ông chủ thực sự ngang quyền nhau cũng sẽ không hiệu quả tựa như một DNNN hoạt động theo tinh thần làm chủ tập thể mà Nhà nước là đại diện duy nhất như trước khi CPH. Nhiều DNNN sau CPH đang dần chuyển hóa thành DN tư nhân. Nhiều cổ đông của doanh nghiệp cổ phần hóa đã lặng lẽ bán trực tiếp, chuyển nhượng lại số cổ phần của mình (kể cả số cổ phiếu ưu đãi của các cổ đông sáng lập) hoặc làm trung gian giúp người khác bán, chuyển nhượng cổ phần cho những tư nhân ngoài doanh nghiệp. Việc "thu gom" mua lại cổ phần này đã lớn tới mức thậm chí cho phép một cá nhân bên ngoài doanh nghiệp có thể tích tụ được tới trên 50% tổng giá trị cổ phần danh nghĩa, cho phép họ trở thành chủ nhân đích thực của doanh nghiệp CPH (thông qua chi phối lá phiếu bầu của những cổ đông danh nghĩa đã bán hết cổ phần cho họ). Về thực chất đây là quá trình tư nhân hóa các DNNN CPH, điều mà trái với mục tiêu ban đầu đặt ra khi CPH DNNN theo chủ trương và cách tức hiện hành. Tiếp tục lãng phí vốn, tài sản của Nhà nước sự lãng phí này thông qua các kênh: hoặc do doanh nghiệp thiếu trách nhiệm bảo quản hay lạm dụng khai thác sử dụng với phần tài sản giữ hộ Nhà nước còn lại trong doanh nghiệp mà chưa xử lý dứt điểm sau khi CPH (kể cả phần nợ doanh nghiệp phải thu hồi); hoặc do Nhà nước "mất không" phần chênh lệch giá trị giữa giá thực (bao gồm giá tính đúng, đủ giá trị quyền sử dụng đất và giá trị vô hình của doanh nghiệp) và giá trị kế toán thấp nhất khi tiến hành CPH DNNN (nhất là khi CPH không thông qua TTCK hoặc chỉ "khoanh vùng" bán cổ phần trong nội bộ DN); hoặc do áp dụng không đúng thực tế.
5.2. Định giá doanh nghiệp
Việc định giá doanh nghiệp Nhà nước còn chưa chính xác, dẫn tới giá cổ phiếu xác định đem bán lần đầu ra công chúng không thu được thành công và có những cổ phiếu bị coi là rẻ so với giá trị thực của chúng làm thiệt hại cho doanh nghiệp; còn đối với một số doanh nghiệp định giá cao hơn thì gây ra hiện tượng không bán được cổ phiếu và thu được vốn hấp dẫn nhà đầu tư. Trong quá trình cổ phần hóa DNNN, việc xác định đúng giá trị doanh nghiệp được coi là khâu then chốt, là cơ sở để xác định qui mô và cơ cấu vốn điều lệ khi chuyển sang công ty cổ phần. Kết quả xác định giá trị doanh nghiệp phải theo hướng gắn với thị trường, được người mua, người bán chấp nhận. Tuy vậy, việc thực hiện xác định giá trị của doanh nghiệp trong thời gian qua chưa làm tốt được điều đó. Quy định về cơ quan xác định giá trị Doanh nghiệp còn chưa chặt chẽ, thay đổi nhiều lần, còn nhiều kẽ hở, dễ phát sinh tiêu cực trong quá trình cổ phần hóa, chưa tạo được niềm tin trong cán bộ, nhân viên và nhân dân. Tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp thông qua hội đồng định giá như hiện nay còn thiếu khách quan, thiếu tính thị trường. Phần lớn các thành viên trong hội đồng định giá theo quy định đều là công chức Nhà nước, là hoạt động kiêm nhiệm nên khó có thể dành đủ thời gian cũng như tâm trí cho công việc này. Hơn nữa, họ không phải là các chuyên gia về kỹ thuật để xác định giá trị còn lại của tài sản, hoặc chuyên gia về giá để xác định giá thực tế trên thị trường của tài sản trong khi việc định giá trị doanh nghiệp là vấn đề phức tạp. Theo những quy định hiện hành, hai cơ chế định giá đang được áp dụng trong việc xác định giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa đó là: thành lập "hội đồng định giá" hoặc "thuê công ty tư vấn định giá độc lập". Cơ chế hội đồng định giá, thành viên hội đồng là cán bộ đại diện của nhiều cơ quan Bộ, Ban, Ngành.. Ý kiến đánh giá thường không có sự thống nhất, đôi khi nghiêng về mục tiêu quản lý riêng của từng ngành. Vụ Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp Văn phòng chính phủ khẳng định: "Định giá doanh nghiệp là một công việc rất khó, đòi hỏi phải có kiến thức chuyên môn sâu, có kinh nghiệm… thế nhưng, những thành viên hội đồng định giá theo quy định hiện hành đều là công chức Nhà nước không có chuyên môn sâu nên không thể xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp một cách sát thực tế, hiệu quả được". Cơ chế hội đồng định giá đang áp thường không phản ánh đúng giá trị đích thực của doanh nghiệp.
5.3. Quản lý doanh nghiệp và chính sách lao động
Vấn đề về quản lý doanh nghiệp và chính sách lao động của doanh nghiệp chưa có văn bản pháp lý quy định riêng cho vấn đề này
Khi các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa, Nhà nước chủ trương người lao động được mua cổ phần ưu đãi. Nhưng lãnh đạo các doanh nghiệp cổ phần hóa ngày càng có nhiều "chiêu" thúc đẩy người lao động từ bỏ quyền mua CP của mình để họ sử dụng số CP nào vào mục đích riêng. "Công ty CP sữa Việt Nam (Vinamilk) là trường hợp gây xôn xao dư luận nhiều nhất liên quan đến việc ban giám đốc công ty "tự xử" số CP mà người lao động từ chối mua"8
. Bản thân người lao động luôn bị thiệt thòi trong quá trình doanh nghiệp tham gia cổ phần hóa doanh nghiệp, vì bản thân họ là người không nắm rõ hiểu biết về quyền lợi của họ khi doanh nghiệp cổ phần hóa, đó cũng là lợi thế mà chủ doanh nghiệp từ đó kiếm lợi cho chính mình. Sau quá trình cổ phần hóa thì việc thu xếp cho công nhân viên chức ổn định công việc chưa đảm bảo, vì sau mỗi quá trình cổ phần hóa thường có sự suy giảm biên chế trong doanh nghiệp. Người lao động trong nhiều doanh nghiệp không đủ khả năng mua thêm cổ phần ngoài số cổ phần mua cổ phần lại bán cổ phần ngay sau khi mua. Việc thu hút cổ đông ngoài doanh nghiệp mới đạt 15,4% vốn điều lệ, các cổ đông chiến lược vì thế cũng không có nhiều cơ hội để trở thành những người chủ có vai trò nhất định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa "khép kín" trong nội bộ, có tới 38% số doanh nghiệp không có cổ phần bán ra ngoài. Việc cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước chưa thực hiện triệt để theo đúng tinh thần Nghị quyết trung ương 3, chương trình hành động của Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ ở nhiều bộ ngành địa phương nhiều doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hóa trong các năm 2003 - 2004 nhưng chưa được tiến hành lộ trình cổ phần hóa. Tỷ trọng doanh nghiệp Nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng vẫn còn rất cao (gần 40%). Tài chính doanh nghiệp còn nhiều tồn tại và lao động dôi dư vẫn đang tiếp tục là trở ngại không nhỏ đối với việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước. Cơ chế quản lý doanh nghiệp còn gặp khó khăn, theo phong cách quản lý cũ, chưa bắt nhịp cùng thời đại theo cơ chế thị trường, phương thức còn mong chờ ở chế độ cấp phát không có tính chủ động trong quản lý của chính những người đứng đầu doanh nghiệp.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY NHANH TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN 2007 - 2010
1. Xây dựng và hoàn hiện một quy trình cổ phần hóa
Theo một cơ chế thống nhất rút ngắn thời gian cổ phần hóa doanh nghiệp giảm bớt thủ tục trong quy trình cổ phần hóa. Thực tế trên cho thấy, để có thể thực hiện tốt kế hoạch cổ phần hóa theo các Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNCPH, công khai hóa và minh bạch quá trình cổ phần hóa, gắn với sự phát triển của thị trường chứng khoán, cần thiết phải nghiên cứu hoàn thiện cơ chế cổ phần hóa DNNN quy định tại Nghị định 187 theo hướng:
+ Về đối tượng cổ phần hóa, cần thiết bị bổ sung thêm đối tượng cổ phần hóa bao gồm cả các công ty TNHH Nhà nước một thành viên, các công ty Nhà nước độc lập là công ty mẹ được tổ chức và hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con nhằm hạn chế tình trạng lựa chọn chuyển đổi sang mô hình công ty mẹ - công ty con để tránh cổ phần hóa; Các công ty TNHH Nhà nước hai thành viên trở lên khi thực hiện chuyển đổi sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần được phép áp dụng các quy định có liên quan tại Nghị định này và Điều lệ tổ chức hoạt động của các công ty.
+ Về điều kiện cổ phần hóa: cho phép cổ phần hóa cả doanh nghiệp "không bị âm vốn Nhà nước" theo hình thức phát hành cổ phiếu để huy động vốn vì các doanh nghiệp này đã được xử lý những tồn tại về tài chính, nếu tiến hành bán đấu giá cổ phần Nhà nước vẫn thu hồi được một giá trị nhất định. Bổ sung thêm điều kiện cổ phần hóa bộ phận công ty là công ty Nhà nước thuộc diện Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc có quy mô lớn thực hiện cổ phần hóa các bộ phận và công ty mẹ theo đúng lộ trình đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Theo quy định hiện hành, nhà đầu tư chiến lược là các nhà đầu tư trong nước và được mua cổ phần ưu đãi giảm giá 20%. Quy định này cho thấy còn có sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài; các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm lực về tài chính, kinh nghiệm tổ chức quản lý chưa được xác định là nhà đầu tư chiến lược. Trong thực tế triển khai có những đơn vị đã xác định nhà đầu tư chiến lược là người lao động trong doanh nghiệp và các doanh nghiệp thành viên trong nội bộ của Tổng công ty làm hạn chế khả năng huy động vốn trong xã hội, thay đổi phương thức quản lý. Việc quy định giảm 20% giá bán cổ phiếu cho các nhà đầu tư chiến lược đã làm giảm khoản thu của Ngân sách từ cổ phần hóa, trong khi các nhà đầu tư tiềm năng góp vốn mua cổ phần muốn tham gia quản trị doanh nghiệp về cơ bản đều có tiềm lực về tài chính, họ cần được ưu đãi quyền mua cổ phần hơn là ưu đãi giảm giá. Để xóa bỏ sự cách biệt giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước, giảm thiểu tổn thất cho Nhà nước, tạo điều kiện để các doanh nghiệp có quy mô lớn thực hiện tốt các mục tiêu cổ phần hóa thông qua sự tham gia góp vốn và quản lý của nhà đầu tư tiềm năng, dự kiến sửa đổi theo hướng mở rộng đối tượng là nhà đầu tư chiến lược nhưng không ưu đãi giảm giá, cụ thể. Nhà đầu tư chiến lược là các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước như: người sản xuất và thường xuyên cung cấp nguyên liệu cho doanh nghiệp; người cam kết tiêu thụ lâu dài sản phẩm của doanh nghiệp; người gắn bó lợi ích chiến lược lâu dài trong kinh doanh, có tiềm năng về tài chính và năng lực quản lý, không bao gồm người lao động trong doanh nghiệp và các pháp nhân trong cùng tổng công ty khi cổ phần hóa các đơn vị thành viên hoặc đơn vị phụ thuộc của tổng công ty. Giá bán cho các nhà đầu tư chiến lược được thực hiện theo giá đấu thành công của từng nhà đầu tư hoặc theo giá thỏa thuận nhưng không thấp hơn giá đấu thành công bình quân của cuộc đấu giá cho các nhà đầu tư thông thường. Giá bán cho các nhà đầu tư chiến lược được thực hiện theo giá đấu thành công của từng nhà đầu tư hoặc theo giá thỏa thuận nhưng không thấp hơn giá đấu thành công bình quân của cuộc đấu giá cho các nhà đầu tư thông thường. Đối với các doanh nghiệp có đủ điều kiện niêm yết theo quy định của pháp luật chứng khoán thì phương án bán cổ phần phải đảm bảo đủ điều kiện về số lượng cổ đông bên ngoài để thực hiện niêm yết ngay sau khi chuyển thành công ty cổ phần. Mặt khác, để khắc phục trường hợp thông thầu, cần bổ sung quy định các trường hợp số lượng cổ phần chưa bán hết lớn (bao gồm cả trường hợp nhà đầu tư từ chối mua) phải thực hiện đấu giá lại hoặc điều chỉnh quy mô, cơ cấu vốn điều lệ trong phương án cổ phần hóa để đảm bảo chuyển đổi doanh nghiệp theo đúng tiến độ cổ phần hóa. Bên cạnh đó, để gắn kết quá trình cổ phần hóa DNNN với việc phát triển thị trường chứng khoán, tăng số lượng và chất lượng các công ty thực hiện đăng ký niêm yết, giao dịch, cần bổ sung quy định buộc những doanh nghiệp có quy mô vốn lớn và hiệu quả thực hiện cổ phần hóa gắn với việc tham gia niêm yết, giao dịch. Đồng thời, giao trách nhiệm cho cơ quan có thẩm quyền quyết định cổ phần hóa phải hướng dẫn và phê duyệt ngay trong quyết định phê duyệt phương án cổ phần hóa.
2. Về việc quản lý và sử dụng số tiền thu từ cổ phần hóa công ty nhà nước
Để khuyến khích doanh nghiệp CPH áp dụng hình thức phát hành cổ phiếu để huy động vốn, cần cho phép doanh nghiệp để lại một phần của khoản chênh lệch tăng do bán đấu giá cổ phần phát hành thêm để thực hiện các dự án đầu tư theo phương án cổ phần hóa được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Mặt khác, để đảm bảo sử dụng nguồn thu nói trên đúng mục đích, đúng đối tượng và tạo điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết lao động dôi dư, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa, cũng cần cho phép sử dụng một phần nguồn thu này để tham gia giải quyết chính sách cho người lao động theo Nghị quyết 06 của Chính phủ.
3. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền
Bổ sung quy định nhằm tăng cường kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước (Ban Đổi mới và Phát triển DNNN Trung ương, Bộ Tài chính) và nâng cao trách nhiệm của các Bộ, UBNd tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, giám đốc và các cán bộ quản lý điều hành doanh nghiệp trong quá trình triển khai cổ phần hóa các doanh nghiệp trực thuộc. Đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn từ 100 tỷ đồng trở lên, Bộ, Địa phương chỉ ra quyết định phê duyệt giá trị doanh nghiệp và phê duyệt phương án cổ phần hóa sau khi có ý kiến thỏa thuận của Bộ Tài chính và Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp. Trường hợp còn lại nếu quyết định của các cơ quan này gây tổn thất, ảnh hưởng đến quyền lợi của Nhà nước, người đầu tư, thì người quyết định phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
4. Hoàn thiện cơ chế định giá trong doanh nghiệp và đấu giá cổ phần
Cần xây dựng một phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp hoàn chỉnh. Để phù hợp với Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006 của Chính phủ; ngăn chặn khả năng tổn thất cho NSNN trong việc DN CPH chuyển từ hình thức giao đất sang thuê đất, đẩy mạnh phân cấp cùng với việc nâng cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong công tác xác định giá trị doanh nghiệp (đặc biệt về giá trị quyền sử dụng đất và giá trị lợi thế kinh doanh), dự kiến. Trường hợp DN CPH lựa chọn hình thức giao đất thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị DNCPH theo giá đất đã được Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định và công bố; nếu giá này chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường tại thời điểm cổ phần hóa thì UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định giá đất cụ thể cho phù hợp. Mặt khác, để nâng cao trách nhiệm của UBND các tỉnh, thành phố và doanh nghiệp cũng như đảm bảo tiến độ cổ phần hóa, cần thiết yêu cầu các doanh nghiệp chủ động triển khai xác định giá trị quyền sử dụng đất ngay khi kiểm kê, phân loại tài sản. Đồng thời, quy định UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có ý kiến về vấn đề này trong thời hạn 30 ngày, nếu quá 30 ngày UBND không có ý kiến thì cơ quan có thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp được quyền xác định giá trị doanh nghiệp theo phương án đã xây dựng và báo cáo UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trình tự và thủ tục giao đất, nộp tiền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành về đất đai.
Để hạn chế tổn thất cho ngân sách, cần quy định rõ trường hợp doanh nghiệp CPH lựa chọn hình thức thuê đất thì phải hoàn tất thủ tục chuyển sang thuê đất theo quy định trước khi chính thức chuyển sang công ty cổ phần. Có chính sách hợp lý hơn khi xác định công nợ trong giá trị doanh nghiệp. Công nợ là một trong những vướng mắc lớn nhất trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp, gây mất nhiều thời gian xử lý, Nhà nước cần bổ sung cho xử lý tích cực hơn. Cần nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn và xác định giá trị doanh nghiệp cần hoàn thiện khung pháp lý cho các hoạt động nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ, thúc đẩy cổ phần hóa gắn với niêm yết trên thị trường chứng khoán, rà soát lại các văn bản pháp lý còn liên quan đến hoạt động xác định lại giá trị doanh nghiệp, tư vấn cổ phần hóa nhằm giảm tải vướng mắc về thủ tục hành chính mà các doanh nghiệp đang gặp phải.
Ngoài ra, có thể thành lập một đội hay một phòng ban chuyên trách chịu trách nhiệm về vấn đề cổ phần hóa các doanh nghiệp, xây dựng các ban chỉ đạo đấu giá cổ phần.
5. Đổi mới phương thức quản lý điều hành doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa
Nhà nước cần có cái nhìn khác khi tham gia vào các vấn đề quản lý đối với doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa. Vì đôi khi doanh nghiệp bị sự chi phối quá sâu của nhà nước trong quản lý, điều hành doanh nghiệp. Cần có sự thay đổi căn bản về năng lực lãnh đạo và quản trị doanh nghiệp, xóa bỏ khoảng trống quyền lực ở nhiều doanh nghiệp sau khi chuyển đổi. Mặt khác, tăng cường vai trò của hội đồng quản trị, tránh quyền lợi tập trung vào một người như giám đốc hay những người có vị trí cao trong doanh nghiệp.
Nền kinh tế thị trường ở nước ta đang trong quá trình hình thành và phát triển, thì dù muốn hay không, nền kinh tế của nước ta vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã tồn tại trong thời gian dài. Vì vậy, các cơ quan quản lý còn ít nhiều lúng túng trong quá trình điều hành vĩ mô nền kinh tế, Nhà nước còn trực tiếp giải quyết công việc vĩ mô. Đã thế, các loại thị trường ở nước ta chưa phát triển một cách đồng bộ, đặc biệt thị trường liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh như thị trường vốn, thị trường lao động, thông tin, thị trường chứng khoán… còn đang ở trình độ sơ khai manh mún.
- Sự thận trọng và hoài nghi của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài: Đối với các nhà đầu tư trong nước, trong suốt thời gian qua, tích lũy của người dân đã tăng lên đáng kể, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân rất nhiều, nhưng họ chưa thực sự yên tâm với các cơ chế chính sách, chưa tin tưởng vào khả năng phát triển của các doanh nghiệp Nhà nước khi cổ phần hóa, thêm vào đó, chưa hiểu biết nhiều về việc đầu tư thông qua mua bán cổ phiếu của doanh nghiệp. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, thì thời gian đầu chưa được tham gia mua cổ phiếu của các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa, song khi được mua thì có nhiều điều kiện ràng buộc và hầu như chưa khuyến khích họ đầu tư vào công ty cổ phần.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến cơ chế chính sách về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chưa làm tốt dẫn đến trình độ nhận thức của doanh nghiệp Nhà nước, cơ quan chủ quản, cá nhân người lao động chưa sâu. Các cơ quan chức năng của Nhà nước chưa tiến hành phổ biến, giáo dục, tuyên truyền một cách sâu rộng và thường xuyên để nâng cao sự hiểu biết về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Chưa sử dụng các loại phương tiện thông tin đại chúng một cách đồng bộ để tuyên truyền, đưa nội dung cổ phần vào chương trình đào tạo lại và bồi dưỡng cho cán bộ, công chức và viên chức.
- Các nhà quản lý và lãnh đạo các doanh nghiệp tạo ra lực cản cho quá trình cổ phần hóa: Chính vì quan niệm rằng cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước đã làm mất đi vai trò chủ đạo của Kinh tế nhà nước, nên nhiều nhà lãnh đạo đã không khuyến khích chủ trương thực hiện cổ phần hóa theo kế hoạch; không ít lãnh đạo các doanh nghiệp chưa thực sự quyết tâm tiến hành cổ phần hóa, còn do dự. Đối với người lao động trực tiếp trong doanh nghiệp do chưa hiểu rõ thực chất và lợi ích của quá trình cổ phần hóa, nên họ lo sợ ảnh hưởng đến quyền lợi trực tiếp của mình, đó là thu nhập và công việc không được đảm bảo khi mất đi sự bảo hộ của Nhà nước. Tư tưởng dựa vào Nhà nước của một số nhà quản lý, công nhân viên khiến họ ngại có sự xáo trộn và thay đổi trong công việc.
- Việc phân định và giao nhiệm vụ cho những cơ quan Nhà nước chịu trách nhiệm hoạch định chính sách triển khai thực hiện chính sách cổ phần hóa chưa được rõ ràng. Trong quá trình tiến hành cổ phần hóa gặp phải những vướng mắc thì chưa đủ khả năng, thẩm quyền để xử lý, điều chỉnh kịp thời.
Tổng kết những giải pháp trên cho thấy:
Muốn đẩy nhanh và thực hiện đúng kế hoạch cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới, cần nghiên cứu các nhóm giải pháp chính về cơ chế chính sách tài chính như sau:
Làm lành mạnh hóa tình hình tài chính doanh nghiệp Nhà nước trước khi cổ phần hóa:
Từ thực trạng doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay thì việc cơ cấu lại năng lực sản xuất kinh doanh và cơ cấu lại tình hình tài chính của doanh nghiệp trước khi quyết định cổ phần hóa là cần thiết. Nhà nước cần phân loại doanh nghiệp, lựa chọn doanh nghiệp cần cổ phần hóa ở tầm trung hạn và dài hạn.
Trước khi cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước cần giải quyết cả hai loại công nợ phải thu và công nợ phải trả của doanh nghiệp. Cơ chế chính sách về xử lý nợ phải rõ ràng, cụ thể để giải quyết dứt điểm nợ phải thu và nợ phải trả của doanh nghiệp Nhà nước. Không thể chuyển các khoản nợ từ doanh nghiệp Nhà nước sang cho các công ty cổ phần.
Hoàn thiện cơ chế chính sách tài chính liên quan đến quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước:
Các cơ chế chính sách tài chính về cổ phần hóa phải sửa đổi, bổ sung nhằm khắc phục được những tồn tại, vướng mắc trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Cụ thể như:
- Việc lựa chọn và xác định đối tượng cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước không thể thực hiện theo tính chất phong trào, cần xem xét đến đặc điểm kinh tế của từng ngành, từng vùng, từng địa phương, từng loại hình doanh nghiệp. Kế hoạch và đối tượng cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước của từng ngành kinh tế phải thống nhất với kế hoạch cổ phần hóa của từng vùng kinh tế, từng địa phương trong lộ trình chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp Nhà nước. Phải phân loại doanh nghiệp Nhà nước thành các đối tượng và theo hướng giảm bớt số lượng doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế.
- Về đối tượng mua cổ phần: Nhà nước có kế hoạch cụ thể xác định những loại hình doanh nghiệp nào giữ cổ phần chi phối theo hướng giảm dần. Nhà nước chỉ tham gia đầu tư vào những công ty cổ phần làm ăn có lãi, có khả năng phát triển. Cần xem xét lại cơ chế quản lý cổ phần, việc dành cổ phần để bán với giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp. Cũng cần xem lại quy định đối tượng được mua cổ phần với giá ưu đãi là người sản xuất và cung cấp nguyên liệu cho các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản để hạn chế tính tiêu cực trong việc mua - bán cổ phiếu trên thị trường, đồng thời phát huy tính cạnh tranh giữa các loại hình doanh nghiệp theo quan hệ cung - cầu trong nền kinh tế thị trường.
- Về xác định giá trị doanh nghiệp: Cần thành lập một cơ quan chịu trách nhiệm trước Nhà nước, độc lập với các bộ, ngành, tỉnh, thành phố có doanh nghiệp cổ phần hóa để thực hiện việc xác định giá trị doanh nghiệp, tránh tình trạng vừa có quyền quyết định thành lập, trực tiếp quản lý vừa có quyền chuyển đổi và xác định giá trị doanh nghiệp, gây ra tình trạng thiếu minh bạch trong quản lý tài chính thất thoát tiền vốn của Nhà nước.
- Về giá trị quyền sử dụng đất: Việc đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp là hợp lý, vì đất đai là tài sản có giá trị lớn. Khi giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp được thừa nhận thì các doanh nghiệp có quyền dùng giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn liên doanh, liên kết, chuyển nhượng hoặc thế chấp đồng thời tạo ra sự hấp dẫn cho đối tượng mua cổ phần.
- Chính sách hỗ trợ tài chính đối với doanh nghiệp trước và sau khi cổ phần hóa là hết sức cần thiết. Nhưng không nên thành lập một quỹ riêng để thực hiện sắp xếp và cổ phần hóa mà có thể tập trung vào một quỹ ngân sách ở Trung ương đối với các bộ, ngành và địa phương đối với tỉnh, thành phố. Vì khi thành lập quỹ này đã hình thành một bộ máy quản lý, điều hành gây tốn kém cho Nhà nước, thủ tục để nhận hỗ trợ vốn phức tạp.
Không nên phân biệt giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp sau chuyển đổi sở hữu trong các vấn đề như đầu tư, sử dụng đất đai, xuất nhập cảnh, đào tạo…
Tổ chức thực hiện cơ chế chính sách tài chính:
Sau khi cơ chế chính sách đã được ban hành, tính thực thi của nó phụ thuộc rất nhiều vào quá trình tổ chức thực hiện, từ hướng dẫn phổ biến tuyên truyền cơ chế chính sách cho các đối tượng có liên quan trong cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp và dân cư. Tăng cường chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện đề án sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước trong phạm vi toàn quốc theo đúng lộ trình đã đặt ra. Định kỳ giao ban, rút kinh nghiệm trong khi chỉ đạo thực hiện. Xử lý nghiêm và kịp thời những cán bộ quản lý, đặc biệt là giám đốc doanh nghiệp Nhà nước không thực hiện đúng tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp.
- Để thúc đẩy quá trình cổ phần hóa, bản thân các doanh nghiệp Nhà nước phải là nơi chủ động triển khai, tháo gỡ những vướng mắc để triển khai cổ phần hóa theo kế hoạch của Nhà nước. Thông qua lãnh đạo, cán bộ công nhân viên, các tổ chức đoàn thể, tổ chức đảng để tạo ra sự nhất trí cao về nhận thức và hành động trong việc thực hiện cơ chế chính sách về cổ phần hóa.
Triển khai nhanh các chủ trương, định hướng sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước gồm:
Làm rõ và cụ thể hóa định hướng sắp xếp, phát triển doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và công ích. Ban hành tiêu chí phân loại cụ thể doanh nghiệp mà Nhà nước giữ 100% vốn, giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt, cổ phần ở mức thấp, doanh nghiệp mà Nhà nước không giữ cổ phần khi cổ phần hóa; doanh nghiệp mà Nhà nước thực hiện sáp nhập, giải thể, phá sản, giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê.
Khuyến khích nhân dân và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia sản xuất những sản phẩm, dịch vụ công ích xã hội mà pháp luật không cấm.
Ban hành Nghị định mới thay thế Nghị định số 56/CP về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích theo tinh thần doanh nghiệp công ích cũng thực hiện hạch toán, Nhà nước có chính sách ưu đãi đối với các sản phẩm và dịch vụ công ích, không phân biệt loại hình doanh nghiệp, thành phần kinh tế.
Triển khai thực hiện Quyết định 187/1999/QĐ-TTg ngày 16 tháng 9 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới tổ chức quản lý các lâm trường quốc doanh.
Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, hình thành khung pháp lý đồng bộ tạo môi trường để doanh nghiệp nhà nước tự chủ tự quyết định kinh doanh theo quan hệ cung cầu, nâng cao hiệu quả, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình.
Ban hành cơ chế, chính sách về ưu đãi đối với các ngành, vùng, các sản phẩm và dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển, không phân biệt thành phần kinh tế.
Ban hành chính sách khuyến khích các doanh nghiệp cạnh tranh, hợp tác bình đẳng cùng phát triển; có cơ chế kiểm soát độc quyền.
Ban hành tiêu chí đánh giá hiệu quả, cơ chế giám sát và chế tài đối với từng loại hình doanh nghiệp nhà nước: nhà nước mà Nhà nước giữ 100% vốn, giữ cổ phần chi phối, tổng công ty nhà nước để khuyến khích những cán bộ quản lý doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, đồng thời xử lý những cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả do năng lực, trình độ kém… Đổi mới chế độ kế toán, kiểm toán, chế độ báo cáo, thông tin, thực hiện công khai hoạt động kinh doanh và tài chính doanh nghiệp nhà nước.
Thí điểm thành lập Công ty Đầu tư tài chính để thực hiện Nhà nước đầu tư và quản lý vốn tại doanh nghiệp thay thế cho việc giao vốn. Ban hành Luật Sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào kinh doanh. Sửa đổi bổ sung Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng theo hướng tăng thêm quyền hạn và trách nhiệm của doanh nghiệp trong quyết định đầu tư. Ban hành Nghị định về quản lý lao động, tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp nhà nước thay thế Nghị định số 28/CP và Nghị định số 03/2001/NĐ-CP.
Ban hành tiêu chuẩn và quy chế thi tuyển cán bộ quản lý chủ chốt của doanh nghiệp nhà nước; chú trọng các cán bộ đã có kinh nghiệm và năng lực công tác. Xây dựng hệ thống đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giám đốc doanh nghiệp theo chương trình, nội dung đáp ứng yêu cầu kinh doanh trong điều kiện hiện nay.
Chế độ đãi ngộ, chế độ trách nhiệm đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp phải đảm bảo khuyến khích thỏa đáng về vật chất và tinh thần tùy theo mức đóng góp vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Ban hành chế độ tiền lương, phụ cấp đối với các thành viên hội đồng quản trị, Ban kiểm soát tổng công ty nhà nước và doanh nghiệp độc lập quy mô lớn thay thế Quyết định số 83/1998/QĐ-TTg. Ban hành cơ chế khuyến khích vật chất, tinh thần đối với đội ngũ quản lý doanh nghiệp nhà nước, đồng thời ban hành các quy định về chế độ trách nhiệm, chế tài.
Ban hành cơ chế, chính sách xử lý nợ không thanh toán của doanh nghiệp nhà nước. Thành lập và đưa nhanh vào hoạt động Công ty mua bán nợ và tài sản của doanh nghiệp nhà nước để xử lý nợ và tài sản không cần dùng, tạo điều kiện lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp.
Lao động dôi dư, đặc biệt là lao động nữ trong quá trình sắp xếp doanh nghiệp nhà nước được tạo điều kiện đào tạo lại hoặc nghỉ việc hưởng nguyên lương một thời gian để tìm việc; nếu không tìm được việc thì người hưởng chế độ mất việc. Sửa đổi, bổ sung một số chính sách đối với người lao động dôi dư có nguyện vọng nghỉ hưu trước tuổi, hỗ trợ tự kiếm việc làm, kinh doanh.
Liên kết các tổ chức, các nhóm gửi tiết kiệm hoặc vay tín dụng với hệ thống ngân hàng. Nhân rộng các mô hình tín dụng vi mô bền vững thành công của các tổ chức phi chính phủ hoặc các tổ chức quần chúng. Phối hợp chặt chẽ hoạt động tín dụng với khuyến nông.
Đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn. Nhà nước có chính sách để giảm bớt tình trạng chênh lệch về cổ phần ưu đãi cho người lao động giữa các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa, có quy định để người lao động giữ được cổ phần ưu đãi trong một thời gian nhất định. Nghiên cứu cơ sở và tiêu chuẩn để sử dụng một phần vốn tự do của doanh nghiệp để hình thành cổ phần của người lao động, người lao động được hưởn lãi nhưng không được rút cổ phần này khỏi doanh nghiệp. Đơn giản quy trình cổ phần hóa, tăng cường tính minh bạch của quá trình này, nhà đầu tư được mua cổ phần lần đầu đối với những doanh nghiệp cổ phần hóa mà Nhà nước không giữ cổ phần chi phối theo đúng quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 44/1998/NĐ-CP về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 103/1999/NĐ-CP để thúc đẩy nhanh việc giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp nhà nước.
Đầu tư phát triển và thành lập mới doanh nghiệp nhà nước cần thiết và có đủ điều kiện ở những ngành, lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng. Sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả, nhưng không thực hiện được các biện pháp cổ phần hóa, giao, bán, khoán, kinh doanh, cho thuê. Sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 50/CP và 38/CP về thành lập, tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần việc thành lập mới doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh chủ yếu sẽ thực hiện dưới hình thức công ty cổ phần. Chỉ thành lập mới doanh nghiệp nhà nước 100% vốn nhà nước đối với những ngành và lĩnh vực Nhà nước độc quyền, hoặc các thành phần kinh tế khác không muốn hay không có khả năng tham gia. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phá sản doanh nghiệp theo hướng người quyết định thành lập doanh nghiệp có quyền đề nghị phá sản doanh nghiệp nhà nước.Thay thế chế độ bộ chủ quản bằng cơ chế quản lý nhà nước, bằng chính sách, pháp luật, tiêu chuẩn, hiệu quả; giao quyền chủ động cho doanh nghiệp trong việc thành lập tổng công ty, hiệp hội.
Khuyến khích sự hợp tác, liên kết đa dạng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Tăng cường vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp trong việc cung cấp các dịch vụ phát triển kinh doanh cho các hội viên, làm cầu nối giữa Nhà nước và doanh nghiệp, thúc đẩy xuất khẩu và xúc tiến thương mại, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các hội viên.
Triển khai thực hiện Bộ luật Lao động đã sửa đổi. Xây dựng Luật Bảo hiểm xã hội, bổ sung chính sách bảo hiểm thất nghiệp theo hướng Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động cùng đóng góp.
Sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần doanh nghiệp nhà nước thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hạch toán kinh doanh, nâng cao hiệu quả của mình, quy định về thành lập, tổ chức hoạt động, tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp nhà nước…
LỜI KẾT
Cổ phần hóa doanh nghiệp là một bước ngoặt lớn trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển từ hình thức sở hữu một thành viên sang hình thức sở hữu đa thành viên, việc chuyển đổi đó giúp cho nền kinh tế được minh bạch hơn, thúc đẩy những chủ doanh nghiệp có trách nhiệm hơn đối với doanh nghiệp, với sự tồn tại của doanh nghiệp mà mình nắm giữ cổ phần, chuyển đổi người chủ sở hữu giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, đối với bản thân doanh nghiệp thay đổi hẳn diện mạo cho mình, sự thay đổi về cơ chế quản lý, hoạt động năng động hơn, hiệu quả hơn. Do đó để có một thị trường hoạt động mang đúng tính chất của nền kinh tế thị trường thì cần đảm bảo tất cả mọi doanh nghiệp cùng có một sân chơi bình đẳng thì Nhà nước với tư cách là người quản lý nền kinh tế vĩ mô thì phải có trách nhiệm là người trung gian, tạo động lực thúc đẩy cho doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa hoạt động được tốt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Các văn kiện của Đảng và Nhà nước:
1. Luật Doanh nghiệp
2. Nghị định 64 của Chính phủ
3. Nghị định 187/2004/NĐ-CP
4. Quyết định 01/QĐ-UBCK
5. Thông tư 126/2004/TT-BTC
II. Sách và các tài liệu tham khảo khác:
1. Nghiêm Quý Hào - "CPH trước và sau giai đoạn thay đổi về chất"- Chứng khoán Việt Nam số 1+2 năm 2005.
2. Nguyễn Tấn Bình - Sách Phân tích quản trị tài chính - NXB Thống kê.
3. PGS.TS. Ngô Minh Quang - Sách Kinh tế Nhà nước và quá trình đổi mới DNNN. NXB Chính trị Quốc gia năm 2001.
4. Trịnh Hữu Hạnh - Bàn về tháo gỡ một số vướng mắc khi xác định giá trị doanh nghiệp. Tài chính số 5/2005.
5. Vũ Thị Kim Liên - Quản trị Công ty trong quá trình cổ phần hóa và sau cổ phần hóa. Chứng khoán số 3/2005.
6. Website:
7. Website:
8. Website:
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA122.docx