mục lục
chương I: quá trình hình thành phát triển
của công ty dệt hải phòng 1
I-/ Quá trình hình thành và phát triển của công ty 1
1-/ Từ năm 1988 đến năm 1991 1
2-/ Từ tháng 10/1991 đến năm 1997 2
3-/ Từ năm 1997 đến nay 3
II-/ Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, bộ máy
quản lý của công ty 3
1-/ Nhiệm vụ và chức năng 3
2-/ Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý sản xuất 3
3-/ Đặc điểm kỹ thuật 6
chương II: Tình hình sản xuất kidnh doanh và phương hướng trong thời gian tới 10
I-/ Tình hình sản xuất kinh doanh 10
1-/ Kết quả sản xuất 10
2-/ Tình hình xuất nhập khẩu và ảnh hưởng của
thị trường trong và ngoài nước. 11
3-/ Tình hình xuất khẩu sản phẩm của Công ty 12
II-/ Đánh gía chung tình hình xuất khẩu của công ty
dệt Hải Phòng. 17
Chương III : Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả xuất nhập khẩu 19
I-/ Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu
tại công ty dệt: 19
1-/ Nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm: 19
2-/ Hạ giá thành sản phẩm. 20
3-/ Tăng vòng quay của vốn: 22
4-/ Ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất sẽ tạo cơ sở
khoa học cho sự định hướng và quy hoạch phát triển
sản xuất nâng cao NSLĐ: 22
II-/ ý kiến về việc tạo hành lang pháp lý cho
doanh nghiệp. 23
1-/ Cần khắc phục hiện trạng không kiểm soát được
nguồn tài liệu thông tin của ngành dệt. 23
2-/ Tạo lợi thế cạnh tranh của các sản phẩm trong toàn ngành. 23
3-/ Nhà nước phải tạo môi trường, hành lang pháp lý
thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu. 24
4-/ Chính sách ưu đãi về vốn, tín dụng. 25
29 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1701 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả xuất nhập khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả xuất nhập khẩu
chương I
quá trình hình thành phát triển của công ty dệt hải phòng
I-/ Quá trình hình thành và phát triển của công ty
Công ty dệt Hải Phòng là Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp thuộc Sở Công nghiệp Hải Phòng quản lý, được thành lập theo quyết định số 61/QĐ/TCCQ ngày 27/1/1988. Công ty đã có những đóng góp quan trọng cho nền kinh tế quốc dân, góp phần tạo nên công ăn việc làm cho người lao động, cung cấp sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu tăng nguồn tích luỹ ngoại tệ cho đất nước.
Từ khi thành lập đến nay Công ty đã không ngừng lớn mạnh về mọi mặt, quá trình phát triển của Công ty có thể chia thành các giai đoạn sau:
1-/ Từ năm 1988 đến năm 1991
Trong những năm này Công ty thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ bản và sản xuất thử. Có thể nói ngành dệt ở Hải Phòng do không được chú trọng thích đáng trong thời kỳ bao cấp nên khi có quyết định 217/HĐBT chuyển đổi sản xuất của các doanh nghiệp từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế quản lý sản xuất kinh doanh theo phương thức hạch toán lấy thu bù chi cho có lãi, nhiều xí nghiệp, các hợp tác xã dệt thủ công ở Hải Phòng dần dần bị giải thể hoặc phải chuyển đổi ngành nghề. Trên tinh thần của Hiệp định 19/5 giữa Nhà nước Việt Nam với Liên Xô cũ, cùng với việc cần thiết phải khôi phục ngành dệt của Hải Phòng, Uỷ ban nhân dân Thành phố đã ra quyết định số 61/QĐ/TCCQ ngày 27/01/1988 chính thức thành lập xí nghiệp dệt tiền thân của Công ty dệt Hải Phòng ngày nay. Trong những năm này xí nghiệp sản xuất các loại khăn bông xuất khẩu sang thị trường Liên Xô và một số nước Đông Âu, để thực hiện kế hoạch của Nhà nước ta với nước bạn và một phần sản xuất đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của địa phương mang lại nguồn thu cho thành phố, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Trong giai đoạn này, xí nghiệp tiến hành cải tạo xây dựng cơ sở vật chất, hoàn thiện cơ cấu quản lý tiếp nhận và đào tạo đội ngũ công nhân, tiếp nhận và lắp đặt hệ thống dây chuyển thiết bị chủ yếu là của Liên Xô với công nghệ dệt khăn theo công nghệ cũ (tẩy nhuộm sau). Tuy nhiên do nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản có hạn nên xí nghiệp không đủ điều kiện lắp đặt hoàn chỉnh dây chuyền thiết bị thiếu đồng bộ, có những máy rất lạc hậu nh 6 máy se sợi thủ công. Trình độ quản lý và tay nghề của công nhân còn chưa có kinh nghiệm do tập hợp từ các nơi trong thành phố cũng như tỉnh bạn còn nhiều bỡ ngỡ, chưa phát huy được sự năng động sáng tạo trong quản lý và sản xuất.
Tuy nhiên xí nghiệp cũng đã cố gắn sản xuất được một lượng hàng phục vụ cho việc xuất khẩu sang Liên Xô và một số nước Đông Âu, Thái Lan, Lào,...
Từ sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa (Đông Âu) sụp đổ, nước ta không thực hiện được các hiệp định về mậu dịch với các nước trên, nên cũng mất luôn thị trường truyền thống, xí nghiệp dệt nói riêng cũng rơi vào tình trạng bế tắc không tìm được thị trường sản xuất được mặt hàng có chất lượng cao theo yêu cầu của khách hàng nên dẫn đến hàng sản xuất ra tiêu thụ chậm, bị thua lỗ.
2-/ Từ tháng 10/1991 đến năm 1997
Khi Công ty bước vào sản xuất chính thức là thời kỳ chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh cũng như nhiều doanh nghiệp khác, Công ty dệt Hải Phòng gặp nhiều khó khăn đặc biệt là nguyên vật liệu phụ tùng thay thế máy móc thiết bị, còn thiếu vốn, thiếu ngoại tệ để nhập vật tư thiết bị cho sản xuất. Giá cả mua các yếu tố đầu vào tăng nhanh ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm do đó ảnh hưởng đến tiến độ tiêu thụ xuất khẩu sản phẩm gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy vậy nhờ sự giúp đỡ của Tổng Công ty dệt may Việt Nam và một số doanh nghiệp ngành dệt ở các tỉnh lân cận, xí nghiệp đã có điều kiện để sản xuất ra mặt hàng mà khách yêu cầu. Xí nghiệp có sự chuyển hướng sản xuất từ mua nguyên vật liệu bán thành phẩm kết hợp với hình thức gia công cho khách hàng.
Ngày 14/01/1993 theo Quyết định số 82/QĐ/TCCQ của Uỷ an nhân dân thành phố đổi tên xí nghiệp dệt Hải Phòng thành nhà máy dệt Hải Phòng để tồn tại và phát triển. Được sự giúp đỡ của thành phố, các ban ngành hữu quan, nhà máy dệt Hải Phòng đã đầu tư chiều sâu, hoàn chỉnh dây chuyền thiết bị, áp dụng công nghệ tiên tiến phù hợp việc đa dạng hoá sản phẩm. Trong dự án đầu tư chiều sâu chủ yếu là mua máy móc thiết bị, còn phần nhỏ sửa chữa cải tạo nhà xưởng. Việc bổ sung thiết bị mới, hiện đại nh máy hồ sợi, tẩy, nhuộm, sấy, máy sén lông đã nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng nước ngoài.
3-/ Từ năm 1997 đến nay
Với những trang thiết bị mới hiện đại nhà máy đã sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đa dạng, giá cả hợp lý nên dần dần cạnh tranh với những sản phẩm cùng chủng loại trên thị trường. Các khách hàng nước ngoài cũng nh trong nước ta đã tìm đến nhà máy đặt hàng với số lượng lớn. Đặc biệt là sản phẩm khăn mặt bông đã được khách hàng khó tính là Nhật Bản quan tâm và đặt hàng sản xuất.
Giai đoạn này nhà máy đã có chuyển biến rõ rệt, làm ăn có lãi, đời sống cán bộ, công nhân viên được nâng lên, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đã có bước thay đổi, thu được những thành quả vượt bậc so với những năm trước.
Ngày 09/01/1995 theo Quyết định số 1678 QĐ/ĐMDN của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng, nhà máy dệt Hải Phòng đổi tên thành Công ty dệt Hải Phòng phù hợp với tăng trưởng và vị thế của Công ty trên thị trường.
II-/ Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý của công ty
1-/ Nhiệm vụ và chức năng
Công ty dệt Hải Phòng hiện nay là Công ty xuất nhập khẩu trực tiếp do Sở Công nghiệp Hải Phòng quản lý. Công ty sản xuất các loại khăn tắm, khăn ăn, khăn rửa mặt với công suất 400 tấn sản phẩm một năm phục vụ cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Căn cứ vào nhiệm vụ sản xuất mà Công ty lập nên kế hoạch sản xuất góp phần làm cho thị trường của Công ty ngày càng sinh động, hiệu quả kinh doanh ngày càng cao.
2-/ Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý sản xuất
Từ khi thành lập bộ máy quản lý Công ty cồng kềnh, số cán bộ quản lý hành chính nhiều, mặt khác ngành dệt là lĩnh vực mới ở Hải Phòng, do vậy công tác quản lý điều hành sản xuất gặp nhiều khó khăn. Để tồn tại và phát triển Công ty đã có thay đổi lớn về tổ chức theo phương hướng cán bộ chủ chốt phòng ban kiêm nhiệm phụ trách các phân xưởng, coi trọng và ưu tiên nhân viên có trình độ chuyên môn cao, trẻ hoá dần đội ngũ cán bộ quản lý. Các phân xưởng được sắp xếp bố trí lại tạo ra hệ thống điều hành quản lý thống nhất. Bộ máy quản lý và sản xuất của Công ty được bố trí nh sau:
sơ đồ tổ chức quản lý - sản xuất
Gi¸m ®èc
Phã Gi¸m ®èc
phßng kÕ ho¹ch kü thuËt ®Çu t
phßng tæ chøc hµnh chÝnh
phßng kÕ to¸n tµi vô
phßng kinh doanh xnk
Tæ c¬ ®iÖn nåi h¬i
Tæ chuÈn bÞ dÖt
Tæ hå tÈy
Tæ dÖt I
Tæ dÖt II
Tæ dÖt III
Tæ C¾t cuèn
Tæ c¾t may
Tæ ®ãng gãi
Tæ KCS
Giám đốc: là người vừa đại diện cho Nhà nước, vừa đại diện cho Công ty chịu trách nhiệm trước UBND Thành phố Hải Phòng và Sở Công nghiệp về mọi hoạt động của Công ty theo luật pháp. Giám đốc được quyền quyết định tổ chức bộ máy quản lý các bộ phận sản xuất, kinh doanh dịch vụ của Công ty. Được bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, ký hợp đồng lao động theo quy định phân cấp hiện hành.
Phó Giám đốc: là người giúp việc cho Giám đốc, được Giám đốc phân công giúp việc về các công việc tổ chức, nội chính, đoàn thể.
Các phòng ban:
- Phòng kinh doanh xuất khẩu: có nhiệm vụ tổ chức tốt công tác cung cấp nguyên vật liệu nhập khẩu, quản lý bảo quản kho tàng vật tư. Căn cứ vào hợp đồng đã ký để lập kế hoạch nhập khẩu nguyên vật liệu, xuất khẩu sản phẩm.
Tổ chức tốt công tác tiêu thụ sản phẩm, tăng cường hỗ trợ xúc tiến bán hàng thông qua đại lý ký gửi, hội chợ, mở cửa hàng giới thiệu sản phẩm tiêu thụ.
Phòng có bộ phận nghiên cứu thị trường, nghiên cứu sản phẩm để tìm cách chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước. Để làm tốt nhiệm vụ của mình, phòng phải kết hợp với các phòng ban nhất là phòng kế hoạch để kết hợp với nhau trong việc lập kế hoạch sản xuất, tiêu thụ, từ đó nâng cao hiệu quả của công tác xuất nhập khẩu. Làm các nhiệm vụ thông qua nh: thủ tục hải quan, xin cấp hạn ngạch, C/O, thuê tầu, mua bảo hiểm,... và lập bô chứng từ thanh toán (cơ quan không có phòng thanh toán quốc tế).
- Phòng kế hoạch kinh tế đầu tư: phòng có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch sản xuất ngắn hạn, dài hạn, phương án sản xuất sản phẩm, điều độ tác nghiệp trong Công ty. Phòng xây dựng kế hoạch giá thành đơn vị trả tiền lương cho từng loại sản phẩm, lập các quy trình công nghệ xây dựng và kiểm tra các định mức kỹ thuật cho từng loại sản phẩm, trên cơ sở đó lựa chọn nguyên liệu vật tư, lựa chọn máy móc thiết bị cho phù hợp đảm bảo chất lượng và tiến độ sản xuất.
Nghiên cứu sản xuất thử các sản phẩm mới có kế hoạch đầu tư trang thiết bị mới, các thiết bị nhằm hoàn thiện dây chuyển sản xuất cải tiến áp dụng những sáng kiến cải tiến kỹ thuật, các ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, kế hoạch sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị định kỳ, biên soạn các giáo trình tài liệu kỹ thuật để bồi dưỡng nâng cao trình độ công nhân (tổ KCS phòng khoa học kỹ thuật có nhiệm vụ kiểm tra chất lượng, hàng hoá thành phẩm khi sản xuất và trước khi nhập kho thành phẩm).
- Phòng kế toán: hoạt động theo pháp lệnh kế toán thống kê và điều lệ tài chính kế toán của Bộ Tài chính đã ban hành. Quản lý điều tiết vốn cho Công ty.
Tổ chức hạch toán kiểm tra theo dõi thu chi tài chính. Xây dựng các toán phản ánh thu chi vào tài khoản hạch toán chi phí sản xuất giá thành sản phẩm lỗ lãi, phân phối lợi nhuận quản lý tài sản cố định, tài sản lưu động, tiền gửi ngân hàng vốn vay và tiền nợ đọng của khách hàng.
- Phòng tổ chức, hành chính, lao động tiền lương:
Lập phương án tổ chức bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh triển khai kế hoạch lao động tiền lương trên cơ sở xây dựng định mức lao động của từng loại sản phẩm, xây dựng phương án trả lương thưởng cho từng phân xưởng công đoạn từng loại sản phẩm xây dựng chức năng nhiệm vụ nội qui, qui chế hoạt động của Công ty, bảo vệ tài sản giữ gìn an ninh trật tự trong toàn Công ty, xây dựng kế hoạch lao động và tuyển dụng lao động, xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo bồi dưỡng tay nghề nâng cấp, nâng bậc CBCNV, xây dựng và thực hiện công tác an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp, phòng cháy chữa cháy. Các công tác tài chính văn thư, khám chữa bệnh phục vụ ăn ca hàng ngày cho CBCNV.
* Các phân xưởng:
- Phân xưởng chuẩn bị: bao gồm các bước công việc se, mắc, hồ, nhuộm, tẩy sợi đảm bảo chất lượng bao gồm nhiều tổ, mỗi tổ có chức năng nhiệm vụ riêng.
+ Tổ se, mắc sợi: có nhiệm vụ se sợi, đảo sợi (làm tăng tính cường lực của sợi) mắc trục (tuỳ theo mẫu mã từng loại sản phẩm mà có cách mắc khác nhau).
+ Tổ hồ sợi: sau khi sợi mắc xong sẽ được đưa qua hồ để tăng độ bền kéo của sợi.
+ Tổ tẩy nhuộm: tẩy nhuộm theo yêu cầu của từng loại sản phẩm.
- Phân xưởng dệt: dệt theo thiết kế mẫu mã và đơn đặt hàng, máy ở đây hầu nh có tính tự động cao, công nhân chỉ có thao tác thay suốt sợi khi hết hoặc điều chỉnh máy khi có sự cố.
- Phân xưởng may hoàn tất: sau khi bán sản phẩm được tẩy nhuộm thì được đưa sang phân xưởng may, đây là phân xưởng cuối cùng để hoàn tất sản phẩm.
Ngoài ba phân xưởng trên còn có tổ KCS trực thuộc phòng kỹ thuật có nhiệm vụ kiểm tra sản phẩm dở dang từ phân xưởng này sang phân xưởng khác và kiểm tra sản phẩm cuối cùng trước khi nhập kho.
3-/ Đặc điểm kỹ thuật
3.1. Đặc điểm về tài sản cố định.
Máy móc thiết bị và tài sản cố định của Công ty có rất nhiều loại đa dạng do nhập của nhiều nước khác nhau. Do vậy hệ thống thiết bị máy móc của Công ty không đồng bộ nên việc đảm bảo máy móc thiết bị theo yêu cầu của sản xuất gặp nhiều khó khăn.
Tuy nhiên việc đầu tư chiều sâu của Công ty từng bước giải quyết những khó khăn trên đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm hạ giá thành cho nên công tác tiêu thụ được tốt hơn, sản phẩm chất lượng cao và nhiều hơn.
Biểu 1: Một số thiết bị
STT
Tên máy móc - thiết bị
Số lượng
Nước sản xuất
1
Máy dệt ATM - 175
90
Liên Xô
2
Máy đánh ống
02
Liên Xô
3
Máy mắc
02
Liên Xô
4
Máy dồn
01
Liên Xô
5
Máy se đậu
02
Liên Xô
6
Máy Ðp kiện
01
Việt Nam
7
Máy suốt
03
Liên Xô
8
Máy may
25
Liên Xô
9
Máy hồ sợi
01
Trung Quốc
10
Máy vắt - tẩy nhuộm
04
02 của Ba Lan, 02 của Đài Loan
11
Máy vắt ly tâm
02
01 của Hunggari, 01 Trung Quốc
12
Máy sấy
01
Trung Quốc
13
Máy sén nhung
01
Trung Quốc
14
Nồi hơi
02
Trung Quốc
15
Trạm máy bơm
01
Liên Xô
(Báo cáo kiểm kê thiết bị của Công ty dệt Hải Phòng năm 1999)
3.2. Đặc điểm về nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu chính của Công ty là sợi Ne 20/1, Ne 32/1, Cotton 100%. Công ty thường mua sợi của các doanh nghiệp trong nước nh Công ty dệt Hà Nội, Công ty dệt 8/3, Công ty dệt Nha Trang, nhập sợi của Ên Độ, Trung Quốc,...
Tuỳ từng thời kỳ có sự chênh lệch giữa giá sợi nhập thấp hơn giá sợi mua trong nước thì Công ty mới tiến hành nhập sợi nước ngoài. Ngoài ra Công ty còn nhập một số hoá chất từ Singapo, Trung Quốc, Nam Triều Tiên, Pháp, Mỹ, Ý. Một số hoá chất như Bevaloid 5400, Bevaloid 4168, Ô xi già (H2O2) và các chất làm mềm sợi,... hoá chất vật liệu phụ mua trong nước như Xút (NaOH), Silicat (Na2SiO3), tinh bột sắn, chỉ trắng, túi PE, bao PP.
3.3. Qui trình công nghệ
Qui trình dệt là một qui trình khác phức tạp, kéo dài thời gian bắt đầu được đưa vào sản xuất khi có sản phẩm nhập kho qua rất nhiều công đoạn, chất lượng của từng công đoạn bán sản phẩm sẽ làm ảnh hưởng rất lớn tới tỉ lệ phế phẩm của các công đoạn tiếp theo. Trong mỗi công đoạn chất lượng sản phẩm bị ảnh hưởng ngoài yếu tố chủ quan là máy móc thiết bị, trình độ tay nghề của công nhân còn bị ảnh hưởng rất lớn bởi các yếu tố chủ quan như thời tiết, nắng ráo, hanh khô. Khi thời tiết hanh khô sẽ làm cho sợi bị khô gẫy dễ đứt làm chất lượng giảm xuống rõ rệt hoặc khi thời tiết có độ Èm khác nhau do sợi có độ hút Èm cao nên việc điều chỉnh định mức sản phẩm cũng gặp nhiều khó khăn.
Hiện nay Công ty có hai qui trình công nghệ dệt khăn, tuỳ theo yêu cầu của khách hàng mà dệt theo kiểu công nghệ nào.
* Qui trình dệt khăn tẩy trước (xem hình)
Sợi mộc được đưa vào đảo, se, guồng sợi thành từng con sợi nhỏ, sau đó đưa vào máy tẩy nhuộm ® vắt ® sấy khô ® đánh ra ống sợi nhỏ và sau đó đưa lên giàn mắc phân băng (mắc từng trục sợi một) ® Dệt ® Cắt may ® sản phẩm cuối cùng, sản phẩm này thường được bán vào thị trường đòi hỏi thấp hơn như các nước Đông Âu (XHCN cũ) và thị trường nội địa. Đặc điểm của sản phẩm này là bền nhưng đặc tính kỹ thuật không cao.
* Qui trình công nghệ dệt khăn tẩy sau
Sợi mộc được đưa vào đánh ống sau đó mắc đồng loạt (mắc nhiều trục một lúc ® Hồ sợi có tác dụng làm tăng độ bền kéo cơ học của sợi để khi dệt không bị đứt ® Dệt, sau khi dệt xong mới mang đi tẩy hoặc nhuộm ® Máy vắt ® Máy sấy khô ® Cắt may ® Thành phẩm.
Sản phẩm theo qui trình công nghệ nay đáp ứng được các thị trường tiêu thụ khó tính như Nhật, EU,...
Quy trình công nghệ
Nguyªn vËt liÖu chÝnh
Sîi méc
§¶o, se, guång, sîi
TÈy nhuém thñ c«ng
§¸nh èng
M¾c ph©n b¨ng
DÖt
KCS 1
C¾t may
KCS 2
Sîi méc
§¸nh èng
M¾c ®ång lo¹t
Hå sîi
DÖt 1
KCS 1
TÈy nhuém
SÊy
C¾t may
KCS 2
NhËp kho thµnh phÈm
chương II
Tình hình sản xuất kidnh doanh và phương hướng trong thời gian tới
I-/ Tình hình sản xuất kinh doanh
1-/ Kết quả sản xuất
Là mét doanh nghiệp Nhà nước có nhiệm vụ sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và đặc biệt là ưu tiên thị trường xuất khẩu.
Từ năm 1990 thị trường chính của Công ty là các nước XHCN cò, khi thị trường các nước này mất ổn định làm ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu của Công ty. Trong những năm 1990 - 1997 để tháo gỡ khó khăn Công ty thường ký hợp đồng xuất khẩu uỷ thác qua các Tổng Công ty dệt may Việt Nam (VINATEX) hay TOCONTAP, UNIMEX,...
Do cơ chế quản lý Nhà nước về xuất nhập khẩu lúc đó cũng nh do trình độ cán bộ làm công tác XNK còn yếu kém, nên việc tìm kiếm mở rộng thị trường trong và ngoài nước còn nhiều hạn chế. Nhận thức được vấn đầy này nên Ban lãnh đạo Công ty đã tổ chức lại bộ máy quản lý, đổi chức năng của phòng vật tư tiêu thụ thành phòng kinh doanh XNK có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn rộng hơn dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc, đồng thời Công ty mạnh dạn vay vốn để đầu tư chiều sâu nâng cao chất lượng sản phẩm nên tình hình sản xuất cũng như kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên.
Biểu 2: Tình hình sản xuất của Công ty
Thông sè
ĐVT
1998
1999
2000
1-/ Vốn kinh doanh
Tr.đg
11.411,3
11.136,4
11.791,89
1.1. Vốn ngân sách
Tr.đg
1.265,4
1.465,4
1.578,49
1.2. Vốn tự bổ xung
Tr.đg
31,9
31,9
31,9
1.3. Vốn vay
Tr.đg
1.4. Vốn huy động các nguồn khác
Tr.đg
2-/ Diện tích đất
1.000 m2
9,85
9,85
9,25
Trong đó DT có công trình XD
1.000 m2
0,72
0,72
0,72
3-/ Tổng số lao động
Người
300
325
320
Trong đó LĐ chờ sắp xếp việc làm
Người
4-/ Kết quả kinh doanh
Tr.đg
4.1. Doanh thu
Tr.đg
10.653.500
12.831.200
14.361.700
4.2. Lãi thực hiện (trước thuế)
Tr.đg
12,4
13,4
3,55
4.3. Lỗ (cộng dồn)
Tr.đg
5-/ Tổng mức nộp NS (không kể LD)
Tr.đg
21,4
137,55
73,66
5.1. Thuế doanh thu
Tr.đg
55
100
40
5.2. Thuế lợi tức
Tr.đg
5.3. Thuế xuất nhập khẩu
Tr.đg
14
5.4. Thuế tiêu thụ đặc biệt
Tr.đg
5.5. Thu sử dụng vốn + thuế đất
Tr.đg
66,4
37,55
19,66
6-/ Tổng nợ phải trả
Tr.đg
14.354
13.402
14.414,25
6.1. Nợ ngân sách
Tr.đg
24,6
22,3
(6,54)
6.2. Nợ ngân hàng
Tr.đg
10.114
9.639,1
10.181,5
7-/ Tổng số nợ phải thu
Tr.đg
873,8
1.651,3
529,79
Trong đó nợ khó đòi
Tr.đg
(Báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty)
2-/ Tình hình xuất nhập khẩu và ảnh hưởng của thị trường trong và ngoài nước.
Qua tìm hiểu từ năm 1997 đến nay ta thấy tình hình xuất nhập khẩu của Công ty dệt Hải Phòng có một số cơ cấu thay đổi như sau:
Từ năm 1997 trở về trước Công ty phần lớn nhập khẩu nguyên vật liệu nh sợi Ne 20/1, hoá chất tẩy nhuộm, chất hồ sợi (Bevaloil 4168, Bavaloil 4118, Bensop, Vevetol, H2O2...). Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là sang các nước Đông Âu theo kế hoạch hàng trả nợ được ký giữa Chính phủ ta và nước bạn hoặc xuất uỷ thác qua các Tổng công ty VINATEX, TOCONTAP,... với số lượng và doanh thu rất khiêm tốn 2 tỷ VNĐ, chủ yếu là các loại khăn tắm 50 x 100, 70 x 140, 60 x 120 được dệt theo qui trình công nghệ tẩy trước chất lượng không cao, do đó sản phẩm của Công ty cũng không chiếm lĩnh được thị trường một số nước khắt khe như Nhật, EU,... Nhận thức được vấn đề này cuối năm 1997 lãnh đạo Công ty đã mạnh dạn đầu tư chiều sâu một số máy móc thiết bị hiện đại của Ba Lan, Đài Loan, Trung Quốc có công nghệ tiên tiến để có thể dệt được các loại khăn có chất lượng cao mềm mại hợp thị hiếu người tiêu dùng bao gồm các máy: 2 máy nhuộm BCBA của Ba Lan, 2 máy nhuộm cao cấp của Đài Loan, 1 máy xén bông, 1 máy hồ, 1 máy sấy của Trung Quốc, 20 đầu RUBI dệt Jắc ka của Trung Quốc.
Thực tế cho thấy việc đầu tư của lãnh đạo Công ty hoàn toàn đúng đắn, kết quả năm 1998 doanh thu của Công ty đạt và các năm tiếp theo doanh thu bao giờ cũng cao hơn năm trước.
Biểu 3: Tình hình nhập khẩu nguyên vật liệu
Năm
Tên N.Liệu
1999
2000
2001
Số lượng
Giá trị
Số lượng
Giá trị
Số lượng
Giá trị
- Sợi Ne 20/1
64.684
2.022.184
32.400
978.735
- Sợi Ne 32/1
41.561
1.438.629
20.620
669.737
- Bevaloil 4118
951
20.925
1.200
26.400
2.000
44.000
- Bevaloil 4168
9.000
102.724
12.000
136.920
20.000
220.000
- Vevatol
2.090
49.112
2.500
58.725
3.000
69.000
- Bensop
1.180
35.532
2.000
60.220
2.500
75.000
- Unitex
500
125.000
700
175.000
- Leuconphor
300
69.000
800
184.000
- Chất ổn định H20
1.000
6.200
1.500
9.000
- Xót
15.000
60.000
16.000
64.000
- Ô xi già
16.590
98.864
20.000
119.000
22.000
130.900
- Sô đa
2.000
6.400
3.000
9.600
- Công hoá
1.000
26.000
1.500
3.900
- Thuốc nhuộm
500
225.000
300
135.000
- Các chất trợ
128
3.213
300
7.530
500
12.500
Tổng cộng
2.574.867
1.131.900
(Báo cáo tình hình nhập khẩu của Công ty)
3-/ Tình hình xuất khẩu sản phẩm của Công ty
Tình hình xuất khẩu sản phẩm của Công ty tương đối đa dạng tuy một số thị trường mới chỉ là tiềm năng, song đây cũng là chiến lược để Công ty phấn đấu mở rộng thị trường.
3.1. Các thị trường xuất khẩu chính của Công ty
* Đặc điểm thị trường các nước Đông Âu (các nước XHCN cò).
Đây là thị trường tương đối dễ tính, nhu cầu đòi hỏi về chất lượng khăn tay không quá cao, kênh phân phối sản phẩm vào thị trường này gồm 2 kênh.
- Bán theo các hiệp định trả nợ hàng hoá được ký kết thông qua Chính phủ giữa nước ta và bạn, sau đó hạn ngạch được phân bổ cho từng doanh nghiệp cho nên số lượng sản phẩm xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào việc đàm phán trả nợ giữa nước ta và bạn.
- Bán theo hình thức liên kết với các lưu học sinh Việt Nam ở nước ngoài, hình thức này đơn giản cả về giao hàng cũng như thanh toán, xong bán hàng theo hình thức này số lượng hàng bán được rất nhỏ.
Tuy nhiên gần đây ngành dệt may Việt Nam nói chung còng nh Công ty dệt Hải Phòng nói riêng bị thu hẹp thị trường ở các nước này mà nguyên nhân chủ yếu do:
+ Các hiệp định trả nợ giữa nước ta với các nước trên được trả bằng các sản phẩm nông, thuỷ sản, tỉ trọng ngành công nghiệp rất thấp.
+ Do không có chính sác bán hàng hợp lý, không cải tiến mẫu mã mặt hàng,... nên bị các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc cạnh tranh.
+ Do cơ chế cũng nh phương thức thanh toán còn phức tạp gây trở ngại cho việc giao nhận hàng hoá và thanh toán tiền hàng.
- Kim ngạch xuất khẩu vào các thị trường này nh sau:
+ Năm 1994 : 100.000 rúp
+ Năm 1997 : 150.000 rúp
+ Năm 1998 : 250.000 rúp
+ Từ năm 1998 - đến nay : kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này không còn nữa.
* Đặc điểm thị trường các nước EU.
Đây là khu vực thị trường rất khó tính, hàng dệt may của các doanh nghiệp dệt Việt Nam muốn thâm nhập vào thị trường này đòi hỏi hàng hoá phải có chất lượng cao, đa dạng về mẫu mã, ngoài ra số lượng hàng dệt may muốn vào thị trường này phải được sự quản lý giám sát của EU thông qua các chính sách quản lý bằng hạn ngạch. Tuy nhiên bù lại hàng bán vào các nước này giá thường cao, phương tức thanh toán thuận tiện. Thực tế qua nhiều năm cho thấy các doanh nghiệp chiếm lĩnh và phát triển ổn định ở thị trường này đều là các doanh nghiệp có công nghệ tiên tiến, sản xuất sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã luôn thay đổi phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này qua các năm rất khiêm tốn do sản phẩm của Công ty chưa đáp ứng được chất lượng cũng nh công tác Marketing kém. Trung bình kim ngạch xuất khẩu của thị trường này chỉ đạt » 8% tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty.
* Thị trường Mỹ.
Mỹ là thị trường tiêu thụ giàu có nhất thế giới nên có một sản phẩm tốt với giá cạnh tranh muốn bán vào thị trường này là điều không phải dễ dàng vì đây là thị trường khổng lồ có nhiều đối thủ cạnh tranh cũng đang cố gắng thâm nhập và bán sản phẩm của họ. Đối với sản phẩm dệt thì đây là một thị trường rộng lớn đầy hứa hẹn bởi vì đây là một thị trường tiêu thụ sản phẩm dệt may rất lớn mà ngành này ở đây không đáp ứng được nhu cầu, đối với loại thị trường này các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng xâm nhập được. Tuy nhiên hiện nay do giữa ta và Mỹ chưa có hiệp định thương mại nên trong lúc này doanh nghiệp cũng cần nghiên cứu, tiếp thị và tìm hiểu luật pháp của nước này trước khi đưa sản phẩm vào tham gia cạnh tranh. Tuy nhiên hiện nay mới ở mức độ cử cán bộ đi thâm nhập thị trường.
* Thị trường Nhật.
Đây là thị trường không hạn ngạch rất lớn với 124 triệu dân, GNP đạt 4.600 tỷ đô la Mỹ năm 1994, Nhật Bản là thị trường tiêu dùng lớn thứ hai trên thế giới chỉ đứng sau Mỹ và cũng là một nước nhập khẩu lớn, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này chiếm 87% tổng kim ngạch của Công ty. Gần đây, nguồn nhập khẩu của Nhật tập trung chủ yếu là từ các nước đang phát triển hơn là những nước công nghiệp. Riêng đối với các sản phẩm hàng dệt may sản xuất trong nước không được chú trọng như các ngành công nghiệp khác mà nhu cầu tiêu dùng trong nước lại rất lớn, qua theo dõi tổng kết của Tổng Công ty dệt may Việt Nam (VINATEX) thì riêng sản phẩm khăn tay bông của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản chiếm hơn 60% kim ngạch của sản phẩm này xuất sang các nước khác.
Chính vì mức độ tiêu dùng lớn nh vậy lại là thị trường không hạn ngạch nên các doanh nghiệp cũng cần có một chiến lược phát triển ổn định và bền vững đối với thị trường này.
3.2. Lựa chọn mặt hàng xuất nhập khẩu
Là doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp thì việc tìm hiểu, nghiên cứu nhu cầu sản phẩm là việc quan trọng, do vậy doanh nghiệp phải chủ động trong chương trình hoạt động, chủ động thích nghi với bối cảnh và điều kiện thị trường thường xuyên thay đổi. Để tồn tại và phát triển lâu dài trên thị trường, doanh nghiệp phải biết lựa chọn sản phẩm để xuất khẩu và tổ chức sản xuất, có nghĩa là phải có chiến lược kinh doanh xuất khẩu của mình. Bởi vì việc lựa chọn sản phẩm để thực hiện xuất khẩu là tìm phương hướng kinh doanh của doanh nghiệp và có giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu đề ra để tồn tại và phát triển.
Trong những năm gần đây, Công ty xuất khẩu sản phẩm chủ yếu là khăn tắm (cỡ 50 x 100 và 70 x 140) do Liên Xô và các nước XHCN theo hiệp định ký kết giữa các Nhà nước. Từ năm 1994 đến nay do có biện pháp lựa chọn sản phẩm kỹ lưỡng mà số lượng sản phẩm xuất khẩu của Công ty phần lớn là các loại khăn ăn cỡ 28 x 28, 29 x 31, các loại khăn tắm 50 x 100, 70 x 140 vẫn được xuất sang Hungari, Tiệp Khắc nhưng số lượng Ýt. Từ năm 1997 Công ty đã lựa chọn và cho sản xuất các loại khăn ăn, tẩy sau nh 80-1, 100-1, 120-1... có độ mịn, dày, mềm mại. Có thời gian sử dụng được lâu và mặt hàng này được khách hàng nước ngoài chấp nhận. Do đó hiện nay doanh thu và lợi nhận của Công ty chủ yếu do các mặt hàng này đem lại. Công ty đã tổ chức sản xuất ba ca liên tục đáp ứng đủ nhu cầu của khách hàng mang lại lợi nhuận lớn cho Công ty, phát huy được công suất máy móc, công nghệ với chất lượng tốt nhất.
3.3. Tình hình xuất nhập khẩu và ảnh hưởng của thị trường trong và ngoài nước.
Qua tìm hiểu từ năm 1997 đến nay ta thấy tình hình xuất nhập khẩu của công ty dệt Hải Phòng có một số cơ cấu thay đổi như sau:
Từ năm 1997 trở về trước Công ty phần lớn nhập khẩu nguyên vật liệu nh sợi Ne 20/1, hoá chất tẩy nhuộm, chất hồ sợi (Bevaloil 4168, Bevaloil 4118, Bensop. Vevetol, H202 ...). Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là sang các nước Đông Âu theo kế hoạch hàng trả nợ được ký giữa Chính phủ ta và nước bạn hoặc xuất uỷ thác qua các Tổng Công ty VinaTex, tocontap... với số lượng và doanh thu rất khiêm tốn 2 tỷ VND, chủ yếu là các loại khăn tắm 50x100, 70x140, 60x120 được dệt theo quy trình công nghệ tẩy trước chất lượng không cao, do đó sản phẩm của Công ty cũng không chiếm lĩnh được thị trường một số khắt khe như Nhật, EU... Nhận thức được vấn đề này cuối năm 1997, lãnh đạo Công ty đã mạnh dạn đầu tư chiều sâu một số máy móc thiết bị hiện đại của Ba Lan, Đài Loan, Trung Quốc có công nghệ tiên tiến để có thể dệt được các loại khăn có chất lượng cao, mềm mại hợp thị hiếu người tiêu dùng bao gồm các máy: 2 máy nhuộm BCBA của Ba Lan, 2 máy nhuộm cao cấp của Đài Loan, 1 máy xén bông, 1 máy hồ, 1 máy sấy của Trung Quốc, 20 đầu Rubi dệt Jắc ka của Trung Quốc.
Thực tế cho thấy việc đầu tư của lãnh đạo Công ty hoàn toàn đúng đắn, kết quả năm 1998 doanh thu của Công ty đạt và các năm tiếp theo doanh thu bao giờ cũng cao hơn năm trước.
Biểu 3: Kết quả sản phẩm xuất khẩu
NĂM
1999
2000
2001
TÊN SẢN PHẨM
Số lượng
Giá trị
Số lượng
Giá trị
Số lượng
Giá trị
10-1 (300g/tá)
4.520
5.469.000
4.670
5.650.500
6200
7.495.800
20-1 (375g/tá)
4.000
4.840.000
4.200
4.920.000
5.530
6.690.000
20-1 (450g/tá)
384
718.000
630
1.178.000
450
840.400
40-1 (525g/tá)
352
748.000
300
638.000
470
998.000
Tổng cộng
11.572.000
12.386.500
16.025.200
(Báo cáo tổng kết hoạt động xuất khẩu của Công ty)
Biểu 4: So sánh doanh thu xuất khẩu qua mộtsố năm.
Tỷ đồng.
(Báo cáo tổng kết qua các năm)
IV-/ Đánh gía chung tình hình xuất khẩu của công ty dệt Hải Phòng.
- Qua một thời gian tìm hiểu công tác xuất khẩu tại công ty Dệt ta thấy một số điểm mạnh yếu trong việc xuất khẩu tại Công ty dệt nh sau:
Ưu điểm: Sau một thời gian Nhà nước không bao tiêu sản phẩm bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường, từ năm 1997 trở về trước, Công ty hết sức lúng túng không tìm được thị trường đầu ra, nhất là xuất khẩu còn nhỏ bé không tương xứng với tiềm năng. Nhưng từ năm 1998 do có sự đầu tư đúng hướng với quy trình công nghệ tiên tiến, sản phẩm của công ty có một sự đột biến rất lớn về chất lượng mẫu mã (trước đây không sản xuất được do máy móc thiết bị thiếu đồng bộ) làm cho sản phẩm có giá trị cao, mẫu mã đẹp, kết hợp với việc tổ chức lại bộ máy tổ chức quản lý các phòng ban có tác động tích cực đến công tác xuất khẩu, vì thế mà doanh thu xuất khẩu các năm 1998, 1999, 2000, 2001 có những nhảy vọt đáng kể (xem biểu 2).
Như vậy từ một doanh nghiệp sản xuất yếu kém trong Sở Công nghiệp Hải Phòng (từ trước 1994) cho đến nay Công ty đã từng bước đứng vững và lớn mạnh trên thương trường, làm ăn có lãi, sản phẩm xuất khẩu ngày càng nhiều chiếm phần lớn doanh thu của công ty. Có được thành tích này là do sự lãnh đạo quản lý của tập thể cán bộ công nhân viên, sự đoàn kết nhất trí, sự cố gắng nỗ lực vươn lên tìm tòi, tìm ra được một biện pháp sản xuất, xuất khẩu hợp lý.
Một số nhược điểm: Mặc dù có những thành tích đáng kể trong sản xuất kinh doanh, nhất là trong việc xuất khẩu hàng hoá. Song công ty có một số nhược điểm: Mặc dù trong năm 2001, lãnh đạo công ty đã mạnh dạn đầu tư chiều sâu về máy móc thiết bị (2 tỷ VNĐ) nhưng đây vẫn chưa phải là dây chuyền tiên tiến nhất. Với một số máy của Trung Quốc (như máy hồ G142C, máy sấy, máy xén bông) trong quá trình sản xuất vốn có một số nhược điểm, một số phụ tùng máy dễ hỏng, ngoài ra công ty còn chưa có máy dệt Jăcka nên một số mặt hàng khách nước ngoài yêu cầu chưa đáp ứng được.
- Phần lớn máy móc thiết bị của công ty đều đã cũ, lạc hậu (máy dệt ATM của Liên Xô cũ, máy mắc, đảo xe của Trung Quốc từ năm 1968) nên năng suất không cao, hao phí vật tư còn lớn, sản phẩm phế phẩm còn nhiều chiếm xấp xỉ 5%.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác kỹ thuật thiếu nên còn lúng túng trong cải tiến mẫu mã, cũng nh xử lý các sự cố hỏng hóc của máy móc.
- Điều nữa là công ty chưa hoạch định được một chiến lược xuất khẩu thích hợp với từng loại thị trường cho từng thời kỳ, mặc dù đã có sự quan tâm nhất định đến công tác nghiên cứu thị trường nhưng công ty lại thiếu chiến lược xuất khẩu. Việc tháo gỡ được những vướng mắc trên sẽ đẩy mạnh công tác xuất khẩu của công ty ngày một hiệu quả.
Chương III
Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả xuất nhập khẩu
I-/ Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu tại công ty dệt:
1-/ Nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm:
Chất lượng sản phẩm xác định được hoặc so sánh được phù hợp với những điều kiện nhất định và thoả mãn được nhu cầu của xã hội. Một trong những yêu cầu của người tiêu dùng là sản phẩm có chất lượng tốt, không nh trước đây, người tiêu dùng chỉ coi trọng số lượng trên hết. Cùng với chất lượng tốt, sản phẩm còn phải phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng và những yêu cầu ngày càng khắt khe, tỉ mỉ hơn do mức sống người dân không ngừng nâng cao. Người tiêu dùng đòi hỏi không những bền đẹp, mà còn giá cả hợp lý, do đó công ty cần áp dụng mọi biện pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm, không ngừng cải tiến kỹ thuật để có thể cạnh tranh với các công ty khác về chất lượng sản phẩm, đẩy mạnh công tác xuất khẩu. Bởi vì chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố nh máy móc thiết bị, phương pháp công nghệ, trình độ tay nghề người lao động, trình độ quản lý. Nâng cao chất lượng sản phẩm không chỉ có ý nghĩa tương đương với việc tăng số lượng sản phẩm mà còn có ý nghĩa về mặt tiết kiệm chi phí lao động. Đặc biệt nếu sản phẩm có chất lượng cao sẽ tăng uy tín của công ty với khách hàng nước ngoài. Chất lượng hàng hoá nhất là mặt hàng khăn ăn xuất khẩu của công ty phải chú trọng tới việc xây dựng những tiêu chuẩn thống nhất trên cơ sở nắm được cụ thể các đặc điểm tính chất và giá trị sử dụng của chúng. Việc xây dựng tiêu chuẩn cũng cần dựa trên chất lượng hàng hoá này của các nước có trình độ sản xuất tiên tiến, có như vậy mới đủ sức cạnh tranh trên thị trường nước ngoài.
Năm 1998, mặc dù đã có nhiều cố gắng nâng cao chất lượng sản phẩm nhưng chưa mang lại hiệu quả cao, chất lượng sản phẩm chưa đủ yêu cầu là một trong những nguyên nhân khiến xuất khẩu chưa đạt được chỉ tiêu đề ra. Khi xét chất lượng sản phẩm không chỉ xét một đặc tính riêng lẻ mà phải xét trong một hệ thống các đặc tính tồn tại của sản phẩm.
Thực tế cho thấy cùng với chất lượng sản phẩm, kiểu dáng mẫu mã sản phẩm được đa dạng hoá cũng là yếu tố quan trọng thúc đẩy việc xuất khẩu được tăng nhanh hoàn thiện và đổi mới sản phẩm xuất khầu là rất cần thiết vì các sản phẩm đều có một chu kỳ sống vì sản phẩm đó đã lỗi thời của sự tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Hiện nay với sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, các sản phẩm cũng sẽ nhanh chóng trở nên lỗi thời. Bởi vậy, muốn chiến thắng đối thủ cạnh tranh trên thị trường công ty phải luôn cải tiến đa dạng kiểu dáng mẫu mã và điều đó được gắn với việc tìm mua công nghệ đã trở thành một yêu cầu bức xúc hiện nay, đảm bảo sản phẩm sản xuất ra đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
Điểm mấu chốt của chính sách này là công ty phải đảm bảo lúc nào cũng có nhiều sản phẩm mới hoặc được gọi là mới để khi thị trường trì trệ là chiến lược tung ra ngay, sản phẩm của công ty bán ra thị trường được phát triển theo 2 hướng:
- Thứ nhất, làm cho sản phẩm được khách hàng chấp nhận, cải tiến sao cho phù hợp với sở thích của khách hàng.
- Thứ hai, tạo cho sản phẩm có những đặc tính riêng để làm cho sản phẩm nổi bật so với các sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh hoặc tạo ra các giá trị tăng thêm làm cơ sở để quảng cáo, bán hàng và phát triển sản phẩm. Một điều cần chú ý là kiểu dáng mẫu mã mà sản phẩm xuất khẩu có thể được coi là đẹp, thích hợp với thị trường này nhưng lại không phù hợp với tập quán truyền thống ở thị trường khác, nên phải chú ý mỗi sản phẩm chỉ thích hợp với một thị trường nhất định.
Để thực hiện chính sách đổi mới sản phẩm, Công ty phải đầu tư thích đáng vào kỹ thuật công nghệ, chú trọng công tác nghiên cứu thị trường. Các bộ phận này phải kết hợp chặt chẽ với bộ phận sản xuất, họ phải cải tiến, phải phát triển đúng từng loại sản phẩm cho từng thị trường cụ thể, phải thiết kế được những kiểu dáng mới đẹp.
2-/ Hạ giá thành sản phẩm.
Cùng với việc nâng cao chất lượng hàng hoá với mẫu mã kiểu dáng bền đẹp cũng chưa đủ để tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh thì Công ty phải giảm được giá bán sản phẩm, muốn thế Công ty phải thực hiện các biện pháp sau:
2.1- Khai thác tốt nguồn nguyên liệu đầu vào.
Giá thành sản phẩm khăn tay bông của Công ty phải điều tra nghiên cứu cho thấy tỷ trọng nguyên vật liệu chiếm tới gần 90% giá thành nên nếu khai thác tốt nguồn nguyên liệu đầu vào sẽ góp phần làm giảm giá thành sản phẩm. Ví dụ: nguồn nguyên liệu chính của Công ty là sợi do hai nguồn cung cấp chính là sợi của các nhà máy trong nước sản xuất như Nhà máy sợi Nha Trang, Huế, Hà Nội, Nam Định... và nguồn sợi nhập ngoại, giá của sợi nội địa và sợi nhập ngoại có những lúc ổn định song có những lúc lại rất chênh lệch tương đối lớn do tỷ giá giữa đồng Việt Nam và USD.
2.2- Giảm chi phí sản xuất, chi phí lưu thông.
Giảm chi phí quản lý, chi phí sản xuất là giảm cả chi phí trực tiếp lẫn chi phí gián tiếp có tác động tích cực đến việc hạ giá thành sản phẩm (hay chi phí xuất khẩu). Đó là những chi phí phục vụ sản xuất và chi phí bán hàng bằng cách tính giảm biên chế bộ máy quản lý giảm bớt khâu tiêu thụ trung gian như các Tổng công ty hay các doanh nghiệp ủy thác xuất khẩu khác.
2.3- Giảm định mức tiêu hao nguyên vật liệu.
Trong mọi doanh nghiệp sản xuất định mức hao phí vật tư sản phẩm luôn luôn là nội dung quan trọng của công tác quản lý, một định mức đúng sẽ là căn cứ cấp phát hợp lý, là cơ sở hạch toán giá thành sản phẩm được chính xác. Có hai phương pháp để giảm định mức tiêu hao vật tư:
+ Giảm định mức tiêu hao nguyên vật liệu cụ thể cho từng sản phẩm, phương pháp này trong quá trình thực hiện nên áp dụng bằng cách tiết kiệm tránh lãng phí vật tư. Chẳng hạn khi hồ một trục sợi mới hiện nay Công ty phải mất 10 mét sợi đầu bị loại bỏ (mỗi trục sợi khoảng vài trục ngàn sợi), để tránh hiện tượng này đề nghị Công ty nên bố trí các cặp hồ được liên tục sẽ không bị mất số sợi trên, hoặc khi lên máy dệt một loại sản phẩm mới (thay sản phẩm này bằng sản phẩm khác) thông thường bị mất đi khoảng 3 kg sợi đầu mảnh (sợi không ra sản phẩm). Để khắc phục tình trạng này nên bố trí các máy dệt hợp lý, mỗi máy dệt một loại sản phẩm ổn định, không nê thay đổi nhiều (3 kg sợi x 40.000đ/kg = 120.000đ).
+ Giảm tỷ lệ phế phẩm:
Giảm tỷ lệ phế phẩm cũng là biện pháp giảm hao phí nguyên vật liệu, để làm tốt công tác này đòi hỏi Công ty phải có một đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, quản lý sử dụng máy tốt (thường xuyên phải bảo dưỡng máy).
* Tăng năng suất lao động và sử dụng máy móc thiết bị có hiệu quả.
Năng suất lao động (NSLĐ) và năng suất máy móc thiết bị ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm, NSLĐ là thước đo việc sử dụng quản lý lao động và thiết bị máy móc có hiệu quả không. Qua thống kê các năm 1993 - 1997 cho thấy Công ty mới chỉ sử dụng hết 40% công suất máy móc, cho đến nay thì Công ty đã vươn lên khá hơn song riêng máy dệt cũng mới phát huy được 80% công suất máy móc NSLĐ của công nhân so với một số Công ty như Hà Đông, dệt Minh Khai chỉ bằng 93%. Nh vậy trong thời gian tới Công ty cần có biện pháp cụ thể để nâng cao NSLĐ cũng nh máy móc thiết bị bằng cách:
+ Thường xuyên tổ chức công tác đào tạo lại tay nghề, công tác thi thợ giỏi...
+ Tận dụng hết công suất máy hợp lý.
3-/ Tăng vòng quay của vốn:
Vốn sản xuất trong doanh nghiệp bao gồm hai loại là vốn cố định và vốn lưu động, tỷ trọng của hai loại vốn này tuỳ thuộc vào độ dài của chu kỳ sản xuất, trình độ trang thiết bị... Nhiệm vụ của Công ty là làm sao xác định một cơ cấu vốn hợp lý, sử dụng vốn một cách chặt chẽ, tiết kiệm đúng mục đích sẽ làm tăng vòng quay của vốn, giảm được các khoản phải trả tiền lãi do vốn vay. Muốn vậy Công ty nên thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
+ Chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật tài chính của Nhà nước trong việc bảo toàn và phát triển vốn.
+ Có biện pháp dự trữ vật tư nguyên vật liệu đầu vào tốt (không để vật tư ứ đọng nhiều) vừa đủ để sản xuất được diễn ra liên tục, thường xuyên.
+ Hạn chế tối đa các khoản nợ của khách hàng, tranh thủ mua nguyên vật liệu theo phương thức trả chậm.
+ Tăng NSLĐ sử dụng tối đa công suất máy móc thiết bị, tổ chức hợp lý hoá sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng máy nhằm rút ngắn chu kỳ sản xuất.
+ ở khâu tiêu thụ: tăng cường việc tiêu thụ sản phẩm bằng việc mở rộng thị trường có chính sách tiêu thụ sản phẩm hợp lý, tránh ứ đọng sản phẩm trong kho.
4-/ Ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất sẽ tạo cơ sở khoa học cho sự định hướng và quy hoạch phát triển sản xuất nâng cao NSLĐ:
Việc ứng dụng này có thể tác động tốt tới quá trình tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu, công việc này đòi hỏi phải đầu tư đúng mới mang lại hiệu quả cao. Qua phân tích nguồn vốn và vốn của Công ty cho thấy phần lớn vốn của Công ty được hình thành từ các nguồn vốn vay dài hạn và ngắn hạn vì vậy việc đầu tư máy móc áp dụng TBCN phải sao cho với số vốn phù hợp nhưng dây chuyền công nghệ phải tiên tiến, muốn thế khi đầu tư mua sắm thiết bị nên chọn thiết bị máy chính (máy cái) tiên tiến các máy phụ (máy hỗ trợ) phù hợp, có chọn lọc mới tạo được bước phát triển nhảy vọt về chất lượng và mẫu mã sản phẩm, góp phần tích cực nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
II-/ ý kiến về việc tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp.
Đối với Công ty dệt Hải Phòng để trong các năm tới có mặt hàng xuất khẩu đứng vững trên thị trường đòi hỏi phải có sự nỗ lực lớn từ phía doanh nghiệp song cũng cần có sự hỗ trợ của toàn ngành cũng nh của Nhà nước.
1-/ Cần khắc phục hiện trạng không kiểm soát được nguồn tài liệu thông tin của ngành dệt.
Trong ngành dệt hiện nay có một số lượng lớn tài liệu quý nằm tản nát ở nhiều nơi (về khoa học công nghệ, quản lý kinh tế...) mà người cần dùng thông tin không biết được tài liệu này đang nằm ở vị trí nào, đó là chưa kể có những tài liệu đang “nằm ngủ” mà ngành chưa quy tập lại được một cách có tổ chức và xây dựng thành kho chuyên ngành phục vụ cho các doanh nghiệp trong ngành, cho nên ngành nên tổ chức các đầu mối lưu giữ tài liệu thông qua hội nghị, hội thảo nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp nhận được các thông tin nhanh chóng và chính xác.
2-/ Tạo lợi thế cạnh tranh của các sản phẩm trong toàn ngành.
Tổng Công ty dệt may Việt Nam nên có hướng cho các doanh nghiệp xác định cơ cấu sản phẩm mặt hàng nào xuất khẩu có giá trị cao đem lại hiệu quả kinh tế.
Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và Tổng Công ty bằng cách cải cách triệt để bộ máy tổ chức quản lý, tổ chức kinh doanh nhằm giảm chi phí trung gian gián tiếp.
Hướng mạnh thị trường xuất khẩu nhưng phải coi trọng thị trường trong nước. Mặc dù hiện nay đời sống của nhân dân chưa cao, song mức tiêu thụ sản phẩm dệt ngày càng phong phó, do vậy cần coi trọng thị trường nội địa.
3-/ Nhà nước phải tạo môi trường, hành lang pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu.
Hệ thống các văn bản pháp lý quy định đảm bảo được tính đồng bộ nhất trong việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng ổn định, lâu dài cho các Công ty chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, khuyến khích xuất khẩu một mặt hàng nào đó. Việc khuyến khích xuất khẩu trực tiếp và khuyến khích đầu tư sản xuất xuất khẩu ở nước ta hiện nay chỉ mới nhìn đến các doanh nghiệp có sản xuất trực tiếp hàng xuất khẩu và doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong thực tế còn vô số doanh nghiệp vừa và nhỏ làm nhiệm vụ cung ứng vật liệu đầu vào hoặc bán thành phẩm nhưng không được hưởng những ưu đãi, vì thế Nhà nước cần xem xét và có những chính sách khuyến khích đối với những doanh nghiệp này. Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu trên thực tế, công tác quản lý xuất khẩu của Nhà nước còn một số mặt bất cập với diễn biến của hoạt động xuất nhập khẩu nhiều khi còn không Ýt thiếu sót và nhược điểm cần phải tìm cách khắc phục và giải quyết. Về lâu dài các quy định về quản lý xuất khẩu hiện hành phải được bổ sung, sửa đổi tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu phát triển thuận lợi. Hiện nay ở Việt Nam thủ tục xuất khẩu vẫn còn rườm rà, phức tạp gây lãng phí thời gian, công sức cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong vấn đề làm thủ tục xuất khẩu. Các cơ quan quản lý xuất khẩu nhiều khi tá ra quan liêu cửa quyền, tiêu cực, phiền hà, gây khó dễ cho các doanh nghiệp. Vì thế trong công cuộc cải cách thủ tục hành chính Việt Nam cần phải đặc biệt chú trọng đến cải cách các hoạt động xuất nhập khẩu, từng bước bãi bỏ các thủ tục, cấp giấy phép xuấxuất khẩu trong vấn đề làm thủ tục xuất khẩu. Các cơ quan quản lý xuất khẩu nhiều khi tá ra quan liêu cửa quyền, tiêu cực, phiền hà, gây khó dễ cho các doanh nghiệp. Vì thế trong công cuộc cải cách thủ tục hành chính Việt Nam cần phải đặc biệt chú trọng đến cải cách các hoạt động xuất nhập khẩu, từng bước bãi bỏ các thủ tục, cấp giấy phép xuấxuất khẩu trong vấn đề làm thủ tục xuất khẩu. Các cơ quan quản lý xuất khẩu nhiều khi tá ra quan liêu cửa quyền, tiêu cực, phiền hà, gây khó dễ cho các doanh nghiệp. Vì thế trong công cuộc cải cách thủ tục hành chính Việt Nam cần phải đặc biệt chú trọng đến cải cách các hoạt động xuất nhập khẩu, từng bước bãi bỏ các thủ tục, cấp giấy phép xuất nhập khẩu hàng hoá theo từng chuyến, rút ngắn thời gian chờ đợi để cấp giấy phép. Đối với các mặt hàng hạn ngạch, Nhà nước nên áp dụng đấu thầu để tránh hiện tượng tiêu cực, đem lại sự công bằng cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, trước mắt khi chưa được hình thức này vào áp dụng, cơ quan quản lý Nhà nước mà trực tiếp là Bộ Thương Mại phải lựa chọn ra các doanh nghiệp đáng tin cậy để giao hạn ngạch.
4-/ Chính sách ưu đãi về vốn, tín dụng.
Cần phải có chính sách khuyến khích đầu tư trong nước cho việc sản xuất hàng xuất khẩu. Việc khuyến khích này có thể thông qua hoặc giảm miễn thuế, thông qua chính sách tạo nguồn vốn, thông qua chính sách tín dụng. Hiện nay các ngân hàng còn diễn ra tình trạng ứ đọng vốn, nhưng các doanh nghiệp sản xuất nói chung khó đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe khác về tài sản thế chấp, thủ tục cho vay vốn, nên rất khó tiếp cận với nguồn vốn này, thời gian tới Nhà nước cần phải đưa ra những biện pháp khuyến khích các ngân hàng cho vay để sản xuất hàng xuất khẩu.
* Tóm lại: Nhà nước phải đóng vai trò tích cực hơn nữa trong việc phối hợp với các doanh nghiệp, giải quyết được những khó khăn ở tầm vĩ mô, qua đó tạo điều kiện cho họ tiếp cận thị trường, giới thiệu hàng hoá của mình cho khách hàng nước ngoài.
Cùng với việc mở rộng các quan hệ song phương, tham gia ký kết các hiệp định thương mại, Nhà nước cần phải từng bước tham gia vào các mối quan hệ đa chiều của khu vực và trên thế giới theo phương thức đa dạng hoá các quan hệ thương mại. Trước mắt Việt Nam còn phải tích cực phấn đấu để trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), nhằm từng bước tạo ra thị trường ổn định, định hướng đúng đắn cho các nhà sản xuất, kinh doanh trong nước.
Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại và cung cấp thông tin về thị trường khăn mặt trên thế giới cho các doanh nghiệp. Hoạt động trên lĩnh vực này, có thể nói thị trường khăn mặt thế giới là một thị trường biến động khá phức tạp. Nhưng ở Việt Nam thông tin về thị trường này còn thiếu và chậm, độ chính xác còn chưa cao, cho nên thời gian tới Nhà nước cngx như các Bọ có liên quan đặc biệt chú ý đến công tác nghiên cứu, khảo sát thị trường Thế giới đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp có cơ hội thăm dò tìm kiếm thị trường.
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1 136.doc