Một số giải pháp góp phần hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu tại Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu Tổng cục Hải quan

Lời mởđầu Phát triển và hội nhập là một trong những xu thế lớn của thời đại. Ngày nay, khu vực hoá, quốc tế hoá, tham gia vào các liên minh kinh tế Quốc tế là xu thế phát triển kinh tế khách quan của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Không một quốc gia nào có thể tồn tại độc lập trong khuôn khổ một nền kinh tế khép kín, tự cung, tự cấp như trước đây. Sự luân chuyển của các nguồn lực kinh tế bị bó hẹp, hạn chế trong biên giới quốc gia và sự kiểm soát của các chính sách điều chỉnh kinh tế theo ý chí của Nhà nước làm cho sự phân bố hiệu quả của các nguồn lực kinh tế thế giới bị giảm sút đồng thời tạo nên sự chênh lệch tương đối giữa các quốc gia. Xuất phát từ quan điểm đó tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện chính sách kinh tế “mở cửa”, phát triển nền kinh tế theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, thực hiện phương châm “Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước”. Sau hơn 10 năm thực hiện chính sách đổi mới, hoạt động kinh tế, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư, du lịch phát triển mạnh mẽ. Đểđạt được kết quảđó các cấp, các ngành đã phải hết sức nỗ lực phấn đấu, trong đó phải kể tới đóng góp không nhỏ của ngành Hải quan. Hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu nhằm tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, đảm bảo quản lý thu thuế xuất nhập khẩu, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng, ổn định và bền vững trong thời kỳ phát triển mới của đất nước. Luật Hải quan ra đời đãđánh dấu một bước ngoặt lớn trong cải cách thủ tục Hải quan. Vì vậy việc thực hiện tốt Luật Hải quan và cải cách quy trình thu thuế xuất nhập khẩu sẽ góp phần đưa hoạt động xuất nhập khẩu theo định hướng của Nhà nước. Xuất phát từ nhu cầu thực tế, tầm quan trọng của công tác thu thuế xuất nhập khẩu và sự cần thiết phải cải cách thủ tục Hải quan, kết hợp với những kiến thức lĩnh hội được trong thời gian thực tập tại Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu Tổng cục Hải quan em đã lựa chọn đề tài “Một số giải pháp góp phần hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu tại Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu Tổng cục Hải quan”. Toàn bộ nội dung chính của đề tài bao gồm: Chương I Sự cần thiết phải hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu. Chương II Tổ chức thực hiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu tại Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu Tổng cục Hải quan. Chương III Một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu. Do tính thời sự của đề tài và quy trình thu thuế xuất nhập khẩu mới được sửa đổi, nên các vấn đềđược giải quyết trong đề tài có thể còn một số bất cập, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô, bạn bè và những người quan tâm đểđề tài này hoàn thiện hơn. Mục lục Lời nói đầu 01 Chương 1 Sự cần thiết phải hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu. 03 1.1 Những nhận thức cơ bản về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 03 1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 03 1.1.2 Mục đích của việc đánh thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 03 1.1.3 Vai trò của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường. 04 1.2 Nội dung của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quy trình thu thuế XNK ở nước ta hiện nay. 06 1.2.1 Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam. 06 1.2.2 Nội dung của quy trình thu thuế XNK ở nước ta. 08 1.2.2.1 Nội dung của quy trình thu thuế XNK trước đây. 08 1.2.2.2 Nội dung của quy trình thu thuế XNK hiện nay. 10 1.2.3 Sự cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện quy trình thu thuế XNK. 10 Chương II Tổ chức thực hiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu tại Cục Kiểm tra thu thuế XNK Tổng cục Hải quan. 13 2.1 Cục Kiểm tra thu thuế XNK với công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu. 13 2.1.1 Khái quát về Cục Kiểm tra thu thuế XNK. 13 2.1.2 Vị trí của Cục Kiểm tra thu thuế XNK trong công tác quản lý hoạt động XNK. 14 2.2 Quy trình thu thuế XNK tại Cục Kiểm tra thu thuế XNK. 17 2.2.1 Nội dung của quy trình thu thuế mới theo quyết định số 1494/2001/QĐ-TCHQ và nét đổi mới so với quy trình cũ. 17 2.2.1.1 Nội dung của quy trình. 17 2.2.1.2 Nét đổi mới của quy trình thu thuế XNK theo quy định tạm thời thủ tục Hải quan đối với hàng hoá XNK. (Ban hành kèm theo quyết định số 1494/2001/QĐ-TCHQ của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan) 22 2.2.2 Thực trạng của công tác tổ chức thực hiện quy trình thu thuế XNK theo quyết định số 1494/2001/QĐ-TCHQ tại Cục Kiểm tra thu thuế 24 2.2.3 Những vướng mắc còn tồn tại khi triển khai thực hiện quy trình thu thuế XNK. 28 Chương III Một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu. 34 3.1 Những yêu cầu đặt ra khi hoàn thiện quy trình. 34 3.2 Các kiến nghị và giải pháp. 35 3.2.1 Giải pháp về phía Nhà nước và ngành Hải quan. 35 3.2.1.1 Hệ thống chính sách thuế. 35 3.2.1.2 Các văn bản, các quy định liên quan đến hoạt động XNK. 35 3.2.1.3 Các vấn đề về Luật Hải quan. 36 3.2.1.4 Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các cấp có liên quan. 36 3.2.2 Kiện toàn bộ máy tổ chức, quy trình nghiệp vụ vàđào tạo cán bộ tại Cục Kiểm tra thu thuế XNK Tổng cục Hải quan. 37 3.2.2.1 Về mặt tổ chức. 37 3.2.2.2 Bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ Hải quan. 37 3.2.2.3 Củng cố các khâu nghiệp vụ. 38 3.2.3 Giải pháp về phía các doanh nghiệp xuất nhập khẩu 38 3.2.4 Các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện quy trình thu thuế XNK trong thời gian tới. 38 Kết luận 44 Danh mục tài liệu tham khảo 45

docx48 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2314 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp góp phần hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu tại Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu Tổng cục Hải quan, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a doanh nghiệp làm thủ tục hải quan. Cục KTTT XNK cũng đã tổ chức hội nghị họp bàn để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trực tiếp đưa ra kiến nghị vướng mắc trong quá trình thực hiện cơ chế thu thuế mới nhằm giải đáp kịp thời những thắc mắc trên và tăng cường mối quan hệ giữa Hải quan và doanh nghiệp. Để nắm bắt tình hình thực tế công tác thực hiện quy trình thu thuế mới tại các cửa khẩu và các điểm thông quan, lãnh đạo Cục thường xuyên tổ chức kiểm tra việc thực hiện luật thuế và cơ chế thu thuế mới. Việc áp dụng quy trình thu thuế mới, nhất là việc doanh nghiệp tự tính thuế, nộp thuế đã giảm một khối lượng công việc đáng kể cho cán bộ thu thuế, tạo điều kiện cho cán bộ nâng cao trình độ nghiệp vụ và tăng cường vai trò là người giám sát quản lý trong việc thực hiện các Luật thuế. Ngay từ đầu năm, những mặt hàng như dầu thô, dệt may, thuỷ sản, điện tử-máy tính, gạo, thủ công mỹ nghệ, rau quả, hạt điều đã phát huy vai trò là mặt hàng chủ đạo. Nếu nhìn lại so với năm trước thì 4 mặt hàng chủ đạo khác đã bị giảm sút đáng kể. Đó là những mặt hàng giày dép giảm 31%, cà phê giảm 18,4% về lượng và giảm 60% về giá trị, cao su giảm 10,7% về lượng và 17,6% về giá trị, hạt tiêu giảm 10,7% về lượng và 9,1% về giá trị. Mặt hàng nhập khẩu cao nhất là máy móc, thiết bị và các loại phụ tùng trị giá 39.400.125 USD, mặt hàng xăng dầu nhập khẩu 254.795 tấn (luỹ kế 1.209.451 tấn) với trị giá là 38.706.575 USD. Mặt hàng xuất khẩu cao nhất là dầu thô với số lượng 41.113.815 USD. Tiếp theo là giày dép các loại trị giá 11.890.219 USD luỹ kế 248.657.821 USD. (Phụ lục số 2) Sở dĩ có sự thay đổi này là do Nhà nước hạn chế nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng trong nước đã sản xuất được; do việc nâng cao tỉ lệ nội địa hóa trong một số đơn vị sản xuất, hạn chế việc nhập siêu; do Nhà nước hạn chế xuất khẩu một số mặt hàng như nguyên liệu thô...; ngoài ra “ dư âm” của sự kiện 11/9/2001 vẫn còn ảnh hưởng tới tình hình tài chính và thông thương hàng hoá của các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu... Trong 2 tháng đầu năm 2002, Cục KTTT XNK cũng đã phối hợp với các cơ quan, ban ngành cùng triển khai quy trình thu thuế theo Quyết định 1494 và đạt được những kết quả tương đối khả quan. Kết quả thu được không những bằng mà còn nhỉnh hơn cùng kỳ năm trước. Mặc dù kim ngạch XK của doanh nghiệp trong nước giảm nhẹ nhưng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) tăng 1,8%. Riêng dầu thô XK tăng 14,5% về lượng và 37,8% về giá trị. Tính chung, xuất khẩu của cả nước tăng 0,6% so với cùng kỳ năm 2001. Bên cạnh đó, toàn ngành Hải quan đã làm thủ tục cho lượng hàng hoá XNK đạt hơn 3.500 triệu USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 1.575 triệu USD tuy giảm 18% so với cùng kỳ năm 2001 nhưng không đáng kể, kim ngạch nhập khẩu đạt 1.973 triệu USD, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2001. Tính đến 28/2/2002, ngành Hải quan đã thu ngân sách đạt 5.036 tỉ đồng, đạt 8,44% kế hoạch cả năm và tăng 19,7% so với cùng kỳ năm 2001. Trong đó thu thuế XNK và TTĐB là 2.851 tỉ đồng, thuế VAT là 2.150 tỉ đồng. Có thể so sánh sự chênh lệch của số thu thuế xuất khẩu và nhập khẩu qua biểu sau. (Biểu 3) Biểu 3: Tình hình XNK 2 tháng đầu năm 2002 Đơn vị triệu USD STT Loại thuế Số thu trong tháng 2 Chênh lệch so với cùng kỳ năm trước 1 Xuất khẩu - Khu vực trong nước - Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 2.092 1.121 908 -9,2% -3% -15,8% 2 Nhập khẩu - Khu vực trong nước - Khu vức có vốn đầu tư nước ngoài 2.391 1.728 663 +5,8% +9,1% -1,9% Với sự phấn đấu nỗ lực của toàn ngành Hải quan nên số thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhờ đó mà ngày càng tăng. Tại các địa bàn, nơi Cục KTTT XNK phối hợp phụ trách, ngay từ những ngày đầu năm đã đồng loạt ra quân thực hiện tốt nhiệm vụ đề ra. Các cán bộ, công chức Hải quan đã ngày đêm có mặt tại các cửa khẩu biên giới, các hải đội tích cực hoạt động tuần tra, kiểm soát. Tại Cục Hải quan TP. HCM: trong những ngày làm việc đầu tiên, lượng tờ khai hàng hoá xuất nhập khẩu đăng ký làm thủ tục tại các cửa khẩu đã lên tới trên 1000. Các Chi cục luôn túc trực đảm bảo quân số giải phóng hàng ngay trong ngày, không để các doanh nghiệp phải chờ đợi đến ngày hôm sau. Tại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực I lượng hàng hoá xuất, nhập những ngày đầu năm tăng gần 30% so với cùng kỳ năm ngoái. Số thu trong tháng 1 và 15 ngày đầu tháng 2 đạt trên 3.000 tỉ đồng, cao nhất từ trước đến nay. Qua thực hiện quy trình mới theo Luật Hải quan, mỗi cán bộ công chức hải quan đã xác định rõ trách nhiệm, giảm phiền hà cho doanh nghiệp và đảm bảo yêu cầu công tác quản lý nghiệp vụ, thực hiện thu đúng, thu đủ, chống thất thu thuế đồng thời tính ưu việt của quy trình đã giúp Cục phát hiện trên 30 vụ vi phạm quy trình, thủ tục và trốn thuế trong những ngày đầu năm. Tại Chi cục Hải quan cửa khẩu Sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất, các đội giám sát hành lý xuất nhập đã được tăng cường tối đa, đảm bảo thực hiện đúng yêu cầu nhân lực của quy trình, làm việc 24/24 giờ, không để xảy ra ách tắc cho hành khách đi lại. Nhờ nghiêm túc thực hiện đúng nội dung yêu cầu của quy trình, đặc biệt là công tác kiểm tra thực tế hàng hoá xuất nhập khẩu, Cục đã phát lý 12 vụ vi phạm, điển hình có các vụ ông Trần Văn Minh, quốc tịch Việt Nam hiện xử lý trên 30 vụ, trong đó chỉ riêng các ngày 16-18/2 đã lập biên bản và xử không khai báo 20 nghìn USD; ông Đặng Phước Hiền không khai báo 365 đĩa VCD có chương trình... Việc quản lý tốt quá trình thực hiện quy trình thu thuế mới của Cục KTTT còn được thể hiện ở những con số tích cực khác. Như tại Cục Hải quan Quảng Ninh, trong 19 ngày đầu năm đã làm thủ tục cho lượng hàng hoá XNK mậu dịch đạt kim ngạch khoảng 7,2 triệu USD, phát hiện và lập biên bản 6 vụ vi phạm pháp luật trị giá ước tính khoảng 66 triệu đồng. Tính từ ngày 6 đến 17/2/2002, Cục Hải quan Quảng Ninh đã thu ngân sách khoảng 108,8 triệu đồng. Tại Cục Hải quan Lào Cai: nhờ có sự phối hợp với Cục Kiểm tra thu thuế nên chỉ trong 10 ngày của tháng 2, Chi cục Hải quan cửa khẩu Quốc tế Lào Cai đã làm thủ tục cho 85 lượt phương tiện, 1.151 lượt hành khách xuất nhập cảnh bằng hộ chiếu và 6.000 lượt hành khách xuất nhập biên bằng giấy thông hành; làm thủ tục cho 102 tờ khai hàng hoá XNK, tổng kim ngạch trên 2 triệu USD, không những thế Chi cục đã phát hiện 4 vụ buôn lậu trong quá trình kiểm tra thu thuế. Cũng trong thời gian này, dưới sự giám sát của Cục Kiểm tra thu thuế XNK, Cục Hải quan Bình Dương đã làm việc rất tích cực, trung bình một ngày mở 5 tờ khai cho cả hàng xuất và hàng nhập, lượng tờ khai có những ngày lên tới 99 tờ khai hàng hoá chỉ trong một thời gian ngắn (từ 12-14/2/2002). Tại Cục Hải quan Cần Thơ, Chi cục Hải quan Tây Đô đã làm thủ tục cho lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu trị giá gần 950.000 USD vào ngày 11/2/2002. Trong tháng tết, kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu thông qua Hải quan Cần Thơ đều tăng so với tháng trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu mậu dịch tăng 275,62%; số thu thuế nộp cho ngân sách tăng 478,65%. Sự cố gắng của Cục Kiểm tra thu thuế XNK trong công tác tổ chức thực hiện quy trình thu thuế mới còn được thể hiện rõ hơn, cụ thể hơn qua tình hình tăng trưởng các loại mặt hàng XNK trong tháng 2/2002 so với tháng 2/2001. (Biểu 4) Biểu 4: Tăng trưởng XNK 2/2002 so với 2/2001 Những con số trên phần nào đã nói lên sự cố gắng của Cục Kiểm tra thu thuế XNK từ khi áp dụng quy trình thu thuế mới mặc dù Cục gặp rất nhiều khó khăn. 2.2.3 Những vướng mắc còn tồn tại khi triển khai thực hiện quy trình thu thuế. Mặc dù quy trình thu thuế đang áp dụng hiện nay ưu việt hơn quy trình cũ nhưng không thể không tránh khỏi những vướng mắc, những tồn tại trong quy trình. Đến nay, Cục KTTT XNK đang tập hợp những ý kiến của địa phương, của doanh nghiệp để tiếp tục sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các quyết định tạm thời. Trong thời gian hơn 3 tháng triển khai áp dụng quy trình mới, Cục KTTT đã nhận được nhiều ý kiến phản hồi từ phía doanh nghiệp. *Về quy trình nói chung: Hiện nay, việc áp dụng quy trình thu thuế mới ở một số địa bàn đang đang gặp khó khăn trong việc quản lý đối với hàng chuyển khẩu (Cục Hải quan Quảng Ninh). Theo quy định hiện hành, hàng chuyển khẩu không làm thủ tục nhập vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khỏi Việt Nam. Nhưng trên thực tế, Hải quan cửa khẩu vẫn phải mở tờ khai để phục vụ yêu cầu quản lý và cho đến nay vẫn chưa có quy trình nghiệp vụ hướng dẫn thực hiện nên khó khăn cho các cơ sở. Điểm nữa, theo quy định hàng hoá chuyển khẩu phải chịu sự giám sát quản lý của Hải quan đến khi thực xuất khỏi lãnh thổ nhưng phạm vi và địa bàn hoạt động của Hải quan đã được quy định cụ thể, trong khi có những lô hàng chuyển khẩu lưu chuyển tại Việt Nam kéo dài đến 6 tháng còn quy định thì không ghi rõ thời gian lưu chuyển hàng chuyển khẩu là bao nhiêu làm cho Hải quan không biết phải xử lý ra sao. Cũng đối với hàng chuyển khẩu một số cửa khẩu trong địa bàn thuộc tỉnh này lại gặp khó khăn với các Chi cục Hải quan cửa khẩu thuộc tỉnh khác (Chi cục Hải quan Nam Định). Theo quy định, Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu chỉ giao một bản đơn đề nghị chuyển cửa khẩu cho chủ hàng đến cửa khẩu nhập để làm thủ tục chuyển khẩu, nhưng các Chi cục Hải quan cửa khẩu lại yêu cầu phải gửi cả hồ sơ bao gồm đơn đề nghị chuyển khẩu, tờ khai, bảng kê chi tiết, vận đơn. Vậy nếu không có đầy đủ những giấy tờ này thì hàng hoá không được chuyển khẩu. Như vậy quy trình thu thuế đang áp dụng vẫn chưa thuận tiện đối với hàng chuyển khẩu. *Về các bước cụ thể trong quy trình: - Về tờ khai hải quan: quy trình kiểm tra hải quan với tờ khai như hiện nay còn quá nhiều chữ ký của lãnh đạo các cấp. Điều này gây nhiều trở ngại cho các khâu tiếp theo, mất thời gian và làm ùn tắc hàng hoá. Ngành Hải quan khi thực thi pháp luật phải dựa vào 80% văn bản quy phạm pháp luật do các bộ ngành liên quan ban hành, các văn bản đó lại chồng chéo, lại chậm sửa chữa, gây ách tắc, như vậy quả thật là rất rườm rà, gây khó khăn cho cả Hải quan và doanh nghiệp. Thực tế một mặt hàng chỉ nên thống nhất một Bộ quản lý, nhưng hiện nay có những mặt hàng 3-4 Bộ cùng quản lý gây phiền hà, khó khăn cho doanh nghiệp trong việc thông quan hàng hoá. Cụ thể: Có doanh nghiệp xuất khẩu gỗ thuộc diện miễn kiểm tra ở Gia lai-Kon Tum, do Hải quan Gia lai-Kon Tum chưa có Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu nên doanh nghiệp chỉ mở tờ khai và vận chuyển xuống cảng miền trung để làm thủ tục xuất hàng. Như thế lô hàng sẽ không được niêm phong, kiểm lâm có thể kiểm tra. Mặc dù không vi phạm nhưng doanh nghiệp cho rằng như thế sẽ gây chậm trễ, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm vì đây là sản phẩm chuyên dụng, đóng gói bao bì theo quy cách riêng. Vậy là mặt hàng này vừa do cán bộ kiểm lâm kiểm tra, vừa do cán bộ hải quan phụ trách. Nếu xảy ra chậm trễ trong việc giao hàng thì doanh nghiệp sẽ phải chịu trách nhiệm trong hợp đồng với bên đối tác. Câu hỏi đặt ra là: Nếu Bộ Lâm nghiệp đã kiểm tra rồi thì việc Hải quan cửa khẩu kiểm tra theo các bước của quy trình có cần thiết không, hay ngược lại, nếu lô hàng này sẽ được cán bộ hải quan kiểm tra thì có thể miễn kiểm tra ở bộ phận kiểm lâm không? Một trường hợp khác ở Đắc Lắc: Chi cục Hải quan cửa khẩu tại các cảng biển không ký xác nhận đối với mặt hàng cà phê nên doanh nghiệp phải quay về Đắc Lắc để xác nhận, như thế sẽ mất nhiều thời gian và kinh phí. Làm sao hạn chế được những khó khăn trên? Bên cạnh đó mẫu tờ khai còn có những thắc mắc sau: Về mẫu tờ khai xuất khẩu HQ 2002 có ý kiến đề nghị bổ sung mục “tên, ký hiệu phương tiện vận tải” để phục vụ quản lý hải quan. Mẫu tờ khai đối với các loại hình khác nên có mẫu tờ khai tiểu ngạch, kho ngoại quan, quá cảnh... và cần bổ sung thêm một số ký hiệu cho loại hình xuất nhập khẩu. Việc sử dụng phụ lục tờ khai cũng đang là vấn đề phải xem xét: ý kiến của Hải quan TP HCM cho rằng phần ghi kết quả kiểm hoá tại phụ lục tờ khai chưa đủ chỗ tương ứng với phần khai báo của doanh nghiệp. (Phụ lục: Mẫu tờ khai hàng hoá XNK) - Về nhiệm vụ của công chức hải quan: trong quy trình có quy định “Việc tiếp nhận, đăng ký tờ khai hải quan cho 01 lô hàng do 01 công chức hải quan thực hiện và chịu trách nhiệm làm những thủ tục sau...”. Hiện nay lượng hàng hóa xuất nhập khẩu rất đa dạng, phong phú, nhiều chủng loại. Nếu bước kiểm tra tính thuế do một công chức thực hiện thì nặng qúa, có thể dẫn đến chậm, gây ách tắc hàng hoá (Cảng KVI Hải quan TP HCM). - Về việc nhập dữ liệu của tờ khai hải quan: Hiện nay đang tiến hành thí điểm tiếp nhận tờ khai điện tử ở một số địa điểm nhưng do trình độ của cán bộ hải quan còn hạn chế nên công tác này vẫn gặp nhiều khó khăn. - Về thời điểm ra thông báo thuế: các ý kiến của Cục Hải quan Hải Phòng, Cục Hải quan Bình Dương, Cục Hải quan Bình Định và Cục Hải quan Cần Thơ cho rằng Thông báo thuế khi có kết quả kiểm tra thực tế hàng hoá không phải lúc nào cũng phù hợp. Trước đây có quy định Thông báo thuế khi đăng ký tờ khai, sau đó lại sửa thành Thông báo thuế sau kiểm hoá. Vậy hiện nay áp dụng loại thông báo nào là phù hợp. - Về việc quyết định hình thức, tỷ lệ kiểm tra hàng hoá: Theo quy trình mới hàng hoá được phân chia thành lô hàng có thuế suất bằng 0%, lô hàng thuộc đối tượng miễn thuế, lô hàng có thuế. Công việc này được giao cho lãnh đạo Chi cục. Tuy nhiên trên thực tế đối với những cửa hàng miễn thuế, muốn kiểm tra được thực trạng hoạt động kinh doanh của cửa hàng thì cơ quan Hải quan luôn phải cử một bộ phận cán bộ hải quan thực hiện việc quản lý, giám sát đầu vào, đầu ra của cửa hàng; thực hiện giám sát việc bán hàng miễn thuế tại quầy, niêm phong kho hàng, giám sát hàng hoá của doanh nghiệp mỗi khi có hàng xuất nhập kho. Việc làm trên vừa gây khó khăn cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh vừa không quản lý chặt chẽ. Vậy theo quy trình, phải xử lý như thế nào cho phù hợp. Tương tự với vấn đề lấy mẫu hàng gia công trong trường hợp hàng miễn kiểm tra thì ai là người quyết định việc lấy mẫu, ai thực hiện việc lấy mẫu? Vấn đề này chưa được quy định rõ ràng. Trường hợp đối với mặt hàng miễn kiểm tra thực tế, hàng hoá được thông quan trên cơ sở giám định thì bộ phận nào ghi kết quả giám định. - Về việc kiểm tra thực tế hàng hoá, kiểm tra tính thuế: Hoạt động thanh tra, kiểm tra trong quy trình yêu cầu xem xét toàn diện, làm rõ đúng sai đối với sự việc, hiện tượng cơ bản và cách xử sự của mọi người có quan hệ trực tiếp với sự việc hiện tượng đó. Qua thanh tra, kiểm tra hàng hoá thực tế, cán bộ hải quan đánh giá được tình hình chấp hành chính sách, pháp luật của doanh nghiệp, cá nhân tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá. Việc kiểm tra thực tế hàng hoá do công chức hải quan kiểm tra trực tiếp hoặc kiểm tra bằng máy móc, thiết bị kỹ thuật, các biện pháp nghiệp vụ khác với sự có mặt của người khai hải quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Nhưng hiện nay máy móc thiết bị chưa được trang bị đầy đủ cho các địa phương. Ví dụ hàng hoá là động vật, thực vật sống, khó bảo quản ưu tiên kiểm tra trước thì lại không có phương tiện kiểm tra, nếu có nhiều hàng hoá thì một công chức không đảm đương hết. Thông thường hàng hoá xuất nhập khẩu thuộc diện miễn kiểm tra được niêm phong nhưng theo quy định kiểm tra ngẫu nhiên, đột xuất đối với hàng miễn kiểm tra thì phải giải quyết như thế nào? Hiện nay Tổng cục vẫn chưa có văn bản chính thức về vấn đề này nên đơn vị cơ sở không yên tâm và chưa mạnh dạn áp dụng. Có trường hợp việc đăng ký tờ khai nhập khẩu tại Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu nhưng việc kiểm tra thực tế hàng hoá lại do Chi cục Hải quan cửa khẩu thực hiện. Cách làm như vậy có sai với quy trình không? Và phải giải quyết ra sao? * Các vướng mắc khác: - Về kiểm tra sau thông quan: Trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan, cơ quan hải quan đực áp dụng biện pháp kiểm tra sau thông quan. Công việc này hiện nay cũng gặp phải không ít khó khăn. Cụ thể có trường hợp xảy ra như sau: Hoá đơn thương mại ghi 4.000.000 USD nhưng trị giá trên thư tín dụng lại là 1 triệu USD. Đã có nhiều trường hợp cán bộ hải quan lập tức kết luận chủ hàng đã khai báo sai giá trị để trốn thuế. Như vậy việc kiểm tra sau thông quan sẽ được tiến hành. Nhưng thực tế nếu là một cán bộ nghiệp vụ Kiểm tra sau thông quan thì sẽ phải kiểm tra ngay ô có được phép giao hàng từng phần không cũng như mối tương quan giữa số lượng hàng hoá với các thông tin tương ứng trên ô mô tả hàng hoá dịch vụ để xét đoán tính hợp lý của con số 4.000.000 USD. Vậy sẽ rất khó khăn cho doanh nghiệp nếu gặp phải những trường hợp như trên do sự không cẩn thận của cán bộ hải quan. Trường hợp khác: Trong bước kiểm tra hồ sơ chứng từ ngân hàng, cán bộ nghiệp vụ có thể yêu cầu kiểm tra cả bảng sao kê tài khoản để xác minh số tiền hàng đã chuyển qua đường ngân hàng và số tiền không chuyển qua đường ngân hàng. Việc kiểm tra như vậy để ngăn chặn doanh nghiệp trốn thuế (vì khi đã không chuyển quan ngân hàng thì số tiền này cũng không ghi trong thư tín dụng và hoá đơn thương mại doanh nghiệp sẽ lợi dụng để trốn thuế). Nhưng việc kiểm tra này rất khó khăn, gặp nhiều trở ngại từ phía doanh nghiệp, đôi khi doanh nghiệp chỉ có chứng nhận của ngân hàng nhưng theo ngành Hải quan là chưa đủ tin cậy, khi đã kiểm tra thì cán bộ hải quan chỉ được phép tin vào sự xét đoán của mình trên cơ sở kiểm tra phân tích các chứng từ, hồ sơ liên quan. Vướng mắc trong quá trình kiểm tra sau thông quan còn thể hiện ở chỗ: theo quy trình mới, việc kiểm tra sau thông quan chỉ mới dừng ở việc phúc tập hồ sơ, xác định hồ sơ phải kiểm tra ở các khâu liên quan sau thông quan. Trên thực tế, sau khi thông quan, doanh nghiệp được giải phóng hàng, số hàng đã được tiêu thụ hết, cán bộ hải quan chỉ có thể kiểm tra trên cơ sở hồ sơ về hàng hoá nhập khẩu mà doanh nghiệp đã khai báo như vậy sẽ không thể chính xác được. - Về tỉ giá tính thuế: do áp dụng tỉ giá không thống nhất nên khi quy đổi ra nội tệ có sự chênh lệch đáng kể về số tiền. Hiện nay, tỉ giá tính thuế là yếu tố rất quan trọng để xác định chính xác số thuế phải nộp. Nếu nguyên tệ thanh toán là đồng USD thì tỉ giá quy đổi được áp dụng là tỉ giá mua bán trên thị trường ngoại tệ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố trên báo Nhân dân. Nhưng các loại ngoại tệ khác như DM, JPY... tỉ giá quy đổi lại không được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng, mà được ấn định trong thời hạn 10 ngày và niêm yết tại các nơi làm thủ tục hải quan. Điều này gây khó khăn cho những doanh nghiệp ở xa trung tâm. - Về vận tải đơn: vận tải đơn có nhiều loại, các bản này có nội dung như nhau. Khi doanh nghiệp thông báo vận tải đơn bằng fax cho các cơ quan có liên quan trong đó có Hải quan để làm thủ tục thì có những vận tải đơn không được chấp nhận nhưng lại chưa có quy định cụ thể nào về vấn đề này. Ví dụ các doanh nghiệp nước giải khát bán hàng thông báo vận tải đơn bằng fax bản surrender thì không được chấp nhận vì không có giá trị nhận hàng (Hải quan Long An, Đồng Nai). Vậy sao không có văn bản nào quy định vấn đề này để doanh nghiệp biết. - Về phía đối tượng nộp thuế: Mặc dù đã phần nào ý thức được trách nhiệm của mình trong khi làm thủ tục hải quan nhưng hầu hết các doanh nghiệp đều bỡ ngỡ và gặp nhiều khó khăn khi khai báo. Một vấn đề nổi cộm nhất hiện nay là việc doanh nghiệp cập nhật các văn bản, quy định có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu chưa kịp thời và hiểu chính sách chế độ còn thiếu chính xác. Mặt khác nội dung của văn bản còn có những thay đổi, có những văn bản mà hiệu lực của nó chỉ trong một thời gian ngắn. Do đó, việc nắm bắt và hiểu rõ chính sách, văn bản đối với các doanh nghiệp là rất khó. Quy trình thu thuế mới đòi hỏi người cán bộ khi làm thủ tục hải quan ngoài trình độ nghiệp vụ chuyên môn về ngành nghề mình kinh doanh còn phải được trang bị kiến thức cơ bản về nghiệp vụ hải quan. Tuy nhiên, không phải tất cả các cán bộ được giao trách nhiệm làm thủ tục hải quan đều được đào tạo kiến thức về hải quan. Để tạo điều kiện giúp doanh nghiệp thuận lợi trong khi làm thủ tục cần thiết phải mở lớp đào tạo nghiệp vụ hải quan cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Nhưng chi phí đào tạo phải bỏ ra rất lớn. Như vậy, trong quá trình thực hiện quy trình thu thuế tạm thời hiện nay, doanh nghiệp cũng như hải quan đều gặp phải một số vướng mắc tập trung lại do các nguyên nhân: - Do Hải quan cũng như doanh nghiệp chưa hiểu rõ và và nắm chắc chính sách văn bản; - Các văn bản quy định của Nhà nước chưa thống nhất, chưa đầy đủ, rõ ràng, một số văn bản không còn phù hợp; - Việc tổ chức thực hiện quy trình mới tại Cục Kiểm tra thu thuế XNK còn gặp nhiều khó khăn trong đào tạo đội ngũ cán bộ. Để hoàn thiện quy trình mới và phát huy tính tích cực của quy trình mới cần phải khắc phục những vướng mắc và tồn tại trên đây. Chương III Một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu. 3.1 Những yêu cầu đặt ra khi hoàn thiện quy trình. Cải cách thủ tục hải quan đã thổi luồng gió mới, tạo thêm sinh khí cho mỗi cán bộ, chiến sĩ Hải quan đồng thời phần nào xoá đi cảm giác e ngại của doanh nghiệp khi làm thủ tục hải quan. Một trong nhiều cải cách thủ tục hải quan đáng kể là quy trình thu thuế XNK mới. Việc thực hiện tốt quy trình thu thuế XNK mới sẽ nâng cao thêm một bước hiệu lực quản lý Nhà nước về Hải quan, đồng thời tạo điều kiện để Hải quan Việt Nam từng bước hội nhập với Hải quan khu vực và trên thế giới. Do vậy khi hoàn thiện quy trình thu thuế XNK phải đảm bảo được những yêu cầu sau: - Phải đảm bảo số thu cho Ngân sách Nhà nước. Đây là tiêu thức rất quan trọng bởi hiệu quả của quy trình thể hiện ở số thu nộp cho Ngân sách; - Khi hoàn thiện quy trình thu thuế XNK phải khắc phục được nhược điểm, những mặt hạn chế và phát huy được những yếu tố tích cực của quy trình cũ; - Thủ tục đơn giản, thuận tiện, dễ thực hiện là những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện quy trình. Bởi những thủ tục đó phải dễ hiểu, đơn giản cho người thực hiện thì việc áp dụng quy trình đó vào thực tiễn mới đem lại hiệu quả cao; - Một trong những yêu cầu cơ bản khi hoàn thiện quy trình là phải đáp ứng được các yêu cầu của công tác quản lý thuế như: thu đúng, thu đủ, thu kịp thời cho Ngân sách Nhà nước, đảm bảo Luật thuế được chấp hành một cách đầy đủ, nghiêm túc từ phía cơ quan thuế và đối tượng nộp thuế, đảm bảo thực hiện tốt công tác quản lý pháp luật cũng như quản lý hành chính trong lĩnh vực thuế; - Việt Nam đang trong quá trình hội nhập vào các nền kinh tế quốc tế, kinh tế khu vực do đó để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập, tăng nhanh khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, góp phần tích cực đẩy nhanh quá trình mở cửa, giao lưu và hội nhập kinh tế với các nước khác trong khu vực và trên thế giới thì quy trình thu thuế xuất nhập khẩu mới của Việt Nam đảm bảo được tính thông lệ quốc tế. Đảm bảo những điều kiện trên thì quy trình thu thuế mới đã phần nào đạt được những mục tiêu và yêu cầu đặt ra cho công tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực Hải quan đồng thời góp phần giữ vững “Hoà bình, ổn định, hợp tác, phát triển, tự do hoá thương mại và quốc tế hoá Hải quan”. 3.2. Các kiến nghị và giải pháp. Trước những yêu cầu của việc hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu hiện nay, cùng với thời gian tìm hiểu, tiếp xúc thực tế công tác thực hiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu mới tại Cục Kiểm tra thu thuế XNK Tổng cục Hải quan quy trình thu thuế xuất nhập khẩu cần thay đổi để đáp ứng yêu cầu thực tế. 3.2.1. Giải pháp về phía Nhà nước và ngành Hải quan. 3.2.1.1. Hệ thống chính sách thuế. Hiên nay hệ thống chính sách liên quan đến lĩnh vực xuất nhập khẩu còn chưa đồng bộ, chưa hợp lý. Cụ thể trong luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu phạm vi áp dụng của luật quá rộng với nhiều đối tượng thuộc diện được xét miễn giảm (hàng tạm nhập, tái xuất, hàng nhập khẩu phục vụ an ninh quốc phòng, khoa học giáo dục...). Cùng với biểu thuế suất và cách áp mã thuế thiếu thống nhất đã gây ra khó khăn cho việc quản lý và thủ tục xét miễn giảm. Vấn đề trên đặt ra yêu cầu: - Các bộ, ngành liên quan phải đưa ra những tiêu chuẩn rõ ràng để căn cứ vào đó áp mã tính thuế chính xác tránh trường hợp một mặt hàng có thể áp nhiều mã khác nhau đều có lý; - Nên giảm bớt tỷ lệ những mặt hàng chịu thuế suất 0% xuống để doanh nghiệp không lợi dụng trốn thuế,lậu thuế cho những mặt hàng không chịu thuế suất 0%. Đơn giản hoá mức thuế suất xuống còn khoảng 5-7 mức; - Khắc phục hiện tượng thay đổi biểu thuế suất liên tục tạo điều kiện cho người thực hiện áp thuế suất được dễ dàng. 3.2.1.2. Các văn bản, các quy định liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu. Thực tế hiện nay cho thấy, các văn bản quy định, hướng dẫn của các Bộ, ngành ban hành quá nhiều, chồng chéo dẫn tới việc không chỉ các đối tượng xuất nhập khẩu không cập nhật thông tin kịp thời mà trong nhiều trường hợp, các cán bộ Hải quan cũng không biết phải xử lý như thế nào cho đúng. Vì vậy, cần thiết phải xử lý một cách đồng bộ có hệ thống các văn bản hướng dẫn. Một trong những giải pháp hữu hiệu là Cục Kiểm tra thu thuế XNK Tổng cục Hải quan cần phối hợp cùng các Bộ chủ quản tiếp tục rà soát lại toàn bộ các văn bản có liên quan đến hoạt động XNK như: - Đối với những văn bản ban hành đúng thẩm quyền và nội dung còn phù hợp thì giữ nguyên; - Đối với những văn bản ban hành không còn phù hợp, không đúng thẩm quyền thì loại bỏ; - Ban hành những văn bản mới do văn bản cũ không thích hợp. 3.2.1.3. Các vấn đề về Luật Hải quan: Luật Hải quan đã ban hành nhưng cần có sự triển khai thống nhất và đồng bộ giữa các cấp, các ngành. Cần phổ biến và mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ, công chức Hải quan. Đặc biệt là việc triển khai, áp dụng quy trình thu thuế mới thay thế cho quy trình cũ đến từng địa phương, từng doanh nghiệp. Ban hành các văn bản, quy định cụ thể dựa trên những thắc mắc, kiến nghị của địa phương và của doanh nghiệp gửi lên. Hiện nay, thể thức ra văn bản có hai trạng thái: chung, khái quát và chi tiết. Nếu sửa đổi các văn bản theo hướng càng chi tiết thì sẽ càng dễ thực hiện, đồng thời giảm được nhiều Nghị định, Thông tư hướng dẫn liên quan. Hơn nữa nhiều văn bản khó nhớ, hiểu không hệ thống, xử lý một việc phải xem xét, dẫn chiếu từ nhiều văn bản, nếu quy định chi tiết thì không còn gặp nhiều khó khăn trở ngại nữa. 3.2.1.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các cấp có liên quan Để thực hiện tốt hơn nữa quy trình thu thuế hiện nay, ngành Hải quan cần tăng cường sự phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan như Bộ Thương mại, Bộ Tài chính và các Bộ khác để quản lý, giám sát, đôn đốc những doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu. Theo quy trình thu thuế mới các đối tượng xuất nhập khẩu tự kê khai tính thuế, vì vậy đồng thời với việc tăng cường hướng dẫn, kiểm tra của Hải quan đối với các đối tượng xuất nhập khẩu thì ngành Hải quan cũng phải tăng cường kiểm tra xử lý các hành vi trốn lậu thuế. Cục Kiểm tra thu thuế XNK Tổng cục Hải quan là đơn vị hoạt động theo sự chỉ đạo tập trung của Tổng cục Hải quan, đồng thời cũng có quan hệ trực tiếp với địa phương trong sự lãnh đạo, chỉ đạo về chủ trương, đường lối thực hiện nhiệm vụ chuyên ngành từng địa phương. Vì vậy mỗi cán bộ Hải quan phải nắm vững đặc điểm, tình hình thuận lợi khó khăn của địa phương và phải có trách nhiệm trong việc thực hiện chủ trương và chính sách đó. Do tính chất công việc của ngành, hải quan có mối quan hệ mật thiết với các ngành kinh tế văn hoá, khoa học, công nghệ, đối ngoại, thông tin, báo chí, an ninh quốc phòng... Vì vậy, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ cần phải có sự phối hợp chặt chẽ với các ngành liên quan một cách thường xuyên. Để tăng cường mối quan hệ, hợp tác nói trên, Cục Kiểm tra thu thuế XNK cần xây dựng và hoàn thiện quy chế phối hợp chung và quy chế phối hợp cụ thể đối với từng ngành, từng lĩnh vực và phải có kế hoạch cụ thể để thực hiện. 3.2.2. Kiện toàn bộ máy tổ chức, quy trình nghiệp vụ và đào tạo cán bộ tại Cục Kiểm tra thu thuế XNK Tổng cục Hải quan. 3.2.2.1. Về mặt tổ chức: - Tiếp tục kiện toàn bộ máy tổ chức, củng cố đội ngũ đặc biệt là những bộ phận tiếp nhận tờ khai ở các đơn vị cửa khẩu. Bổ sung những cán bộ tính thuế có kinh nghiệm, sắp xếp tập trung việc tính thuế, lưu trữ hồ sơ, phúc tập về một điểm tạo thuận lợi cho công tác quản lý. - Thực hiện việc luân chuyển cán bộ, nhân viên qua các khâu công tác để đảm bảo mọi cán bộ, chiến sỹ hải quan đều giỏi một việc, biết nhiều việc. Việc bố trí và sử dụng cán bộ “đúng người đúng việc” sẽ phát huy năng lực của mỗi cán bộ, chiến sỹ hải quan. 3.2.2.2. Bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ Hải quan. - Tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ hải quan vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, có trình độ khoa học kỹ thuật khá, được trang bị những kiến thức chuyên môn cần thiết, chuyên ngành Hải quan, ngoại ngữ, tin học. Thực hiện tốt việc rà soát quy hoạch lực lượng cán bộ chủ chốt, có phẩm chất đạo đức và có kế hoạch bồi dưỡng đào tạo cán bộ kế cận. Phải coi việc đào tạo lực lượng hải quan là công việc gắn bó thường xuyên với công chức Hải quan. - Quy trình thu thuế mới có hiệu quả hay không, có đem lại những mục tiêu đã đặt ra hay không thì yếu tố con người đóng vai trò hết sức quan trọng. Do vậy mỗi cán bộ chiến sỹ hải quan phải ý thức được trách nhiệm của mình hoàn thành tốt các quy trình nghiệp vụ được giao trong quá trình thực hiện quy trình mới, phải biết kết hợp nhuần nhuyễn 3 nội dung: phục vụ, quản lý, đấu tranh. - Bên cạnh đó mỗi cán bộ hải quan phải luôn luôn thực hiện tốt 10 điều kỷ luật quy định với cán bộ Hải quan, nhất là đối với công chức làm công tác kiểm tra, thanh tra. Trong quy chế quản lý công chức Hải quan làm công tác kiểm tra hàng hoá xuất nhập khẩu. Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan đã quy định trách nhiệm của lãnh đạo Hải quan tỉnh, thành phố phải: “Tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ, có biện pháp chấn chỉnh củng cố kiện toàn đối với đội ngũ công chức làm công tác kiểm hoá, có biện pháp phòng ngừa và xử lý nghiêm minh những sai phạm...”. Chỉ có thanh tra, kiểm tra mới xác đinh được chính xác sự việc. Qua thanh tra, kiểm tra thủ trưởng đơn vị liên tục tìm kiếm nhận biết được những lượng, kênh thông tin khác nhau để sàng lọc, tìm ra sự thực khách quan tránh rập khuôn, máy móc; đó là một giả pháp quan trọng phòng chống bệnh quan liêu một cách hữu hiệu nhất. - Kiên quyết xử lý nghiêm minh những cán bộ thuế tha hoá, biến chất, lạm dụng chức vụ quyền hạn để thông đồng với doanh nghiệp nhằm gian lận, trốn thuế, hạch sách, có hành vi tiêu cực với khác hàng. - Có chính sách đãi ngộ hợp lý với những cán bộ thuế có năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức tôt, có thành tích công tác. 3.2.2.3. Củng cố các khâu nghiệp vụ. Để thực hiện có hiệu quả quy trình hành thu mới, Cục Kiểm tra thu thuế XNK cần kiến nghị kịp thời với cấp trên đồng thời nghiên cứu tìm ra các giải pháp hoàn thiện các khâu nghiệp vụ. Cục cũng cần mở các lớp tập huấn công tác thuế, kế toán. Nhanh chóng kiện toàn đội ngũ cán bộ, trang thiết bị xuống cửa khẩu để phục vụ cho công tác quản lý, khắc phục hiện tượng quản lý chồng chéo như hiện nay. 3.2.3. Giải pháp về phía các doanh nghiệp xuất nhập khẩu: Để thực hiện tốt quy trình thu thuế mới điều tối quan trọng là doanh nghiệp phải tạo thói quen trong sản xuất kinh doanh, trung thưch trong khai báo, kê khai...đó là giải pháp tốt nhất để hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp được diễn ra nhanh chóng, thuận tiện. Cùng với việc tạo thói quen trung thực trong sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần không ngừng nâng cao ý thức chấp hành tốt pháp luật của Nhà nước. Doanh nghiệp phải cập nhật các văn bản liên quan đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu một cách thường xuyên liên tục, có vấn đề gì khúc mắc phải kịp thời hỏi các cơ quan chức năng để có những giải đáp kịp thời. Định kỳ cử cán bộ đi học các lớp nghiệp vụ hải quan, nghiệp vụ xuất nhập khẩu để nâng cao trình độ nghiệp vụ của mỗi cán bộ trong doanh nghiệp. Việc thực hiện tốt và hoàn thiện quy trình thu thuế mới đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành liên quan và quan trọng là cố gắng nỗ lực từ phía doanh nghiệp. 3.2.4. Các giải pháp cụ thể nhằm hoàn htiện quy trình thu thuế XNK trong thời gian tới. * Về quy trình chung: Quy trình mới với các bước công việc đã hợp lý hơn so với quy trình cũ do đã giảm bớt được khối lượng các bước. Nhưng cần có những văn bản cụ thể quy định loại hàng hoá nào thì do một Bộ thống nhất quản lý, tránh nhiều Bộ quản lý cùng một mặt hàng gây chậm trễ trong thông quan hàng hoá. Bên cạnh đó cũng cần ban hành thêm quy trình nghiệp vụ hướng dẫn mở tờ khai phục vụ cho hàng chuyển khẩu để phục vụ riêng cho hàng chuyển khẩu không làm thủ tục nhập vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khỏi Việt Nam mà hải quan vẫn phải mở tờ khai. * Về các bước cụ thể trong quy trình: - Về thời điểm ra thông báo thuế: Vấn đề này đã được bàn theo nhiều hướng là cố gắng để chỉ phải thông báo thuế một lần. Trước đây đã từng có quy định thông báo thuế khi đăng ký tờ khai và sau đó lại sửa lại là thông báo thuế sau kiểm hoá. Tuy nhiên để giải quyết vấn đề ra thông báo thuế sau khi có kiểm tra thực tế hàng hoá không phải trường hợp nào cũng phù hợp thì giải pháp trước mắt là doanh nghiệp vẫn tự kê khai tính thuế, cán bộ hải quan ra thông báo thuế nhưng chưa thu tiền ngay mà đợi kết quả kiểm hoá xong mới thu tiền. - Về mẫu tờ khai cho các loại hình hàng hoá khác: Doanh nghiệp cần tìm hiểu thêm về tờ khai HQ 2002. Vì tờ khai này áp dụng cho tất cả các loại hình XNK nên đối với loại hình không có nội dung nào thì không yêu cầu khai nội dung đó (ví dụ: kho ngoại quan, quá cảnh không có thuế thì không yêu cầu khai về thuế). Riêng hàng hoá của cá nhân, tổ chức không phải là thương nhân (hàng của cơ quan ngoại giao, hàng quà biếu...) thì dùng tờ khai phi mậu dịch. Tờ khai phi mậu dịch hiện hành về cơ bản đã đáp ứng các yêu cầu quản lý, nhưng cũng nên sửa lại một số tiêu chí. Riêng đối với tờ khai xuất khẩu HQ 2002 thì Cục KTTT cần nghiên cứu tham khảo thêm ý kiến của các địa phương để bổ sung thêm mục “ tên, ký hiệu phương tiện vận tải” để tiện cho doanh nghiệp trong khi khai báo. - Về việc đăng ký tờ khai: Đối việc đăng ký tờ khai nhập khẩu tại Chi cục ngoài cửa khẩu nhưng không do Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu kiểm tra thực tế mà do Chi cục Hải quan cửa khẩu nhập thực hiện thì nên điều chỉnh theo hướng sau: + Nếu thực tế hàng hoá không có sai lệch giữa khai báo của chủ hàng và kết quả kiểm tra thực tế hàng hoá thì Chi cục Hải quan cửa khẩu xác nhận “Đã làm thủ tục hải quan” vào ô số 38 và quyết định việc thông quan cho lô hàng. + Nếu có sự sai lệch giữa khai báo của chủ hàng và kết quả kiểm tra thực tế hàng hoá thì Chi cục Hải quan cửa khẩu nhập xác nhận kết quả kiểm tra thực tế, giải phóng lô hàng (trường hợp sai lệch dẫn đến một phần hoặc toàn bộ lô hàng không được nhập khẩu thì lập biên bản xử lý theo quy định, chỉ giải phóng số hàng đúng khai báo), chưa xác nhận “Đã làm thủ tục hải quan”, chuyển hồ sơ cho Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu ra quyết định điều chỉnh thuế, sau đó mới xác nhận “Đã làm thủ tục hải quan” vào ô số 38. Đối với việc ghi kết quả giám định vào tờ khai hải quan mặt hàng miễn kiểm tra thực tế thì nên giao cho bộ phận nào quyết định thông quan thì bộ phận đó ghi kết quả giám định như vậy sẽ chính xác và thuận tiện hơn trong khâu ra quyết định hình thức và tỉ lệ kiểm tra. Theo quy định tại Khoản 4 Điều 25 Luật Hải quan thì hàng chờ kết quả giám định được thông quan khi đáp ứng yêu cầu giám sát hải quan. Quy định này khó thực hiện nếu không có quy định cụ thể (trường hợp do quy mô hàng lớn, có trường hợp do loại hàng doanh nghiệp phải đưa vào sản xuất ngay, hoặc đưa về tỉnh xa...thì thực hiện niêm phong như thế nào?) Cách giải quyết có thể chia theo 2 hướng sau: + Nếu hàng hoá giám định để xác định số thuế phải nộp (mã số hàng hoá, khối lượng hàng hoá hoặc chất lượng hàng hoá...) thì được thông quan ngay mà không cần chờ kết quả giám định. Tuy nhiên Hải quan chỉ xác nhận thông quan vào tờ khai hải quan khi có kết quả giám định. + Nếu giám định để xác định xem hàng hoá có được nhập khẩu hay không thì chủ hàng chỉ được đưa hàng về bảo quản nếu đáp ứng yêu cầu giám sát của Hải quan (cụ thể là niêm phong) cho đến khi có kết quả giám định đúng như quy định. Tuy nhiên đây vẫn sẽ là một khó khăn khi áp dụng vì có một số mặt hàng tuy thuộc loại hàng hải quan không thể xác định bằng kiểm tra thủ công nhưng lại là mặt hàng doanh nghiệp nhập khẩu thường xuyên (ví dụ như hoá chất trong sản xuất Dự án giày...) nếu lần nào cũng giám định thì doanh nghiệp sẽ phản ứng và cũng không nhất thiết phải làm như vậy. Để giải quyết vướng mắc này, đề nghị áp dụng theo cách: nếu mặt hàng đã được giám định một số lần rồi và đều được nhập khẩu thì các lần sau đó không yêu cầu phải giám định. Để tránh bị lợi dụng thì có thể thực hiện giám định đột xuất. Đề nghị thành lập hệ thống giám định Nhà nước về Hải quan bao gồm các Trung tâm Giám định, Phòng Giám định đặt tại các cửa khẩu quốc tế thuộc Cục Hải quan tỉnh, thành phố. Bên cạnh đó đề nghị Tổng cục Hải quan cho phép áp dụng hình thức khai báo một lần với lượng hàng lớn xuất nhập khẩu nhiều lần trong một thời gian nhất định, doanh nghiệp sẽ đến hải quan để mở tờ khai xuất nhập khẩu cho cả một hợp đồng hoặc một số hàng nhất định. Tờ khai đã đăng ký có giá trị thực hiện việc giao nhận hàng nhiều lần trong một khoảng thời gian nhất định. Khai báo một lần nhằm mục đích đơn giản hoá thủ tục hải quan, tiết kiệm thời gian, chi phí, giấy tờ của doanh nghiệp cũng như của Hải quan đồng thời đảm bảo nguyên tắc cơ bản của thủ tục hải quan đối với hàng xuất nhập khẩu. Như vậy có thể áp dụng hình thức khai báo 1 lần đối với các loại hàng như: hàng xuất nhập khẩu không chịu thuế và có thuế suất 0%, hàng được miễn htuế xuất nhập khẩu, hàng xuất nhập khẩu của doanh nghiệp vào khu chế xuất, hàng xuất khẩu tại chỗ, hàng gia công xuất khẩu. - Về việc nhập dữ liệu cho tờ khai hải quan: Cần nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ Hải quan. Đưa công nghệ thông tin vào để thay thế cho công đoạn thủ công. Hình thức giao dịch thương mại qua mạng lưới điện tử hiện nay đã trở thành mối quan tâm hàng đầu trong ngành Hải quan góp phần giảm nhẹ khối lượng công việc cho cán bộ trong ngành. Những vấn đề liên quan đến ứng dụng máy tính điện tử ngày càng trở nên phức tạp. Đôi khi tờ khai hải quan có quá nhiều dữ liệu, nếu không nắm vững nghiệp vụ thì sẽ chậm trễ trong việc khai báo cho hàng hoá xuất nhập khẩu. - Về nhiệm vụ của công chức Hải quan: Việc quy định 01 công chức thực hiện việc kiểm tra tính thuế chỉ nên xét trong quan hệ tiếp xúc trực tiếp với chủ hàng, còn khối lượng công việc thì có thể do 02 cán bộ thực hiện. - Về việc quyết định hình thức, tỉ lệ kiểm tra hàng hoá- Việc kiểm tra thực tế hàng hoá và kiểm tra tính thuế: Để tăng tỉ lệ miễn kiểm tra thực tế hàng hoá trong quá trình giải quyết thủ tục cho hàng xuất nhập khẩu thì việc xây dựng được mạng lưới thông tin rộng, tìm hiểu rõ “lai lịch” của doanh nghiệp cũng như xuất xứ, hành trình của các chuyến hàng cần thực hiện một cách triệt để. Hệ thống thông tin cần được xây dựng trên cơ chế hợp tác với Hải quan và các cơ quan chức năng ở nước ngoài, các cơ quan chức năng ở trong nước. Khi cần thiết Hải quan có thể nắm vững và kịp thời thông tin về mặt hàng đó, phát hiện kịp thời những trường hợp nghi ngờ hoặc phải kiểm tra xác suất vào từng thời điểm. Trường hợp phát hiện ra sai phạm, phải lập biên bản các nghi vấn thì chưa cho giải phóng hàng mà phải tiến hành kiểm tra ngay, nếu có vi phạm thực sự thì đình chỉ ngay việc làm thủ tục hải quan và chuyển đến các bộ phận có trách nhiệm trong việc xử lý vi phạm. Về trường hợp hàng lấy mẫu gia công thuộc diện miễn kiểm tra: Trong trường hợp hàng gia công cần lấy mẫu để đơn giản cho doanh nghiệp cũng như giảm nhẹ công việc cho cán bộ hải quan thì nên quy định Chi cục trưởng Hải quan ngoài cửa khẩu quyết định việc lấy mẫu, Hải quan cửa khẩu thực hiện lấy mẫu, niêm phong và giao cho chủ hàng. Đối với hàng xuất khẩu thuộc diện miễn kiểm tra phải niêm phong: Cần trưng cầu ý kiến của các địa phương, nếu hầu hết các địa phương yêu cầu không niêm phong để thuận lợi trong hoạt động xuất nhập khẩu thì đề nghị sửa theo hướng này. Việc kiểm tra ngẫu nhiên, đột xuất đối với hàng thuộc diện miễn kiểm tra: nên thực hiện cách kiểm tra này nhưng phải thận trọng và không được tuỳ tiện. Muốn vậy Cục Kiểm tra thu thuế cần phối hợp với Cục Giám sát quản lý để ban hành những văn bản nhằm tạo điều kiện cho đơn vị cơ sở yên tâm áp dụng. Để thuận tiện cho việc kiểm tra tính thuế thì: Về tỉ giá tính thuế trên tờ khai: Đề nghị khi khai báo, nên theo tỉ giá thông báo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để doanh nghiệp dễ lập tờ khai, thay vì theo tỉ giá thị trường ngoại tệ liên ngân hàng; hoặc theo tỉ giá ngày hôm trước của ngày mở tờ khai để doanh nghiệp chủ động thông tin về giá. Cụ thể: Về giá tính thuế: Nên tính theo giá nguyên tệ ở tất cả các bước kể cả khi phân bổ phí bảo hiểm và phí vận chuyển, sau đó mới lấy tổng đơn giá quy đổi ra nội tệ để tránh tình trạng sai số quá lớn do việc phân bổ và quy đổi. Cần nới lỏng thẩm quyền xây dựng giá đối với những mặt hàng thuộc Nhà nước quản lý. Nên cho phép các cửa khẩu xây dựng giá tính thuế, giải phóng hàng nhanh chóng, không gây ách tắc tại cửa khẩu sau đó báo cáo cho Tổng cục Hải quan theo quy định. Giá tính thuế nên quản lý theo hiệp định chung về tính thuế quan thương mại. Khi xác định trị giá hàng nhập khẩu phải căn cứ 3 nguyên tắc: \ Căn cứ vào giá trị thực tế của hàng hoá; \ Không căn cứ vào trị giá của hàng hoá được sản xuất tại nước nhập khẩu hay trị giá hư cấu áp đặt; \ Phải là giá mà với mức giá đó hàng hoá hoặc hàng hoá tương tự bán trong kỳ kinh doanh bình thường với các điều kiệncạnh tranh không hạn chế. Đề nghị Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu thành lập những bộ phận chuyên thu thập thông tin về giá cả hàng hoá bằng nhiều cách như kiểm tra, theo dõi tờ khai của người xuất khẩu; nắm bắt kịp thời các thông tin trên tạp chí chuyên sâu về gí cả, các bản tin giá cả, các thông tin từ ngành sản xuất... Bên cạnh đó có thể mở rộng diện áp dụng giá tính thuế theo hợp đồng. Để thực hiện tốt biện pháp này thì chính sách thuế cần phải thay đổi và điều chỉnh nhiều, các cơ quan có thẩm quyền cần ban hành những văn bản liên quan để doanh nghiệp biết mà thực hiện. Một số kiến nghị khác - Ngân hàng nên phối hợp với Hải quan chống nợ đọng thuế bằng cách: Ngân hàng nên bảo lãnh số nợ đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu mở tài khoản giao dịch. Trường hợp tài khoản giao dịch của doanh nghiệp không có đủ hoặc số dư không đủ thanh toán tiền thuế thì Ngân hàng phải thông báo kịp thời cho Hải quan để có biện pháp xử lý. Nếu xảy ra trường hợp nợ đọng thuế thì việc đối chiếu nợ thuế của doanh nghiệp nên thực hiện sau khi mở tờ khai hoặc có biện pháp xử lý nghiêm minh với những doanh nghiệp liên tiếp nợ đọng thuế. - Về chứng nhận xuất xứ (C/O): Đối với những mặt hàng có tính chất đặc thù như phụ tùng, linh kiện lắp ráp... không có C/O thì chỉ cần căn cứ vào giấy chứng nhận chất lượng của các tổ chức hiệp hội để tính thuế ưu đãi. Trường hợp có thuế suất 0% hoặc hàng hoá bán tại các cửa hàng kinh doanh miễn thuế, do các mặt hàng này có nguồn gốc xuất xứ từ nhiều nước khác nhau vì vậy doanh nghiệp không có khả năng nộp đủ C/O, đề nghị nên bỏ thủ tục xuất trình C/O đối với những mặt hàng trên. - Riêng đối với bưu phẩm, hàng hoá XK, NK gửi qua bưu chính và vật phẩm, hàng hoá XK, NK gửi qua dịch vụ chuyển phát nhanh thì thuế suất nên sửa đổi theo hướng chia làm hai loại: có thuế và không có thuế để đơn giản cho loại hàng hoá không thuế (phần lớn). - Theo quy trình thì doanh nghiệp tự tính thuế, công chức kiểm tra thực tế hàng hoá, tính thuế và ra thông báo thuế, sau đó Lãnh đạo đội trực tiếp điều hành khâu kiểm tra thực tế hàng hoásẽ kiểm tra tính thuế một lần nữa như vậy liệu có làm thời gian giải phóng hàng chậm? Nên chăng, để kết hợp, doanh nghiệp có thể ghi luôn thông báo thuế, đội thuế kiểm tra và xác nhận. Trên đây là những kiến nghị và giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhậpkhẩu tại Cục Kiểm tra thu thuế Tổng cục Hải quan. Kết luận Sau hơn một thập kỷ thực hiện cải cách kinh tế, đất nước ta đã thu được nhiều thành tựu đáng ghi nhận và đang đứng trước ngưỡng cửa của một giai đoạn phát triển mới-giai đoạn phát huy nội lực kết hợp với tăng cường hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với sự phát triển của đất nước, ngành Hải quan ngày một lớn mạnh góp phần xứng đáng vào sự nghiệp phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế đối ngoại trong thời kỳ mở cửa. Bằng sự nỗ lực phấn đấu và không ngừng đổi mới trong công tác quản lý, cải tiến thủ tục hải quan, ngành Hải quan tự khẳng định vai trò là “người gác cửa” góp phần tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư và hoạt động xuất nhập khẩu. Cải tiến quy trình thu thuế là một trong những kết quả đáng ghi nhận về cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan. Cơ chế thu thuế mới có thực hiện tốt hay không đòi hỏi phải có sự nỗ lực của tất cả các ngành, các cấp có liên quan. Nhận thức được vai trò và nhiệm vụ của mình, Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu đã tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả quy trình thu thuế mới. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những khiếm khuyết. Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu Tổng cục Hải quan đang từng bước khắc phục để công tác quản lý thu thuế đối với hàng hoá xuất nhập khẩu ngày một hiệu quả hơn. Để hoàn thiện đề tài này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, còn có sự giúp đỡ nhiệt tình và chu đáo của các thầy, các cô trong bộ môn Thuế Nhà nước, đặc biệt là Thạc sĩ Lý Phương Duyên- người trực tiếp hướng dẫn em thực hiện đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn các quý thầy cô. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các cô, các chú và các anh chị làm việc tại Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu Tổng cục Hải quan đã giúp đỡ và hết sức tạo điều kiện cho em trong quá trình thực tập tại đây, để em có thể hoàn thành đề tài này một cách thuận lợi nhất. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình Thuế Nhà nước- Trường Đại học Tài chính Kế toán Hà Nội. Hướng dẫn thực hiện quy trình và tờ khai hàng hoá xuất nhập khẩu HQ99-XNK-Nhà xuất bản Hà Nội. Hướng dẫn thực hiện quy trình và tờ khai hàng hoá xuất nhập khẩu HQ2001-XNK-Nhà xuất bản Hà Nội. Hướng dẫn thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu-Nhà xuất bản Tài chính. Các văn bản, Thông tư hướng dẫn Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành. Bản Báo cáo tổng kết năm 2000 và 2001 của Tổng Cục Hải quan. Bản Báo cáo tình hình xuất nhập khẩu năm 2000 và 2001 của Phòng Kiểm tra thu thuế XNK- Tổng cục Hải quan. Tạp chí, báo Hải quan, báo Thương mại, báo Ngoại thương, Thời báo kinh tế các số năm 2001 và 3 tháng đầu năm 2002. Các văn bản pháp luật về Hải quan- Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Pháp lệnh Hải quan được Hội đồng Nhà nhước thông qua ngày 20/2/1990 Tài liệu hội nghị giới thiệu Luật Hải quan. Luật Hải quan ngày 29/6/2001. Mục lục Lời nói đầu 01 Chương 1 Sự cần thiết phải hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu. 03 1.1 Những nhận thức cơ bản về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 03 1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 03 1.1.2 Mục đích của việc đánh thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 03 1.1.3 Vai trò của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường. 04 1.2 Nội dung của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quy trình thu thuế XNK ở nước ta hiện nay. 06 1.2.1 Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam. 06 1.2.2 Nội dung của quy trình thu thuế XNK ở nước ta. 08 1.2.2.1 Nội dung của quy trình thu thuế XNK trước đây. 08 1.2.2.2 Nội dung của quy trình thu thuế XNK hiện nay. 10 1.2.3 Sự cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện quy trình thu thuế XNK. 10 Chương II Tổ chức thực hiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu tại Cục Kiểm tra thu thuế XNK Tổng cục Hải quan. 13 2.1 Cục Kiểm tra thu thuế XNK với công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu. 13 2.1.1 Khái quát về Cục Kiểm tra thu thuế XNK. 13 2.1.2 Vị trí của Cục Kiểm tra thu thuế XNK trong công tác quản lý hoạt động XNK. 14 2.2 Quy trình thu thuế XNK tại Cục Kiểm tra thu thuế XNK. 17 2.2.1 Nội dung của quy trình thu thuế mới theo quyết định số 1494/2001/QĐ-TCHQ và nét đổi mới so với quy trình cũ. 17 2.2.1.1 Nội dung của quy trình. 17 2.2.1.2 Nét đổi mới của quy trình thu thuế XNK theo quy định tạm thời thủ tục Hải quan đối với hàng hoá XNK. (Ban hành kèm theo quyết định số 1494/2001/QĐ-TCHQ của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan) 22 2.2.2 Thực trạng của công tác tổ chức thực hiện quy trình thu thuế XNK theo quyết định số 1494/2001/QĐ-TCHQ tại Cục Kiểm tra thu thuế 24 2.2.3 Những vướng mắc còn tồn tại khi triển khai thực hiện quy trình thu thuế XNK. 28 Chương III Một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu. 34 3.1 Những yêu cầu đặt ra khi hoàn thiện quy trình. 34 3.2 Các kiến nghị và giải pháp. 35 3.2.1 Giải pháp về phía Nhà nước và ngành Hải quan. 35 3.2.1.1 Hệ thống chính sách thuế. 35 3.2.1.2 Các văn bản, các quy định liên quan đến hoạt động XNK. 35 3.2.1.3 Các vấn đề về Luật Hải quan. 36 3.2.1.4 Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các cấp có liên quan. 36 3.2.2 Kiện toàn bộ máy tổ chức, quy trình nghiệp vụ và đào tạo cán bộ tại Cục Kiểm tra thu thuế XNK Tổng cục Hải quan. 37 3.2.2.1 Về mặt tổ chức. 37 3.2.2.2 Bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ Hải quan. 37 3.2.2.3 Củng cố các khâu nghiệp vụ. 38 3.2.3 Giải pháp về phía các doanh nghiệp xuất nhập khẩu 38 3.2.4 Các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện quy trình thu thuế XNK trong thời gian tới. 38 Kết luận 44 Danh mục tài liệu tham khảo                     45 NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN Họ tên người hướng dẫn : TH.S. Lý Phương Duyên Chức vụ: Giảng viên Bộ môn Thuế Nhà nước - Học viện Tài chính Nhận xét chuyên đề tốt nghiệp của sinh viên: Nguyễn Phước Cẩm Chi Lớp: D36- 02 Khoá: 36 Tên đề tài: “Một số giải pháp góp phần hoàn thiện quy trình thu thuế xuất nhập khẩu tại Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu Tổng cục Hải quan” Điểm: Bằng số:..................... Hà Nội, ngày.......tháng.......năm 2002 Bằng chữ:................... Giáo viên hướng dẫn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxNSNN0 thu thue XNK.docx
Tài liệu liên quan