Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa KỳPHẦN 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1 Xuất khẩu là gì? 1.2 Vai trò của xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế. 4 1.2.1 Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hóa đất nước. 4 1.2.2 Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển 5 1.2.3 Xuất khẩu có tác động đến tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. 6 1.2.4 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. 7 1.3 Khái quát về nghành dệt may 7 1.3.1 Đặc điểm cơ bản của ngành và vai trò trong nền kinh tế quốc dân. 7 1.3.2 Ảnh hưởng của ngành trong quá trình tăng trưởng kinh tế hướng về xuất khẩu. 8 PHẦN 2:TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ 2.1.1 Đặc điểm thị trường hàng dệt may Hoa Kỳ 13 2.1.2 Đặc điêm nhập khẩu hàng dệt may của thị trường Hoa Kỳ. 14 2.2.2. Đánh giá chung tình hình thực hiện hoạt động xuất hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ. 19 2.2.3 Những thời cơ và thách thức đặt ra đối với hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ 22 PHẦN 3:CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG HOA KỲ 3.1 Giải pháp đối với doanh nghiệp. 26 3.1.1 Nâng cao khả năng cạnh tranh. 26 3.1.2 Tập trung sản xuất hướng về xuất khẩu. 29 3.1.3 Tích cực nghiên cứu thị trường. 29 3.2 Các giải pháp tầm vĩ mô. 31 3.2.1 Hỗ trợ các doanh nghiệp dệ may xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ 31 3.2.2 Tăng cường đầu tư để nâng cao chất lượng vải, đảm bảo nguyên vật liệu thay thế và hỗ trợ thành lập các doanh nghiệp cung cấp nguyên phụ liệu, nguyên liệu may mặc trong nước. 32 3.2.3. Phát huy hơn nữa vai trò của Hiệp hội dệt may Việt Nam. 33 KẾT LUẬN 35 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 36 MỤC LỤC 37

doc38 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1779 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó. - Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định. - Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. - Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam, nhằm hiện đại hóa nền kinh tế của dất nước tạo ra một năng lực sản xuất mới. - Thông qua xuất khẩu, hàng hóa của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả , chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với thị trường. - Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất mở rộng thị trường. 1.2.3 Xuất khẩu có tác động đến tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. Tác động của xuất khẩu đến việc làm và đời sống bao gồm rất nhiều mặt. trước hết sản xuất, chế biến và dịch vụ hàng xuất khẩu đang trực tiếp là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ trực tiếp đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Quan trọng hơn cả là việc xuất khẩu tác động trực tiếp đến sản xuất làm cho cả quy mô lẫn tốc độ sản xuất tăng lên, các ngành nghề cũ được khôi phục, ngành nghề mới ra đời, sự phân công lao động mới đòi hỏi lao đoongj được sử dụng nhiều hơn, năng suất lao động cao và đời sống nhân dân được cải thiện 1.2.4 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Có thể hoạt động xuất khẩu có sớm hơn các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu và công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế... Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại chúng ta vừa kể lại tạo tiền đề mở rộng xuất khẩu. Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hóa đất nước. 1.3 Khái quát về nghành dệt may Với kinh nghiệm của các nước đã phát triển và những nước công nghiệp mới ở Châu Á, nghành dệt may đã và đang dược coi là nggàng mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam từ nay đến năm 2020. Thời kỳ đàu thế kỉ 20, các nước Anh, Ý, Pháp , Đức, Mỹ có nghành dệt may tương đối phát triển. Đến thập kỷ 70, các nước này có xu hướng tiêu thụ tăng nhưng sản xuất giảm, trong lúc đó các nước NICs Châu Á lại phát triển mạnh nghành sản xuất này. Nhưng xu hướng những năm gần đây, sự phát triển xuất ngành dệt may lại đang chuyển sang các nước có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ như Trung Quốc, Malaixia, Việt Nam... 1.3.1 Đặc điểm cơ bản của ngành và vai trò trong nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp dệt may là nghành có ý nghĩa trọng tâm trong giai đoạn chuyển đổi của Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. dệt may là một phần cấu thành quan trọng trong chính sách định hướng xuất khẩu của đát nước, nói một cách chung hơn, là một trong những nỗ lực của Việt Nam để hòa nhập vào nền kinh tế quốc tế. sự thành công về xuất khẩu trong nghành này thường mở đường cho sự xuất hiện của một chiến lược định hướng xuất khẩu có cơ sở rộng hơn với đặc điểm cơ bản của ngành là thu hút nhiều lao động, chiếm hơn 1/5 lực lượng lao động làm việc trong công nghiệp chế tạo của đát nước. Do đó góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp tạo thu nhập và ổn định đời sống cho người lao động. mặt khác đây là ngành đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu không lớn, ít rủi ro, thời gian thu hồi vốn nhanh và có điều kiện mở rộng thị trường sản xuất của nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Nghành công nghiệp dệt may ngaỳ càng đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vì nó không chỉ phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người mà còn là nghành giải quyết nhiều việc làm cho lao động xã hội, có thế mạnh trong xuất khẩu, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển và đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách Nhà nước. Như vật nghành dệt may hiện nay đang chiếm một vị trí khá quan trọng trong đóng góp cho xuất khẩu và nâng cao giá trị sản lượng của toàn bộ ngành công nghiệp Việt Nam. 1.3.2 Ảnh hưởng của ngành trong quá trình tăng trưởng kinh tế hướng về xuất khẩu. Thực chất của chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu là đặt sản xuất trong nước trong quan hệ cạnh tranh với thị trường quốc tế nhằm phát huy những lợi thế so sánh, buộc các nhà sản xuất trong nước phải luôn đổi mới công nghệ nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm... đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường thế giới và đem lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Điều này thể hiện rõ ở ngành dệt may Việt Nam: xuất khẩu hàng dệt may đã và đang là ngành xuất khẩu hàng của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21. Với mức tăng trưởng cao và ổn định từ 30% đến 40% suốt hơn chục năm qua xuất khẩu dệt may là một trong mười mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam hàng năm đem lại nguồn thu ngoại tệ khá lớn cho đất nước, nghành này còn góp phần tích cực giải quyết việc làm cho hàng triệu người lao động trên mọi miền của đất nước. Điều đó rất có ý nghĩa trong lúc chúng ta đang thiếu vốn thừa lao động. Bảng: Dự kiến cơ cấu hàng hóa đến năm 2010 Tên hàng 2005 2010 Lượng (Nghìn Tấn) Trị giá (Triệu USD) Lượng (Tấn) Trị giá (Triệu tấn) 1. Khoáng sản 2.520 1.750 Tỷ trọng khoáng sản(%) 9,3 3,5 Dầu thô và sản phẩm dầu 11.800 2.400 8.000 1.600 Than đá 4.000 120 5.000 150 Các loại quặng 0 0 2. Nông lâm thủy sản chính 5.845 8.600 Tỷ trọng NLTS chính(%) 21,6 17,2 Lạc nhân 130 75 180 100 Cao su và cao su chế biến 300 250 500 500 Cà phê và cà phê chế biến 700 700 750 850 Chè 78 100 140 200 Gạo 4.500 1.000 4.500 1.200 Rau quả và rau quả chế biến 800 1.600 Thủy sản và thủy sản chế biến 2.500 3.500 Nhân điều 200 400 Hạt tiêu 220 250 3. Hàng chế biến chính 11.500 20.600 Tỷ trọng hàng chế biến chính(%) 42,6 41,2 Thủ công mỹ nghệ 800 1.500 Dệt may 5.000 7.500 Giày dép 4.000 7.000 Thực phẩm chế biến 200 700 Sản phẩm gỗ 600 1.200 Hóa phẩm tiêu dùng 200 600 Sản phẩm nhựa 200 600 Sản phẩm cơ khí – điện 300 1.000 Vật liệu xây dựng 200 500 4. Hàng chế biến cao 2.500 7.000 Tỷ trọng hàng chế biến cao (%) 9,3 14,0 Điện tử và linh kiện máy tính 2.000 6.000 Phần mềm 500 1.000 Tổng các mặt hàng trên 22.365 37.950 Tỷ trọng các mặt hàng trên 83 76 5. Hàng khác 4.635 12.050 Tỷ trọng các mặt hàng khác 17 24 Dự kiến tổng kim ngạch 27.000 50.000 Nguồn: Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2005 – 2010 của Bộ Thương Mại Định hướng chuyển dịch cơ cấu hàng hóa là tăng tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến sử dụng nhiều lao động và kỹ thuật trung bình. Phấn đấu đến năm 2010 tỷ lệ hàng xuất khẩu chế biến chiếm từ 60 – 70% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. từng bước phát triển các ngành công nghệ cao làm nền tảng cho giai đoạn 2010 – 2020. Phát triển khu vực dịch vụ đặc biệt là những ngành dịch vụ mũi nhọn, xương sống của kinh tế tri thức như công nghệ phần mềm, bưu chính viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải và du lịch. Theo các chuyên gia dự báo vào năm 2020, tổng giá trị xuất khẩu của cả nước sẽ đạt khoảng 200 tỷ USD, gấp 10 lần so với năm 2003. Để đạt được mục tiêu này, cần nâng tỷ trọng giá trị của nhóm hàng chế biến sâu từ 30% hiện nay lên 70%. Nghĩa là, mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong 2 thập kỷ tới là những sản phẩm chế biến sâu, có hàm lượng kỹ thuật cao. Tăng hàm lượng xuất khẩu hàng chế biến sâu, gồm sản phẩm dệt – may, giày dép, sản phẩm điện tử sản phẩm cơ khí, hóa chất và các sản phẩm hóa chất, khí hóa lỏng, xăng dầu và các sản phẩm hóa dầu, sắt thép, sản phẩm hợp kim đặc biệt, vật liệu xây dựng, thực phẩm, dược phẩm... Phần lớn được hình thành và phát triển trong giai đoạn 2001 – 2010. Dự báo tỷ trọng nhóm hàng này sẽ tăng lên từ 40% 2002 lên 70% năm 2020. Qua phân tích từng nhóm hàng, một số mặt hàng mới sẽ xuất hiện và gia tăng nhanh để năm 2020 mỗi mặt hàng đạt giá trị xuất hiện và gia tăng nhanh để năm 2020 mỗi mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu vượt trên 10 tỷ USD ( như hóa chất, hợp kim đặc biệt, vật liệu xây dựng, khí hóa lỏng, xăng dầu và sản phẩm hóa dầu...) Duy trì và tăng cường một số mặt hàng xuất khẩu truyền thống trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực tới năm 2020 như dệt – may mặc, nông sản chế biến sâu, sản phẩm điện tử, dịch vụ phần mềm máy tính và du lịch... Với đường lối mở cửa và hội nhập vào cộng đồng thế giới nói chung và các nước trong khu vực nói riêng, nghành dệt may phải trực tiếp tham gia hợp tác về các lĩnh vực lao động mậu dịch, tham gia tiến hành cắt giảm thuế quan của khu vực mậu dịch tự do ASEAN, AFTA và tham gia vào các tổ chức quốc tế khác, nghành dệt may của chúng ta cần phải tích cực đổi mới với mức chi phí sản xuất thấp, công nhân cần cù sáng tạo cùng việc nâng cao chất lượng đặc biệt là quan tâm tới thị hiếu, mẫu mốt thời trang của thế giới. Việt Nam sẽ phát triển sản phẩm dệt may của mình trong quá trình tự do hóa mậu dịch và thích ứng được với xu thế chuyển dịch hàng dệt may của thế giới. PHẦN 2 TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ 2.1. Thị trường dệt may Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là một trong những nước có sức tiêu thụ hàng may mặc lớn nhất thế giới. do những tác động của xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Hoa Kỳ, nghành may mặc của nước này đang mất dần lợi thế so sánh. Đây là nghành sử dụng nhiều lao động, tuy nhiên từ năm 1970 tới nay lực lượng lao động trong nghành này ở Mỹ giảm 40%. Các nhà kinh tế dự đoán nghành may gia công Mỹ sẽ không còn tồn tại trong vòng mười năm tới. Nghành may gia công sẽ nhường chỗ cho nghành may hàng cao cấp với các nhãn hiệu nổi tiếng và nhân công có tay nghề cao. Vì thế có thể đánh giá Hoa Kỳ là mảnh đất tương đối lý tưởng và là thị trường đầy tiềm năng đối với các nước sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may công nghiệp trong đó có Việt Nam. 2.1.1 Đặc điểm thị trường hàng dệt may Hoa Kỳ Các nền kinh tế trên thế giới đều lấy Hoa Kỳ làm thị trường chủ lực bởi vì thị trường Hoa Kỳ có tổng giá trị buôn bán lớn nhất toàn cầu, hàng nhập khẩu đa dạng. Các doanh nghiệp có thể biết được năng lực cạnh tranh của mình thông qua việc nhập khẩu hàng hóa sang thị trường Mỹ. Qua đó tạo điều kiện thuận lợi thâm nhập và các thị trường khác. Mặt khác với diện tích khoảng 9,4 triệu kilômet vuông và dân số khoảng 280 triệu người đã làm cho Mỹ trở thành cường quốc kinh tế số một với sức mua lớn nhất thế giới. Hoa Kỳ cũng là nước nhập khẩu dệt may lớn nhất thế giới, hàng năm Hoa Kỳ có nhu cầu nhập khẩu trên 60 tỷ USD dệ may. Hơn nữa Hoa Kỳ lại là một quốc gia đa sắc tộc, đa văn hóa với nhu cầu may mặc rất đa dạng, ta có thể khai thác đặc diểm này từ thị trường Hoa Kỳ. Như vậy Hoa Kỳ là thị trường tiềm năng lớn cho mọi nhà sản xuất và xuất khẩu dệt may thế giới cũng như đối với các doanh nghiệp dệt may nước ta. 2.1.2 Đặc điêm nhập khẩu hàng dệt may của thị trường Hoa Kỳ. 2.1.2.1 Quy mô nhập khẩu hàng năm Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu chính của các nước xuất khẩu sản phẩm dệt may ở Đông Á và là nước đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng may mặc. HÀng năm Mỹ nhập khoảng 60 tỷ USD hàng may mặc và hàng dệt. Quy mô nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ ngày càng tăng. 2.1.2.2 Các quy định cho hàng dệt may. Hoa Kỳ là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), có tham gia hiệp định đa sợi MFA nên hàng dệt may vào Hoa Kỳ phải tuân thủ theo những nguyên tắc chung của MFA. Vì thế khi đưa hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ cần nắm được hai quy định quan trọng của hiệp định đa sợi MFA và quy định hệ thống hạn nghạch hàng dệt may Hoa Kỳ. + Quy định chung của Hiệp định đa sợi MFA : Hiệp định cho phép mỗi thành viên của MFA được xây dựng những thõa thuận song phương giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu hàng dệt. Các nước được đơn phương định đoạt các biện pháp khi thấy rằng thị trường dệt của mình bị phương hại. Hiệp định còn cho phép áp dụng hạn nghạch để hạn chế số lượng hàng dệt may nhập khẩu vào quốc gia mình, + Quy chế hệ thống hạn nghạch dệt may Hoa Kỳ: Tính đén năm 1998, Hoa Kỳ đã ký Hiệp định song phương và đa phương với 45 nước trong đó có 37 nước là thành viên của WTO và hiệp định này được xây dựng trên cơ sở thương lượng với thời hạn có hiệu lực từ 3-6 năm. Về cơ bản, mức Quota nhập khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ sẽ được áp dụng dựa trên cơ sở hay khối lượng hàng dệt đã được đưa vào thị trường Hoa Kỳ vào thời điểm đàm phấn. Nếu khối lượng hàng dệt may đưa vào thị trường Hoa Kỳ đạt 100000 tá sản phẩm thì hải quan của Hoa Kỳ bắt đàu theo dõi và khi khối lượng này đã tăng lên gấp đôi thì phía Hoa Kỳ sẽ chính thứcđề nghị đàm phấn để xác định hạn nghạch nhập khẩu. Như vậy để Việt Nam có thể nhận được hạn nghạch nhập khẩu lớn thì trong từ 1 đến 2 năm đầu kể từ khi Hiệp định có hiệu lực các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm dệt may Việt Nam phải nỗ lực tối đa để đưa khối lượng hàng hóa lớn sang thị trường này. 2.1.2.3 Chính sách thương mại của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may nói chung và hàng dệt may Việt Nam nói riêng. Xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ đang là vấn đề quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu của Việt Nam. Hoa Kỳ là một thị trường lớn rất “tự do” nhưng cũng được đánh giá là nhiều bất trắc nếu không nắm vững “ luật chơi”. Do đó trước khi xuất khẩu hàng sang Mỹ các doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ pháp luật của Hoa Kỳ. Về quy chế tối huệ quốc (MFN): gần như tất cả các bạn hàng buôn bán luôn của Mỹ đều được hưởng quy chế này. Hàng hóa đi từ tất cả các nước được hưởng quy chế này đều chịu cùng một mức thuế, khi Hoa Kỳ giảm thuế, loiạ bỏ hay có những thay đổi trong hệ thống thuế thì những sự thay đổi đó được áp dụng đối với tất cả các nước thành viên được hưởng MFN. Các mặt hàng nhập khẩu từ các nước chưa được hưởng MFN phải chịu mức thuế cao hơn. Với quy định này, khi xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ, doanh nghiệp Việt Nam ( Khi được hưởng MFN) có thể dễ dàng thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ nhưng phải đối mặt với hàng hóa được xuất khẩu từ các nước khác sang thị trường Hoa Kỳ cũng như được hưởng những ưu đãi tương tự. Về trị giá hải quan, Hoa Kỳ áp dụng cách thức tính giá hải quan của tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Để bảo vệ các công ty Hoa Kỳ trước các hoạt động nhập khẩu không bình đẳng, Hoa Kỳ áp dụng hai luật thuế là luật thuế đối kháng và luật thuế chống phá giá. Hai loại luật thuế này đòi hỏi phải áp dụng các mức thuế bổ sung khi có tình trạng buôn bán không lành mạnh. Luật thuế đối kháng thực thi bằng cách tăng thuế nhập khẩu để bù vào hay để đổi lại với khoản trợ cấp của hàng hóa nước ngoài gây thiệt hại vật chất cho các nhà sản xuất hàng hóa tương tự ở Hoa Kỳ. Các khoản trợ cấp chịu thuế đối kháng chủ yếu được các chính phủ nước ngoài cung cấp trực tiếp hay gián tiếp. Với luật thuế này, các doanh nghiệp Việt Nam khi được hưởng những ưu đãi của chính phủ cần thận trọng khi xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ vì có thể vi phạm các quy định của đạo luật này Luật thuế chống bán phá giá được sử dụng ở Mỹ rộng rãi hơn so với luật thuế đối kháng. Thuế chống phá giá là thuế được áp dụng đối với các sản phẩm nhập khẩu khi hàng hóa nước ngoài được xác định là bán phá giá hàng đã bán hoặc chắc chắn sẽ bán ở Hoa Kỳ với mức giá thấp hơn giá trị thị trường của nó. Về hệ thống hạn nghạch, Hoa Kỳ áp dụng hệ thống hạn nghạch để kiểm soát về khối lượng hàng háo nhập khẩu trong một thời gian dài nhất định. Luật thương mại Hoa Kỳ cho phép sản phẩm Hoa Kỳ đơn phương áp đặt các hạn nghạch mang tính hành chính đối với các loại hàng dệt may. có 2 loại hạn nghạch: Hạn nghạch tuyệt đối và hạn nghạch theo thuế suất. Hạn nghạch tuyệt đối là hạn nghạch hạn chế về số lượng. vì vậy trong suốt thời gian áp dụng hạn nghạch, chỉ một số lượng hàng hóa đã được ấn định mới được phép nhập khẩu. Một số hạn nghạch tuyệt đối được áp dụng trên toàn thế giới, còn một số chỉ áp dụng với một vài quốc gia nào đó. Số lượng hàng nhập khẩu dư lại so với hạn nghạch sẽ bị giữ lai tại một “ khu ngoại thương” để bổ sung cho kỳ hạn nghạch sao đó hay được đưa vào kho ngoại quan, cũng có thể bị trả về hoặc tiêu hủy dưới sự giám sát của nhân viên hải quan. Các hiệp định về hàng dệt may có quy định gia tăng các hạn nghạch theo từng thời điểm. Hạn nghạch tính theo mức thuế suất áp dụng cho một số lượng hàng nhập khẩu được quy định với một mức thuế thấp trong một thời hạn nào đó. Không có gới hạn về số lượng hàng nhập khẩu trong suốt thời hạn này, nhưng nếu hàng nhập khẩu vượt quá số lượng cho phép hưởng mức thuế thấp thì số hàng dư đó sẽ phải chịu mức thuế cao hơn. Về chế độ visa xuất khẩu, hàng dệt may cần có visa mới được vào Hoa Kỳ. Visa này được dùng để kiểm soát hàng dệt may và sản phẩm từ hàng dệt từ nước ngoài vào Hoa Kỳ. Một visa hàng dệt may có thể bao gồm hàng có hạn ngahchj hoặc không có hạn ngạch. Hàng dệt có hạn nghạch có thể cần hoặc không cần visa tùy thuộc vào nước xuất xứ. Nếu thời gian hạn nghạch chấm dứt mà visa cho hàng dệt cho hàng dệt may được cấp sau đó bởi chính phủ nước ngoài và hàng đã nhập vào Hoa Kỳ, lô hàng nhập này sẽ không được giải phóng cho nhà nhập khẩu cho đến khi hết hạn nghạch mới được cấp phép. Về nguyên tắc xuất xứ và ghi nhãn hiệu sản phẩm dệt may. Quy định về xuất xứ hàng nhập khẩu vào Hoa Kỳ: Khi xuất khẩu vào thị trường Hoa KỲ, muốn được hưởng thuế suất ưu đãi theo nước xuất xứ, luật Hoa KỲ quy định trên sản phẩm phải ghi rõ nhãn của nước xuất xứ. Quy định này chỉ bắt buộc đối với sản phẩm hoàn chỉnh, khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ có thể bán thẳng cho người tiêu dùng. có một quy định đặc biệt là hàng hóa gốc từ Hoa Kỳ đưa sang nước khác để sắp xếp lại, gia công thêm vào khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ sẽ không phải đóng thuế nhập khẩu. dựa vào quy định này một số nước nhận vải cắt sẵn từ các công ty Hoa Kỳ may thành quần áo rồi xuất khẩu trở lại cho Hoa Kỳ chỉ phải chịu thuế nhập khẩu đối với phần phí gia công. Quy định về nhãn mác hàng: Ở Mỹ có hai bộ luật quy định về nhãn mác hàng là TFPIA và ƯPLA. Hai bộ luật này được áp dungk cho hầu hết các sản phẩm dệt may nhập khẩu vào Hoa Kỳ với quy định: 1. Phân biệt tỷ trọng các loiạ sợi trong sản phẩm. Những loại sợi nào có tỷ trọng >5% thì phải dược ghi rõ tỷ trọng từng loại và đề là “otherfiber” ở cuối, các loại sợi có tỷ trọng <=5% sẽ được đề là “other fibers” 2. Tên của nhà sản xuất hoặc số liệu đăng ký tại FTC cho những thành viên tham gia phân phối và buôn bán sản phẩm. Thương hiệu phải được đăng ký tại cơ quan sáng chế Mỹ. 3. Quy định ghi tên quốc gia sản xuất hay gia công sản phẩm được quy định trong điều luật về chống thực sản phẩm dệt TPIA. Đối với những lô hàng nhập vào Hoa Kỳ có gias trị từ 500USD trở lên phải tuân thủ những điều kiện sau: Liệt kê tên các loại sợi cấu thành sản phẩm; tỷ trọng các loại sợi cấu thành; tên quốc gia dăng ký theo FTC hoặc theo mục 3 của TFPIA; tên của quốc gia sản xuất hoặc gia công sản phẩm đó. Như vậy để nhanh chóng tiếp cận thị trường Hoa Kỳ, các doanh nghiệp Việt Nam không những phải nắm vững nhu cầu thị trường, đảm bảo sản phẩm có sức cạnh tranh về chất lượng cũng như giá cả mà còn phải có sự hiểu biết về pháp luật Hoa Kỳ, các chính sách thương mại cũng như hiểu biết về phong cách làm ăn Hoa Kỳ. 2.1.2.4 Hiệp định thương mại Việt-Mỹ Ngày 13/7/2000, Hiệp định thương mại song phương Việt-Mỹ đã được ký kết, đánh đấ bước phát triển mới trong quan hệ kinh tế- thương mại giữa hai nước, kết thúc một quá trình đàm phán lâu dài và kiên trì của cả 2 bên qua 4 năm thương lượng với 9 vòng đàm phán. Hiệp định thương mại Việt- Mỹ bắt đàu có hiệu lực từ ngày 10-12-2001 đã đem lại cho hoạt đọng xuất khẩu của Việt Nam những thời cơ và thách thức mới. diều đó đòi hỏi chính phủ, đặc biệt là các nhà kinh doanh Việt Nam phải tính tới và xây dựng cho mình được lộ trình và bước đi thích hợp để dưa hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả cao trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh quốc tế gay gắt để đưa hàng hóa Việt Nam có chỗ đứng xứng đáng trên thị trường đầy tiềm năng này. 2.1.2.5 Đàm phán Hiệp định dệt may Việt- Mỹ. Khi hiệp định thương mại có hiệu lực, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ sẽ được hưởng quy chế thương mại bình thường, tuy nhiên trong hiệp định cũng quy định rằng hàng dệt may sẽ bị hạn chế bằng kim nghạch. Khi hiệp định về hàng dệt may được ký kết thì những vấn đề cơ bản cho việc nhập khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ cần tuân theo là: Tuân thủ các quy định về hạn nghạch và visa, nộp các bản kê khai về xuất xứ hàng hóa, các quy định về nhãn hàng hóa... Các sản phẩm nhập khẩu không đáp ứng được các quy định của chính phủ sẽ bị giữ lại và có thể bị phạt hoặc bị tịch thu. Ngoài việc phải tuân thủ theo các quy định trên nhà xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ còn phải tìm hiểu và tuân thủ theo các hạn chế cuả Hoa Kỳ về nhập khẩu hàng dệt may. 2.2.2. Đánh giá chung tình hình thực hiện hoạt động xuất hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ. 2.2.2.1. Thuận lợi. Hoa Kỳ thị trường đầy tiềm năng với sức mua lớn và đa dạng về các sản phẩm dệt may. Châu Á là khu vực xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất sang thị trường Hoa Kỳ với tổng giá trị xuất khẩu ngày càng gia tăng. Có thể nói yếu tos quan trọng nhất giúp cho hàng may mặc của các nước đang phát triển thiết lập và củng cố vị trí vững chắc của họ trên thị trường Hoa Kỳ là nhờ lợi thế chi phí nhân công thấp. Nước ta cũng không nằm ngoài thuận lợi này. Nghành công nghiệp dệt may Việt Nam có lợi thế tương đối về nguồn nhân công dồi dào và mức lương tương đối thấp so với các nước trong khu vực. Tính đến nay dân số Việt Nam khoảng 85 triệu người trong đó số người trong độ tuổi lao động lớn. Hàng năm tốc độ tăng dân số bình quân từ 1,85-2%, với tốc độ này theo các chuyên gia thì đến năm 2010 dân số Việt Nam khoảng 90 triệu người. Như vậy nguồn lao động của Việt Nam ngày càng tăng. Mặt khác bên cạnh lực lượng lao động dồi dào thì chi phí lao động cảu Việt Nam thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giưois. Do vậy, giá sản phẩm các mặt hàng dệt may của Việt Nam tương đối thấp so với các nước. Ví dụ: Nếu so với các nước Đông Nam Á thì giá công may của Việt Nam thấp từ 2 đến 48 lần và nếu so với Đức là 25,86 USD/1h, Nhật Bản là 19,2 USD/1h, Hoa Kỳ là 16,73 USD/1h thì giá công may của Việt Nam là từ 0,16-0,19 USD/1h, thấp từ 100-150 lần. Để giảm tối đa chi phí cho dệt may xuất khẩu, tạo mọi điều kiện cho sản phẩm dệt may cạnh tranh trên thị trường thế giới, chính sách thuế xuất nhập khẩu nước ta đã có nhiều ưu đãi cho nghành dệt may như: áp dụng mức thuế suất 0% đối với các sản phẩm dệt may xuất khẩu. Thuế giá trị gia tăng cũng áp dụng thuế suất 0%. Miễn thuế đối với vật tư nguyên liệu nhập khẩu để gia công hàng cho nước ngoài. Không áp đặt giá tính thuế tối thiểu để xác định giá tính thuế nhập khẩu đối với vật tư nguyên liệu sản xuất hàng dệt may, thuế suất đối với nhập klhẩu máy móc thiết bị phục vụ nghành dệt may hầu hết là 0%, vật tư nguyên liệu của hàng dệt may có thuế suất thấp từ 0%- 10%. 2.2.2.2 Khó khăn. Trong những năm gần đây, công nghiệp dệt may Việt Nam đã có bước tăng trưởng đáng kể. Ngành sử dụng nhiều lao động, giải quyết việc làm, có đngs góp lớn vào xuất khẩu, tạo điều kiện ổn định cán cân thu chi ngoại tệ theo hướng có tích lũy. Thành công đó đạt được là nhờ những thuận lợi mà nghành có, nếu phát huy cao độ tiềm năng và lợi thế so sánh về xuất khẩu nghành công nghiệp dệt may Việt NAm có thể tăng trưởng nhanh hơn nhiều. Bên cạnh những thuận lợi trên các doanh nghiệp dệt may còn gặp rất nhiều khó khăn khi xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Thứ nhất: Dệt và sản xuất phụ liệu chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu của nghành may xuất khẩu. Theo hiệp hội dệt may Việt Nam( Vitas) nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước đổ vào ngành sợi, dệt đã đưa năng lực sản xuất của nghành này tăng vọt. Tuy nhiên quy mô của nghành sợi, dệt trong mấy năm qua tuy tăng nhanh nhưng vẫn chưa theo kịp nhu cầu của nghành may. Ông Lê Quốc Ân, chủ tịch hiệp hội cho biết các nhà máy dệt, sợi trong nước hiện đã chạy hêt công suất nhưng mới chỉ đáp ứng được khoảng một nửa nhu cầu vải của thị trường. Riêng lĩnh vực may xuất khẩu, tỷ lệ sử dụng nguyên phụ liệu trong nước chỉ khoảng 25-30%. Hiện nghành trồng bông vải trong nước chỉ đáp ứng khoảng 11% nhu cầu bông thiên nhiên của ngành kéo sợi, còn xơ tổng hợp phải nhập khẩu toàn bộ. Thứ hai: Chưa có đội ngũ thiết kế mẫu mã hợp với thị hiếu tiêu dùng trên thế giới. Công tác thiết kế mẫu mốt còn yếu, chưa chú trọng mặc dù nước ta có một đội ngũ các nhà thiết kế giàu năng lực thế nhưng mẫu mã thiế kế chưa thực sự đi vào cuộc sống. còn thời trang hàng nagỳ phần lớn lại được sưu tầm từ các catalogue nước ngoài, khâu thiết kế còn nhiều hạn chế, chưa xây dựng được thương hiệu mang nét đặc trưng và đạt tầm cỡ quốc tế. Mặt khác, một sản phẩm sau khi đưa ra thị trường lại được duy trì trên thị trường khá lâu. Chỉ khi nào thấy người tiêu dùng đã chán sản phẩm đó, doanh nghiệp mới thôi không sản xuất nữa. Điều này lớn là, mặc dù khi doanh nghiệp phát hiện ra sự đi xuống trong chu kỳ sống của sản phẩm thì dừng lại không sản xuất nữa nhưng thực ra thị trường vẫn yồn đọng một số lượng sản phẩm chưa tiêu thụ được. Khác với chúng ta, các doanh nghiệp nước ngoài biết kết thúc sản xuất ngay từ khi sản phẩm đang ở đỉnh cao của chu kỳ sống và đưa ngay ra sản phẩm mới khác. Thứ ba: Khả năng cạnh tranh. Để tăng cường xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ hàng dệt may Việt Nam phải đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm của các hãng sản xuất Hoa Kỳ và các nước xuất khẩu truyền thống vào thị trường này như Trung Quốc, Ấn Độ và các nước Nam Mỹ. Mặt khác chúng ta mất sần lợi thế cào thị phần do giá hàng dệt may thường cao hơn các nước trong khu vực khoảng 10-15%, cao hơn giá hàng Trung Quốc khoảng 20%. Năng suất lao động trong nghành may khoảng 50-70% so với các nước trong khu vực. Thứ tư: Về hệ thống pháp luật và thông tin của thụ trường Hoa Kỳ: Hệ thống luật pháp của Hoa Kỳ hết sức, mỗi bang lại có thể lệ riêng không thể áp dụng từ bang này sang bang khác. Trong khi đó các doanh nghiệp lại thiếu kinh nghiêm về thị trường Hoa Kỳ, thiếu hiểu biết về môi trường kinh doanh ở Hoa Kỳ và thiếu kinh nghiệm kinh doanh quốc tế nên thường bị ép giá, giao hàng không đúng thời hạn, chậm đổi mới... đã làm cho sức cạnh tranh vốn đã yếu của hàng Việt Nam càng khó có thể thâm nhập nhanh và hiệu qur vào thị trường này. Sự yếu kém trên nhiều phương diện của các doanh nghiệp Việt Nam so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường Hoa kỳ đã trở thành hàng rào cản trở việc thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ của các doanh nghiệp Việt Nam trong những năm qua. Vấn đề đặt ra là bất cứ lúc nào các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải nhận thức được các cơ hội và thách thức trong việc thâm nhập vào thị trường Hoa K, trên cơ sở đó mà áp dụng các giải pháp mà đưa được nhiều hàng hóa vủa Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. 2.2.3 Những thời cơ và thách thức đặt ra đối với hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ 2.2.3.1 Thời cơ: * Hiệp định thương mai Việt- Mỹ (BTA) kí kết ngày 13/7/2000 được quốc hội hai nước phê chuẩn và có hiệu lực từ ngày 10/12/2001 là cơ hội bằng vàng cho nghành dệt may Việt Nam. Hiệp định BTA có hiệu lực và thị trường được mở rộng sẽ cho phép dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN hay NTR) và ưu đãi phổ cập – GSP với thuế suất 0%. Đây là cơ hội tiên quyết để dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ mà không bị hạn chế bởi hạn ngạch hay giấy phép nhập khẩu cảu chính nước chủ phủ Mỹ đang áp dụng với các nước khác. * An ninh kinh tế và chính trị của Việt Nam được các tổ chức có uy tín trên thế giới xếp loại nhất trong khu vực châu Á. Vì vậy sự kiện ngày 11-9 lại là cơ hội vàng cho nghành dệt may Việt Nam, vì các doanh nghiệp Hoa Kỳ không muốn ký kết hợp đồng làm ăn với những nơi không ổn định về chính trị. Nhiều đơn đặt hàng dệt may Hoa Kỳ từ những nước có kim nghạch xuất khẩu lớn được chuyển sang những nước có nền kinh tế ổn định như Trung Quốc, Việt Nam... Các tập đoàn lớn của Hoa Kỳ như JC PENNY, NIKE... đã chính thức đặt quan hệ với các doanh nghiệp Việt Nam; đồng thời các nhà daduf tư nước ngoài sẽ tập trung triển khai các dự án dệt may tại Việt Nam. Vì Việt Nam là nước được cộng đồng quốc tế đánh giá là một thị trường tiềm năng ổn định và có mức đầu tư tăng. * Mỹ bảo hộ hàng dệt là chính. do đó lợi thế thứ ba là Việt Nam xuất khẩu hàng may mặc là chủ yếu, còn hàng dệt hiện nay đang tụt hậu nên không đặt mục tiêu cai cho mặt hàng này vào thị trường Hoa Kỳ, bởi vậy không cần thiết phải áp dụng Quota. * Một lợi thế nữa là: Sự phát triển của khoa học kỹ thuật giúp cho các tổng công ty xuất khẩu Việt Nam giới thiệu và bán trực tiếp hàng may mặc cho người tiêu thụ thay vì qua các trung gian. Giá bán qua trung gian là giá đã bị ép rất nhiều, qua thương mại điện tử nếu bán trực tiếp được cho các bạn hàng lẻ thì gái có khả năng nâng lên tư 30% đến 50% thậm chí từ 80% đến 100% so với giá bán cho các nahf nhập khẩu nước ngoài. Phương án thương mại điện tử và bán trực tiếp cho những người buôn bán lẻ và những người tiêu thụ vừa tăng giá hàng vừa nhân gấp bội lần số hàng xuất khẩu và giải quyết cơ bản việc các doanh nghiệp Việt Nam xé rào nhận gia công với giá thấp. 2.2.3.2 Bên cạnh những thời cơ, nghành dệt may Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức lớn. Hàng dệt may là lĩnh vực các nước đang phát triển có lợi thế và tiềm năng phát triển cao bởi đặc thù của nghành này là sử dụng nhiều lao động, công nghệ tương đối dễ tiếp cận, quy mô thị trường tiêu thụ lớn... Do vậy trong định hướng phát triển kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi để đưa dệt may trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn hướng ra thị trường khu vực và quốc tế. Tuy vậy trong xu hướng hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, trước những khó khăn chủ quan cũng như khách quan của nền kinh tế nước nhà thì bên cạnh những cơ hội là không ít thách thức chờ đón. Thuế suất: Hoa Kỳ là thị trường tiềm năng với sức mua lớn và đa dạng về các sản phẩm dệt may. Thực tế cho thấy mặc dù sản phẩm dệt may Việt Nam đã bắt đầu tìm thấy hy vọng trên thị trường Hoa Kỳ nhưng qua những khó khăn mà ta gặp phải cho thấy nó chưa có được vị trí vững chắc trên thị trường đầy hấp dẫn này. Những yếu tố pháp lý là những rào cản lớn cho hàng dệt may Việt Nam. Sự cạnh tranh gay gắt các sản phẩm của Hoa Kỳ và các nước xuất khẩu truyền thống vào Hoa Kỳ như Bănglađat, Ấn Độ... nhất là Trung Quốc. Theo kết quả nghiên cứu của một nhóm chuyên gia, khả năng tiếp cận thị trường nước ngoài hiện nay của nghành dệt may Việt Nam bị nhiều cản trở. Số lượng hạn nghạch được hưởng chỉ bằng 5% của Trung Quốc và bằng 10%-20% của các nước ASEAN, số mặt hàng bị hạn chế nhiều. Trung Quốc giữ vị trí hàng đầu trong nghành dệt may thế giới về sản lượng sợi bông và đứng thú 2 về sợi hóa học (2,9 triệu tấn). Kể từ đầu những năm 90, Trung Quốc luôn là một trong những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu hàng dệt và may mặc, kim nghạch xuất khẩu chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim nghạch buôn bán dệt may toàn cầu. Nghành dệt may Trung Quốc là một nghành có sức cạnh tranh mạnh nhất trên thị trường thế giới vì nghành này có nhiều lợi thế rất lớn từ nguyên liệu bông, xơ hóa chất, thuốc nhuộm đến máy móc thiết bị sợi, dệt, hoàn tất đều do các nghành sản xuất trong nước cung cấp cùng với giá nhân công thấp và các chính sách hỗ trợ xuất khẩu của chính phủ Trung Quốc đã làm cho ngành này phát triển nhanh chóng. Trung Quốc lại là thành viên của WTO trước đó nên đã được hưởng quy chế tối huệ quốc của Hoa Kỳ từ nhiều năm nay đã chiếm lĩnh được thị trường quan trọng này. Mặt khác các doanh nghiệp Trung Quốc đã xây dựng được hệ thống cập nhật thông tin chính xác cũng như có khả năng thích ứng kịp thời trước những yêu cầu mới của thị trường để luôn tung ra những sản phẩm mới. Về điểm này, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa theo kịp. Ngoài ra theo các chuyên gia nghiên cứu cho thấy nhiều doanh nghiệp Việt Nam chỉ nghĩ tới việc thay gia nghiên cứu đổi mẫu mã sản phẩm khi chu kỳ sống của sản phẩm đó đã bước sang giai đoạn thoái trào, hàng không bán được nữa . Điều này khiến cho dù đã chấm dứt sản xuất nhưng hàng vẫn còn lưu thông rất nhiều trên thị trường. Trong khi đó các doanh nghiệp Trung Quốc luôn thay đổi mẫu tư khi sản phẩm vẫn còn đang ăn khách nên mẫu mã hàng hóa của các doanh nghiệp Trung Quốc luôn mới . Như vậy ta thấy sản phẩm dệt may của Trung Quốc có sự cạnh tranh với sản phẩm dệt may cảu nước ta gay gắt nhất, không những sự cạnh tranh đó ở những thị trường trọng điểm như Hoa Kỳ, Nhật Bản... mà còn tại trong thị trường nội địa của Việt Nam. PHẦN 3 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG HOA KỲ Để xây dựng dình ảnh sản phẩm dệt may Việt nam có “ chất lượng – uy tín trách nhiệm xã hội” và trước tình trạng hạn ngạch bị áp đặt quá khắt khe, chúng ra cần phải đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhằm thúc đảy xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ. 3.1 Giải pháp đối với doanh nghiệp. 3.1.1 Nâng cao khả năng cạnh tranh. Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế cơ bảncủa kinh tế thị trường. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải có khả năng cạnh tranh cao. Đặc biệt đối với ngành sản xuất dệt may, do có đặc điểm là không đòi hỏi vốn lớn, lại thu hồi nhanh và sử dụng nhiều lao động, là ngành được hầu hết các nước đang phát triển tham gia, nên mức độ cạnh tranh càng cao. Nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành: Trong điều kiện kinh tế thị trường với xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, đòi hỏi các doanh nghiệp phải xây dựng cơ cấu kinh doanh phù hợp để đảm bảo sản phẩm sản xuất ra có sức cạnh tranh quốc tế. Trong đó phải kể đến chất lượng và giá cả của sản phẩm. Bởi vì chất lượng và giá cả của sản phẩm là yếu tố quyết định sự tồn tại, phát triển và sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế. Nâng cao tay nghề đội nhũ công nhân lành nghề và đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý. Như ta đã biết lợi thế so sánh của nước ta so với nước khác là lao động rẻ nhưng không mãi mãi. Do đó, phát triển và xây dựng nguồn nhân lực hiệu quả được xem là yếu tố có tính chiến lược then chốt. Rõ ràng, vào thời điểm hiện nay Việt Nam đang có lợi thế về mặt lao động so với nhiều nước khác trên thế giới cũng như trong khu vực , cho nên các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có thể cạnh tranh bằng giá cả nếu các mức thuế bị đánh vào hàng xuất khẩu bằng nhau và bằng một lượng như nhau. Việt Nam còn bị thiệt thòi do hàng Việt Nam xuất ra thị trường quốc tế quá muộn cho nên các nhẫn hiệu Việt Nam chưa được nhiều người biết đế, thị trường mở rộng khó khăn do thói quên khó thay đổi của người tiêu dùng. vì thế Việt Nam cần tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư đã có danh tiếng trên thế giới, sản xuất các loiạ mặt hnagf sử dụng nguồn lao động nhiều và rẻ của Việt Nam nhưng lại sản xuất bằng công nghệ tiên tiến của các hãng nổi tiếng, sản xuất các loại mặt hàng gắn nhãn hiệu của họ. Điều đó cho phép các sản phẩm của Việt Nam vượt qua các loại hàng rào thuế quan cũng như phi thuế quan để cạnh tranh trên thị trường thế giới bằng mức giá rẻ và chất lượng không kém so với cá loại sản phẩm của các hãng đó sản xuất ở nước khác. Bằng cách như vậy sản phẩm của Việt Nam mới dần dần tìm được thị trường mới, đi vào thói quen của người tiêu dùng khó tính và ít thay đổi. Đồng thời Việt Nam có thể tận dụng và phát triển một cách có hiệu quả nguồn nhân lực của mình để đạt được các mặt hàng chất lượng thế giới. Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng cáo, khuếch trương sản phẩm của Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ. Tạo lập tên tuổi thương hiệu cho sản phẩm: Muốn xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm dệt may phải có được các nhãn mác riêng của mình. nếu không tạo lập được tên tuổi riêng cho các sản phẩm, thì ngành dệt may mà nhất là dệt may Việt Nam sẽ mãi mãi chỉ là “ may gia công”. Bản thân doanh nghiệp ngay từ đầu phải xác định được tầm quan trọng của thương hiệu “ Muốn xây dựng tương lai doanh nghiệp thì một trong những yếu tố không thể thiếu là chiến lược xây dựng thương hiệu doanh nghiệp”. Đối với nghàng dệt may Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, tùy thị trường mục tiêu là nội địa hoặc xuất khẩu mà mỗi doanh nghiệp cần quyết định việc xây dựng thương hiệu phù hợp cho sản phẩm hoặc cho doanh nghiệp. Thị trường nội địa với trên 80 triệu dân, tuy vẫn còn tâm lý chuộng hàng ngoại, nhưng đã bắt đầu chấp nhận và cổ vũ cho hàng Việt Nam và thương hiệu Việt Nam. tuy nhiên đối với thị trường nước ngoài nhất là Mỹ thì do người tiêu dùng tại thị trường này chỉ quen với các nhãn hiệu đã nổi tiếng của các nhà thiết kế và sản xuất hàng thời trang nước ngoài nên các thương hiệu thời trang Việt Nam rất khó thâm nhập. Do vậy hiện tại chưa nên xây dựng thương hiệu sản phẩm tại thị trường nước ngoài mà cần tập trung nguồn lực để xây dựng thương hiệu doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu có tín nhiệm về quản lý chất lượng sản phẩm, giao hnagf đúng hạn, có khả năng giao hàng nhanh và có trách nhiệm cao với cộng đồng xã hội. Mục tiêu là tạo dựng và quảng bá thương hiệu doanh nghiệp sản xuất có uy tín nhằm thu hút đơn đặt hàng của các nhà nhập khẩu nước ngoài có nhãn hiệu và đẳng cấp cao với đơn đặt hàng lớn, ổn định và giá cả phù hợp nhất trong hoàn cảnh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, cần xúc tiến nhanh việc thành lập trung tâm giới thiệu sản phẩm, tiếp tục tổ chức nhiều đoàn doanh nghiệp sang tìm kiếm cơ hội kinh doanh, có chính sách hỗ trợ thành lập văn phòng đại diện tại MỸ, giúp các doanh nghiệp đăng ký thương hiêị và bảo vệ thương hiệu. Ngoài ra các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phấn đấu để đạt được chứng chỉ WRAP ( Wordwide Responsble Apparel Production) nhằm nâng cao ưu thế cạnh tranh trong việc tìm kiếm khách hàng Mỹ. Bởi vì đạt được chứng chỉ WRAP là phương thức hiệu quả để chứng minh việc cam kết và tuân thủ điều kiện và môi trường làm việc với khách hàng mới từ thị trường Mỹ và thế giới. WRAP là một tổ chức chứng nhận hệ thống tuân thủ về điều kiện lao động cho ngành may mặc được ủng hộ bởi hiệp hội may mặc và giầy Mỹ. Hiệp hội này gồm hơn 300 công ty thuộc ngành may mặc và giầy Mỹ. Hiệp hội này gồm hơn 300 công ty thuộc nghành may mặc trong đó có nhiều thương hiệu nổi tiếng chiếm lĩnh 80% thị trường phân phối của Mỹ. 3.1.2 Tập trung sản xuất hướng về xuất khẩu. Liên doanh liên kết. Tăng cường tham gia liên doanh liên kết vào các hiệp hội ngành hàng để hạn chế tình trạng hàng hóa Việt Nam bị ép giá trên thị trường Mỹ. Thực tế cho thấy liên kết dệt may là vấn đề nhức nhối nhất trong tổ chức sản xuất của ngành dệt may Việt Nam. Hiện nay, sức cạnh tranh kém, hiệu quả thấp cũng bắt nguồn từ việc chưa thực hiện được mối liên kết này. Thông thường các doanh nhân Mỹ đặt hàng với khối lượng lớn. Các nhà phân phối Mỹ thường thiết lập hệ thống phân phối toàn cầu, nghĩa là không chỉ bán ở Mỹ thường thiết lập hệ thống phân phối toàn cầu, nghĩa là không chỉ bán ở Mỹ mà theo các kênh đi khắp thế giới. Trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam với quy mô vừa và nhỏ, khả năng tổ chức cà nguồn lực có hạn khó lòng đáp ứng được các đơn hàng có quy mô lớn. Do vậy nếu nhận được đơn đặt hàng vượt quá khả năng của mình các doanh nghiệp nên liên kết với các doanh nghiệp khác cùng nghành hàng để đảm bảo quy mô và thời gian giao hàng. giảm bớt cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong hợp tác cùng xuất khẩu. Trước thực tế xuất khẩu dệt may sang Mỹ hiện nay sản phẩm dệt may của Việt Nam phải có tính cạnh tranh tối ưu hơn các quốc gia khác vì thế các doanh nghiệp không nên cạnh tranh lẫn nhau mà phải tập trung nhau lại giúp đỡ lẫn nhau để tạo thế và lực cạnh tranh với các nước khác. 3.1.3 Tích cực nghiên cứu thị trường. Năm bắt thông tin kịp thời. tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, nắm các thông tin về hệ thống pháp luật và các đặc điểm tiêu dùng của người Mỹ, các doanh nghiệp không những phải nắm vững nhu cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng và đảm bảo sản phẩm có sức cạnh tranh về chất lượng cũng như giá cả mà điều quan trọng không kém là phải thông thạo hệ thống pháp luật của Mỹ, nắm được hệ thống quản lý xuất nhập khẩu. Tận dụng sự phát triển của công nghệ thông tin một cách có hiệu quả. Các biện pháp này có thể được thực hiện thông qua các hội chợ, triển lãm và đặc biệt là thông qua mạng Internet. Để có thể hoạt động tốt trong thương mại điện tử, các doanh nghiệp cần xác định bước đi thích hợp trong sử dụng Internet, cụ thể là: Chuẩn bị làm việc trong môi trường tiếng Anh là chủ yếu, nahnh chóng làm quen và sử dụng các dịch vụ Internet như thư diện tử ( E-mail). Thông qua E-mail doanh nghiệp có thể truyền tải văn bản, hình ảnh, tương lai có cả video và âm thanh. Tham gia trao đổi tin tức trên mạng Internet, doanh nghiệp có thể tham gia trao đổi theo một nhóm chuyên nghành hẹp theo chủ đề daonh nghiệp quan tâm. Bằng cách này, doanh nghiệp có thể tiến hành nghiên cứu thị trường, nghiên cứu sản phẩm, tiếp xúc với khách hàng. Tiến hành mua bảo hàng cho các sản phẩm. Theo luật trách nhiệm sản phẩm của Mỹ, nếu người sản xuất thua kiện liên quan đến chất lượng sản phẩm sẽ bị tịch biên tất cả tài sản ở thị trường Mỹ, và không bao giờ có thể quay lại kinh doanh tại thị trường này. Vì vậy, các nhà sản xuất Việt Nam nên mua bảo hành cho các thiệt hại về trách nhiệm sản phẩm. Loại bảo hành này không những bảo hành các rủi ro về tách nhiệm sản phẩm mà còn bảo hành các rủi ro khi quá cảnh qua biển và các rủi ro liên quan. Nghiên cứu kỹ các đặc điểm, yêu cầu của thị trường Mỹ và đề ra các chiến lược phù hợp. mỹ là nước có hệ thống pháp luật phức tạp nhưng chặt chẽ và khắt khe thuộc loại hàng đầu thế giới. Do tính chất nghiêm ngặt của luật pháp Mỹ nên các doanh nghiệp Việt Nam quen kiểu làm ăn có tính chất chụp giật, luồn lách sẽ dễ mắc sai lầm và trả giá đắt khi kinh doanh với Mỹ. Để kinh daonh thành công trên thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam cần tìm hiểu các công cụ cơ sở thương mại của Mỹ, nắm vững các đạo luật về bảo vệ môi trường, luật chống độc quyền, luật về trách nhiệm sản phẩm... Tích cực tìm hiểu về thị trường Mỹ, thu thập và xử lý tốt thông tin để có các quyết định đúng khi thâm nhập và thị trường. 3.2 Các giải pháp tầm vĩ mô. 3.2.1 Hỗ trợ các doanh nghiệp dệ may xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, thường xuyên cung cấp các thông tin cập nhật về thị trường Mỹ cho các doanh nghiệp. Các thông tin về hệ thống luật pháp, về thị trường cho các doanh nghiệp lần đầu tiên kinh doanh ở thị trường Mỹ, về giá cả, cạnh tranh, biết đổi trong nhu cầu tiêu dùng. Để làm tốt điều này, đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất lớn của các cơ quan tham tán thương mại. Nhà nước có thể thành lập các văn phòng đại diện theo từng khu vực địa lý lớn ở Mỹ hoặc các hiệp hội của mỗi ngành phải hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm các thông tin mới. Ngoài ra cần có sự phối hợp các doanh nghiệp trong việc đáp ứng các đơn đặt hàng lớn, có thể tổ chức các lớp học định kỳ hoặc thường xuyên nhằm bồi dưỡng kiến thức cho các doanh nghiệp. Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu. Đổi mới hoạt động của các bộ phận thương vụ, đại diện thương mại Việt Nam ở MỸ nhằm xúc tiến được các cơ hội làm ăn cho các doanh nghiệp Việt Nam, gắn với nhu cầu tiếp thị và hiệu quả của các doanh nghiệp. Các thông tin này cần chú trọng tìm hiểu thị trường và cung cấp kịp thời cho các doanh nghiệp trong nước, đảm bảo tính nhanh nhạy và giúp cho cácdoanh nghiệp có thể đáp ứng kịp thời những thay đổi của thị trường và nắm bắt được những nhu cầu mới phát sinh. Đồng thời cũng cần xem xét và thõa thuận cho phép các doanh nghiệp Việt Nam được mở văn phòng đại diện ở Mỹ để củng cố và phát triển kiên toàn bộ máy, nâng cao chất lượng hoạt động của các bộ phận liên quan nhằm đáp ứng yêu cầu quản ký nhà nước về xuất khẩu, có quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý, điều hành hoạt động xuất nhập khẩu nhằm thực hiện tốt luật thương mại. Nhà nước đàu tư thành lập ngân hàng dữ liệu công nghệ và áp dụng chế độ đăng ký, kiểm nghiệm chất lượng đối với hàng hóa xuất khẩu. Để giải quyết các khó khăn về chất lượng của hàng hóa Việt Nam tại Mỹ, nhà nước cần phải hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới công nghệ thông qua cung cấp các thông tin về công nghệ và áp dụng chế độ đăng ký, kiểm tra chất lượng bắt buộc bắt buộc đối với hàng xuất khẩu. Việc áp dụng chế độ đăng ký và kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với hàng xuất khẩu sẽ vừa thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn nữa đến vấn đề công nghệ, vừa nâng cao uy tín cho hàng hóa Việt Nam trên thị trường Mỹ nói riêng và thị trường thế giới nói chung. Chất lượng hàng hóa xuất khẩu có thể được nâng cao, từ đó tạo ra sức cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam bằng cách áp dụng chế độ kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với mặt hàng có kim nghạch xuất khẩu lớn như dệt may. Ngành hải quan và nghành thuế tiếp tục cải tiến thủ tục xuất nhập khẩu, thủ tục đóng và hoàn thuế... để giúp donh nghiệp rút ngắn thời gian giao nhận hàng và thanh lý. Cho phép doanh nghiệp được tính dung sai trong kiểm tra vật tư nhập khẩu. Cho phép doanh nghiệp được tính dung sai trong kiểm tra vật tư nhập khẩu. Cho phép doanh nghiệp miễn thanh lý vật tư nhập khẩu nếu giá trị còn ở mức hợp lý. Linh hoạt trong việc kiểm tra nhãn xuất xứ hàng sản xuất tại Việt Nam. Không bắt buộc doanh nghiệp phải đóng VAT vật tư nhập khẩu để sản xuất khi nhận hàng. 3.2.2 Tăng cường đầu tư để nâng cao chất lượng vải, đảm bảo nguyên vật liệu thay thế và hỗ trợ thành lập các doanh nghiệp cung cấp nguyên phụ liệu, nguyên liệu may mặc trong nước. Theo Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS), nguồn cốn đầu tư trong và ngoài nước đổ vào ngành sợi, dệt đã đưa năng lực sản xuất ngày càng tăng vọt. Tuy nhiên, quy mô vẫn chưa theo kịp nhu cầu của nghành may. Do đó phải tăng cường đầu tư để nâng cao chất lươngk vải, đảm bảo nguyên vật liệu thay thếvà hỗ trợ thành lập các doanh nghiệp cung cấp phụ liệu, nguyên liệu may mặc trong nước. Bằng cách: - Phát triển sản xuất phụ liệu may mặc trong nước với công nghệ tiên tiến để sản xuất các sản phẩm phù hợp với yêu cầu may xuất khẩu. - Có chính sách khuyến khích sử dụng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước, ưu tiên hạn nghạch cho các doanh nghiệp sử dụng nguyên phụ liệu trong nước. - Hoạch định chiến lược đồng bộ về phát triển các doanh nghiệp sử dụng nguyên phụ liệu cho công nghiệp dệt, tạo điều kiện để nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm giá thành, tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm dệt. - Phụ liệu cho sản phẩm may có thể chiếm 25%-35% giá thành, vì thế ngoài việc phát triển sản xuất phụ liệu trong nước còn phải chủ động lựa chọn ổn định việc nhập khẩu các phụ liệu cho sản phẩm may. Như vậy, việc nâng cao định hướng phát triển nghành dệt không chỉ xem xét trình độ hiện tại của công nghiệp dệt mà còn đặt trong mối liên hệ liên nghành, những tính toán cả về mặt kinh tế và xã hội đặt trong sự chuyển biến tích cực cả về trình độ công nghệ và năng lực quản lý. Vì vậy chú trọng đàu tư phát triển nghành sợi dệt Việt Nam có khả năng thõa mãn được cả những yêu cầu của bản thân nghành dệt may và yêu cầu chung của nền kinh tế quốc dân. 3.2.3. Phát huy hơn nữa vai trò của Hiệp hội dệt may Việt Nam. Hiệp hội dệt may là một tổ chức trung tâm hội nhập đoàn kết giữa các doanh nghiệp trong nghành dệt may cả nước không phân biệt thành phần kinh tế, hoạt động theo điều lệ trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện và trên cơ sở tuân thủ luật pháp của Nhà nước. Trước tình hình hiện naym Hiệp hội cấn có vai trò tích cực hơn nữa trong việc hỗ trợ cung cấp thông tin tìm kiếm thị trường và giới thiệu đối tác cho các doanh nghiệp thành viên. Mặt khác, là đại diện cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Hiệp hội cần tích cực tham gia hoạt động với các tổ chức quốc tế và khu vực liên quan đến hoạt động ngành dệt may như: AFTEX ( Hiệp hội dệt may ASEAN), Diễn đàn ngành dệt may vùng Châu Á Thái Bình Dương... để trao đổi thông tin và kiến nghị những chính sách về mậu dịch của ngành dệt may trong nước đối với khu vực và thế giới. KẾT LUẬN Trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam thì nghành dệt may Việt Nam chiếm một tỷ trọng khá lớn, là nghành hàng mũi nhọn để xuất khẩu. Việt Nam có tiềm năng rất lớn trong việc sản xuất hàng dệt may, đây là nghành phù hợp với điều kiện kinh tế và phát huy được các lợi thế so sánh của Việt Nam. Nó có vai trò hết sức quan rọng trong nền kinh tế quốc dân vì thu hút được nguồn lao động lớn, tạo công ăn việc làm đồng thời tạo nguồn hàng xuất khẩu có giá trị cao. Do vai trò tạo đà cho nền kinh tế cất cánh nên đề tài “ Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ” có ý nghĩa thực tiễn rất cao. Bởi vì Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam. Riêng trong 6 tháng đàu năm 2007 kim nghạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 1,974 triệu USD, tăng 20,7 % so với cùng kỳ năm ngoái. Mặc dù kết quả xuất khẩu của nghành dệt may không như mong đợi, bởi sự lo ngại cơ chế giám sát của Hoa Kỳ nhưng sự tăng trưởng trên vẫn được coi là khá bền vững. Để ngăn chặn tình huống xấu đối với hàng dệt may Việt Nam xuất sang thị trường Hoa Kỳ các cơ quan chức năng và các bộ nghành liên quan cần phải giám sát chặt chẽ hoạt động xuất khẩu sang thị trường này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Kinh Tế và Quản Lý Công Nghiệp – NXB Giáo Dục Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam – NXB Giáo Dục Giáo trình Kinh Tế Ngoại Thương – NXB Lao Động – Xã hội Giáo trình Chính sách kinh tế - xã hội – NXB Khoa Học và Kỹ Thuật WTO thuận lợi và thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam NXB Lao động – Xã hội Báo thương mại điện tử Cổng thông tin doanh nghiệp Việt Nam Tạp chí Nghiên cứu phát triển số 197 (3/2007) Tổng công ty dệt may Việt Nam Tạp chí Doanh nghiệp & Thương mại số 14/2007 - MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc61825.DOC
Tài liệu liên quan