Mekong River Delta, one of the largest deltas of Asia, has a high risk of flood due to the present sea level rise under
the global climate warming. Therefore, the studies on Mekong River Delta evolution have been interested in the recent
years, especially the subaqueous delta part, in which the land-ocean interaction takes place intensively. The
sedimentation on the subaqueous delta and the adjacent shelf has an important significance in evaluating the
development of the modern Mekong Delta and contributes to predict its future. However, the sedimentation research
results on the subaqueous delta of Mekong River Delta and the adjacent shelf are still sparse. In this study, some
features of geomorphology and geology of Mekong Delta were summarized and sediment accumulation rates at two
points in the study area were calculated by measurement of radionuclides (210Pb, 226Ra, 137Cs). The sediment
accumulation rate at the prodelta, southeast of Ca Mau Peninsular is 0.41 cm/year corresponding to mass accumulation
rate 0.36g cm-2 year-1. The sediment accumulation rate on the shelf, southwestwards the study area is 0.14cm/year
corresponding to mass accumulation rate 0.17 g cm -2 year-1.
9 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 594 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số kết quả nghiên cứu về tốc độ tích tụ trầm tích phần chân châu thổ Mê Kông và thềm kế cận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
10
35(1), 10-18 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 3-2013
MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
VỀ TỐC ĐỘ TÍCH TỤ TRẦM TÍCH PHẦN CHÂN
CHÂU THỔ MÊ KÔNG VÀ THỀM KẾ CẬN
NGUYỄN TRUNG THÀNH1, PHÙNG VĂN PHÁCH1, LÊ NGỌC ANH1,
NGUYỄN TRUNG MINH2, BÙI VIỆT DŨNG3, NGUYỄN QUANG LONG4
E-mail: thanhtramtich@yahoo.com
1Viện Địa chất và Địa vật lý Biển, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
2Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
3Viện Dầu Khí, Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam
4Viện Khoa học Kỹ thuật Hạt nhân, Bộ Khoa học và Công nghệ
Ngày nhận bài: 29 - 8 - 2012
1. Mở đầu
Sông Mê Kông bắt nguồn từ cao nguyên Tây
Tạng, chảy qua sáu quốc gia bao gồm Trung Quốc,
Miến Điện, Lào, Thái Lan và Việt Nam trước khi
đổ vào Biển Đông. Sông Mê Kông dài khoảng
4880 km và có diện tích lưu vực 795.000km2 [26].
Lưu lượng nước sông chảy ra biển trung bình là
470km3/năm với lưu lượng vận chuyển trầm tích là
160 × 106 tấn/năm và được xếp thứ 10 trên thế giới
dựa trên cơ sở của dòng chảy trung bình hàng năm
tại cửa sông [10, 11]. Sông Mê Kông phân thành
hai nhánh lớn khi chảy vào Việt Nam là sông Tiền
và sông Hậu. Sông Tiền chảy ra Biển Đông qua
sáu cửa sông bao gồm Cung Hầu, Cổ Chiên, Hàm
Luông, Ba Lai, Cửa Đại và Cửa Tiểu, trong khi đó
sông Hậu chảy ra biển qua hai cửa sông là Định An
và Tranh Đề.
Châu thổ sông Mê Kông có hình dạng tam giác,
bắt đầu từ Kompong Cham, Campuchia, bao phủ
diện tích khoảng 49500 km2. Trong đó, diện tích
châu thổ trên lãnh thổ Việt Nam chiếm khoảng
74% vẫn thường được gọi là đồng bằng sông Cửu
Long (ĐBSCL). ĐBSCL cung cấp gần một nửa sản
lượng lúa gạo cho Việt Nam, khoảng 20 triệu
tấn/năm và trên một nửa sản lượng xuất khẩu thủy
sản [27]. Dân số trên ĐBSCL là khoảng 17 triệu
người. Đây là vùng có mật độ dân số cao hàng thứ
hai của Việt Nam với mật độ trung bình 423
người/km2, chiếm 21% dân số quốc gia. Vùng châu
thổ là vùng trọng điểm về kinh tế bởi nó đóng góp
diện tích trồng lúa lớn nhất cả nước. Tuy nhiên,
khu vực này với độ cao phần lớn xấp xỉ mực nước
biển hiện tại nên dễ bị tổn thương trước sự gia tăng
của mực nước biển hiện nay.
Về phương diện khí hậu, châu thổ Mê Kông
được đặc trưng bởi các điều kiện nhiệt đới nóng ẩm
và chịu ảnh hưởng mạnh bởi hệ thống gió mùa
Châu Á. Gió mùa tây nam gây ra lượng mưa lớn
chiếm hơn 80% lượng mưa hàng năm và xảy ra
vào khoảng giữa tháng năm và tháng mười [3].
Lưu lượng nước tại Phnôm Pênh đạt cực đại vào
tháng mười và cực tiểu vào tháng năm [5, 9, 24].
Một lượng lớn trầm tích được vận chuyển ra biển
vào mùa mưa. Trong khi đó vào mùa khô lưu
lượng nước sông và lượng mưa đều rất nhỏ. Tuy
nhiên, vùng biển nơi sông Mê Kông chảy vào chịu
ảnh hưởng đáng kể của gió mùa đông bắc.
Trong những năm qua, nhiều nghiên cứu về địa
chất địa mạo trên phần đồng bằng châu thổ đã
được tiến hành như nghiên cứu của Nguyen (1993)
[11], Nguyen và nnk (2000) [13], Ta và nnk
(2002a, 2002b, 2005) [18, 19, 20], Tamura và nnk
(2009) [21], Hanebuth và nnk (2009) [5], Nguyễn
Biểu và nnk (2009) [1], Nguyễn Thị Ngọc Lan và
Trần Kim Thạch (2009) [17], Gần đây, có một
số công bố của Nguyễn Trung Thành và nnk
11
(2009, 2010) [14, 22], Xue.Z và nnk (2010) [25] về
quá trình vận chuyển và tích tụ trầm tích trên vùng
châu thổ ngầm. Tuy nhiên, những nghiên cứu về
quá trình trầm tích trên phần châu thổ ngầm và
thềm lục địa kế cận vẫn còn ít ỏi cho một vùng
biển rộng lớn với môi trường tích tụ trầm tích khá
đa dạng. Như ta biết, những thông tin về quá trình
tích tụ trầm tích trên phần châu thổ ngầm và thềm
lục địa kế cận là rất quan trọng trong việc đánh giá
sự ổn định cũng như phát triển của châu thổ Mê
Kông trong giai đoạn hiện tại và tương lai, phản
ánh phần nào tương tác lục địa - đại dương tại khu
vực chuyển tiếp nhạy cảm này. Trong nghiên cứu
này, một số kết quả tính toán tốc độ tích tụ trầm
tích trên phần châu thổ ngầm của sông Mê Kông đã
được thực hiện dựa trên kết quả đo hoạt độ 210Pb và
137Cs của hai lõi mẫu SO187-3-92 và SO187-3-104
tại hai vị trí được chỉ ra trên hình 1.
Hình 1. Khu vực nghiên cứu và vị trí lấy mẫu
2. Một vài nét đặc trưng địa chất địa mạo châu
thổ Mê Kông
Thành tạo châu thổ bao phủ lên bề mặt bào
mòn Pleistocene muộn, bao gồm một tập trầm tích
biển tiến và một tướng châu thổ xâm lấn. Sự hình
thành lớp than bùn trong vùng đất thấp của
Campuchia cho thấy sự phát triển khởi đầu của
châu thổ vào khoảng 8 nghìn năm trước (BP) [13,
21]. Sự phát triển mạnh của châu thổ bắt đầu sau
khi biển tiến đạt mức độ cực đại vào khoảng 6.300
năm BP [21]. Những kết quả nghiên cứu về tướng
trầm tích, như rừng đước, cát xen kẹp bùn (mud
draped sand) và than bùn phân lớp mỏng
(laminated peat) đã cho thấy châu thổ Mê Kông đã
trải qua môi trường thủy triều chiếm ưu thế từ lúc
khởi đầu cho đến khoảng 3 nghìn năm BP [21].
Ngoài ra một số công bố trước đó cũng khẳng định
sự phát triển của châu thổ chịu ảnh hưởng chính
của yếu tố thủy triều từ lúc khởi đầu phát triển
châu thổ đến khoảng 3 nghìn năm BP [12, 16, 19].
Phần đồng bằng thấp của châu thổ hình thành
trong khoảng 3 nghìn năm trở lại đây, chịu ảnh
hưởng của sự gia tăng yếu tố sóng với các sản
phẩm để lại là các giồng cát ven biển [19] (hình 2).
Phần đồng bằng thấp bao gồm hệ thống cửa sông
và bán đảo Cà Mau. Ở đây, các giồng biển cổ có
12
phương song song với đường bờ ngang qua đồng
bằng xen lẫn các trũng giữa giồng phát triển mạnh
ở khu vực cửa sông xuống đến khu vực Bạc Liêu.
Sự phổ biến của các giồng biển và phương của nó
minh chứng cho sự phát triển đường bờ về phía
đông nam, trong khi hình dạng phân kỳ về phía tây
nam thường xuyên chỉ ra sự dịch chuyển các doi cát
hướng tây nam do vận chuyển trầm tích dọc bờ [12,
18]. Nghiên cứu đặc trưng của châu thổ ngầm và vận
chuyển trầm tích trong khu vực này cũng cho thấy sự
vận chuyển trầm tích có hướng tây nam chiếm ưu thế
đặc biệt trong mùa gió đông bắc [14, 22].
Bề dày thành tạo biển tiến và các trầm tích xâm
lấn châu thổ phủ lên bề mặt bào mòn Pleistocen đã
được xác định vào khoảng 15-20m [18, 20], có thể
lên đến 25m tại vùng đồng bằng châu thổ thấp, và
vát mỏng về khu vực đá móng gần biên giới Việt
Nam - Campuchia [18]. Trên cơ sở nghiên cứu các
tài liệu địa chấn nông phân giải cao trên khu vực
thềm Đông Nam, các lỗ khoan trên đồng bằng và
các mẫu lõi thu thập được trên thềm lục địa, có thế
xác định được bề dày trầm tích sau cực đại băng hà
cuối cùng trên vùng ven bờ ĐBSCL và thềm lục
địa kế cận (hình 3). Thông qua kết quả nghiên cứu
này có thể nhận thấy khu vực ven bờ biển bán đảo
Cà Mau có bề dày trầm tích biển tiến và thành tạo
xâm lấn châu thổ là lớn nhất. Đây cũng đã được
xác định là một tâm tích tụ lớn trong sự phát triển
của đồng bằng châu thổ [22].
Hình 2. Bản đồ địa mạo - trầm tích khu vực ĐBSCL [13, 23]
13
Hình 3. Bề dày trầm tích sau băng hà cuối cùng [1, 18]
3. Tài liệu và phương pháp nghiên cứu
3.1. Tài liệu nghiên cứu
Tài liệu nghiên cứu gồm hai cột mẫu trầm tích
SO187-3-92 và SO187-3-104 thu thập được bằng
thiết bị lấy mẫu hộp (boxcorer) (hình 4) trong
chuyến khảo sát SO187-3 bằng tàu nghiên cứu biển
R/V SONNE tháng 4 năm 2006 trong khuôn khổ
chương trình hợp tác nghiên cứu biển Việt - Đức
do GS. Karl Statteger đứng đầu [23]. Và tuyến đo
địa chấn nông phân giải cao 29032007-3 được thực
hiện trong chuyến khảo sát ven bờ ĐBSCL trong
năm 2007 cũng trong khuôn khổ đề tài hợp tác Việt
- Đức (hình 5). Kèm theo là các bản đồ địa mạo -
trầm tích, bản đồ bề dày trầm tích sau cực đại băng
hà cuối cùng trên vùng thềm đông nam Việt Nam
đã được trình bày phần trên sẽ là những tư liệu bổ
sung nhằm làm sáng tỏ thêm môi trường trầm tích
tại các điểm tính toán tốc độ tích tụ trầm tích. Vị trí
lấy mẫu được thể hiện trong hình 1, trong đó mẫu
SO187-3-104 nằm ở phía tây nam, bên ngoài châu
thổ ngầm, còn mẫu SO187-3-92 nằm tại phần chân
của châu thổ ngầm.
Hình 4. Ảnh chụp hai lõi mẫu SO187-3-92 và SO187-3-104
(hai lõi mẫu được lấy bằng thiết bị boxcorer)
SO187-3-104
SO187-3-92
14
Hình 5. Tuyến đo địa chấn nông phân giải cao 29032007-3 và vị trí mẫu SO187-3-92
(SB1, RS2 là các ranh giới phản xạ quan sát thấy trên băng địa chấn)
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Phương pháp xác định hoạt độ các đồng vị
phóng xạ 210Pb, 226Ra và 137Cs
Xác định hoạt độ các đồng vị phóng xạ 210Pb,
226Ra và 137Cs được thực hiện bằng phổ kế gamma
phông thấp với đầu dò Ge siêu tinh khiết dải rộng.
210Pb được xác định ở đỉnh 46,5 KeV, 226Ra được
xác định thông qua trung bình hai đồng vị con của
nó là 214Pb và 214Bi với năng lượng tương ứng ở
352 KeV và 609 KeV và 137Cs được xác định ở phổ
662 KeV trên hệ đo phông thấp, thời gian đo mỗi
mẫu là 24 giờ để đạt được sai số cỡ 10%. Phương
pháp xác định hoạt độ 210Pb qua phổ kế gamma có
nhược điểm là sai số cao do ở vùng năng lượng
gamma mềm (46,5 KeV) chịu ảnh hưởng của hiệu
ứng tự hấp thụ của bản thân mẫu vật. Đồng vị 137Cs
là đồng vị phóng xạ nhân tạo sinh ra trong các vụ
nổ bom hạt nhân vào những năm 60 của thể kỷ
XX. Nó được sử dụng như một đồng vị đánh dấu
bởi trước những năm 1960 thì đồng vị này không
xuất hiện trong các trầm tích. Việc xác định hàm
lượng đồng vị phóng xạ này giúp ta có thêm số liệu
để kiểm tra các kết quả tính toán tốc độ tích tụ trầm
tích từ hoạt độ chì dư tích cực 210Pb.
Xác định hoạt độ 210Pb thông qua đồng vị con
là 210Po bằng cách xử lý hóa học phá mẫu (1,5g),
cho đồng vị đánh dấu 208Pb, 209Pb đã biết trước
hoạt độ. Sau khi xử lý mẫu, 210Po được điện phân
lên đĩa bạc và đo hoạt độ phóng xạ trên đĩa bạc
bằng phổ kế alpha với đầu đo bán dẫn Si (2 ngày).
Phương pháp xác định hoạt độ 210Pb bằng đồng vị
con của nó 210Po có nhược điểm là khá tốn kém và
tốn thời gian, nhưng độ chính xác cao hơn.
3.2.2.Phương pháp tính mật độ khối trầm tích khô
Hai lõi mẫu trầm tích sau khi được bổ dọc, mô
tả sơ bộ trước khi lấy mẫu để xác định mật độ khối
của trầm tích được tiến hành. Các piston nhỏ được
sử dụng để lấy mẫu và xác định thể tích của mẫu
ướt. Sau đó, thể tích của mẫu ướt được cân trước
khi sấy (m1). Nhiệt độ sấy mẫu được đặt tại khoảng
110°C trong vòng khoảng 10 tiếng đồng hồ đảm
bảo mẫu khô hoàn toàn, khối lượng mẫu khô được
xác định (m2). Thể tích của khối lượng khô sẽ được
tính dựa theo thể tích mẫu ướt (v1) trừ đi thể tích
nước (v2) mất sau khi sấy ta sẽ thu được thể tích
mẫu khô (vk). Ở đây ta giả sử trầm tích bão
hòa nước.
Khi đó ta sẽ tính được mật độ khối trầm tích
khô (DBD).
DBD = vk /m2 (g/cm3) (1)
3.2.3. Phương pháp tính toán tốc độ tích tụ
trầm tích
Tốc độ tích tụ trầm tích tuyến tính được xác
định theo sự suy giảm hoạt độ chì dư 210Pb (excess
activities) theo hàm số mũ khi độ sâu trầm tích
tăng lên kể từ bề mặt với giả thiết một sự tập trung
khởi đầu ổn định của đồng vị (mặc dù các tốc độ
tích tụ trầm tích có thể thay đổi), ta sử dụng công
thức tính toán tốc độ tích tụ tuyến tính dưới
đây [17].
15
SAR= λ × z × [ln(A0/AZ)]-1 (cm/năm) (2)
Trong đó z là độ sâu trong lõi mẫu (cm), A0 là
hoạt độ đồng vị 210Pb dư tại bề mặt tham khảo
(Bq/g), và AZ là hoạt độ 210Pb dư tại độ sâu z bên
dưới bề mặt tham khảo (Bq/g), λ là hệ số bán hủy
0,0311/năm.
Sau khi tốc độ tích tụ tuyến tính được xác định,
tốc độ tích tụ khối (MAR) được tính toán theo
công thức sau.
MAR= DBD × SAR (g cm-2 năm-1) (3)
Trong đó DBD là mật độ khối của trầm tích
khô (g/cm3).
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Xuất phát từ kết quả phân tích (bảng 1), ta thấy
sự hợp lý hơn trong việc tính hoạt độ chì dư (210Pb
excess activities) bằng cách lấy lượng 210Pb trừ đi
226Ra có trong mẫu SO187-3-104. Sự suy giảm
hoạt độ chì dư được biển diễn trong hình 6. Mặc dù
những hạn chế đã được nêu ra trong phần phương
pháp, nhưng đây là một trong những kết quả tính
toán đầu tiên về khu vực nên vẫn có những ý nghĩa
nhất định. Để hoàn thiện hơn và khẳng định thêm
kết quả này, công việc tính toán tốc độ tích tụ trầm
tích ở khu vực này cần tiếp tục trong tương lai.
Dựa trên kết quả tính toán hoạt độ 210Pb dư, các giá
trị A0 , Az được xác định: A0 = 28,6, Az=6,1 tại độ
sâu lõi mẫu tương ứng là khoảng 3-6cm và khoảng
6-9cm, với giá trị z=3cm. Các giá trị này được thay
thế vào công thức (2) cho phép ta tính được tốc độ
tích tụ trầm tích tuyến tính SAR=0,14 cm/năm với
giả định quá trình tích tụ trầm tích ổn định, không
có sự xáo trộn trầm tích do các quá trình động lực
hay các hoạt động của sinh vật gây ra. Tốc độ tích
tụ khối (MAR) là 0,17 g cm-2 năm-1 được xác định
theo công thức (3) với mật độ trung bình của trầm
tích khô là 1,21 g/cm3.
Bảng 1. Hàm lượng 210Pb và 226Ra trong lõi mẫu
SO187-3-104
210Pb
Tên mẫu Độ sâu mẫu (cm)
Mật độ
khối
(cm3/g) (Bq/kg) Error(%)
226Ra
(Bq/kg)
104-1-02 3-6cm 1,27 51,1 7,8 22,5
104-1-03 6-9cm 1,15 31,6 5,3 19,7
104-1-04 9-12cm 1,25 33,7 4,7 26
104-1-05 12-15cm 1,27 30,4 4,4 24,4
104-1-06 15-18cm 1,29 28,8 6,2 23,2
104-1-07 18-21cm 1,20 27,3 5,2 29,5
SO187-3-104
0
5
10
15
20
25
1 10 100
Bg/kg
Đ
ộ
sâ
u
lõ
i m
ẫu
(c
m
)
210Pb dư tích
cực
Expon. (210Pb
dư tích cực)
Hình 6. Sự biến đổi của hoạt độ 210Pb dư theo cột mẫu
SO187-3-104
Kết quả tính toán tốc độ tích tụ trầm tích tại
điểm mẫu SO187-3-92 (vị trí chân châu thổ) có
một ý nghĩa khá quan trọng trong việc đánh giá sự
phát triển của châu thổ trong giai đoạn gần đây. Số
liệu phân tích mẫu được trình bày trong bảng 2.
Bảng 2. Hoạt độ 210Pb, 226Ra và 137Cs trong lõi mẫu
SO187-3-92 (đo bằng phổ gama với đầu dò Ge
siêu tinh khiết dải rộng tại Viện KHKT Hạt nhân)
Độ sâu mẫu
Mật độ
khối
(cm3/g)
Hàm
lượng
226Ra
(Bq/kg)
Hàm
lượng
210Po
(Bq/kg)
137Cs
(Bq/kg)
3-6cm 0,68 23,7 74,1 12,06
9-12cm 0,99 23,4 46,4 20,78
15-18cm 1,04 22,8 33 < 0,21543
21-24cm 1,03 23,7 42,4 < 0,20113
27-30cm 0,68 24,4 28 < 0,19975
30-33cm 0,91 22,5 32,7 < 0,16447
36-39cm 0,85 25,6 21,8 <0,20601
42-45cm 0,93 25,4 18,3 <0,16228
48-51cm 1,06 23,1 16,62 <0,13737
54-57cm 0,91 29 16,3 <0,20478
Việc tính toán tốc độ trầm tích tại điểm mẫu
này được thực hiện bằng việc tính hoạt độ 210Pb
thông qua đồng vị con 210Po, đo bằng phổ alpha.
Hoạt độ chì dư 210Pb được thực hiện bằng việc lấy
hoạt độ 210Pb tổng trừ đi hàm lượng trung bình nền
(tính từ phần không còn sự suy giảm về hoạt độ
210Pb hoặc suy giảm rất ít). Sự suy giảm hoạt độ
210Pb dư được thể hiện trên hình 7. Thêm vào đó,
xác định hoạt độ 137Cs cũng được thực hiện trên lõi
16
mẫu này. Phương pháp tính toán này cho phép ta
xác định được độ tin cậy các kết quả tính toán.
SO187-3-92
0
10
20
30
40
50
60
70
1 10 100
210Pb dư tích
cực
Expon. (210Pb dư
tích cực)
Hình 7. Hoạt độ 210Pb dư trong lõi mẫu
SO187-3-92
Mẫu SO187-3-92 nằm tại cuối chân châu thổ
khu vực đông nam bán đảo Cà Mau, một trong
những khu vực có mức độ tích tụ trầm tích định
tính là khá cao thông qua bản đồ bề dày trầm tích
sau băng hà (hình 3) và được đánh giá như một tâm
tích tụ trầm tích [22]. Với giả thiết rằng không có
sự xáo trộn trầm tích do hoạt động của sinh vật hay
động lực cho phép ta áp dụng các công thức (2) và
(3) đã được trình bày ở trên để tính tốc độ tích tụ
trầm tích với giá trị A0 = 55,845 Bq/kg tại độ sâu
lõi mẫu 3-6cm, Az=4,7 Bq/kg tại độ sâu cột mẫu
36-39 cm, và z=33cm. Tốc độ tích tụ trầm tích
tuyến tính (SAR) tại vị trí chân châu thổ tiếp giáp
với thềm trong khu vực này là 0,41cm/năm. Tốc
độ tích tụ khối (MAR) là 0,36g cm-2 năm-1 với mật
độ khối trung bình là 0,88g/cm3. Kết quả tính toán
này cho thấy tốc độ tích tụ trầm tích tại chân châu
thổ là lớn hơn khá nhiều so với phần thềm phía tây
nam của khu vực nghiên cứu.
Để khẳng định thêm kết quả tính toán này, việc
đo hoạt độ đồng vị phóng xạ 137Cs bằng phổ
gamma cũng được thực hiện đồng thời trên mẫu
SO187-3-92. Đồng vị 137Cs là đồng vị nhân tạo
sinh ra do các vụ nổ bom hạt nhân trong những
năm 60 của thế kỷ trước [4]. Sự thay đổi hoạt độ
137Cs của cột mẫu SO187-3-92 được chỉ ra trong
hình 8. Nó cho thấy trong khoảng 40 năm trở lại
đây trầm tích tích tụ tại vị trí này có bề dày vào
khoảng 14cm, tương ứng với tốc độ tích tụ
0,37cm/năm. Kết quả này cho thấy tốc độ tích tụ
trầm tích trong giai đoạn 40 năm trở lại đây thấp
hơn so với tốc độ tích tụ tính trung bình trong vòng
100 năm qua; nguyên nhân có thể là do sự tụt giảm
lượng trầm tích của sông Mê Kông vận chuyển ra
biển, xuất phát từ việc xây dựng các đập thủy điện
trên vùng thượng nguồn của con sông này. Nếu
đúng vậy, hiện nay nhiều đập thủy điện nữa đang
được tiếp tục xây dựng trên phần thượng lưu và
trung lưu của dòng sông sẽ làm cho lượng trầm tích
từ sông vận chuyển ra biển còn tụt giảm hơn nhiều.
Cùng với sự tụt giảm trầm tích tích tụ trên vùng
châu thổ ngầm do các đập thủy điện, xu thế mực
nước biển đang dâng cao hiện nay do nhiệt độ trái
đất nóng lên sẽ làm gia tăng thêm các ảnh hưởng
tiêu cực với mức độ nghiêm trọng hơn lên ĐBSCL.
Tuy nhiên, các kết quả tính toán này cần được
nghiên cứu thêm nhiều hơn nữa để khẳng định một
cách chắc chắn.
SO187-3-92
0
10
20
30
40
50
60
70
0 10 20 30
Bq/kg
Đ
ộ
sâ
u
m
ẫu
(c
m
)
Hàm lượng
137Cs
Hình 8. Hoạt độ 137Cs biến đổi trong lõi mẫu SO187-3-92
5. Một số nhận định thay kết luận
Tốc độ tích tụ trầm tích tại môi trường chân
châu thổ đông nam bán đảo Cà Mau là 0,41
cm/năm tương ứng với tốc độ tích tụ khối là 0,36g
cm-2 năm-1, cao hơn nhiều so với vùng thềm phía
tây nam khu vực nghiên cứu có tốc độ tích tụ được
17
ước tính là 0,14 cm/năm tương ứng với tốc độ tích
tụ khối là 0,17gcm-2năm-1.
Tốc độ tích tụ tại phần chân châu thổ phía đông
nam bán đảo Cà Mau trong giai đoạn gần đây
(khoảng 40 năm trở lại đây) có thể đã giảm xuống
hơn so với tốc độ tích tụ trầm tích trung bình trong
một trăm năm qua. Nguyên nhân có thể do việc
xây dựng các đập thủy điện trên thượng nguồn đã
làm tụt giảm lượng trầm được vận chuyển ra biển.
Lời cảm ơn: Tập thể tác giả xin chân thành cảm
ơn GS.Karl Statteger trưởng đoàn chuyến khảo sát
SO187-3 trên vùng thềm lục địa đông nam và các
thủy thủ đoàn. Đồng thời, tập thể tác giả cũng cảm
ơn sự hỗ trợ kinh phí từ Đề tài Nghiên cứu Khoa
học Công nghệ mã số: VAST-07.01/11-12 của
Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam và Quỹ
Phát triển KH & CN Quốc Gia cho đề tài mã số
105.01-2010.15.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Nguyễn Biểu, Nguyễn Địch Dỹ, Doãn Đình
Lâm và Vũ Văn Hà, 2009. Ứng dụng phân tập địa
tầng trong thành lập bản đồ địa chất Holocen - hiện
đại vùng ven biển châu thổ Sông Cửu Long. Các
công trình Địa chất và Địa vật lý Biển, Tập X,
p.49-62.
[2] Bui V.D., 2011: Late Quaternay evolution of
the southern Vietnamese Continetal Shelf. Doctor
Thesis, Library at Christian Albrect University,
Germany.
[3] Debenay J-P, Luan B.T., 2006:
Foraminiferal assemblages and the confinement
index as tools for assessment of saline intrusion
and human impact in the Mekong Delta and
neighbouring areas (Vietnam). Revue de
micropaléontologie, Vol 49, p.74-85.
[4] DeMaster D.J, Mckee B.A, Nittrouer C.A.,
Brewster D.C., 1985: Rates of sediment reworking
at the HEBBLE site based on measurements of Th-
234, Cs-137 and Pb-210, Marine Geology, Vol.66,
No.1-4, p.133-148.
[5] Gagliano S.M, McIntire W.G., 1968:
Reports on the Mekong Delta, Coastal Studies
Inst., Louisiana Stat Univ. Tech. Rpt., p.57, 144p.
[6] Hanebuth T.J.J, Proske U, Saito Y, Nguyen
V.L, Ta T.K.O., 2009: Early growth stage of a large
delta - Transformation from estuarine-platform to
deltaic-progradational conditions (the northeastern
Mekong River Delta, Vietnam). Sedimentary
Geology, Vol.261-262, p.108-119.
[7] Nguyễn Thị Ngọc Lan và Trần Kim Thạch.,
2009: Đia mạo - trầm tích đồng bằng Sông Cửu
Long, Việt Nam. Các công trình Địa chất và Địa
vật lý Biển, Tập X, p.92-105.
[8] McKee B. A, Nittrouer C. A, DeMaster D.
J., 1983: Concepts of sediment deposition and
accumulation applied to the continental shelf near
the mouth of the Yangtze River. Geology, Vol.11,
No.11, p.631-633.
[9] Milliman J.D and Meade R.H., 1983:
World-wide delivery of river sediments to the
ocean. Journal of Geology, Vol. 91, No.1, p.1-21.
[10] Milliman J.D, Syvistski J.P.M., 1992:
Geomorphic/tectonic control of sediment discharge
to the oceans: the importance of small mountain
rivers. Journal of Geology, Vol. 100, No.5,
p.525-544.
[11] Nguyen H.C., 1993: Geo-pedological study
of the Mekong Delta. Southeast Asian Studies,
Vol. 31, No.2, p.158-186.
[12] Nguyen V.L, Ta T.K.O, Tateishi M., 2000:
Late Holocene depositional environments and
coastal evolution of the Mekong River Delta,
Southern Vietnam. Journal of Asian Earth Science
Vol.18 ,No.4, p.427-439.
[13] Nguyen V.L, Ta K.O, Saito Y., 2010: Early
Holocene initiation of the Mekong River delta,
Vietnam, and the response to Holocene sea-level
changes detected from DT1 core analyses.
Sedimentary Geology, Vol. 230, No.3-4,
p.146-155.
[14] Nguyen T.T., 2009: Surface sediment
characteristics and sediment transport from Bassac
River mouths to Ca Mau Peninsula (Mekong
Delta). Master thesis in Kiel University Library.
[15] Phùng Văn Phách (chủ biên), 2010:
Nghiên cứu tiến hóa đới ven biển đồng bằng Sông
Cửu Long và thềm lục địa kế cận trong Holocen-
hiện đại phục vụ phát triển bền vững. Báo cáo tổng
kết Đề tài Việt - Đức. Lưu trữ tại Viện Địa chất và
Địa vật lý Biển, 181tr.
[16] Reineck M.E, Singh J.B., 1980:
Depositional sedimentary environments, Springer
Verlag, Berlin, 326 p.
18
[17] Robbins J.A, Edgington D.N.,1975:
Determination of recent sedimentation rates in lake
Michigan using Pb-210 and Cs-137. Geochim
Cosmochim Acta, Vol.39, No.3, p.285–304.
[18] Ta T.K.O, Nguyen, V.L, Tateishi, M,
Kobayashi, I., Saito, Y., 2005: Holocene Delta
Evolution and Depositional Models of the Mekong
River Delta, Southern Vietnam. - In: GIOSAN, L.
[ed.]: River Deltas: Concepts, Models and
Examples. - SEPM Special Publication 83, p.453-
466; Tulsa (Society for Sedimentary Geology).
[19] Ta T.K.O, Nguyen. V.L, TaTeishi. M,
Kobayashi. M., Tanabe. S, Saito. Y. , 2002a:
Holocene Delta Evolution and Sediment Discharge
of the Mekong River, Southern Vietnam.
Quaternary Science Reviews, Vol.21, No.16-17,
p.1807-1819.
[20] Ta T.K.O, Nguyen. V.L, Tateishi. M,
Kobayashi. I, Saito. Y, Nakamura. T, 2002b:
Sediment Facies and Late Holocene Progradation
of the Mekong River Delta in Bentre Province,
Southern Vietnam: An Example of Evolution from
a Tide-Dominated to a Tide- and Wave-Dominated
Delta. Sedimentary Geology, Vol.152, No.3-4,
p.313-325.
[21] Tamura T, Saito Y, Sieng S, Ben B, Kong
M, Sim I, Choup S, Akiba F, 2009: Initiation of the
Mekong River delta at 8 ka: evidence from the
sedimentary sucession in the Cambodian lowland.
Quaternary Science Reviews, Vol.28, No.3-4, p.
327-344.
[22] Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Hồng Lân,
Phùng Văn Phách, Dư Văn Toán, Bùi Việt Dũng,
Daniel Unverricht, Karl Statteger.,2011: Xu thế
vận chuyển và tích tụ trầm tích trên phần châu thổ
ngầm ven bờ đồng bằng Sông Cửu Long. Tạp chí
Các Khoa học Trái đất, Tập.33, Số.4, tr.607-615.
[23] Wiesner M.G, Statteger K, Schwarzer K.,
2006: Land-ocean-atmosphere interactions in the
coastal zone of Vietnam, Cruise report RV SONNE
187.
[24] Wolanski E, Nguyen H.N, Spagnol S,
1998: Sediment dynamics during low flow
conditions in the Mekong River Estuary, Vietnam.
Journal of Coastal Research, Vol.14, No.2, p.472–
482.
[25] Xue. Z, Liu J.P, DeMaster D, Nguyen L.V,
Ta T.T.K ., 2010: Late Holocene Evolution of the
Mekong Subaqueous Delta, South Vietnam.
Marine Geology, Vol.269, No.1-2, p.46-60.
[26] Mekong River Commission., 2005:
Overview of the hydrology of the Mekong Bassin.
[27] Mekong Secretariat., 1994: Mekong
Mainstream Run-of-River Hydropower. Interim
Mekong Committee, Bangkok, December.
SUMMARY
Some research results of sediment accumlation rates on the prodelta of Mekong River Delta and the adjacent shelf
Mekong River Delta, one of the largest deltas of Asia, has a high risk of flood due to the present sea level rise under
the global climate warming. Therefore, the studies on Mekong River Delta evolution have been interested in the recent
years, especially the subaqueous delta part, in which the land-ocean interaction takes place intensively. The
sedimentation on the subaqueous delta and the adjacent shelf has an important significance in evaluating the
development of the modern Mekong Delta and contributes to predict its future. However, the sedimentation research
results on the subaqueous delta of Mekong River Delta and the adjacent shelf are still sparse. In this study, some
features of geomorphology and geology of Mekong Delta were summarized and sediment accumulation rates at two
points in the study area were calculated by measurement of radionuclides (210Pb, 226Ra, 137Cs). The sediment
accumulation rate at the prodelta, southeast of Ca Mau Peninsular is 0.41 cm/year corresponding to mass accumulation
rate 0.36g cm-2 year-1. The sediment accumulation rate on the shelf, southwestwards the study area is 0.14cm/year
corresponding to mass accumulation rate 0.17 g cm -2 year-1.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3033_10214_1_pb_4913_2107943.pdf