Một số kết quả phòng trừ bệnh thán thư hại sâm ngọc linh (panax Vietnamensis ha and grushv) tại Tu Mơ Rông - Kon Tum

KẾT LUẬN Nấm C. acutatum gây bệnh trên cây Sâm Ngọc Linh gây hại mạnh từ tháng 6-9 khi cây bắt đầu vào mùa mưa với tỷ lệ bệnh từ 4,67-6,67% đối với vườn 1 năm tuổi và 8,00 - 13,33% đối với vườn 5 năm tuổi. Vườn Sâm 5 năm tuổi có tỷ lệ bệnh thán thư cao hơn so với vườn 1 năm tuổi với tỷ lệ bệnh cao nhất trên vườn 5 năm tuổi là 13,33% và tỷ lệ bệnh trên vườn 1 năm tuổi là 6,67% vào tháng 9. Hoạt chất propineb 700g/kg, metalaxyl M 40g/kg + mancozeb 640g/kg và azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l đều có khả năng ức chế hoàn toàn sự nảy mầm của nấm C. acutatum ở các nồng độ 1-50 ppm sau 12 giờ thí nghiệm. Tuy nhiên, hỗn hợp metalaxyl M 40g/kg + mancozeb 640g/kg chỉ ức chế sự phát triển của sợi nấm từ 14,92-39,01% ở nồng độ 5-500ppm sau 7 ngày thí nghiệm. Nấm C. acutatum hoàn toàn bị ức chế bởi propiconazole 150 g/l + difenoconazole 150 g/l ở nồng độ 100ppm và hỗn hợp azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l ở nồng độ 50 ppm sau 7 ngày thí nghiệm. Sau 7 ngày thí nghiệm, Bacillus subtilis 50% w/w và Bacillus subtilis 109 CFU/ml ức chế hoàn toàn sự phát triển của nấm ở nồng độ khuyến cáo. Thuốc trừ nấm Tilt Super 300EC, Antracol 70WP, Amistar top 325SC, Biobac 50WP, Acti No vate 1SP, Promot Plus WP, Mocabi SL, MicroTech-1(NL) đều có hiệu lực phòng trừ bệnh thán thư. Hiệu lực của thuốc đạt hiệu quả cao nhất sau (77,92%) sau 7 ngày thí nghiệm. Chế phẩm sinh học MicroTech-1(NL) có hiệu quả phòng trừ bệnh thán thư tốt nhất sau 7 ngày đạt 69,47%. Tuy nhiên khi sử dụng thuốc cần lưu ý và sử dụng thuốc phù hợp với điều kiện sản xuất.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số kết quả phòng trừ bệnh thán thư hại sâm ngọc linh (panax Vietnamensis ha and grushv) tại Tu Mơ Rông - Kon Tum, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV – Số 2/2020 3 MỘT SỐ KẾT QUẢ PHÒNG TRỪ BỆNH THÁN THƯ HẠI SÂM NGỌC LINH (Panax vietnamensis Ha and Grushv.) TẠI TU MƠ RÔNG-KON TUM Control of Anthracnose Diseases of Vietnamese Ginseng (Panax vietnamensis Ha and Grushv.) in Tumorong, Kon Tum Province Trịnh Xuân Hoạt1*, Mai Văn Quân1, Hoàng Quỳnh Nga2, Ngô Quang Huy1, Nguyễn Thành Chung3, Vũ Văn Long3, Lê Quang Mẫn1, Nguyễn Mạnh Hùng1, Ngày nhận bài: 25.4.2020 Ngày chấp nhận: 05.5.2020 Abstract Anthracnose disease in Vietnamese Ginseng (Panax vietnamensis Ha and Grushv.), caused by Colletotrichum acutatum, is widespread and responsible for serious economic losses in Viet Nam. The efficacy of some active ingredients were evaluated for suppression of C. acutatum in vitro and field conditions. In in vitro, propiconazole + difenoconazole at 50ppm and azoxystrobin + difenoconazole at 50 ppm significantly inhibited the mycelial growth of C. acutatum after 3 days of treatment. Meanwhile, Bacillus subtilis 50% w/w and Bacillus subtilis 109 CFU/ml at the recommended concentration also completely suppressed the development of C. acutatum after 3 days of treatment. In the field conditions, application of Antracol 70WP (propineb 700g/kg) in combination with Amistar Top 325SC (azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l) significantly decreased disease incidence and disease severity in comparision to other treatments. Its efficacy was 74.27% after 5 days of treatment, reached up to 77.92% after 7 days of treatment but decreased to 64.64% after 14 days of treatment. Among the tested bio-products, efficacy of MicroTech-1(NL) (B. subtilis 109 CFU/ml) was 63.49% after 5 days of treatment, increased up to 69.47% after 7 days of treatment but decreased thereafter. The most effective treatment was single application of two chemical fungicides Antracol 70W and Amistar Top 325SC or single application of MicroTech-1(NL), which significantly reduced the disease incidence and disease severity of anthracnose disease of Vietnamese Ginseng. Keywords: Colletotrichum acutatum, Vietnamese gingseng, Anthracnose disease, Panax vietnamensis Ha et Grush 1. ĐẶT VẤN ĐỀ * Nấm Colletotrichum acutatum gây hại quan trọng trên nhiều loại cây trồng vùng ôn đới và nhiệt đới trên thế giới. Bệnh gây hại trên dâu tây (Fragaria ananassa), cà chua (Lycopersicon esculentum), cây táo (Malus pumila), cây cà phê (Coffea arabica), ổi (Psidium guajava), ô liu (Olea europea). Tại Việt Nam, nấm Colletotrichum acutatum gây bệnh thán thư trên cây Sâm Ngọc Linh tại Tu Mơ Rông – Kon Tum (Mai Văn Quân và CS, 2020). Triệu chứng ban đầu lá bị vàng, sau đó rụng dần theo các tầng rời. Trên cuống lá và thân vết bệnh kéo dài màu nâu, khô héo, xuất hiện ổ bào tử nấm trên bộ phận bị bệnh. Gặp điều kiện mưa ẩm kéo dài thân bị thối nhũn. Từ năm 2016-2018, bệnh thán thư đã phát sinh gây hại mạnh trên cây Sâm Ngoc Linh ở các vùng trồng tại Tu Mơ Rông- Kon Tum. Bệnh thường xuất hiện vào đầu mùa mưa từ 1. Viện Bảo vệ thực vật 2. Học viện Nông nghiệp Việt Nam 3. Công ty Lâm Nghiệp Đắk Tô tháng 6- 8 hàng năm, tại một số vườn trồng Sâm Ngọc Linh, tỷ lệ bệnh gây hại lên tới trên 70%. Theo dõi quy luật phát sinh gây hại và sử dụng một số loại thuốc phòng trừ nấm C. acutatum hiệu quả góp phần giảm thiệt hại, nâng cao năng suất và chất lượng Sâm Ngọc Linh đã được Viện Bảo vệ thực vật thực hiện trong 2 năm 2019-2020. 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Vật liệu nghiên cứu Cây Sâm Ngọc Linh trồng tại Tu Mơ Rông- Kon Tum, nấm C. acutatum gây bệnh thán thư phân lập trên cây Sâm Ngọc Linh, các loại thuốc hóa học và sinh học phòng trừ bệnh thán thư trên cây trồng. 2.2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu + Thời gian nghiên cứu: 2019-2020 + Địa điểm nghiên cứu: vùng núi Ngọc Linh, huyện Tu Mơ Rông-Kon Tum, Viện Bảo vệ thực vật. 2.3 Phương pháp nghiên cứu Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV – Số 2/2020 4 2.3.1. Diễn biến phát sinh gây hại của nấm C. acutatum gây bệnh thán thư trên cây Sâm Ngọc Linh tại Tu Mơ rông- Kon Tum. Theo dõi diễn biến phát sinh gây hại của nấm C. acutatum gây bệnh thán thư trên cây Sâm Ngọc Linh tại Tu Mơ rông- Kon Tum theo phương pháp nghiên cứu của Viện Bảo vệ thực vật. Vườn Sâm Ngọc Linh 1 năm tuổi và 5 năm tuổi tại vùng núi Ngoc Linh thuộc tỉnh Kon Tum. Mỗi loại vườn, chọn 1 vườn đại diện, mỗi vườn điều tra 10 điểm chéo góc, mỗi điểm 5 cây, điều tra định kỳ 1 tháng một lần. Theo dõi tỷ lệ bệnh (%) TLB (%) = Số cây (bộ phận của cây)bị bệnh Tổng số cây (bộ phận của cây) điều tra × 100 2.3.2. Nghiên cứu hiệu quả sử dụng thuốc BVTV đến nấm C. acutatum gây bệnh thán thư trên cây Sâm Ngọc Linh năm 2020. - Đánh giá ảnh hưởng của thuốc hóa học đến khả năng nảy mầm của nấm C. acutatum trên môi trường nhân tạo Các hoạt chất trừ nấm: propineb (Antracol 70WP), metalaxyl 40g/kg + mancozeb 640g/kg (Ridomil Gold 68WG), propiconazole 150 g/l + difenoconazole 150 g/l (Tilt super 300EC), azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l (Amistar Top 325SC ). Trộn các hoạt chất ở nồng độ 1, 3, 5, 10, 30 và 50 ppm môi trường PDA, nhỏ 10µl dung dịch chứa bào tử nấm C. acutatum ở nồng độ 103 bào tử/ml sau đó sử dụng bàn trang thủy tinh khử trùng trang đều dung dịch bào tử lên bề mặt môi trường PDA, để ở điều kiện 25oC. Theo dõi sự nảy mầm của nấm C. acutatum qua kính hiển vi sau 4, 8 và 12 giờ thí nghiệm. - Đánh giá khả năng ức chế của một số loại thuốc đến sự phát triển nấm C. acutatum trên môi trường nhân tạo Bốn loại hoạt chất trừ nấm propineb (Antracol 70WP), metalaxyl M 40g/kg + mancozeb 640g/kg (Ridomil Gold 68WG ), propiconazole 150 g/l + difenoconazole 150 g/l (Tilt Super 300 EC), azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l (Amistar Top 325SC). Trộn các hoạt chất ở các nồng độ khác nhau 5, 10, 30, 100, 300, 500 và 1000 ppm trên môi trường PDA. Cấy mảnh nấm 4 mm vào tâm đĩa petri có chứa thuốc trừ nấm, để ở điều kiện 25 o C. Đo kích thước tản nấm sau nuôi cấy 3, 5 và 7 ngày. Tính hiệu lực ức chế nấm theo Abbott. - Đánh giá khả năng ức chế của một số loại thuốc sinh học đến sự phát triển nấm C. acutatum trên môi trường nhân tạo Ba thuốc trừ nấm sinh học là kasugamycin 2g/l + ningnanmycin 80g/l (Nikasu 82SL), streptomyces lydicus (Acti No Vate 1SP), bacillus subtilis (Biobac 50WP) với các nồng độ 1/3 và 1/2 theo khuyến cáo. Trộn các thuốc trừ nấm sinh học ở các nồng độ khác nhau vào môi trường PDA, cấy mảnh nấm 4mm vào tâm đĩa petri có chứa thuốc trừ nấm, để ở điều kiện 25 o C. Đo kích thước tản nấm sau 3, 5, 7 ngày nuôi cấy. Tính hiệu lực ức chế nấm theo Abbott. 3.3 Đánh giá hiệu lực của một số loại thuốc bảo vệ thực vật đối với bệnh thán thư trong điều kiện đồng ruộng 3.3.1. Hiệu lực của một số loại thuốc hóa học đối với bệnh thán thư trong điều kiện đồng ruộng Các loại thuốc hóa học được sử dụng phòng trừ bệnh thán thư bao gồm Tilt Super 300EC (propiconazole 150 g/l + difenoconazole 150 g/l), Antracol 70WP (propineb 700g/kg), Amistar Top 325SC (azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l). Thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh (RCB) gồm 4 công thức, nhắc lại 3 lần với diện tích ô thí nghiệm 50 m2. Theo dõi tỷ lệ bệnh sau 3, 5, 7 và 15 ngày sau xử lý. Tính hiệu lực thuốc theo công thức Henderson-Tilton. 3.3.2. Hiệu lực của một số loại thuốc sinh học đối với bệnh thán thư trong điều kiện đồng ruộng Chế phẩm sinh học trong phòng trừ bệnh thán thư bao gồm: Biobac 50WP (Bacillus subtilis 50% w/w), Acti No vate 1SP (Streptomyces lydicus WYEC 108), Promot Plus WP (Trichoderma spp.), Mocabi SL (Chaetomium sp. và Trichoderma sp.), MicroTech-1 (NL) (Bacillus subtilis 109 CFU/ml)). Thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh (RCB) gồm 5 công thức, mỗi công thức nhắc lại 3 lần, ô thí nghiệm 50 m2. Theo dõi tỷ lệ bệnh sau 3, 5, 7 và 15 ngày sau xử lý. Tính hiệu lực thuốc theo công thức Henderson-Tilton 2.4 Phương pháp xử lý số liệu Xử lý số liệu thí nghiệm bằng các phần mềm Excell, Statistix 9. Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV – Số 2/2020 5 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 Diễn biến quy luật phát sinh gây hại của nấm C. acutatum gây bệnh thán thư trên cây Sâm Ngọc Linh tại Tu Mơ rông- Kon Tum Bệnh thán thư gây hại trên cây sâm Ngọc Linh làm cho lá bị vàng, sau đó rụng dần theo các tầng rời. Khi gặp điều kiện ẩm ướt kéo dài, lá và thân bị thối nhũn, cây không cho hoa và hạt. Kết quả theo dõi diễn biến bệnh thán thư Sâm Ngọc Linh trên 2 loại hình vườn (vườn 1 năm tuổi và 5 năm tuổi) cho thấy bệnh thán thư gây hại mạnh bắt đầu mùa mưa từ tháng 6-9 và cũng là giai đoạn cây ra hoa- đậu hạt với tỷ lệ bệnh từ 4,67-6,67% đối với vườn 1 năm tuổi và 8,00 - 13,33% đối với vườn 5 năm tuổi. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tỉ lệ bệnh tỉ lê thuận với tuổi cây. Vườn sâm 5 năm tuổi tỉ lệ bệnh bị hại nặng hơn ở vườn ươm ở tất cả các kỳ theo dõi. Hình 1. Diễn biến bệnh thán thư trên cây Sâm Ngọc Linh tại Tu Mơ Rông- Kon Tum, năm 2019 Vào đầu mùa mưa (tháng 5-6) tỷ lệ bệnh thán thư trên vườn 1 năm tuổi là 4,67% trong khi đó tỷ lệ bệnh trên vườn 5 năm tuổi là 8,00%. Về cuối giai đoạn sinh trưởng, bệnh thán thư càng gây hại mạnh trên cả 2 loại hình vườn sâm theo dõi, tỷ lệ bệnh cao nhất trên vườn 5 năm tuổi là 13,33% trong khi đó tỷ lệ bệnh trên vườn 1 năm tuổi là 6,67%. Đến tháng 9, lượng mưa bắt đầu giảm và cây Sâm cũng kết thúc giai đoạn sinh trưởng của một năm, cây đã thu hoạch hạt và bắt đầu rụng lá, cây bước vào giai đoạn ngủ đông. 3.2 Đánh giá khả năng ức chế của của một số loại hoạt chất bảo vệ thực vật đến nấm C. acutatum trong điều kiện phòng thí nghiệm 3.2.1. Nghiên cứu khả năng nảy mầm của nấm C. acutatum trên môi trường (PDA) chứa thuốc BVTV Các loại hoạt chất hóa học trừ nấm khác nhau đều ảnh hưởng tới sự nảy mầm của bào tử nấm C. acutatum sau 4, 8 và 12 giờ theo dõi. Hoạt chất propineb 700g/kg, hỗn hợp metalaxyl M 40g/kg + mancozeb 640g/kg và hỗn hợp azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l đều có khả năng ức chế hoàn toàn sự nảy mầm của bào tử nấm sau 4, 8 và 12 giờ theo dõi. Hỗn hợp hoạt chất propiconazole 150 g/l + difenoconazole 150 g/l chỉ có khả năng hạn chế bào tử nảy mầm so với đối chứng ở các nồng độ hoạt chất thí nghiệm. Nồng độ hỗn hợp hoạt chất càng cao thì càng có khả năng hạn chế bào tử nảy mầm càng lớn. Sau 4 giờ thí nghiệm, hỗn hợp hoạt chất propiconazole 150 g/l + difenoconazole 150 g/l có tỷ lệ nảy mầm giảm dần từ 61,89-2,32% ở nồng độ hoạt chất tăng từ 1-30 ppm. Trong khi đó bào tử nấm nảy mầm khi không sử dụng thuốc là 80,17%. Tuy nhiên, ở nồng độ hoạt chất 50 ppm đã ức chế hoàn toàn bào tử nấm nảy mầm. Sau 8 giờ thí nghiệm bào tử nấm đều có khả năng nảy mầm ở tất cả các nồng độ thí nghiệm với tỷ lệ bào tử nảy mầm giảm dần từ 99,05-80,97% ở các nồng độ hoạt chất từ 1-50 ppm, trong khi đó bào tử nấm hoàn toàn nảy mầm khi không sử dụng thuốc (đạt 100%). Sau 12 giờ thí nghiệm tỷ lệ nảy mầm của bào tử nấm tăng lên so với 8 giờ thí nghiệm là 99,1-93,41% ở các nồng độ hoạt chất thí nghiệm (Bảng 1). Bảng 1. Ảnh hưởng của một số hoạt chất hóa học đến khả năng nảy mầm của bào tử nấm C. acutatum (Viện Bảo vệ thực vật, năm 2020) Thời gian theo dõi Nồng độ Hoạt chất Tỷ lệ nảy mầm (%) của nấm tại các nồng độ hoạt chất (ppm) 1 3 5 10 30 50 4 giờ Propineb 700g/kg - - - - - - Metalaxyl M 40g/kg, mancozeb 640g/kg - - - - - - Propiconazole 150 g/l + difenoconazole 150 g/l 61,89 52,02 45,85 39,71 2,32 - Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV – Số 2/2020 6 Thời gian theo dõi Nồng độ Hoạt chất Tỷ lệ nảy mầm (%) của nấm tại các nồng độ hoạt chất (ppm) 1 3 5 10 30 50 Azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l - - - - - - Đối chứng 80,17 8 giờ Propineb 700g/kg - - - - - - Metalaxyl M 40g/kg, mancozeb 640g/kg - - - - - - Propiconazole 150 g/l + difenoconazole 150 g/l 99,05 94,59 93,89 92,79 89,06 80,97 Azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l - - - - - - Đối chứng 100 12 giờ Propineb 700g/kg - - - - - - Metalaxyl M 40g/kg, mancozeb 640g/kg - - - - - - Propiconazole 150 g/l + difenoconazole 150 g/l 99,1 98,96 98,41 97,87 94,75 93,41 Azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l - - - - - - Đối chứng 100 Ghi chú: - Tỷ lệ nảy mầm 0%, bào tử không nảy mầm 3.2.2 Khả năng ức chế của một số loại hóa học thuốc đối sự phát triển nấm C. acutatum trong điều kiện invitro Sau 3 ngày thí nghiệm, hỗn hợp hoạt chất propiconazole 150 g/l + difenoconazole 150 g/l và azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l ức chế hoàn toàn sự phát triển của nấm ở nồng độ 50 ppm, nồng độ thí nghiệm 5- 10 ppm hỗn hợp propiconazole 150 g/l + difenoconazole 150 g/l và azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l ức chế nấm lần lượt là 84,53-86,19% và 86,74-87,29%; hoạt chất propineb 700g/kg có hiệu quả ức chế sự phát triển của nấm từ 23,76- 62,98% ở nồng độ từ 5-300 ppm, sự phát triển của nấm bị ức chế hoàn toàn ở nồng độ 500 ppm; Khả năng ức chế của hỗn hợp metalaxyl M 40g/kg + mancozeb 640g/kg là kém nhất, ở nồng độ 5-500 ppm, hiệu quả úc chế sự phát triển của nấm chỉ đạt từ 20,99-46,96%. Sau 5 ngày thí nghiệm, các hoạt chất hóa học tiếp tục duy trì khả năng ức chế sự phát triển ở nấm ở các nồng độ thí nghiệm. Hiệu quả ức chế có xu hướng tăng lên khi sử dụng các hoạt chất metalaxyl M 40g/kg + mancozeb 640g/kg, propiconazole 150 g/l + difenoconazole 150 g/l và azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l ở các nồng độ thí nghiệm. Tuy nhiên, hoạt chất propineb 700g/kg có hiệu quả ức chế giảm so với sau 3 ngày thí nghiệm từ 22,19-57,95%, ở nồng độ 500ppm, hoạt chất tiếp tục duy trì khả năng ức chế hoàn toàn sự phát triển của nấm. Sau 7 ngày thí nghiệm, hỗn hợp azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l duy trì khả năng ức chế hoàn toàn sự phát triển của nấm ở nồng độ 50 ppm trong khi đó hỗn hợp propiconazole 150 g/l + difenoconazole 150 g/l chỉ ức chế hoàn toàn nấm phát triển ở nồng độ 100 ppm. Khả năng ức chế sự phát triển của nấm tiếp tục giảm dần khi sử dụng các hoạt chất propineb 700g/kg, metalaxyl M 40g/kg + mancozeb 640g/kg. Trong đó, hỗn hợp metalaxyl M 40g/kg + mancozeb 640g/kg có khả năng ức chế kém nhất từ 14,92- 39,01% ở nồng độ 5-500 ppm. Propineb 700g/kg có hiệu quả ức chế từ 17,02 -55,76% ở nồng độ 5-300 ppm, ở nồng độ 500 ppm hoạt chất propineb 700 g/kg không duy trì khả năng ức chế hoàn toàn nấm phát triển, khả năng ức chế nấm chỉ đạt 92,41%. Trong điều kiện thí nghiệm, mặc dù hỗn hợp hoạt chất propiconazole 150 g/l + difenoconazole 150 g/l không có khả năng ức chế bào tử nấm này mầm sau 12 giờ và 3 loại hoạt chất propineb 700g/kg, hỗn hợp metalaxyl M 40g/kg + mancozeb 640g/kg, hỗn hợp azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l đều có khả năng ức chế hoàn toàn sự nảy mầm của bào tử nấm sau 12 Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV – Số 2/2020 7 giờ thí nghiệm nhưng các hoạt chất này không có khả năng ức chế sự phát triển của sợi nấm ở các nồng độ <50 ppm. Tuy nhiên, sau 7 ngày thí nghiệm, ở nồng độ 50 ppm, hỗn hợp hoạt chất azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l ức chế hoàn toàn sự phát triển của sợi nấm, hồn hợp propiconazole 150 g/l + difenoconazole 150 g/l chỉ ức chế hoàn toàn ở nồng độ 100 ppm. Hoạt chất propineb 700g/kg chỉ có khả năng ức chế hoàn toàn sự phát triển của sợi nấm sau 5 ngày ở nồng độ 500 ppm nhưng sau 7 thí nghiệm hiệu lực ức chế giảm xuống 92,41%. Hỗn hợp hoạt chất metalaxyl M 40g/kg + mancozeb 640g/kg ức chế sự phát triển của sợi nấm thấp nhất hiệu lực chỉ đạt 14,92-39,01% ở nồng độ 5- 500 ppm sau 7 ngày thí nghiệm (bảng 2). Bảng 2. Hiệu lực ức chế sự phát triển của nấm C. acutatum trên môi trường chứa hoạt chất thuốc BVTV trừ nấm (Viện Bảo vệ thực vật, năm 2020) Thời gian theo dõi Nồng độ Hoạt chất Khả năng ức chế của các hoạt chất tại các nồng độ sử dụng (ppm) sử dụng 5 10 50 100 300 500 3 ngày Propineb 700g/kg 23,76 30,94 42.54 56.35 62,98 100 Metalaxyl M 40g/kg, mancozeb 640g/kg 20,99 29,28 34,25 35,36 40,33 46,96 Propiconazole 150 g/l + difenoconazole 150 g/l 84,53 86,19 100 100 100 100 Azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l 86,74 87,29 100 100 100 100 5 ngày Propineb 700g/kg 22,19 28,81 41,39 54,64 57,95 100 Metalaxyl M 40g/kg, mancozeb 640g/kg 20,53 35,10 37,75 40,07 41,06 45,7 Propiconazole 150 g/l + difenoconazole 150 g/l 86,75 88,41 100,00 100,0 0 100,00 100,00 Azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l 88,08 89,40 100,00 100,0 0 100,00 100,00 7 ngày Propineb 700g/kg 17,02 29,32 33,77 52,36 55,76 92,41 Metalaxyl M 40g/kg, mancozeb 640g/kg 14,92 30,1 34,03 34,29 36,91 39,01 Propiconazole 150 g/l + difenoconazole 150 g/l 84,82 87,43 97,64 100 100 100 Azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l 85,86 87,96 100 100 100 100 3.2.3 Nghiên cứu khả năng ức chế của một số loại thuốc sinh học đối sự phát triển nấm C. acutatum trong điều kiện invitro Sau 3 ngày thí nghiệm, hiệu lực ức chế sự phát triển của nấm C. acutatum đối với các thuốc trừ nấm sinh học khác nhau ở các nồng độ thí nghiệm. Hiệu lực ức chế của Bacillus subtilis 50% w/w và Bacillus subtilis 10 9 CFU/ml đạt hiệu lực 100% ở các nồng độ thí nghiệm. Hoạt chất kasugamycin 2g/l + ningnanmycin 80g/l có hiệu lực thấp nhất chỉ đạt 16,87- 25,3%. Hiệu lực của Streptomyces lydicus WYEC 108 là 75,9-84,34% (bảng 3). Sau 5 ngày thí nghiệm, Bacillus subtilis 50% w/w và Bacillus subtilis 109 CFU/ml duy trì hiệu lực ức chế 100% ở nồng độ ½ so với khuyến cáo. Ở nồng độ 1/3 so với khuyến cáo, hiệu lực chỉ đạt 89,67 và 88,43%. Trong khi đó, Streptomyces lydicus WYEC 108 chỉ đạt hiệu lực ức chế 71,07-79,75% và hỗn hợp kasugamycin 2g/l + ningnanmycin 80g/l là 5,79-13,64% ở các nồng độ thí nghiệm (bảng 3). Sau 7 ngày thí nghiệm, Bacillus subtilis 50% w/w và Bacillus subtilis 10 9 CFU/ml tiếp tục duy trì hiệu lực ức chế 100% ở nồng độ khuyến cáo và hiệu lực của streptomyces lydicus WYEC 108 cũng giữ ở mức hiệu lực 72,41-80,64% ở các nồng độ thí nghiệm. Trong khi đó, hỗn hợp hoạt chất kasugamycin 2g/l + ningnanmycin 80g/l hiệu lực ức chế chỉ đạt 15,38-22,02%. Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV – Số 2/2020 8 Bảng 3. Hiệu lực ức chế sự phát triển của nấm C. acutatum trên môi trường chứa thuốc trừ nấm sinh học (Viện Bảo vệ thực vật, năm 2020) Thời gian theo dõi Nồng độ Hoạt chất 1/3 khuyến cáo 1/2 khuyến cáo Khuyến cáo Sau 3 ngày Streptomyces lydicus WYEC 108 75,9 81,33 84,34 Bacillus subtilis 50% w/w 100 100 100 Bacillus subtilis 10 9 CFU/ml 100 100 100 Kasugamycin 2g/l + ningnanmycin 80g/l. 16,87 19,28 25,3 Sau 5 ngày Streptomyces lydicus WYEC 108 71,07 75,21 79,75 Bacillus subtilis 50% w/w 89,67 100 100 Bacillus subtilis 109 CFU/ml 88,43 100 100 Kasugamycin 2g/l + ningnanmycin 80g/l. 5,79 7,44 13,64 Sau 7 ngày Streptomyces lydicus WYEC 108 72,41 79,84 80,64 Bacillus subtilis 50% w/w 91,78 97,35 100 Bacillus subtilis 109 CFU/ml 90,45 95,49 100 Kasugamycin 2g/l + ningnanmycin 80g/l. 15,38 16,98 22,02 3.3. Đánh giá hiệu lực của một số loại thuốc bảo vệ thực vật (sinh học và hóa học) đối với bệnh thán thư trong điều kiện đồng ruộng 3.3.1 Hiệu lực của một số loại thuốc hóa học đối với bệnh thán thư trong điều kiện đồng ruộng Sau 3 ngày thí nghiệm, các loại thuốc hóa học đều có hiệu lực phòng trừ bệnh thán thư. Hiệu lực phòng trừ của Antracol 70WP thấp nhất chỉ đạt 39,40%. Tuy nhiên khi Antracol 70WP kết hợp với Amistar Top 325SC có hiệu lực phòng trừ đạt cao nhất là 52,38%. Trong khi đó hiệu lực phòng trừ của Amistar Top 325SC đạt 48,41%. Hiệu lực phòng trừ của Tilt Super 300EC là 43,73% (bảng 4). Hiệu lực phòng trừ của các loại thuốc thí nghiệm tăng lên sau 5 ngày thí nghiệm từ 61,82-74,27%. Tuy nhiên hiệu lực phòng trừ đạt cao nhất của các loại thuốc sau 7 ngày thí nghiệm từ 65,61-77,92%. Trong đó, hỗn hợp Antracol 70WP và Amistar top 325SC có hiệu lực phòng trừ cao nhất là 77,92%. Hiệu lực khi không hỗn hợp thuốc của Antracol 70WP và Amistar top 325SC chỉ đạt 69,03% và 71,48%. Hiệu lực phòng trừ của Tilt Super 300EC là thấp nhất (65,61%). Hiệu lực phòng trừ của các loại thuốc đều giảm sau 14 ngày thí nghiệm chỉ đạt từ 59,84-64,64% (bảng 4). Bảng 4. Hiệu lực phòng trừ bệnh thán thư gây hại Sâm Ngọc Linh trên vườn sản xuất tại Tu Mơ Rông- Kon Tum năm 2019 Công thức Hiệu lực phòng trừ (%) sau .ngày phun 3 5 7 14 Tilt Super 300EC (Propiconazole 150 g/l + difenoconazole 150 g/l) 43,73 ab 61,82 b 65,61 b 59,84 a Antracol 70WP (Propineb 700g/kg) 39,40 b 65,28 ab 69,03 ab 60,13 a Amistar Top 325SC (Azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l) 48,41 ab 66,88 ab 71,48 ab 61,82 a Antracol 70WP (Propineb 700g/kg)+ Amistar Top 325SC (Azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l) 52,38 a 74,27 a 77,92 a 64,64 a CV (%) 11,23 7,25 7,24 10,75 LSD0,05 10,32 9,72 10,53 13,24 3.3.2 Hiệu lực của một số loại thuốc sinh học đối với bệnh thán thư trong điều kiện đồng ruộng Hiệu lực của các loại thuốc sử dụng để phòng trừ bệnh thán thư trong vườn sản xuất đạt đỉnh sau phun 5 – 7 ngày. Microtech-1 (NL) là thuốc có hiệu quả tốt nhất khi duy trì hiệu lực trên 60% từ sau Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV – Số 2/2020 9 phun 5 ngày (63,49%) đến sau phun 14 ngày (60,83%), đạt đỉnh sau phun 7 ngày với hiệu lực đạt 69,47%. Thuốc Biobac 50WP cho hiệu lực sau phun 5 và 7 ngày lần lượt 60,32% và 61,05%. Acti No vate 1SP là thuốc duy nhất có hiệu quả đạt đỉnh sau 5 ngày phun (55,42%). Hiệu lực phòng trừ của các loại thuốc sử dụng đều bắt đầu giảm sau khi phun 14 ngày còn 50,36%-60,83% (Bảng 5). Bảng 5. Hiệu lực phòng trừ bệnh thán thư gây hại Sâm Ngọc Linh trên vườn sản xuất tại Tu Mơ Rông- Kon Tum năm 2019 Công thức Hiệu lực phòng trừ (%) sau .ngày phun 3 5 7 14 Biobac 50WP (Bacillus subtilis) 27,5 a 60,32 ab 61,05 b 57,29 ab Acti No vate 1SP (Steptomyces lydicus) 30,55 a 55,42 ab 52,19 c 52,87 b Promot Plus WP (Trichoderma spp.) 26,11 a 43,91c 53,74c 50,36b Mocabi SL (Chaetomium sp. và Trichoderma sp.) 26,11 a 52,65 bc 61,05 b 57,76 ab MicroTech-1 (NL) (Bacillus subtilis 10 9 CFU/ml) 30,00 a 63,49a 69,47a 60,83a CV (%) 26,87 8,65 4,42 7,12 LSD0,05 14,19 8,98 4,95 7,48 Sử dụng thuốc có nguồn gốc hóa học cho hiệu lực trừ bệnh thán thư cao hơn so với các loại thuốc sinh học. Tuy nhiên, Sâm Ngọc Linh là loại cây dược liệu quý, sản phẩm dùng để làm thuốc tăng cường sức khỏe cho con người. Khi sử dụng các loại thuốc hóa học và sinh học cần phải có thời gian cách ly, không để lại dư lượng thuốc đảm bảo an toàn sản phẩm. Do vậy, khi sử dụng thuốc phòng trừ bệnh trên cây Sâm Ngọc Linh cần lưu ý và sử dụng thuốc phù hợp với điều kiện sản xuất. 4. KẾT LUẬN Nấm C. acutatum gây bệnh trên cây Sâm Ngọc Linh gây hại mạnh từ tháng 6-9 khi cây bắt đầu vào mùa mưa với tỷ lệ bệnh từ 4,67-6,67% đối với vườn 1 năm tuổi và 8,00 - 13,33% đối với vườn 5 năm tuổi. Vườn Sâm 5 năm tuổi có tỷ lệ bệnh thán thư cao hơn so với vườn 1 năm tuổi với tỷ lệ bệnh cao nhất trên vườn 5 năm tuổi là 13,33% và tỷ lệ bệnh trên vườn 1 năm tuổi là 6,67% vào tháng 9. Hoạt chất propineb 700g/kg, metalaxyl M 40g/kg + mancozeb 640g/kg và azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l đều có khả năng ức chế hoàn toàn sự nảy mầm của nấm C. acutatum ở các nồng độ 1-50 ppm sau 12 giờ thí nghiệm. Tuy nhiên, hỗn hợp metalaxyl M 40g/kg + mancozeb 640g/kg chỉ ức chế sự phát triển của sợi nấm từ 14,92-39,01% ở nồng độ 5-500ppm sau 7 ngày thí nghiệm. Nấm C. acutatum hoàn toàn bị ức chế bởi propiconazole 150 g/l + difenoconazole 150 g/l ở nồng độ 100ppm và hỗn hợp azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125 g/l ở nồng độ 50 ppm sau 7 ngày thí nghiệm. Sau 7 ngày thí nghiệm, Bacillus subtilis 50% w/w và Bacillus subtilis 10 9 CFU/ml ức chế hoàn toàn sự phát triển của nấm ở nồng độ khuyến cáo. Thuốc trừ nấm Tilt Super 300EC, Antracol 70WP, Amistar top 325SC, Biobac 50WP, Acti No vate 1SP, Promot Plus WP, Mocabi SL, MicroTech-1(NL) đều có hiệu lực phòng trừ bệnh thán thư. Hiệu lực của thuốc đạt hiệu quả cao nhất sau (77,92%) sau 7 ngày thí nghiệm. Chế phẩm sinh học MicroTech-1(NL) có hiệu quả phòng trừ bệnh thán thư tốt nhất sau 7 ngày đạt 69,47%. Tuy nhiên khi sử dụng thuốc cần lưu ý và sử dụng thuốc phù hợp với điều kiện sản xuất. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Mai Văn Quân, Ngô Quang Huy, Lê Quang Mẫn, Nguyễn Văn Liêm, Trịnh Xuân Hoạt, 2020. Nấm Colletotrichum acutatum gây bệnh thán thư trên cây sâm ngọc linh tại tỉnh Kon Tum. Tạp chí Bảo vệ thực vật, Số 1-2020, Tr14-19. 2. Ngô Quốc Luật, Ngô Bích Hảo, Vũ Tuyết Mai, 2005. Nghiên cứu biện pháp phòng trừ sâu bệnh trên một số cây thuốc quan trọng. Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học đề tài cấp Bộ Y tế. 3. QCVN 01-38, 2010/BNNPTNT. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phương pháp điều tra phát hiện dịch hại cây trồng. 4. Viện Bảo vệ thực vật, 1997. Phương pháp nghiên cứu bảo vệ thực vật tập 1. NXB Nông nghiệp Hà Nội, tr 46-57. 5. Cai, J., Ye, S., Lu, W., Liu, H., and Ma, X. 1996. Screening antagonistic microorganisms as biological control agents to black spot of Panax pseudo-ginseng var. notoginseng. Forest Research (in Chinese) 9:154-157. 6. Emmert, Elizabeth AB, and Jo Handelsman. "Biocontrol of plant disease: a (Gram‐) positive Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV – Số 2/2020 10 perspective." FEMS Microbiology letters 171.1 (1999): 1-9. 7. Ohh, S. H., et al. 1986. Effects of chemical treatments on population changes of Ditylenchus destructor and responses of Panax ginseng. Korean Journal of Plant Protection (Korea R.) Phản biện: TS. Đặng Vũ Thị Thanh BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU VI KHUẨN Dickeya chrysanthemi (Erwinia chrysanthemi) GÂY BỆNH THỐI NHŨN CỦ KHOAI LANG TẠI HUYỆN BÌNH TÂN, TỈNH VĨNH LONG First Report of Bacteria Causing Bacterial Soft Rot Disease on Sweet Potato in Binh Tan District, Vinh Long Province Nguyễn Lê Thanh Mai1, Trần Thị Thu Thủy2 và Lê Minh Tường3 Ngày nhận bài: 26.3.2020 Ngày chấp nhận: 20.4.2020 Abstract Sweet potato (Ipomoea batatas (L.) Lam.) is the third major staple crop and the second largest economic value in Viet Nam. The bacterial soft rot disease, caused mainly by Dickeya spp., is one of the most important problems of sweet potato. The objective of this research was to identify the bacterial species causing bacterial soft rot disease on sweet potato in Binh Tan district, Vinh Long province. In this study, the samples were determined based on morphological, biochemical and pathogenicity. The results showed that all 8 strains belonged to genus Dickeya. They induced typical symptoms of soft rot disease on sweet potato. The nucleotide sequences of 16S rRNA were determined and used for phylogenetic analysis. The results indicated that all 8 strains showed the nucleotide sequences of 16S rRNA sequence was determined with 1.500 bp and belonged to Dickeya chrysanthemi (formerly named Erwinia chrysanthemi). The results of this study will be the basis for further researchs to contribute to finding the effective methods to control bacterial soft rot disease on sweet potato. Key words: Bacterial soft rot disease on sweet potato, Dickeya chrysanthemi, Erwinia chrysanthemi, identification. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ * Khoai lang có nguồn gốc từ khu vực nhiệt đới Châu Mỹ và là cây lương thực quan trọng được trồng rộng rãi ở nhiều vùng khác nhau trên thế giới như: Châu Á, châu Phi và châu Mỹ La Tinh và củ khoai lang là nguồn lương thực dồi dào vitamin A, vitamin C, mangan, đồng, vitamin B6, chất xơ tiêu hoá, sắt (Sunette et al., 2015). Ở Việt Nam, cây khoai lang được biết đến là cây lương thực đứng thứ ba sau lúa và ngô và có giá trị kinh tế đứng thứ hai sau khoai tây (Mai Thạch Hoành và Nguyễn Công Vinh, 2003). Trong quá 1. Học viên cao học ngành Bảo vệ thực vật, trường Đại học Cần Thơ 2. Hội bệnh hại thực vật Việt Nam 3. Khoa Nông nghiệp, trường Đại học Cần Thơ trình canh tác khoai lang, bên cạnh thuận lợi về điều kiện tự nhiên nông dân cũng gặp nhiều khó khăn về vấn đề dịch hại, trong đó đặc biệt là bệnh thối nhũn do vi khuẩn Erwinia spp. gây hại phổ biến trên khoai lang trên diện rộng, bệnh thường phát triển mạnh, lây lan nhanh với nhiệt độ cao và ẩm độ cao (Vũ Triệu Mân và ctv., 2007). Bên cạnh đó, bệnh rất khó phát hiện do không có triệu chứng nào để phát hiện ở những bộ phận trên mặt đất của cây khoai lang (Schaad và Brenner, 1977). Có nghiều nghiên cứu xác định nguyên nhân gây nên bệnh như trong mô tả của Martin và Dukes năm 1975 cho rằng loài vi khuẩn gây ra bệnh thối nhũn củ khoai lang giống với loài Erwinia carotovora. Năm 1976, nghiên cứu của Schaad và Brenner xác định loài vi khuẩn gây ra bệnh thối nhũn củ khoai lang ở

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmot_so_ket_qua_phong_tru_benh_than_thu_hai_sam_ngoc_linh_pan.pdf
Tài liệu liên quan